Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hùng Karô

Cùng với Lê Lựu, Ma Văn Kháng, Bảo Ninh, Nguyễn Khắc Tường, Khuất Quang Thụy, Dương Hướng... Chu Lai là một trong những nhà văn tự khẳng định mình trong giai đoạn văn học sau 1975. Ông được đọc giả biết đến là một nhà văn quân đội " đậm chất lính tráng": rắn rỏi mạnh mẽ nhưng không kém phần sâu sắc. Chu Lai sáng tác trên nhiều thể loại khác nhau: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, hồi ký, bút kí... Tất cả đã chứng tỏ ông là một nhà văn có sức viết khỏe và bền bỉ. Trong đó, tiểu thuyết của ông là bức tranh toàn cảnh gồm nhiều tầng, nhiều mảng khác nhau của hiện thực đời sống. Hùng Karô là một thể nghiệm bút pháp khác lạ của Chu Lai, câu chuyện kể về cuộc đời giông bão của nhân vật chính cùng tên Hùng Karô, một gã giang hồ có một tuổi thơ và cả tuổi trưởng thành lầm than khốc liệt.  Gã từ hoang sơ cỏ dại đi lên, vượt qua mọi thăng trầm trong cuộc sống, vào tù rồi ra tù, hối cải để trở thành một công dân tử tế, rồi từ công dân tử tế thành một doanh nhân thậm chí là doanh nhân thành đạt để rồi nhận một cái kết thật buồn khi cuộc đời này, thể chế còn nhiều góc khuất chưa phân định sáng tối này đã đánh vào anh một đòn cuối cùng... Có thể nói, mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực. *** Đại tá, nhà văn Chu Lai có tên khai sinh là Chu Văn Lai, sinh ngày 5 tháng 2 năm 1946, tại xã Hưng Đạo, huyện Phù Tiên, tỉnh Hưng Yên, hiện ở Hà Nội. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (từ năm 1980). Ông là con trai của nhà viết kịch Học Phi. Trong chiến tranh Việt Nam ông công tác trong đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị rồi trở thành chiến sĩ đặc công hoạt động trong vùng Sài Gòn. Sau 1973, ông về làm trợ lý tuyên huấn Quân khu 7. Đến cuối năm 1974 ông tham dự trại sáng tác văn học Tổng cục Chính trị và sau đó học tại Trường Viết văn Nguyễn Du khóa 1. Sau khi tốt nghiệp, ông biên tập và sáng tác cho Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Nhà văn Chu Lai còn viết một số kịch bản sân khấu, kịch bản phim và tham gia đóng phim. Chu Lai là một trong những nhà văn quân đội có tên tuổi trong nền văn học sau 1975. Đã từng một thời khác áo lính, ông rất thành công với đề tài chiến tranh. Và tiểu thuyết là thể loại mà Chu lai đã khẳng định được tài năng và phong cách của mình. Nắng Đồng Bằng là một trong những tác phẩm để đời của nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh với câu chuyện và những phận người đầy gai góc. Người lính trong Nắng đồng bằng không chỉ biết có chiến đấu vì lý tưởng, biết đấu tranh, giành giật sự sống trước bom đạn, trước kẻ thù mà cũng có những suy tư, tính toán thiệt hơn... nhưng cuối cùng họ vượt qua tất cả để góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Chính Chu Lai từng bộc bạch "Cuộc đời có thể xô đẩy người lính, quăng quật người lính nhưng người lính vẫn bật lại để sống xứng đáng với màu xanh áo lính". Có thể nói mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực. Một số tác phẩm của tác giả Chu Lai: Cuộc Đời Dài Lắm Mưa Đỏ Phố Nắng Đồng Bằng Ăn Mày Dĩ Vãng Út Teng Truyện Ngắn Chu Lai Hùng Karô Chỉ Còn Một Lần Khúc Bi Tráng Cuối Cùng Người Im Lặng Nhà Lao Cây Dừa 3 Lần Và 1 Lần Sông Xa Vòng Tròn Bội Bạc Bãi bờ hoang lạnh Gió không thổi từ biển *** Tôi tên là Hùng, gọi đủ theo giấy khai sinh là Trần Văn Hùng, nhưng người đời chẳng hiểu sao lại cứ thích gọi tôi là Hùng Ka Rô, Hùng tướng cướp, Hùng hung thần, tử thần, Hùng sát thủ máu lạnh rồi gọi cả cái tên xem ra có vẻ rất rắc rối này nữa: Kẻ đa tình dữ tợn!) Vâng, thôi thì cứ để mặc cho người ta gọi, miệng lưỡi thế gian có khi nào không ngứa ngáy song tôi có đa tình hay dữ tợn thật không thì những trang viết vụng về dưới đây sẽ trả lời các bạn tất cả. Viết! Khổ! Tôi có viết lách bao giờ đâu. Từ nhỏ tôi đã kinh sợ cây bút và trang giấy, như sợ ma. Chữ nghĩa dưới tay tôi nó đùn ra lục cục, lôi thôi lắm, có lúc còn nhăng nhít, thô lậu nửa, ấy vậy nhưng mọi người cứ bảo tôi ngồi vào bàn đi, cuộc đời ông phong trần trồi sụt khác thường như thế, không viết nó phí đi, phí lắm! Rồi ngay cả.ông nhà văn già bất đắc chí ở phố núi tối tối mút xương gà như mút kẹo cũng bảo: "Tất cả bọn cầm bút thật hay giả ở cái nước không coi văn chương là trọng này đều ước muốn có một phần mười cái vốn sống mà cậu đã trải qua" Trời đất! Oách thế kia à? Vậy thì tôi viết, không, đúng ra là kể, chỉ kể thôi chứ viết nghe có vẻ sang quá, véo von vít vông quá, người ta cười, tức là thấy gì kể nấy, không thấy không kể, tức là dòng đời tôi thế nào tôi cứ cho nó tuôn ra ùng ục ra thế ấy, một mạch từ đầu đến cuối, thẳng đuột, phẳng lỳ, không chìm nổi, không lắt léo, không bịa đặt, không tô vẽ, không chơi chữ chơi nghĩa, không chương hồi, không lớp lang, không đảo lên đảo xuống, không cắt dán, không bố cục, không hồi tưởng, không đa chiều đa kích lằng nhằng, không màng đến tính nhân văn tính tư tưởng cao siêu gì gì đó mà có màng cũng chả được, và cũng không hư cấu tí tẹo nào hết, bởi tôi có biết hư cấu là cái quái gì đâu mà hư, hư bậy bạ, có khi lại thành cái thằng rao bán thuốc hôi nách thuốc hắc lào ngoài chợ. Kệ thì giống như kể câu chuyện mình đã trải qua, đã ngửi thấy, sờ thấy, nếm thấy vậy việc gì phải tính nọ tính kia cho rắc rối. Kệ, vả lại tôi viết rồi để đó, viết để lấp đầy im lặng, viết cho riêng tôi, viết cho khỏi cắn lưỡi mà chết chứ có viết cho ai đâu mà đo đắn nọ kia. Và còn vì điều này nữa tôi giấu cho riêng mình, giấu cả vợ, người đàn bà thân yêu nhất mà tôi đi tìm cả đời mới thấy, đó là tôi đã nhìn thấy cái lỗ huyệt há hoác đang từng phút chờ nuốt tôi vào cái bụng đen ngòm, tanh tưởi của nó. Những dòng chữ chắc chắn sẽ là hết sức nhức nhối này tôi muốn gửi lại như một món quà lòng thành tặng riêng cho cô ây, chỉ một cô ây thôi. Tất nhiên tôi cũng bắt chước thiên hạ là đánh số một số hai, ghi rõ phần một phần hai để cô ây dễ theo dõi. Cái này lại ông nhà văn già bất đắc chí ở phố huyện chỗ tôi thường gọi là: Thái độ tôn trọng người đọc. Tôi bắt đầu kể đây! Kể đúng theo ngôn từ, khẩu khí của một thằng đã trải qua những tháng ngày ở dưới đáy xã hội nên có thể sẽ rất nghịch nhĩ, rất dễ gây phản cảm, rất khó chịu nhưng cái tạng nó trót là vậy rồi, có muốn sửa cũng chả được. Mời các bạn đón đọc Hùng Karô của tác giả Chu Lai.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Văn Học Tập 2
Đào Trinh Nhất (1900-1951), tự Quán Chi, là nhà nhà văn, nhà báo Việt Nam giữa thế kỷ 20. Khi viết văn, viết báo, ông ký nhiều bút hiệu: Nam Chúc, Viên Nạp, Hậu Đình, Tinh Vệ, Bất Nghị, Vô Nhị, Hồng Phong, Anh Đào, XYZ.... Ông được người trong giới cầm bút đánh giá là người có cách làm việc nghiêm túc, thận trọng và là người đã biết dùng ngòi bút nghệ thuật làm sống lại nhiều tư liệu đã mai một trong lịch sử cận đại Việt Nam Đào Trinh Nhất sinh năm Canh Tý (1900) tại Huế. Nguyên quán tại xã Thượng Phán, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình. Ông là con trưởng Đình nguyên nhị giáp Tiến sĩ (tức Hoàng giáp) Đào Nguyên Phổ. Vợ là Lương Thị Hòa, con gái Lương Ngọc Quyến và là cháu nội Lương Văn Can. Thuở nhỏ, Đào Trinh Nhất theo học chữ Hán ở quê nhà, sau lên Hà Nội học chữ Pháp và chữ quốc ngữ. *** Tác phẩm: Vốn là nhà báo viết văn, cho nên hầu hết các tác phẩm của Đào Trinh Nhất đều đăng từng kỳ trên báo rồi sau mới in thành sách. Theo thống kê chưa đầy đủ, sau 30 năm cầm bút (1921-1951), ông đã để lại khá nhiều tác phẩm như sau: Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào Nam Kỳ.(Thụy Ký - Hà Nội, 1924) Đông Châu liệt quốc (dịch, Sài Gòn, 1928) Thần tiên kinh (Dịch của A lan Kardec, 1930) Cái án Cao Đài (Sài Gòn, 1929) Việt sử giai thoại (Hà Nội, 1934) Nước Nhựt Bổn ba mươi năm duy tân (Đắc Lập, Huế, 1936) Phan Đình Phùng, một vị anh hùng có quan hệ đến lịch sử hiện thời (Cao Xuân Hữu, Hải Phòng, 1936; Đại La, Hà Nội, tái bản 1945; Tân Việt, Sài Gòn, tái bản 1957) Việt Nam Tây thuộc sử (Đỗ Phương Huế, Chợ Lớn, 1937) Ðông Kinh nghĩa thục (Mai Lĩnh, Hà Nội, 1938) Ngục trung thư (Đời cách mạng Phan Bội Châu) (Mai Lĩnh, Hà Nội, 1938; Tân Việt, Sài Gòn tái bản, 1950) Vương An Thạch (Hà Nội, 1943; Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1960) Cô Tư Hồng (tiểu thuyết, Trung Bắc Tân Văn Chủ nhật, 1940; Trung Bắc Thư xã, Hà Nội, 1941) Chu Tần tinh hoa (dịch, Hà Nội, 1944) Lê Văn Khôi (1941-1945) Con trời ngã xuống đất đen (Hà Nội, 1944) Chu Tần tinh hoa (1944) Vương Dương Minh-Người xướng ra học thuyết lương tri và tri hành hợp nhất (Hà Nội, 1944; Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1950) Kẻ bán trời Con quỷ phong lưu Bùi Thị Xuân Lương Ngọc Quyến và cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên 1917 (Quốc Dân thư xã, Hà Nội, 1946; Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1957). Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, ông mới dịch được nửa bộ, đang đăng báo thì từ trần (Bốn Phương xuất bản, Sài Gòn, 1950) Đào Trinh Nhất Tác Phẩm gồm có: Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Lịch Sử Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Triết Học Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Văn Học Tập 1 Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Văn Học Tập 2 Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Văn Học Tập 2 gồm có: Liêu Trai Chí Dị Lê Văn Khôi Mời các bạn đón đọc Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Văn Học Tập 2 của tác giả Đào Trinh Nhất & Nguyễn Quang Thắng.
Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Văn Học Tập 1
Đào Trinh Nhất (1900-1951), tự Quán Chi, là nhà nhà văn, nhà báo Việt Nam giữa thế kỷ 20. Khi viết văn, viết báo, ông ký nhiều bút hiệu: Nam Chúc, Viên Nạp, Hậu Đình, Tinh Vệ, Bất Nghị, Vô Nhị, Hồng Phong, Anh Đào, XYZ.... Ông được người trong giới cầm bút đánh giá là người có cách làm việc nghiêm túc, thận trọng và là người đã biết dùng ngòi bút nghệ thuật làm sống lại nhiều tư liệu đã mai một trong lịch sử cận đại Việt Nam Đào Trinh Nhất sinh năm Canh Tý (1900) tại Huế. Nguyên quán tại xã Thượng Phán, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình. Ông là con trưởng Đình nguyên nhị giáp Tiến sĩ (tức Hoàng giáp) Đào Nguyên Phổ. Vợ là Lương Thị Hòa, con gái Lương Ngọc Quyến và là cháu nội Lương Văn Can. Thuở nhỏ, Đào Trinh Nhất theo học chữ Hán ở quê nhà, sau lên Hà Nội học chữ Pháp và chữ quốc ngữ. *** Tác phẩm: Vốn là nhà báo viết văn, cho nên hầu hết các tác phẩm của Đào Trinh Nhất đều đăng từng kỳ trên báo rồi sau mới in thành sách. Theo thống kê chưa đầy đủ, sau 30 năm cầm bút (1921-1951), ông đã để lại khá nhiều tác phẩm như sau: Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào Nam Kỳ.(Thụy Ký - Hà Nội, 1924) Đông Châu liệt quốc (dịch, Sài Gòn, 1928) Thần tiên kinh (Dịch của A lan Kardec, 1930) Cái án Cao Đài (Sài Gòn, 1929) Việt sử giai thoại (Hà Nội, 1934) Nước Nhựt Bổn ba mươi năm duy tân (Đắc Lập, Huế, 1936) Phan Đình Phùng, một vị anh hùng có quan hệ đến lịch sử hiện thời (Cao Xuân Hữu, Hải Phòng, 1936; Đại La, Hà Nội, tái bản 1945; Tân Việt, Sài Gòn, tái bản 1957) Việt Nam Tây thuộc sử (Đỗ Phương Huế, Chợ Lớn, 1937) Ðông Kinh nghĩa thục (Mai Lĩnh, Hà Nội, 1938) Ngục trung thư (Đời cách mạng Phan Bội Châu) (Mai Lĩnh, Hà Nội, 1938; Tân Việt, Sài Gòn tái bản, 1950) Vương An Thạch (Hà Nội, 1943; Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1960) Cô Tư Hồng (tiểu thuyết, Trung Bắc Tân Văn Chủ nhật, 1940; Trung Bắc Thư xã, Hà Nội, 1941) Chu Tần tinh hoa (dịch, Hà Nội, 1944) Lê Văn Khôi (1941-1945) Con trời ngã xuống đất đen (Hà Nội, 1944) Chu Tần tinh hoa (1944) Vương Dương Minh-Người xướng ra học thuyết lương tri và tri hành hợp nhất (Hà Nội, 1944; Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1950) Kẻ bán trời Con quỷ phong lưu Bùi Thị Xuân Lương Ngọc Quyến và cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên 1917 (Quốc Dân thư xã, Hà Nội, 1946; Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1957). Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, ông mới dịch được nửa bộ, đang đăng báo thì từ trần (Bốn Phương xuất bản, Sài Gòn, 1950) Đào Trinh Nhất Tác Phẩm gồm có: Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Lịch Sử Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Triết Học Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Văn Học Tập 1 Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Văn Học Tập 2 Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Văn Học Tập 1 gồm có: Cô Tư Hồng Kẻ Bán Trời Bùi Thị Xuân Đóng Cửa Dạy Chồng Con Quỷ Phong Lưu Mời các bạn đón đọc Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Văn Học Tập 1 của tác giả Đào Trinh Nhất & Nguyễn Quang Thắng.
Đại Tiểu Thư Đi Học
Cô tên thật là Kỳ Vân , bỗng nhiên một tin động trời đến với cô vì cha mẹ hiện tại không phải là cha mẹ ruột của cô! Cuộc đời cô đã thay đổi vì khi gặp người đàn ông đó nhận là ông nội của cô... Cô theo ông qua Mỹ để được học hành đến nơi đến chốn để sau này trở thành người thừa kết. Ông nội đã giúp cô trở thành một cô gái sắc sảo tài năng thông minh và xinh đẹp tại Mỹ. Hai năm sau khi hoàn thành khóa học tại Mỹ cô trở về Việt Nam và học tại ngôi trường quý tộc Royal dành cho những Đại Tiểu Thư Đi Học và thiếu gia. Vì thân phận của cô chưa được tiết lộ nên bị họ ức hiếp...Và cô đã gặp được người chở che trong lúc nguy cấp nhất. *** Truyện “Đại Tiểu Thư Đi Học” kể về một cô nàng lọ lem. Đùng một cái một ông lão xuất hiện trước mặt cô và bảo là cô không phải là con gái ruột của ba mẹ mình. Ba mẹ thật của cô đã chết, trong một vụ tai nạn máy bay lúc cô được hai tháng tuổi và ông ta là ông nội của mình, ngoài ra cô còn có một người anh trai tên Kỳ Khôi (anh này rất soái ca). Tên thật của cô là Kỳ Vân. Từ đấy cuộc đời lọ lem được bước sang trang mới. Cô được ông mình cho sang Mỹ để hoàn thành chương trình học cấp ba, đồng thời cô phải tham gia rất nhiều khóa học khắc nghiệt do ông mình đề ra. Trải qua sự rèn dũa thì cô đã đúng như ý của ông trở thành tiểu thư thứ thiệt, không thứ gì là không thông đúng bản chất thông minh của mình, lại xinh đẹp tài giỏi. Sau đó cô nàng được cho về Việt Nam và nhập học quý tộc RoYal nơi mà chỉ dành cho những người thế kế. Người anh trai của cô cũng học tại ngôi trường này. Tại đây cô làm quen với các nhân vật Khắc Thiên, Thiên Vũ, Nhật Nam là các công tử rất đẹp trai (anh Thiên Vũ là vị hôn phu được hứa hôn từ trong bụng mẹ của cô) và là bạn thân cảu Kỳ Khôi. Vì ông nội cô chưa thông báo với bên ngoài là nhà Hoàng Kỳ đã tìm được đứa cháu gái thất lạc, nên ở trường không ai biết thân phận của cô. Chính vì điều này cô gặp phải nhiều rắc rồi từ nhóm tiếu thư nhà giảu rảnh chuyện. Tại ngôi trường này cô cũng tìm được những người bạn tốt và xây dựng được tình bạn khá đẹp với Nguyên Thảo, Tuyết Mai, Ngọc Ninh. Nữ chính của chúng ta bị vướng vào mối tình tay tư với ba hoàng tử điển trai. Liệu trái tim công chúa sẽ thuộc về ai và câu chuyện thú vị như thế nào các bạn cùng tìm hiều thêm truyện nha. Truyện này khá là hay và dễ thương nhưng có một điểm mình không thích lắm là khúc đầu tác giả dành ít đất diễn cho nam chính hơn các anh khác nên ảnh hơi bị lu mờ một chút. Truyện này nếu có thêm một chút ngoại truyện về cuộc sống của anh chị chính thì tuyệt hoàn mĩ rồi. Nhưng tổng thể truyện này rất đáng để bạn dành thời gian để đọc nó. Truyện này luôn thuộc top hot và tìm kiếm của các bạn teen và dân ngôn tình nên các bạn cứ yên tâm sẽ không làm bạn thất vọng đâu nhé. Bảo đảm với bạn truyện này sẽ không nhàm như các truyện teen khác bạn từng đọc đâu nhé. *** Không khí sáng sớm thật dễ chịu, nó vác cái balo to tướng lên vai rồi hì hục đạp. Quãng đường từ nhà nó tới trường không xa lắm nhưng cũng không phải là gần – 4 km. Nó vừa đạp vừa ngước mặt đón những đợt gió sớm thổi vào làm mái tóc dài của nó bay bồng bềnh – nó – thúy Hà – cô gái có khuôn mặt của thiên thần nhưng tâm hồn của quỷ atula.(tại sao lại là quỷ atula thì đọc tiếp các bạn sẽ biết). Con đường tới trường càng lúc càng đông.Cuối cùng cũng tới, tên của ông vua dựng nước là tên trường của nó – Hùng Vương ,nó lò dò dắt con ngựa sắt của mình vào bãi đỗ xe. Bộp – một âm thanh lạ vang lên làm nó đang mơ màng bỗng quay ngắt lại nơi phát ra âm thanh đó Nhân – lớp trưởng 10A1 vừa đâm phải vào đuôi xe nó Này! Mắt để trên mí hả, không thấy đường hay sao mà đâm vào baby của tui hả. Bộ mắt You không có tròng hả – nó làm bộ giận dữ hét thẳng vào mặt anh chàng xấu số, trong lòng đang cười hả hê vì mới sáng đã chộp được con mồi béo bở. Nhân nổi tiếng đẹp trai –dịu dàng của khối 10 giờ bị con nhỏ nổi tiếng là ác quỷ atula của trường là nó chửi không biết úp mặt đi đâu liền cất lời vàng ngọc – mình xin lỗi Nó không vẫn chưa chịu thôi – xin lỗi gì mà xin lỗi, tưởng xin lỗi là xong hả, baby của tui đau rồi nè, mắc đền đi Mới sáng sớm đã gặp phải chằng tinh nên Nhân không biêt làm gì (vốn dĩ anh chàng này hiền như cục đất) vội nói – thế giờ bạn muốn sao? Mua đồ ăn sáng cho baby của tui chứ sao nữa – nó cười thầm trong bụng, mừng vì con mồi đã bị nó chưởng ột cú quá dễ dàng. Nhân không muốn dính thêm vô nó nên lò dò vào căn tin mua cho nó ái bánh mì Kinh Đô.Nó đón lấy cái bánh mĩ bĩu môi rồi đi thẳng vào lớp không quên vứt lại một câu – lần sau đi đường nhớ nhìn trước nhìn sau nghe chưa, còn đụng phải tui thì không dễ dàng như hôm nay đâu. Nhân lắc đầu ngao ngán rồi cũng đi lên lớp ,coi như hôm nay mình ko may. Vừa lên đến cửa lớp nó đã thấy một người đàn ông trung niên trạc tuổi bố nó , mặc một bộ vét đen sang trọng đứng ngay cửa lớp, mặt hầm hầm,thấy vậy nó thầm nghĩ bụng “trời đất sao hôm nay có ông thần canh cửa ở đây vậy, nhìn thấy ghê”. Thấy nó, người đàn ông tiến tới cất lời– chào tiểu thư! Chủ chủ tich đợi tiểu thư đã lâu. Nghe thấy vậy, nó cười ha hả, này chú ơi chú nhầm người rồi, gì mà tiểu thư chứ , con không dám nhận đâu tổn thọ chết.Nói rồi nó toang bước chân vào lớp.Thấy vậy, người đàn ông vẫy tay một cái.Lập tức, 2 người đàn ông khác xuất hiện, mặt lạnh tanh lôi nó đi trong dự ngỡ ngàng của những đứa bạn cùng lớp. Bị lôi đi. Nó la í ới – này mấy chú làm gì vậy ,bắt cóc hả, nhà con ngèo lắm không có tiền chuộc đâu – mấy chú làm gì vậy chứ trò này không vui gì hết thả con ra đi mà.   Mời các bạn đón đọc Đại Tiểu Thư Đi Học của tác giả Nhóc Nhí Nhố.
Chúng Ta Là Đàn Ông
Cuốn sách “Chúng ta là đàn ông” của Steve Senkman (“Мы – мужчины” Стив Шенкман) được dịch và xuất bản ở Việt Nam năm 1987, dưới sự kết hợp của Nhà xuất bản Thế giới Mátxcơva với Nhà xuất bản Thể dục Thể thao Việt Nam. Những người dịch là Phan Bạch Yến[1] và Trần Yến Thoa.   Được cầm nó trên tay lần đầu năm 18 tuổi, từ đó mình ôm cuốn sách này đọc say sưa, và nó giúp mình thành một con người khác. Chơi thể thao; xây dựng lối sống lành mạnh; nói không với thuốc lá, rượu bia; học cách nghỉ ngơi chủ động; sắp xếp thời gian biểu; các quy tắc học tập và làm việc khoa học... và tuyệt nhất ở chương cuối là “How to be a gentleman?”   Cách đây mười mấy năm, lên “nhà ngoại” ở không có chỗ cho mấy nghìn cuốn sách, mình phải để tạm cả đống sách to tướng dưới nhà chú em trai. Riêng cuốn này, ông bạn thân thời “hậu sinh viên” mượn về, bảo “Để tao giữ cho sau ổn định chỗ ở thì lấy về!” Mãi tròn một giáp mới thực hiện được, không phải là “thư viện gia đình" như mong ước, mà là “kho sách.” Cố giữ được khoảng 4000, vứt đi khoảng 6-7000 vì nhiều lý do.   Riêng cuốn này, gọi điện cho ông bạn để đòi nhận được câu trả lời ráo hoảnh: “Làm gì còn, lại chẳng ra hàng đồng nát lâu rồi!” May bây giờ học Phật không thấy hận, nhưng với người yêu quý sách vở như mình, câu trả lời đó quá đau.   Lại bỏ công nhưng không mấy hi vọng, lượn hàng sách cũ. Một ngày thấy trong lòng có gì ngờ ngợ, không dám nghĩ là điều gì. Tranh thủ 10 phút rỗi tạt vào một hàng, gặp nó, cầm nó lên, tay run bắn. Xin chào, người bạn tuổi thanh niên của tôi!   Cuốn sách cực kỳ quý giá cho những ai có con trai đang chuẩn bị bước vào ngưỡng cửa cuộc đời, nó còn là của báu cho bất kỳ người đàn ông nào, ở bất cứ lứa tuổi nào với phương châm “hãy làm, không có gì là quá muộn.”   Đến nay, ngay cả ở Nga, khi mà Liên Xô không còn nữa, cuốn sách vẫn tiếp tục được tái bản nhiều lần do nhu cầu rất lớn của xã hội đối với nó. Mình đã tìm kiếm rất lâu cuốn này, thậm chí có lần trên một diễn đàn bạn nào đó hỏi, nhưng không có ai chia sẻ nó. Thật may đã mua lại được cuốn sách, và ngay lập tức ngồi vào bàn, scan để chia sẻ cho mọi người.   Nào, chúng ta hãy cùng nhau trở thành những người đàn ông đích thực! [1] Chị Phan Bạch Yến, dịch giả cho biết họ của chị đã bị in sai thành họ Phạm khi xuất bản, nhưng cũng không muốn sửa vì sách hồi đó in ở Liên Xô chở về Việt Nam. Mời các bạn đón đọc Chúng Ta Là Đàn Ông của tác giả Steve Senkman.