Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vụ Án Lerouge

Vào ngày thứ 5, 6 tháng 3 năm 1862, một vụ án mạng đã làm ngôi làng La Jonchère thanh bình bị chấn động: bà quả phụ giàu có Lerouge bị sát hại dã man tạị nhà riêng. Điều tra viên Lecoq đã phải nhờ sự giúp đỡ của một thám tử nghiệp dư cũng là người thầy của mình, lão Tabaret, tham gia vào cuộc điều tra. Với sự cẩn trọng, tỉ mỉ,  kĩ thuật  phát họa tâm lí tội phạm xuất sắc cùng phương pháp suy luận chặt chẽ, tài tình, lão Tabaret đã lần theo manh mối và dễ dàng tóm được thủ phạm. Khi vụ án tưởng chừng đã khép lại thì những bước ngoặt của số phận lại bất ngờ mở ra một hướng đi mới, khiến các điều tra viên phải xem xét lại toàn bộ những suy luận của mình. Những tình tiết mới xuất hiện sẽ đưa vụ án này đi đến đâu? Những bí mật đen tối nào đang bị lớp màn của thời gian che phủ. BẤT NGỜ, HẤP DẪN là những gì độc giả nhận xét khi đọc cuốn tiểu thuyết trinh thám này của Gaboriau. Giới thiệu tác giả Émile Gaboriau Émile Gaboriau (1832 - 1873) là một trong những tiểu thuyết gia “mở màn” cho thời kỳ đỉnh cao của trinh thám Pháp, đưa trinh thám Pháp sánh ngang với trinh thám Anh, trinh thám Âu Mĩ.  Bạn đọc ở Việt Nam biết đến ông với Hồ sơ số 113 và Tội ác ở Orcival.  Bằng việc xây dựng thành công hình tượng nhân vật thám tử tài ba, tài trí Lecoq, Émile Gaboriau đã trở thành một trong những nhà văn trinh thám kiệt xuất trên thế giới và được mệnh danh là "Ông tổ" của tiểu thuyết trinh thám Pháp.  *** “Liệu có gì ghê tởm hơn sự gán ghép hai ý nghĩ ấy với nhau, lòng căm hận và công lý! Không cần coi thường mình hơn so với những kẻ xấu xa mà mình đã kết án, liệu một quan tòa có thể cho phép nhớ rằng một kẻ tội nhân mà số phận đang nằm trong tay mình đã từng là kẻ thù của ông? Một Thẩm phán điều tra liệu có được phép sử dụng những quyền lực thái quá của mình để chống lại một bị can, khi mà sâu trong tâm can ông ta vẫn còn một giọt mật đắng?” Một đoạn miêu tả tâm lý nhân vật thật xuất sắc với những đấu tranh nội tâm về việc có nên đem chuyện riêng tư vào phép công hay không? Thực chất, nếu đặt bản thân vào hoàn cảnh của nhân vật, chúng ta liệu có công tư phân minh được hay không? Hay cũng chỉ áp dụng quyền hành mà bản thân đang có để triệt tiêu tất cả những mối thù hận và căm hờn lên kẻ thù đang đứng trước mặt? Đôi khi đọc sách là thế, là khiến tôi phải suy ngẫm về những đoạn nhỏ trong sách để tự vấn lòng mình xem bản thân sẽ làm như thế nào với tình huống đó. “Vụ án Lerouge” mở ra với bối cảnh làng La Jonchere bình yên, thế nhưng tất cả mọi người đã bị chấn động bởi cái chết của bà quả phụ Lerouge. Hàng loạt thắc mắc được đặt ra và người ta không hiểu tại sao bà ta bị giết, ai có thể ra tay tàn độc như vậy. Lần này, sự xuất hiện của ông thám tử nghiệp dư Tabaret là một điểm nhấn thú vị và rõ ràng là ông ta có phần tài giỏi hơn cả Lecoq khi sớm tìm ra được hung thủ. Ở nhân vật này, chúng ta sẽ thấy được bóng dáng của Holmes bởi khả năng quan sát mọi việc và tình tiết rất cẩn trọng. Một chút tự mãn được thêm vào tài năng phá án của lão đã tạo ra một cá tính hết sức riêng biệt, đôi chút hài hước và đôi chút khó ưa. Thực ra, ở “Vụ án Lerouge”, việc hung thủ bị lộ diện không còn là yếu tố hút bạn đọc nữa. Điểm hay nhất chính là mối tình xưa cũ của nhân vật được tiết lộ khiến cho chúng ta thêm phần đồng cảm và thích thú nhiều hơn. Tình yêu bi ai được khai thác triệt để và rõ ràng sẽ lấy được nước mắt bạn đọc. Khổ trong tình yêu và tội ác được nảy sinh không phải là một mối kết nối quá mới nhưng với việc khai thác sâu sắc đã khiến cho câu chuyện thật sự thành công và đầy sâu sắc. Nếu những định kiến của xã hội và kiêu hãnh của con người có thể áp chế tình yêu thì sao nó không thể áp chế được luôn cả những bi kịch đã nảy sinh từ những uất ức đó?! Nhìn chung, “Vụ án Lerouge” đã mang tới một câu chuyện đầy ai oán cho bạn đọc với sự lồng ghép tuyệt vời giữa miêu tả tâm lý nhân vật với những đoạn phá án khá kịch tính. Sự thật và những mâu thuẫn tâm lý đã đẩy câu chuyện đến mức cao trào nhất; đôi lúc, tôi còn cảm thấy bất ngờ như chính cảm xúc của nhân vật trong truyện vì không ai có thể ngờ mọi chuyện lại diễn biến theo chiều hướng ấy. Tham, sân, si của lòng người đều hiện rõ qua cách diễn đạt của tác giả Émile Gaboriau và nếu phải suy ngẫm về tình đời, tình người thì mọi chuyện đều diễn ra cay đắng quá, khó mà chấp nhận được. (Trần Nguyễn Phước Thông, FB Trần Thông, 25-01-2020) Trần Thông *** Émile Gaboriau Chắc các bạn chưa quên “trai đẹp” trong Hồ sơ số 113, “gái đẹp” trong Tội ác ở Orcival. Nay các bạn sẽ biết thêm “ông già” Tabaret rất thú vị. Tại ngôi làng La Jonchere thanh bình, bà quả phụ Lerouge bị sát hại tại nhà. Ở một ngôi làng từ trước tới giờ luôn thanh bình, tại sao bà quả phụ Lerouge lại bị sát hại? Nguyên nhân khiến bà bị sát hại là gì? Tất cả các câu hỏi đó được giải đáp nhờ sự trợ giúp của vị thám tử nghiệp dư, lão Tabaret. Người được gọi là thầy của anh chàng thám tử gà trống Lecoq. Dưới con mắt của thanh tra Gevol, lão Tabaret là một ông già tự phụ như một con công, dễ nổi khùng, dễ mắc lừa, lão làm trinh thám chỉ để chứng tỏ tài năng của mình, giống như một nghệ sĩ không hơn không kém. Mặc dù đôi lúc có sự nhiệt tình thái quá nhưng không thể phủ nhận tài năng của lão Tabaret. Sự cẩn trọng, tỉ mỉ, khả năng quan sát, suy luận sắc bén. (Sự quan sát tỉ mỉ có bóng dáng của thám tử Sherlock Holmes quen thuộc). Dĩ nhiên có sai lầm thì mới là con người, đâu phải ai cũng thông minh hoàn hảo. Lecoq “trai đẹp” chỉ là cameo trong tập này thôi. Sân khấu chính là lão Tabaret. Không biết có phải do đọc kha khá trinh thám rồi nên “khôn” hơn hay do vụ án mà Boog đoán được cả hung thủ lẫn nguyên nhân gây ra tội ác nên không bất ngờ lắm về hung thủ. Tuy nhiên, để lại cảm xúc ở vụ án này không phải ở khía cạnh trinh thám mà là khía cạnh tình cảm. Boog khá là xúc động, cảm thông cho mối tình bi ai của nhân vật. Tại sao yêu nhau không đến được với nhau, để giờ đây hai ta phải khổ đau. Những rào cản định kiến, sự ngăn cách của xã hội, sai lầm bồng bột của tuổi trẻ đã để lại một bi kịch mà lớp đất thời gian không thể chôn vùi. Đánh giá cá nhân: 7,5/10 Binh Boog *** Thứ Năm ngày 6 tháng Ba năm 1862, hai ngày sau ngày Thứ Ba Ăn Mặn*, năm người đàn bà ở làng La Jonchère đã đến trình diện tại Sở Cảnh sát xã Bougival. Ngày được ăn thịt sau Mùa chay (ND). Họ báo với cảnh sát rằng từ hai ngày nay không ai nhìn thấy hàng xóm của họ là bà quả phụ Lerouge, người sống một mình trong một ngôi nhà nhỏ biệt lập. Sự im ắng này khiến họ lo lắng. Sợ là có án mạng hay ít nhất là một tai nạn gì đó, họ yêu cầu “luật pháp” phá cửa vào nhà xem có chuyện gì để được yên tâm. Bougival là một xứ sở đáng yêu, cứ Chủ nhật là trai gái lại chèo xuồng về đây; tội phạm cũng nhiều nhưng hiếm có án mạng. Vì thế, ban đầu viên thanh tra khước từ lời cầu xin của mấy người đàn bà, nhưng họ cứ nài nỉ mãi và cuối cùng nhà chức trách đã phải nhượng bộ. Ông cho gọi viên cai đội hiến binh đến cùng với hai nhân viên, sai người tìm một anh thợ khóa, rồi cả tốp cùng đi theo hàng xóm của bà quả phụ Lerouge. Làng La Jonchère là một ngôi làng nhỏ nằm trên triền dốc đổ xuống sông Seine, giữa xã Malmaison và xã Bougival. Nó cách con đường lớn hai mươi phút, con đường lớn đó chạy từ Paris đi Saint-Germain qua Rueil và Port-Marly. Dẫn đến làng là một con đường dốc đứng mà ngành cầu đường chưa hề biết đến. Thế là nhóm người, dẫn đầu là tốp hiến binh, đi theo con đường lớn đắp thành một con đê ngăn cách sông Seine với khu vực này, rồi chẳng mấy chốc họ quẹo phải rẽ vào một con đường ngang sâu hút kẹp giữa hai dãy tường gạch. Đi khoảng một trăm bước, họ dừng lại trước một căn nhà đơn sơ nhưng có vẻ ngoài lịch sự. Với bề sâu kéo dài hơn bề rộng, ngôi nhà có một tầng trệt hai phòng và một tầng áp mái ở trên. Quanh nhà trải rộng một khu vườn gần như không được chăm sóc. Thông ra vườn là một chiếc cổng gỗ nhẹ được buộc hờ bằng một sợi dây thép. - Ở đây này. - Mấy người đàn bà lên tiếng. Viên thanh tra cảnh sát dừng bước. Trong lúc đi đường, nhóm người của ông đã nhanh chóng được những kẻ hiếu kỳ và những kẻ vô công rồi nghề ở quanh đây gia nhập. Giờ đây ông đang bị khoảng bốn mươi kẻ tò mò vây quanh. - Không ai được vào đây! - Ông nói. Và, để cho mệnh lệnh của mình chắc chắn được tuân thủ, ông cắt cử hai anh hiến binh đứng gác trước lối vào, rồi ông bước tới, theo sau là viên cai đội và anh thợ khóa. Ông đích thân chĩa đầu cây gậy cạp chì gõ mạnh nhiều lần, đầu tiên là vào cánh cửa, sau đó là tất cả các ô cửa con. Sau mỗi cú gõ ông lại áp tai vào vách gỗ nghe ngóng. Không thấy động tĩnh gì, ông quay sang anh thợ khóa, ra lệnh: - Mở khóa đi. Anh thợ khóa mở túi dụng cụ và chuẩn bị đồ nghề. Anh đang lùa một cái que móc vào ổ khóa thì trong đám người hiếu kỳ có tiếng reo lên: - Chìa khóa! Chìa khóa đây này! Quả thực, một cậu bé chừng mười hai tuổi, trong lúc đang chơi với tụi bạn đã nhìn thấy một chiếc chìa khóa to nằm trong cái rãnh bên đường; cậu bé nhặt lên và đắc thắng đem tới. - Đưa đây, cậu bé, - viên cai đội nói - đưa chúng ta xem nào. Chìa khóa được đưa vào mở thử; đúng là chìa của ngôi nhà. Ông thanh tra và anh thợ khóa nhìn nhau đầy vẻ lo lắng sợ sệt. - Không hay rồi! - Viên cai đội lẩm nhẩm. Rồi họ vào trong nhà, trong khi đám đông, bị hiến binh vất vả giữ lại, vừa giậm chân sốt ruột, vừa cố ngó qua tường để nhìn vào trong xem chuyện gì đã xảy ra. Thật đáng tiếc là những kẻ phỏng đoán có án mạng đã không nhầm, ông thanh tra cảnh sát tin chắc như vậy ngay từ ngưỡng cửa. Trong căn phòng đầu tiên, tất cả đã tỏ rõ sự có mặt của những kẻ bất lương. Đồ đạc trong nhà, một chiếc tủ ngăn kéo và hai chiếc hòm lớn, đã bị phá đáy. Trong căn phòng thứ hai, là phòng được dùng làm buồng ngủ, quang cảnh còn lộn xộn hơn. Có thể hình dung rằng một bàn tay giận dữ đã vô cớ làm đảo lộn mọi thứ. Cuối cùng, bên cạnh lò sưởi, xác bà quả phụ Lerouge nằm dài với khuôn mặt vùi trong tro. Nửa khuôn mặt và tóc bị cháy thui, và thật kỳ diệu là lửa không bén đến quần áo. - Bọn vô lại, - viên cai đội thì thầm - chẳng lẽ chúng không thể ăn cắp mà không phải giết chết người đàn bà tội nghiệp này ư! - Nhưng bà ta bị đâm ở chỗ nào? - Ông thanh tra hỏi - Tôi không thấy máu. - Đây này, giữa hai vai đó, thưa ngài thanh tra. - Viên cai đội nói tiếp. - Hai cú đâm mạnh! Tôi xin lấy quân hàm của tôi để đánh cược là thậm chí bà ta đã không kịp kêu lên một tiếng “Ối!”. Ông cúi người, đặt tay lên thi thể. - Ồ, - ông nói tiếp - xác bà ấy đã lạnh thật rồi. Mặc dù có vẻ chưa cứng lắm, ít nhất bà ấy cũng đã tắt thở được ba mươi sáu giờ đồng hồ. Ông thanh tra ngồi vào một góc bàn ghi vội tờ biên bản. - Thôi không nói dông dài nữa, - ông bảo viên cai đội - giờ là lúc phải tìm ra thủ phạm. Hãy đi báo cho ngài Thẩm phán hòa giải và ngài xã trưởng đi. Còn nữa, hãy chạy đi Paris đưa bức thư này cho Viện Công tố. Trong hai giờ đồng hồ một Thẩm phán điều tra sẽ có mặt tại đây. Trong khi chờ đợi, tôi sẽ tiến hành một cuộc khám xét sơ bộ. - Chính tôi phải đưa bức thư này ư? - Viên cai đội hỏi. - Không, hãy cử một nhân viên của ông đi. Ông sẽ ở đây giúp tôi ngăn đám người tò mò kia và kiếm cho tôi các nhân chứng. Cứ để yên hiện trường đó, tôi sẽ sang căn phòng đầu tiên kia. Bà quả phụ Lerouge này là ai, quê ở đâu, bà làm nghề gì, lấy gì để sống, và sống như thế nào? Bà có thói quen gì, những mối giao du của bà thế nào? Kẻ nào có hiềm thù với bà, bà có hà tiện không, liệu bà có tiền không? Đó là những điều quan trọng mà ông thanh tra muốn biết. Nhưng cho dù có nhiều nhân chứng thì họ cũng chẳng biết gì hơn. Khi lần lượt được hỏi, những người hàng xóm chỉ đưa ra những lời khai vô nghĩa, thiếu mạch lạc và không đầy đủ. Chỉ có một bà làm vườn và một bà bán sữa cho bà quả phụ Lerouge là có vài thông tin chính xác, mặc dù chẳng mấy giá trị. Cuối cùng, qua ba giờ hỏi cung mệt mỏi, sau khi thu thập những lời chứng mâu thuẫn nhất và những chuyện ngồi lê đôi mách khôi hài nhất, ông thanh tra cảnh sát hình dung được sự việc gần đúng như sau: Cách đây hai năm, bắt đầu từ năm 1860, bà Lerouge đến xã Bougival với một chiếc xe dọn nhà lớn chở đầy đồ đạc, chăn mền và quần áo. Bà vào một quán trọ và bày tỏ ý định muốn ở lại trong vùng, rồi bà lập tức đi tìm thuê một căn nhà. Khi tìm thấy căn nhà vừa ý này, bà thuê ngay không mặc cả, với điều kiện trả trước 320 franc nửa năm, nhưng bà không đồng ý ký hợp đồng thuê nhà. Thỏa thuận thuê nhà xong, bà dọn đồ vào ở ngay hôm đó và bỏ ra khoảng 100 franc cho việc sửa chữa. Đó là một người phụ nữ tầm năm mươi tư, năm mươi lăm tuổi, trông rất trẻ, đẫy đà và rất khỏe mạnh. Chẳng ai biết tại sao bà lại chọn cái nơi hoàn toàn không quen biết một ai này để về ở. Người ta đoán bà là người Normandie vì thường thấy bà đội chiếc mũ trùm bằng vải bông vào buổi sáng. Thứ mũ dùng cho ban đêm này vẫn khiến bà rất duyên dáng vào ban ngày. Bà thường mặc những chiếc váy dài rất đẹp, cuốn nhiều dải ruy băng quanh mũ và đeo đầy đồ trang sức giống như một bức tượng thờ. Có thể bà là người miền biển, vì trong lúc chuyện trò bà rất hay nhắc đến biển và tàu thủy. Bà không thích nói đến chồng mình, là người, theo bà, đã mất trong một vụ đắm tàu. Chưa bao giờ bà hé mở một chi tiết nhỏ nhất nào về chuyện này. Chỉ có một lần bà nói với bà bán sữa trước sự có mặt của ba người khác, “Chưa có một người đàn bà nào bất hạnh như tôi trong chuyện vợ chồng.” Bà quả phụ Lerouge được coi là giàu có, hoặc ít nhất là rất sung túc. Bà không phải là người hà tiện. Bà thích sống thoải mái, tiêu nhiều cho chuyện ăn uống và thường mua rượu vang từng nửa thùng. Niềm vui của bà là được thiết đãi bạn quen và những buổi dạ tiệc của bà thật thịnh soạn. Nếu người ta khen bà giàu có thì bà cũng chẳng phản đối nhiều. Người ta thường nghe bà nói, “Tôi không có tiền lợi tức, nhưng tôi có tất cả những gì cần thiết. Nếu tôi muốn hơn nữa thì tôi sẽ có.” Ngoài ra, chưa bao giờ người ta nghe thấy có lời bóng gió nào, dù là nhỏ nhất, về quá khứ, về quê hương hay về gia đình bà. Bà rất hay nói chuyện, nhưng khi nói chuyện, bà chỉ nói đến những điều xấu xa của đồng loại. Dù sao, chắc là bà đã trải đời và biết nhiều chuyện. Với tính rất hay ngờ vực, bà cố thủ trong nhà mình như trong một pháo đài. Buổi tối không bao giờ bà ra khỏi nhà. Người ta biết rằng bà thường uống rượu say vào bữa tối và sau đó đi nằm luôn. Rất hiếm khi người ta nhìn thấy có người lạ đến nhà bà. Khoảng bốn, năm lần có một quý bà và một cậu thanh niên trẻ, và một lần khác có hai quý ông, một ông già đeo đầy huân huy chương và một chàng trai trẻ; hai người này đi trên một chiếc xe lộng lẫy. Nói tóm lại, người ta không tôn trọng bà mấy. Bà thường có những lời lẽ chướng tai và lập dị phát ra từ miệng một người ở tuổi đó. Người ta đã nghe thấy bà đưa ra những lời khuyên khó chịu nhất dành cho một cô gái. Tuy nhiên có một ông bán thịt lợn ở Bougival, một người buôn bán vụng về, cũng tán tỉnh bà. Bà đã gạt đi và nói bà lấy chồng một lần là đủ rồi. Mấy lần khác, người ta nhìn thấy có những người đàn ông đến nhà bà. Đầu tiên là một chàng trai trẻ trông có vẻ là một nhân viên hỏa xa, rồi sau đó có một ông cao lớn tóc nâu khá già, mặc một chiếc áo blouse và trông có vẻ rất dữ tợn. Người ta đoán rằng cả hai đều là nhân tình của bà. Vừa hỏi cung, ông thanh tra vừa ghi tóm tắt lời khai của nhân chứng, và ông đang viết đến đây thì ông Thẩm phán điều tra xuất hiện. Ông này dẫn theo ông Đội trưởng an ninh cùng một nhân viên. Ông Thẩm phán điều tra Daburon, người mà sau này bạn bè đã từng vô cùng ngạc nhiên thấy ông xin từ chức để về quê vui thú ruộng vườn vào đúng lúc vận may đang đến với ông, năm nay ba mươi tám tuổi, có thân hình đẹp, trông dễ mến mặc dù có vẻ lạnh nhạt, có một khuôn mặt hiền hậu và hơi buồn, vẻ buồn rầu này là di chứng của một căn bệnh hiểm nghèo mà cách đây hai năm đã suýt khiến ông mất mạng. Làm Thẩm phán điều tra từ năm 1859, ông nhanh chóng trở nên nổi tiếng. Là người cần cù, kiên nhẫn, có trực giác tinh tế cùng óc sáng suốt hiếm có, ông biết cách tháo gỡ những vụ án rắc rối nhất, và, giữa trăm nghìn mối tơ vò, ông biết cách nắm được sợi dây dẫn lối. Được trang bị một bộ óc lập luận logic chặt chẽ, chỉ ông mới có thể giải quyết được những vấn đề hóc búa mà gã X nào đó là thủ phạm. Là người biết khôn khéo suy luận từ cái đã biết để tìm ra cái chưa biết, ông rất giỏi trong việc tập hợp các sự kiện và tập trung những tình tiết phù phiếm nhất và có vẻ ngoài vô can nhất thành một cụm chứng cứ không thể chối cãi. Tuy nhiên, mặc dù có những phẩm chất đáng quý như thế, nhưng ông lại tỏ ra không phải sinh ra để làm những chức phận khủng khiếp này. Ông rùng mình thực hiện những chức phận đó với sự ngờ vực trước sự lôi kéo của những năng lực tài hoa của mình. Ông không có sự táo bạo để thực hiện những cú bất ngờ mạo hiểm có khả năng làm bộc lộ sự thật. Mời các bạn mượn đọc sách Vụ Án Lerouge của tác giả Émile Gaboriau & Nguyễn Văn Dân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vị Khách Không Mời - Agatha Christie & Charles Osborne
AudioBook Vị Khác Không Mời Một người đàn ông bị kẹt xe bên đường phải vào nhà nhờ giúp đỡ thì lại phát hiện một người đã chết trên xe lăn, cạnh đó là một người phụ nữ tay cầm súng... *** Đã gần nửa đêm, một đêm tháng Mười Một buốt giá, sương mù phủ khắp nơi trên con đường quê phía nam xứ Wales, không xa vịnh Bristol. Từ xa xa, chốc chốc vang lại tiếng còi hụ báo sương tự động. Đâu đó còn nghe thấy tiếng chó sủa hay tiếng chim ăn đêm gọi nhau. Ven con đường vắng này, vốn chỉ nhỉnh hơn một lối đi, cũng có vài ngôi nhà, nhưng cách nhau tới nửa dặm. Tại một khúc quanh tăm tối nhất có một ngôi nhà ba tầng xinh đẹp, nhìn ra đường từ phía bên kia khoảnh vườn khá rộng. Cũng chính tại chỗ đó, lúc này có một chiếc xe bị mắc kẹt bánh trước vào rãnh bên đường. Người lái xe sau vài lần cố tăng ga, đành bỏ cuộc, tắt máy. Một hai phút sau, người tài xế ra khỏi xe, đóng sập cửa xe lại sau lưng. Ông ta dáng người đậm, tóc vàng sẫm, khoảng ba mươi nhăm tuổi, mặc một bộ vét nỉ, áo mưa sẫm màu, đầu đội mũ. Tay cầm đèn soi đường, ông ta cẩn trọng bước qua đám cỏ về phía ngôi nhà, thỉnh thoảng dừng bước quan sát mặt tiền lịch lãm của ngôi nhà thiết kế theo phong cách thế kỷ 18. Ngôi nhà này không hề có một ánh đèn, kể cả khi ông ta đã tới bên cửa hướng ra phía vườn. Quay người nhìn lại bãi cỏ và con đường phía sau, người đàn ông bước hẳn tới bên cửa, lấy tay xoa kính rồi nhìn vào trong. Không thể nhìn thấy gì, ông ta gõ lên cửa. Chờ không thấy tiếng đáp trả, ông ta gõ mạnh hơn. Đến khi thấy gõ mãi cũng không có ích gì, người đàn ông vặn tay nắm. Cánh cửa ngay lập tức mở ra, ông ta bước vào trong căn phòng tối. Khi đã vào trong, ông ta dừng lại rồi nghe ngóng xem có tiếng động hay ai đang đến hay không, sau đó nói to, “Xin chào, có ai ở nhà không?”. Lấy đèn soi xung quanh căn phòng, ông ta thấy đó là một thư phòng khá tiện nghi, trên tường có khá nhiều sách, và ở giữa phòng có một người đàn ông trung niên đang ngồi trên xe lăn, mặt hướng ra cửa thông ra vườn, trên gối còn có một tấm khăn. Người đàn ông này có vẻ như đã ngủ say. “Xin chào,” người tài xế nói. “Tôi không có ý định đường đột thế này. Có điều ngoài kia sương mù dày quá, tôi bị đâm xuống rãnh. Giờ tôi cũng chẳng biết đang ở đâu nữa. Ấy chết, tôi quên đóng cửa, xin lỗi.” Người lái xe cứ lẩm bẩm nói xin lỗi khi quay trở ra cửa, đóng lại, kéo mành. “Chắc tôi rẽ nhầm chỗ ở đâu đó,” ông ta giải thích. “Tôi cứ lái vòng vòng cả giờ đồng hồ rồi.” Không thấy tiếng trả lời, ông ta hỏi khi bước đến chỗ người ngồi xe lăn, “Ông ngủ đấy à?” Vẫn không thấy động tĩnh gì, người đàn ông liền lấy đèn soi vào mặt người ngồi xe, bất ngờ khựng lại. Người ngồi trên xe mắt không mở, cũng không cử động gì. Người khách không mời liền cúi xuống, đẩy nhẹ vào vai để đánh thức, lập tức người ngồi xe gục xuống. “Chúa ơi!” người khách kêu thất thanh. Sau khi cố gắng trấn tĩnh để quyết định phải làm gì tiếp, ông ta soi đèn quanh phòng, tìm thấy công tắc cạnh một cánh cửa phía đầu bên kia phòng, bước tới đó để bật đèn lên. Đèn bàn sáng lên, người khách cũng đặt đèn của mình lên bàn, rồi bước vòng quanh, chăm chú quan sát người ngồi trên xe lăn. Thấy có một cái cửa nữa, cạnh đó cũng có công tắc, người khách đi tới bật lên, thấy đèn trên hai cái bàn bố trí khéo léo quanh chiếc xe lăn sáng lên. Người khách vừa bước một bước về phía chiếc xe lăn thì giật mình kinh hãi khi nhận ra có mộ người đàn bà xinh đẹp, tóc vàng nhạt, tuổi chạc ba mươi, mặc váy dạ tiệc màu hợp với áo khoác bên ngoài, đang đứng ở đầu kia phòng cạnh giá sách. Hai tay người đàn bà dường như buông thõng hai bên. Bà ta không nói, cũng không cử động gì cả. Có vẻ như bà ta cũng không thở nữa. Hai người nhìn nhau chằm chằm trong yên lặng một vài giây rồi người khách cất tiếng nói, “Ông ấy - ông ấy chết rồi.” Dường như hoàn toàn vô cảm, người đàn bà trả lời, “Đúng vậy.” “Bà đã biết rồi ư?” người khách hỏi. “Đã biết.” Cẩn trọng bước tới bên xác người trên xe lăn, người khách nói, “Ông ấy bị bắn. Bắn vào đầu. Ai - ?” Người khách không nói dứt câu vì thấy người phụ nữ từ từ đưa tay phải lên từ phía sau các nếp gấp của váy. Tay bà ta cầm một khẩu súng lục. Người khách hít một hơi thật sâu. Chỉ đến khi thấy rằng người phụ nữ kia không đe dọa gì mình, ông ta bước đến rồi nhẹ nhàng lấy khẩu súng ra khỏi tay bà ta. “Bà bắn ông ấy à?” người khách hỏi. “Phải,” người phụ nữ trả lời sau một thoáng ngập ngừng. Người khách bước lùi lại, đặt khẩu súng lên bàn cạnh chiếc xe lăn. Ông ta đứng nhìn xác chết một lúc rồi quan sát căn phòng. “Điện thoại ở đằng kia,” người phụ nữ nói, hất đầu về phía chiếc bàn. “Điện thoại?” người khách hỏi lại, có vẻ như ngạc nhiên. “Nếu ông muốn báo cảnh sát,” người phụ nữ nói tiếp, vẫn bằng vẻ vô cảm từ nãy giờ. Người khách chăm chú nhìn bà ta, hình như không hiểu nổi, rồi nói, “Sớm hay muộn vài phút thì cũng có khác gì đâu. Cảnh sát mò qua được đám sương mù đến đây cũng mất nhiều công đấy. Tôi còn có điều muốn biết thêm - “ Ông ta dừng lời, nhìn cái xác. “Ông ta là ai?” “Là chồng tôi,” người phụ nữ đáp. Một lúc bà nói tiếp, “Tên ông ấy là Richard Warwick. Còn tôi là Laura Warwick.” Người khách mắt vẫn không rời người phụ nữ. “Ra vậy,” ông ta lẩm bẩm. “Có lẽ bà muốn… ngồi xuống?” Laura Warwick di chuyển từ từ, có vẻ như không vững, tới một chiếc trường kỷ. Người khách nhìn quanh ròi nói, “Hay tôi kiếm cái gì cho bà… uống cái gì nhé? Chắc bà đang bị sốc.” “Vì bắn chồng tôi ư?” Giọng bà ta đầy mỉa mai. Đã lấy được sự bình tĩnh cần thiết, người khách đáp trả người phụ nữ, “Tôi có nghĩ như vậy. Chẳng lẽ lại là vui hay đùa sao?” “Là vui đùa thật đấy,” Laura Warwick vừa lạnh lùng đáp vừa ngồi xuống ghế. Người khách cau màu, không hiểu rõ câu nói. “Nhưng… tôi cần uống gì đó,” bà ta nói tiếp. Người khách bỏ mũ, quăng lên một cái ghế bành rồi lấy một chai rượu mạnh trên giá cạnh bàn, gần xe lăn, rót ra cốc đưa cho bà chủ nhà. Bà ta uống, rồi người khách nói. “Giờ thì đến lúc bà nói đầu đuôi sự việc được rồi.” Laura Warwick nhìn ông ta trân trối, “Sao ông còn chưa gọi cảnh sát tới?” “Còn thời gian mà. Cứ nói chuyện một lúc cũng có sao đâu chứ?” Ông ta cởi găng tay, nhét vào trong túi áo khoác, cởi khuy áo khoác ngoài. Mời các bạn đón đọc Vị Khách Không Mời của tác giả Agatha Christie & Charles Osborne.
Sau Cành Violet - Ngô Tất Thắng
Sau Cành Violet là cuốn truyện tình báo của Ngô Tất Thắng viết về những chiến tích hào hùng của các chiến sĩ tình báo Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam.  Cuốn sách không tái hiện lại cuộc chiến đấu giữa ta và địch trên chiến trường đầy bom đạn mà đưa người đọc đến với một trận tuyến thầm lặng. Đó là hình ảnh của những chiến sĩ tình báo (như Hồng Giang và Hoài Phương - hai nhân vật trong truyện). Các chiến sĩ của ta ngày đêm vượt khó khăn, hiểm nguy tiến hành các hoạt động phản gián ngay trong guồng máy chính quyền ngụy và tổ chức gián điệp CIA của Mỹ tại Sài Gòn.  Những chiến công của họ chưa một lần được nêu danh trên đài báo nhưng đã góp phần không nhỏ vào thắng lợi chung của toàn dân tộc. Qua đó, người đọc thấy rõ sự mưu trí tài tình, lòng dũng cảm và trên hết là một đức hy sinh, hết lòng vì dân, vì nước của các chiến sĩ tình báo Việt Nam. Mời các bạn đón đọc Sau Cành Violet của tác giả Ngô Tất Thắng.
Cô Gái Trên Tàu - Paula Hawkins
Cựu phóng viên đã có quyết định đúng đắn khi bỏ việc và thử sức ở lĩnh vực văn học. Ngay tuần đầu lên kệ, "The Girl On The Train" đã đứng đầu danh sách bán chạy nhất tại Anh và Mỹ. Hai năm trước, Paula Hawkins gặp khó khăn tài chính và cô phải viết xong cuốn The Reunion trong sự vội vã dưới bút danh Amy Silver. Sách xuất bản tháng 9/2013 nhưng không thành công. Cuối năm 2014, tác giả chia sẻ với người hâm mộ rằng cô cũng đang hoàn thành gấp “những chương đầu câu chuyện về một cô gái đi tàu”. Có nhiều năm kinh nghiệm làm phóng viên tài chính cho tờ Times nhưng với nền tài chính thế giới ngày càng đi xuống, Paula không còn đất dụng võ ở báo. Vậy là nhà văn 43 tuổi bắt đầu chuyển hướng sang viết văn. “Tôi nghĩ đến việc xây dựng hình tượng nữ chính nghiện rượu, bị cuốn trong guồng quay giữa công việc, hôn nhân thất bại và chứng nghiện đồ uống có cồn. Cô gái tên Rachel, hàng ngày đi tàu qua khu phố cũ và chợt nhận ra điều bất bình thường tại nhà một đôi vợ chồng”, tác giả chia sẻ về nhân vật chính của The Girl On The Train. Nhân vật nữ chính hàng ngày đi tàu ga 8.04 từ Ashbury đến Euston, thường chú ý đến ngôi nhà số 15 Blenheim Road nơi vợ chồng Jason và Jess sống. Với cô họ là cặp đôi hoàn hảo, cho đến khi Jess đột nhiên biến mất. Sau khi được nhà xuất bản Transworld ký “hợp đồng sáu con số”, Paula phát hành Cô gái trên tàu với ít kỳ vọng sách sẽ là best-seller ngay tuần đầu lên kệ. Và cho đến nay, đã có 2 triệu bản The Girl On The Train được tiêu thụ tại Anh và 8 triệu bản toàn cầu. Sách cũng là tác phẩm được mua trực tuyến nhiều nhất trên hệ thống của Amazon. Trong năm 2016 cuốn sách cũng sẽ được chuyển thể lên màn ảnh với sự góp mặt của Emily Blunt trong vai nữ chính sau khi bản quyền bộ phim được bán cho hãng DreamWorks. Tờ New York Times gọi cuốn sách là “Gone Girl thứ 2”, trong khi Guardian cũng hết lời ca ngợi sách là “tuyệt phẩm”. Tờ Independent bình luận tác phẩm “là cuốn truyện điển hình về đô thị hiện đại”, nhưng vẫn phê bình sách “hơi mang cảm giác gượng ép”. Sự thành công của Gone Girl hay sau này là The Girl On The Train đang dẫn dắt sự bùng nổ của dòng văn học tâm lý hình sự, trong đó có điểm mới khi người phụ nữ đóng vai chính chứ không phải là nạn nhân. “Các nhân vật nữ chính này đều có một điểm chung là nhân vật nửa thiện nửa ác, là người tốt nhưng có nhiều nét tính cách khiến người đọc e ngại. Nhưng họ đều phần nào cảm thấy liên kết với nhân vật, cô gái như Rachel có thể là bất cứ ai”, bà Cathy Rentzenbrink - biên tập tờ Booksellerchia sẻ về thành công của Cô gái trên tàu: “Thay vì cốt truyện về cô gái bị giết và hàng loạt nam chính phá án, giờ thì trình tự đã thay đổi”. Mời các bạn đón đọc Cô Gái Trên Tàu của tác giả Paula Hawkins.
Reacher Báo Thù - Lee Child
Cuốn sách hồi hộp, gay cấn với những tình tiết logic và nghẹt thở đã tiếp tục khẳng định đẳng cấp của Lee Child với series truyện trinh thám về nhân vật Jack Reacher. Một người đàn ông chưa rõ lai lịch bị sát hại trên quốc lộ, Một chữ “Pluribus” và một số điện thoại trong giày nạn nhân. Một trưởng đồn cảnh sát cùng vợ bị xẻo thịt. Và số cảnh sát đã bán linh hồn cho quỷ dữ ở thị trấn Margrave thì không chỉ có một… Nằm trong series những cuốn sách trinh thám viết về nhân vật Jack Reacher của nhà văn Lee Child, “Reacher báo thù” tiếp tục trở thành cuộc phiêu lưu hấp dẫn và ngoạn mục của Reacher – người cựu quân nhân Mỹ luôn sống và chiến đấu cho lẽ phải, người mang vẻ đẹp lồng lộng và vững chãi của một vị anh hùng giữa đời thường. Vô tình bị cuốn vào cái chết của người đàn ông vô danh trên quốc lộ, khi tấm khăn phủ xác nạn nhân được vén lên cũng là lúc Reacher phải chứng kiến bất hạnh lớn của đời mình và quyết định lao vào một cuộc báo thù. Hàng loạt những bí mật đan xen dần được bóc tách, hàng loạt những sự thật kinh hoàng dần được hé lộ. Từng con người, từng kẻ thủ ác bị vạch mặt và đưa ra ánh sáng, nhưng sẽ ra sao nếu những kẻ ác ấy không chỉ có một, mà là hàng loạt, là cả một nhóm người, là cả một thị trấn? Cuộc đối đầu giữa Reacher và những thế lực tà đạo giờ đây bắt đầu trở thành một cuộc chiến không cân bằng… Và cả một chặng đường dài đầy khó khăn phía trước đang chờ đợi anh… Một vài lời khen tặng dành cho cuốn sách: “Reacher báo thù là cuốn sách không thể cưỡng lại được ngay từ màn mở đầu bất ngờ cho tới màn kết thúc nảy lửa” – People “Lee Child cuốn hút bạn ngay từ dòng đầu tiên và không khi nào chịu buông bỏ” - Nevada Barr “Văn phong tuyệt vời kết hợp với một cốt truyện được gọt giũa tỉ mỉ. Bạo lực tàn khốc… được gợi lên bằng kiểu tình tiết khiến người ta phải khiếp đảm và đứng tim” - The New York Times Mời các bạn đón đọc  Reacher Báo Thù của tác giả  Lee Child.