Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Tuyết

“Vô cùng phức tạp và cực kì giải trí.” - The New York Times Book Review “Một tập trinh thám siêu hạng – thông minh, phong cách, tính toán tỉ mỉ và giữ nhịp hài hòa.” – Newsday “Nếu bạn còn chưa biết Jo Nesbø là ai, giờ đã đến lúc rồi.” - USA Today Với Người Tuyết, Jo Nesbø không dừng lại ở việc vạch ra một bản đồ tội ác hoàn hảo, mà còn đặt ra một hành trình cá nhân đầy thách thức cho nhân vật được ưu ái nhất của ông: Harry Hole. Giữa những sáng-tối, thiện-ác đối lập xuyên suốt quyển sách, khi thanh tra Hole lần theo những dấu chân trên tuyết để tìm kẻ thủ ác cũng chính là lần theo quá khứ và những mảnh vỡ của chính bản thân mình. TÓM TẮT: Năm 1980, một người phụ nữ có gia đình chở theo con trai trên một chiếc Toyota Corolla chạy đến một căn nhà riêng ở miền quê. Cô dặn con mình chờ ở trong xe rồi vào nhà gặp người tình. Khi cô và tình nhân ân ái với nhau, họ cảm giác như ai đó đang nhìn lén từ ngoài cửa sổ. Họ nhìn ra ngoài và chỉ phát hiện một người tuyết to. Hôm cô đến cũng là ngày tuyết bắt đầu rơi. Hai mươi bốn năm sau, thanh tra Harry Hole phải lần theo dấu vết của một kẻ sát nhân hàng loạt với những thủ đoạn anh chưa từng gặp. Khả năng suy luận nhạy bén, sự cứng đầu cộng với những kĩ năng học được từ khóa nghiệp vụ FBI thúc đẩy Harry tìm ra kết nối giữa các vụ án, anh nhận ra hai điểm chung: tất cả nạn nhân đều là những phụ nữ đã có gia đình và ở mỗi hiện trường vụ án đều có một người tuyết. *** JO NESBØ là nhà văn Na Uy, nhạc sĩ và cựu chuyên gia kinh tế. Tác phẩm của ông đã được dịch sang hơn 50 ngôn ngữ, bán 45 triệu bản. NESBØ chủ yếu được biết đến qua xê ri tiểu thuyết tội phạm về thanh tra Harry Hole, nhưng ông cũng là ca sĩ chính và nhà soạn nhạc cho ban nhạc rock Di Derre của Na Uy. Là một người thích vận động, JO NESBØ còn có sở thích leo núi. Các tác phẩm khác của JO NESBØ đã được Nhã Nam xuất bản: Chim Cổ Đỏ - Jo Nesbo Người Con Trai - Jo Nesbo Kẻ Báo Thù - Jo Nesbo Người tuyết Ngôi Sao Của Quỷ *** [Review Sách] “Người Tuyết”: Tuyết Rơi Lạnh Lẽo Hay Lòng Người Giá Băng? Năm 1980, một phụ nữ có gia đình chở theo con trai trên một chiếc Toyota Corolla chạy đến một căn nhà riêng ở miền quê. Cô dặn con mình chờ ở trong xe rồi vào nhà gặp người tình. Khi đang yêu nhau, họ cảm giác có ai đó đang nhìn lén từ ngoài cửa sổ. Họ nhìn ra ngoài và chỉ phát hiện một người tuyết to. Hôm cô đến cũng là ngày tuyết bắt đầu rơi... Những tinh thể tuyết rơi, trắng xóa. Những con đường phủ màu trắng toát bởi lớp tuyết dày, trơn trượt. Những căn nhà đóng kín cửa mờ ảo trong cơn bão tuyết ùa về, rét buốt. Vậy mà nào ai ngờ được rằng, đó chính là điểm khởi đầu của một chuỗi án mạng gây rúng động toàn Na Uy với kẻ sát nhân máu lạnh mang tên Người Tuyết. Kẻ thủ ác là ai? Động cơ nào khiến hắn ta gây án một cách liên tục xuyên suốt hơn hai chục năm? Tại sao trong ngần ấy năm không một ai nhận ra sợi dây xích móc nối giữa các vụ án mạng xảy ra rải rác vào mỗi mùa tuyết rơi? Tất cả chỉ được Jo Nesbø hé mở dần dần thông qua hơn 500 trang sách của Người Tuyết. Và với cuốn sách này, bạn chắc chắn sẽ phải giật thột cho tới trang sách cuối cùng. Được coi là cuốn trinh thám hay và thành công nhất của tác giả Jo Nesbø, cũng như rất nhiều các trang truyện trinh thám khác, Người Tuyết tái hiện lại hành trình phá án của vị thanh tra tài ba mang tên Harry Hole thông qua cả quá trình dài suy luận và lần theo từng dấu vết. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại tại đó, Người Tuyết sẽ còn gây ấn tượng và để lại dư vị nơi người đọc bằng cách tác giả hé mở bức màn đen tối nơi góc khuất con người. Khi ấy, cuốn sách sẽ như tia sáng le lói giữa làn tuyết lạnh dày đặc, bóc tách từng tầng lớp của sự thật bị ẩn giấu để đưa độc giả tới tận cùng của chuyến hành trình tìm ra công lý. “Càng nhiều tuổi, tôi càng nghiêng về quan điểm cái ác dù thế nào đi nữa vẫn cứ là cái ác, bất kể anh có mất trí hay không. Phàm là con người, hầu như ai cũng có thể bị cái ác chi phối, nhưng không thể lấy lý do đó ra để biện minh cho hành động của mình. Thực sự mà nói, những bệnh rối loạn nhân cách đang ẩn náu trong mỗi chúng ta, và chính những việc ta làm sẽ nói lên mức độ nặng nhẹ của bệnh. Ai chẳng biết trước pháp luật mọi người đều bình đẳng, nhưng điều đó nào có nghĩa lý gì khi mà trong cuộc sống vốn dĩ không tồn tại sự bình đẳng. Vào thời Cái chết Đen hoành hành, thủy thủ chỉ cần ho vài tiếng là lập tức bị ném xuống biển. Cũng phải thôi, vì công lý là con dao cùn, xét theo cả khía cạnh triết học lẫn khía cạnh pháp luật. Những gì chúng ta có chỉ là viễn cảnh bệnh tình tươi sáng hay đen tối mà thôi, các bạn thân mến ạ.” Người Tuyết và hành trình 24 năm một tội ác âm ỉ Như một mạch máu lặng lẽ chảy sâu bên trong các tế bào, Người Tuyết là dòng chảy của một chuỗi án mạng kéo dài 24 năm với tổng cộng 6 người chết với các khoảng thời gian và tại các khoảng không gian khác nhau. Xuyên suốt hơn hai mươi năm, chẳng ai nhận ra sự tương đồng giữa các vụ án ấy cho tới khi thanh tra Harry Hole, người được gửi một bức thư nặc danh có bóng hình Người Tuyết, vào cuộc.  Nếu chỉ nhìn vẻ bề ngoài thì có lẽ khó ai nghĩ rằng toàn bộ cuốn sách dày tới hơn 500 trang này chỉ diễn ra vỏn vẹn trong hơn hai mươi ngày. Hai mươi hai ngày với hai điểm nhìn lại quá khứ nơi mọi sự bắt đầu, thứ Tư ngày 5 tháng Mười một năm 1980 và hiện tại, tháng Mười hai năm 2004. Lật giở từng trang của Người Tuyết, người đọc như đang được chứng kiến một bộ phim trinh thám xen lẫn hành động và kinh dị xuất sắc được đạo diễn bởi một người nghệ sĩ tài ba.  500 trang sách với tổng cộng 5 phần và 38 chương này sẽ là một hành trình theo vòng tròn khép kín nơi độc giả sẽ xuất phát tại điểm khởi đầu và sau một hành trình dài lại quay về lại chính điểm đó. Cái hay của Người Tuyết là ở chỗ nghệ thuật ngắt cảnh của tác giả Jo Nesbø. Tương tự như một bộ phim với các cảnh quay luân phiên một cách linh hoạt giữa vai chính diện và phản diện thì ở Người Tuyết, bạn đọc sẽ được trải nghiệm cảm giác sự thật như gần ngay trước mắt và tưởng rằng chỉ cần vươn tay là ta có thể chạm tới ngưỡng cửa của sự thật thì đột nhiên PHỤT..., ánh đèn sân khấu chợt tắt và nhường sàn diễn cho các cảnh quay khác.  Mình thực sự ấn tượng bởi cách ngắt cảnh của Jo Nesbø vì nó không những không khiến độc giả cụt hứng mà trái ngược lại còn thôi thúc người ta phải lật giở từng trang sách nhanh hơn nữa, đọc truyện và theo dõi câu chuyện với một nhịp điệu hồi hộp và dồn dập hơn nữa.  Khởi đầu bằng một mớ bòng bong và rời rạc Với cách chuyển cảnh và đan xen thời gian mà Jo Nesbø sử dụng trong Người Tuyết thì có lẽ phần đầu tiên của cuốn sách sẽ gây không ít bối rối cho độc giả.  Là phần mở màn của câu chuyện nhưng phần một lại là phần có dòng thời gian và tuyến nhân vật phức tạp nhất. Từ điểm khởi đầu, thứ Tư ngày 5 tháng Mười một năm 1980 nơi vụ án đầu tiên với người phụ nữ đầu tiên mất mạng, độc giả sẽ trở về với đất nước Na Uy thực tại với bối cảnh năm 2004, đến với sở cảnh sát nơi thanh tra Harry Hole quay trở lại làm việc sau chuỗi ngày chìm đắm trong bia rượu và lụy tình. Nhưng Jo Nesbø chẳng để độc giả có thời gian suy ngẫm và làm quen với bối cảnh, ngay lập tức ông đưa độc giả về 12 năm sau thời điểm bắt đầu, nơi những scandal và sự mất tích bắt đầu. Cột totem, điện thoại di động, số liệu ẩn, vực thẳm,... một chuỗi sự kiện và nhân vật rời rạc. Thế nhưng quả thực là sai lầm nếu như chỉ vì thế mà bạn gấp lại Người Tuyết tại đây.  Tên sát nhân và quá tam ba bận mừng hụt  Với Người Tuyết, Jo Nesbø chỉ thực sự làm khó độc giả ở phần đầu tiên vì với các phần còn lại ông tập trung vào quá trình điều tra tên tội phạm. Và bạn hãy yên tâm rằng từ phần hai trở đi dòng thời gian sẽ quay về đúng trật tự. Tuy nhiên, đây lại có thể coi như phần kinh dị nhất vì là đoạn tập trung nhiều thi thể và là nơi lật tẩy mánh khóe nhiều nhất.  Có hơn nửa số vụ án xảy ra với xác chết được tìm thấy khi hình hài không còn vẹn nguyên và sừng sững một nhân chứng duy nhất - một Người Tuyết -  gần hiện trường. Người Tuyết có máu, có thi thể thậm chí chỉ tìm thấy phần đầu, có hung khí gây án hoặc nằm lại hiện trường hoặc biến mất không dấu vết vào hư không. Nhưng còn hay hơn nữa khi ở Người Tuyết còn xuất hiện cả những đoạn đối thoại và hình dung giữa nạn nhân và hung thủ. Sẽ có lúc bạn cảm tưởng như bạn đang đứng nói chuyện trực tiếp với kẻ sát nhân. Cảm giác bị rình rập, thâu tóm, cảm giác có bóng đen phía sau đang rón rén bước tới gần bạn, cảm giác một giọng nói không rõ thực hay mơ đang vọng vào tai bạn,... Chắc chắn Người Tuyết sẽ khiến bạn phải nín thở.  Có thể nói đây là cuốn trinh thám mang tới cho mình nhiều “cú lừa” nhất trong số các cuốn sách cùng thể loại mình từng đọc vì có tới ba lần bạn tưởng chừng như đã tìm ra hung thủ. Các tình tiết, sự kiện và dấu vết trùng khớp tới mức dù bạn có tự mình suy luận hay lựa chọn dõi theo hành trình vị thám tử truy tìm kẻ thủ ác thì rất có thể bạn vẫn sẽ bị lừa.  Lần thứ nhất, tất cả chứng cứ và dòng suy luận đổ dồn vào một gã bác sĩ mang tên Idar Vetlesen. Khi ấy, kể cả tên sát nhân vẫn còn ẩn giấu cũng như tác giả Jo Nesbø, người đứng đằng sau tất cả đã thực sự thành công khi dẫn dắt được Harry Hole đi vào lối cụt đầu tiên của mê cung. Và lẽ dĩ nhiên, như một trò chơi tàu lượn siêu tốc, độc giả cũng bị cuốn theo guồng quay của câu chuyện mà không mảy may nghi ngờ.  Lần thứ hai, sự việc trở nên rối rắm và phức tạp hơn bởi đối tượng tình nghi có sự liên quan hết sức mật thiết và tương đồng với các nạn nhân, một tên chủ tòa soạn mang tên Arve Støp. Lối đi thứ hai này thuyết phục người đọc hơn ở chỗ tác giả đã lồng ghép các yếu tố tâm lý và sự đan xen giữa kí ức và thực tại. Tại đó, thay vì cuốn vào guồng quay của suy luận và chứng cứ thì độc giả lại được tiếp cận với những bức màn bí mật được ẩn giấu, nơi quá khứ của con người và những bí mật chưa hề (và có lẽ sẽ chẳng bao giờ) được bật mí. Thế nhưng, một lần nữa chúng ta lại bị tác giả xoay mòng mòng.  Lần thứ ba, khi cả độc giả và nhân vật chính đều trải qua hai lần mừng hụt vì tưởng như đã thâu tóm được kẻ thủ ác thì với các chứng cứ thu được kết hợp với kẽ hở từ hai lần trước, chúng ta đã có đối tượng lọt vào tầm ngắm mang tên Người Tuyết. Và đó không ai khác chính là nữ thanh tra Katrine Bratt, người cùng đội điều tra với thanh tra Harry Hole và bấy lâu vẫn luôn theo sát quá trình tìm ra kẻ thủ ác.  Đúng là con người thường vô tình phơi bày lời nói dối của chính mình thông qua những biểu hiện bề ngoài; thế nhưng đừng bao giờ hy vọng lật tẩy được một kẻ thấu cáy lão luyện trừ phi anh ta giữ được cái đầu lạnh và tính toán thật kỹ để sàng lọc ra tất cả những biểu hiện đó của từng người chơi.  Thế nhưng, tất cả mới chỉ như ba mảnh ghép còn thiếu của tấm bản đồ. Và thứ thực sự ẩn giấu đằng sau, để tìm ra kẻ sát nhân thực sự, chúng ta cần phải xâu chuỗi lại sự việc và nhìn nhận bức tranh ở góc nhìn tổng thể. Có lẽ chúng ta sẽ phải đồng tình thừa nhận rằng cả tên sát nhân và Jo Nesbø đều thực sự vô cùng tài tình với câu chuyện lần này. Có tới ba lần người ta phải bị thuyết phục và sau ba lần mừng hụt ấy, khi chân tướng cuối cùng lộ diện thì các chuỗi sự kiện, manh mối và câu chuyện vẫn trùng khớp nhau tới lạ lùng. Ba lần chúng ta bị đánh lạc hướng và đi chệch khỏi quỹ đạo nhưng sau cùng thì đường ray vẫn về lại tuyến đường chính, trơn tru và hết sức khéo léo, như chưa hề có chuyện gì xảy ra.  Dòng chảy của góc khuất con người Nếu ví Người Tuyết như một dòng sông thì có lẽ dòng chảy của nó sẽ là sự hòa lẫn của nhiều nguồn nước khác nhau, trong có và đục cũng có, hạ nguồn đổ về mà thượng nguồn cũng góp phần chảy vào.  Tại sao mình lại ví như vậy? Bởi lẽ nếu bỏ qua mạch truyện chính và các yếu tố trinh thám thì Người Tuyết như tập hợp của một loạt những góc khuất trong cuộc đời của mỗi người.  Với kẻ thủ ác, lẽ dĩ nhiên, những bí mật và tổn thương tâm hồn luôn đóng một vai trò lớn tác động tới hành động và nhận thức của hắn. Sẽ có lúc thay vì thù hằn, biết đâu bạn sẽ thương cảm cho hắn. Bạn kinh hoàng và hãi hùng tột độ về cách hắn nhớ lại hành vi tội lỗi của mình, nhưng khi bạn chứng kiến lý do ẩn giấu đằng sau, có khi bạn lại thương hại nhiều hơn.  Với thanh tra Harry Hole, thứ ám ảnh và giết chết tâm hồn anh hơn cả là tình yêu. Có thể nói, các yếu tố hồi tưởng và suy ngẫm về tình cảm của Harry Hole như một điểm sáng xoa dịu tâm hồn người đọc giữa bối cảnh đầy tàn bạo và chết chóc, mặc dù câu chuyện tình ấy, dẫu vấn vương và mãnh liệt thật đấy nhưng lại chẳng phải đẹp đẽ và màu hường như người ta vẫn tưởng.  “Vậy nguồn cơn nỗi bất hạnh của anh là gì hả Harry?” Câu trả lời thốt ra khi anh còn chưa kịp nghĩ kỹ. “Yêu một người yêu tôi.” Katrine bật cười. “Tội chưa. Thuở mới vào đời anh cũng ngây thơ yêu đời phơi phới nhưng sau này vỡ mộng à? Hay là ngay từ đầu anh đã thế rồi?” Harry đăm đăm nhìn chất lỏng màu nâu vàng trong ly của mình. “Đôi lúc tôi cũng tự hỏi như vậy. Nhưng không thường xuyên lắm. Tôi cố gắng nghĩ đến những điều khác.” Đối với các nhân vật khác cũng vậy, họ tưởng như những con người xa lạ, vì dòng đời xô đẩy mà câu chuyện và bí mật của họ giao nhau. Để sau cùng nếu gạt bỏ màu sắc đỏ thẫm của máu thì ai cũng là những con người đa cảm và thật đáng thương. Xã hội hào nhoáng và mặt trái của lương tâm Phía sau những câu chuyện kia, phía sau bóng đêm của tội ác và góc khuất của lương tâm, dưới góc nhìn tổng thể, Người Tuyết còn phản ánh một bức màn hào nhoáng của xã hội Na Uy lúc bấy giờ.  Một xã hội có tới “hơn 20 phần trăm đứa trẻ không phải con ruột của cha nó”, những gia đình mà cả vợ và chồng đều ngoài mặt hòa thuận nhưng sâu trong thâm tâm, mỗi người đều có những thù hằn, ghét bỏ và ham muốn vụ lợi ở đối phương. Một hệ thống nhà cầm quyền sẵn sàng kiếm tìm và biến một thanh tra tài năng thành một con tốt thí mạng để che mắt giới báo chí và dư luận vì hành vi của mình. Một thế giới hào nhoáng nơi báo chí và màn ảnh dần dần thâu tóm và dẫn dắt dư luận một cách quá đỗi dễ dàng.  Với Người Tuyết, người ta có thể thấy những cánh “diều hâu” săn tin khi trời rạng và đêm về thì rầu rĩ với guồng quay của deadline và công việc, người ta được nhập tâm vào một tên MC để trải cái cảm giác thâu tóm công chúng, người ta lụi dần trong nỗi khổ sở vì danh tiếng đã mất… Hơn cả một tiểu thuyết gia, Jo Nesbø thuyết phục người đọc bởi nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật mang chiều sâu tới lạ lùng. Cùng một cuốn sách nhưng độc giả được chứng kiến từ tên nhà báo cho tới vị thanh tra, từ chủ tòa soạn cho tới suy nghĩ vẩn vơ của một cậu bé lên 10. Tất cả đều được miêu tả rất chân thực và rất chậm. Mạch văn chậm như trêu ngươi nỗi lo sợ của kẻ ác khi bệnh tật diễn biến ngày càng nhanh, chậm để người đọc kịp ngẫm nhưng vẫn khiến người ta phải quay cuồng vì chính cái mớ hỗn loạn do tên tội phạm, hay nói đúng hơn là Jo Nesbø gây ra. Idar Vetlesen đã phải vật lộn với thứ ma quỷ gì? Anh ta mang theo chúng đến đây, hay căn phòng này là nơi trú ẩn, là thiên đường bình yên? Có lẽ anh đã tìm ra cho mình một vài câu trả lời, nhưng chừng đó vẫn chưa đủ. Không bao giờ là đủ. Chẳng hạn như sự điên rồ và cái các có phải hai phạm trù khác nhau, hay cứ khi nào không hiểu nổi mục đích của việc giết chóc thì ta mặc nhiên quy kết nó là điên rồ. Ta có thể hiểu lý do một người muốn ném bom nguyên tử xuống thành phố toàn những người dân vô tội, nhưng lại không hiểu vì sao kẻ khác muốn phanh thây những gái điếm reo rắc bệnh dịch và sự suy đồi trong những khu ổ chuột ở London. Bởi vậy ta mới gọi trường hợp thứ nhất là chủ nghĩa hiện thực còn trường hợp thứ hai là sự điên rồ. Thay lời kết Người Tuyết, thực chất, không phải một cuốn sách khó đọc nhưng cũng không nằm trong thể loại bạn có thể nuốt trọn từng chi tiết. Có quá nhiều thứ để người ta phải ngẫm thay vì chỉ đơn giản nhìn vào hay mong đợi về một câu chuyện trinh thám giật gân. Nếu ngoài trời đang có tuyết thì lời khuyên cho bạn là hãy đóng thật kín cửa lại, bởi chỉ mình Người Tuyết là quá đủ rồi. Tuyết rơi lạnh lẽo hay lòng người giá băng, câu hỏi này có lẽ bạn sẽ phải tự mình giải đáp. Người Tuyết của Jo Nesbø không phải là một cuốn sách để bạn có thể đọc ngấu nghiến trong ngày một ngày hai nhưng nếu bạn đọc và nhập tâm được cùng nhân vật thì xin chúc mừng bạn, thế giới này vốn không như bạn tưởng và chuyến hành trình lột bỏ lớp vỏ bọc hào nhoáng kia, từ giờ phút này, chính thức bắt đầu… “Không lâu nữa tuyết đầu mùa sẽ đến. Và lúc ấy hắn sẽ lại hiện ra. Người tuyết. Khi tuyết tan là lúc hắn bắt đi một kẻ khác. Hãy tự hỏi bản thân điều này: “Ai đã tạo ra người tuyết? Ai đã đắp nên những người tuyết? Ai đã sinh ra Murri?” Bởi điều ấy người tuyết nào có hay.” Tác giả: Annie - Bookademy Mời các bạn đón đọc Người Tuyết của tác giả Jo Nesbo & Matryoshka (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sonechka - Lyudmila Ulitskaya
“Sonechka” là câu chuyện có âm hưởng của một bài thơ buồn kể về cuộc đời nhân vật chính: nàng Sonechka. Trải qua một tuổi thơ trầm lặng gắn liền với những cuốn sách, Sonechka bước vào cuộc sống mới, sát cánh bên chồng là Robert Victorovich-một hoạ sỹ tài danh nhưng không được chế độ công nhận, để cùng xây dựng gia đình nhỏ giữa những tháng ngày gian khó. Thế nhưng đến cuối đời hạnh phúc sụp đổ trước mắt Sonechka, Tania- đứa con gái duy nhất bỏ đi cùng người tình nghiện ngập, Robert Victorovich không thể cưỡng lại sức quyến rũ của cô nhân tình trẻ tuổi. Tất cả đều quay lưng lại với bà nhưng đều được bà tha thứ. Với một văn phong trang nhã, giàu chất thơ, cách kể chuyện thông minh, hóm hỉnh, bút pháp miêu tả và phân tích tâm lý nhân vật tinh tế, sắc sảo, Ludmila Ulitskaya đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Sonechka. Đồng thời tác phẩm là sự trở lại ấn tượng và xúc động của văn học Nga với mỗi độc giả Việt Nam. *** Lyudmila Ulitskaya là một nhà văn không chỉ nổi tiếng ở Nga, mà còn được độc giả yêu thích ở nhiều nước trên thế giới. Bà được trao tặng nhiều giải thưởng văn học quốc tế như Giải thưởng văn học Medichi của Pháp năm 1996, giải thưởng Italia Dzhuzeppe Atserbi năm 1999. Năm 2001 bà được trao giải thưởng Buker của Nga. Nhiều tác phầm của bà được dịch ra hơn hai mươi thứ tiếng. Các vở kịch và văn xuôi của bà được nhiều nhà hát tên tuổi dàn dựng, một số tiểu thuyết được dựng thành phim. Tuy nhiên, ít độc giả biết bà là một nhà sinh vật học, chuyên ngành di truyền. Bà tốt nghiệp khoa sinh trường đại học tổng hợp Maxcơva mang tên Lomonoxov, một thời gian dài công tác ở Viện di truyền học thuộc Viện hàn lâm khoa học Liên Xô. Tên tuổi của bà bắt đầu xuất hiện vào những năm 80-90 của thế kỉ trước, khi các bộ phim dựng theo kịch bản của bà như “Chị em gái Liberti”, “Người đàn bà dành cho tất cả mọi người” được công chiếu trên màn ảnh. Tuy nhiên, bà chỉ thực sự nổi tiếng từ năm 1992, khi tạp chí “Thế giới mới” đăng truyện vừa “Sonechka” của bà. Từ đó, giới phê bình văn học bắt đầu chú ý đến Ulitscaya. Với tiểu thuyết đầu tay “Međeia và con cháu của bà”, nữ văn sĩ lọt vào vòng chung kết giải Buker Nga năm 1997. Với tiểu thuyết thứ hai “Chuyện rắc rối của Kukoxky”, bà được mệnh danh là nhà văn xuất sắc nhất nước Nga và được trao giải Buker Nga năm 2001.   Mời các bạn đón đọc Sonechka của tác giả Lyudmila Ulitskaya.
Kiếm Sống - Maxim Gorky
K iếm sống[1] là phần hai trong tác phẩm bộ ba tự thuật[2] của M. Gorky, miêu tả thời niên thiếu của cậu bé Alyosha Peskov, tức Gorky, từ năm 1878 đến năm 1884. Trong phần đầu, M. Gorky đã kết thúc Thời thơ ấu của mình bằng những dòng chua chát: “Sau khi chôn cất mẹ tôi được vài ngày, ông ngoại bảo tôi: - Này Leksei, mày không phải là cái mề đay, mày không thể lủng lẳng mãi trên cổ tao, mày hãy đi ra đời mà kiếm sống… Và thế là tôi bước vào đời.” Mới mười tuổi đầu, cậu bé mồ côi Alyosha đã bắt đầu ở với người đời, tìm hiểu cuộc sống và đấu tranh để tìm ra lối thoát cho mình. Giai đoạn này đã hình thành mối quan hệ mới của Alyosha với con người và thế giới xung quanh. Bước vào đời để kiếm sống, Alyosha luôn va chạm với sự hèn hạ, tồi tệ của bọn “tiểu thị dân”, những kẻ luôn tự cho mình là “ưu việt nhất thành phố”, họ tưởng rằng họ “biết những phép cư xử đúng đắn nhất và dựa trên những phép tắc mù mờ đối với tôi đó mà kết tội mọi người một cách tàn nhẫn, không thương tiếc”. Những kẻ này thường có thái độ ganh tị, ghen ghét với điều tốt đẹp ở những người mà họ không sao hiểu nổi. Để biện bạch cho cuộc sống nhỏ nhen và nghèo nàn, khiến nó tăng thêm cái vẻ quan trọng bề ngoài, họ, giống như ông lão Kashmirin keo kiệt, hung dữ hay bà già Matryona độc ác, ích kỉ, luôn luôn lôi kéo Chúa vào những việc tẹp nhẹp buồn tẻ của mình, biến Chúa thành một sức mạnh trừng phạt mù quáng để bảo vệ cho tội lỗi và lợi ích cá nhân… Alyosha càng ngày càng thấy rõ mặt trái của cuộc sống, thấy những sự nhục mạ nhân cách, những lao động vô nghĩa, khổ sai. Lúc ấy, theo như lời Gorky kể, cuộc sống của Alyosha như vĩnh viễn bị quy định một cách chặt chẽ trong các hình thức và các mối quan hệ mà Alyosha trông thấy ngày này qua ngày khác, mỗi ngày một buồn tẻ, gay gắt hơn, khiến khó mà nghĩ tới khả năng thay đổi, làm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn. Nhưng khi ấy, sách vở – kho tàng tư tưởng sáng tạo của con người – đã tới giúp Alyosha. Những tác phẩm của các nhà văn Nga ưu tú, của các tác giả nước ngoài như Walter Scott, Dickens… đã giúp cậu hiểu được rất nhiều điều mà trước đó cậu vẫn băn khoăn. Sách vở đã giúp Alyosha khắc phục tâm trạng bối rối, mất niềm tin vào con người. Mỗi cuốn sách hay như mở ra trước mắt Alyosha một cánh cửa sổ hướng về thế giới mới mẻ mà cậu bé chưa từng biết, chưa từng thấy. Càng đọc nhiều sách, Alyosha càng thấy gần gũi với thế giới hơn, cuộc sống đối với cậu càng sáng sủa, có ý nghĩa hơn. Sau này, Gorky nhớ lại: “Sách vở đã chỉ cho tôi chỗ đứng của mình trong cuộc sống, nói cho tôi biết rằng con người thật vĩ đại và đẹp đẽ, luôn hướng về cái tốt đẹp hơn, rằng con người đã gây ra nhiều chuyện trên trái đất và vì thế mà họ phải chịu biết bao đau khổ.”[3] Một nhân vật trong Kiếm sống là Jikharev đã nói với Alyosha với vẻ đồng tình: “Cháu không có thái độ dửng dưng mà luôn tập trung vào công việc. Cháu cứ nên như thế mãi, điều đó rất tốt!” Alyosha đã dũng cảm lao vào cuộc sống, dũng cảm “bước vào đời” mặc dù nhiều khi va chạm phải mặt trái xấu xa ghê tởm của nó. Gorky viết: “Trong tôi có hai con người: Một người sau khi đã biết quá nhiều điều ghê tởm và bẩn thỉu, trở nên sợ hãi cuộc sống, nản lòng bởi hiểu quá rõ các chuyện khủng khiếp xảy ra hằng ngày. Người ấy bắt đầu nhìn cuộc sống, nhìn mọi người với thái độ thiếu tin tưởng và hoài nghi, thương hại một cách bất lực cả bản thân và những người xung quanh. Con người ấy mơ ước một cuộc sống cô độc, yên tĩnh, chỉ có sách vở, không dính líu đến ai, mơ về một tu viện, một chòi canh trong rừng, một vọng gác đường sắt, mơ được đến Ba Tư, được đảm nhiệm cương vị một người gác đêm ở ngoại ô thành phố. Càng ít người càng tốt, càng tránh xa con người càng tốt… Còn người kia được nuôi dưỡng bằng ý chí thiêng liêng của các cuốn sách hay và sâu sắc, mỗi khi cảm thấy sức mạnh của những điều khủng khiếp xảy ra hằng ngày kia có thể dễ dàng đè bẹp mình, làm nhơ bẩn trái tim mình, nên cố sức tự vệ, cắn chặt răng, siết chặt nắm đấm, luôn sẵn sàng xông vào bất kì cuộc tranh cãi và trận chiến đấu nào. Con người này giàu tình yêu thương, và giống như những nhân vật dũng cảm trong các cuốn tiểu thuyết Pháp, chỉ cần đến câu thứ ba là đã rút ngay gươm ra khỏi bao và sẵn sàng chiến đấu.” Trên bước đường kiếm sống, Alyosha đã gặp và sống với những người lao động bình thường: thợ mộc, thợ nề, thợ làm tượng thánh, phu khuân vác… và cả các nghệ sĩ, nhà thơ, nhà triết học… Mỗi người đều cần thiết và quan trọng đối với Alyosha, giúp tâm hồn cậu thêm phong phú, khiến cậu trở nên mạnh mẽ, khôn ngoan, có đủ nghị lực đương đầu với những khó khăn trong cuộc sống. Trong quá trình tiếp xúc với những người này, tính cách của Alyosha dần dần hình thành. Bác đầu bếp Smouri, một trong những “người thầy” của Alyosha, một người vốn nghiêm nghị và thích cô độc, có tâm hồn hiền hậu và tấm lòng công bằng, cao thượng. Khi Alyosha đọc cho bác nghe chuyện Taras Bulba của Gogol, tới cảnh cái chết của vị thủ lĩnh Cossack thì Smouri, người mà tất cả mọi người trên tàu đều sợ, đã khóc nức nở. Chính nhờ cuộc gặp gỡ với Smouri mà Alyosha bắt đầu say mê đọc sách. Càng tiếp xúc với những người Nga bình thường, càng tìm hiểu họ sâu hơn, Alyosha càng thấy “những người chủ” là tầm thường, tẻ nhạt, thế giới của họ hóa ra không bền vững và chắc chắn như cậu tưởng. Alyosha đã trải qua cả một “trường học đường đời” khi làm việc ở xưởng làm tượng thánh. Những người thợ trong xưởng mà Alyosha tiếp xúc là những người có tinh thần ham hiểu biết, có tâm hồn phong phú và có tài năng. Ở mỗi người, Alyosha đều cảm thấy họ thực sự hiểu biết cuộc sống và nghệ thuật. Những người đó tuy sống tù túng trong xưởng nhưng vẫn đầy lòng cao thượng, sức mạnh và vẻ đẹp. Không phải vô cớ khi kể về Sitanov, Gorky nhắc rằng trong anh hình như có một cái gì giống với “nhà quý tộc Tây Ban Nha”, nhân vật mà Sitanov yêu thích hơn cả. Đặc biệt, Jikharev đã khiến Alyosha rất đỗi ngạc nhiên; đó là một nghệ sĩ nhân dân, một người bị giày vò vì khát vọng hiểu biết và sáng tác tự do. “Chúng ta biết được những gì? Chúng ta sống thật quá tầm thường… Còn đâu là tâm hồn? Tâm hồn ở đâu rồi? Nguyên bản thì có đấy; nhưng trái tim thì không…” Alyosha lo lắng và vui mừng nghe những lời lạ tai ấy của Jikharev. Những người này càng ngày càng nhận thức rõ sự bất công, vô nghĩa của thứ lao động cưỡng bách. Họ bị dồn vào cảnh lao động kiệt sức và đơn điệu, mất hết niềm vui và phúc lợi ở đời. Họ thèm muốn ánh sáng, tri thức, cái đẹp. Những cuốn sách mà Alyosha đọc đã khiến họ say mê, rung động. Khi Alyosha đọc tập thơ Con quỷ của Lermontov, những người này khiến cậu hết sức ngạc nhiên bởi khả năng thụ cảm nghệ thuật rất tinh vi và sâu sắc của họ. Qua những năm sống phiêu bạt ấy, trong Alyosha nảy sinh tình yêu mạnh mẽ với con người, thứ tình yêu mà cậu sẽ mang suốt đời. “Chú được cái tốt là đối với ai chú cũng coi như họ hàng thân thích cả, cái đó rất tốt!” Kapendiukhin đã nói với Alyosha như vậy. Alyosha luôn có mặt trên con đường đi tìm chân lí, mục đích cuộc sống, đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi vẫn giày vò cậu: “Làm thế nào để giúp đỡ mọi người?” Đối với Alyosha, việc tìm hiểu ông lão thợ mộc Osip là một điều “hết sức cần thiết”. Tính tình phức tạp của Osip giúp cho Alyosha hiểu được bản chất mâu thuẫn của nông dân (Về Osip, năm 1897 Gorky đã viết trong truyện ngắn Vanka Mazin và năm 1912 trong truyện ngắn Băng chuyển). Alyosha biết tìm ở mọi người những điều cần thiết với cậu, mặc dù những người ấy khác xa cậu. Trong tâm thức, Alyosha đã phân biệt được ước mơ và thực tế. Giờ đây, cậu không chỉ hướng về sách vở, thơ ca, truyện thần thoại để tìm kiếm sự dũng cảm và chân lí mà biết hướng vào hiện thực: “Điều đó càng khiến tôi ngạc nhiên hơn, tôi cảm thấy rất rõ những mâu thuẫn giữa thực tế và sách vở. Trước mặt tôi là con người sinh động mà trong sách vở không thấy được: bác Smouri, anh thợ đốt lò Yaakov, ông khách lưu lạc Aleksasha Vassiliep, bác Jikharev, chị thợ giặt Natalya…” Hình ảnh của những con người sinh động này chiếm một vị trí quan trọng trong tâm trí cậu bé Alyosha. Chương cuối của Kiếm sống xuất hiện một hình tượng đầy ý nghĩa – cảnh “trái đất nửa thức nửa ngủ”. Alyosha muốn đá tung tất cả trái đất và ngay cả chính mình nữa để cho tất cả mọi vật “xoay như một cơn lốc mừng vui trong điệu múa tưng bừng của những người yêu nhau say đắm, những người yêu cuộc sống này – cuộc sống mở đầu cho một cuộc sống khác tươi đẹp, phấn khởi và ngay thật”… Nhưng trong giai đoạn này, hiểu biết của Alyosha còn hạn chế, cậu chưa trả lời được câu hỏi: Cụ thể phải làm gì để giúp mọi người, phải thực hiện lí tưởng xây dựng một thế giới hợp lí và công bằng như thế nào? Tác phẩm Kiếm sống kết thúc bằng những suy nghĩ già dặn của cậu thiếu niên Alyosha mười sáu tuổi, sau những năm lăn lộn với sóng gió của cuộc đời để kiếm sống. “Tôi nghĩ bụng: ‘Ta phải làm được một việc gì chứ, nếu không thì ta sẽ sống vô ích…’ Vào những ngày thu ảm đạm, khi không những không nhìn thấy, không cảm thấy, mà còn quên mất cả mặt trời, tôi thường bị lạc trong rừng. Tôi đi chệch đường, chẳng tìm được lối hẻm nào; cuối cùng, sau khi sục sạo đến mệt bã người, tôi cắn răng đi xuyên qua rừng rậm, giẫm trên những cành cây mục nát, những mô đất tròng trành của vũng lầy. Cuối cùng, tôi luôn tìm được đường đi. Tôi quyết định cũng sẽ sống một cuộc đời như vậy.” Nhưng mãi đến sau này, phải qua nhiều năm được tôi luyện trong “những trường đại học” thực tế của cuộc đời, chàng thanh niên Alyosha Peskov mới tìm được hướng đi cho mình. Truyện tự thuật không phải là một thể loại mới trong văn học. Trước kia ở Nga, Saltykov Shchedrin, Lev Tolstoy, Aksakov… cũng đã từng viết truyện tự thuật. Gorky phát triển một cách sáng tạo truyền thống ưu tú của quá khứ và nâng cao tính tư tưởng của thể truyện này. Tác phẩm tự thuật của Gorky đóng một vai trò quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn. Nó là chiếc chìa khóa giúp ta hiểu thấu nguồn gốc thiên tài của Gorky, nắm chắc mối quan hệ vô cùng sâu sắc giữa Gorky với nhân dân, đất nước và cuộc sống. Con đường Gorky đã trải qua là con đường tiêu biểu của nhiều người Nga mòn mỏi trong cảnh bần cùng hóa bi thảm, trong lao động cực nhọc, sự vươn lên của tuổi trẻ với khát khao sáng tạo thường chịu áp chế, bóp nghẹt, nhưng những người trẻ tuổi vẫn tràn trề lòng tin, vượt mọi trở ngại trên con đường đi tìm lẽ sống. Gorky không coi tiểu sử của Alyosha Peskov là một hiện tượng siêu việt, ông từng tuyên bố: “Lịch sử của Gorky không phải là một trường hợp duy nhất và không phải là một trường hợp ngoại lệ đặc biệt.”[4] Các nét tính cách nổi bật của Alyosha là: Lòng biết ơn nồng nhiệt với những người có lòng tốt với mình; tình cảm thương yêu những bạn cùng trang lứa đau khổ hơn mình; khát vọng chính nghĩa tới mức say sưa; mối căm thù sâu sắc đối với bọn áp bức tàn bạo; tinh thần bất khuất, khắc phục khó khăn; lòng yêu lao động… Nổi bật nhất là tinh thần hiếu học, chí cầu tiến, óc quan sát tinh vi, thói quen nhìn thẳng vào sự việc để phân biệt rõ ràng cái tốt, cái xấu. Alyosha không sống thụ động, tính cách cậu dần được hình thành vững vàng trong cuộc đấu tranh chống lại nguồn gốc của cái xấu xa trong đời sóng, trong khao khát hướng tới những điều tốt đẹp, công bằng và nhân đạo. Gặp Gorky lần đầu tiên năm 1905, Lenin nói: “Phải học ở Gorky cách nhìn và cách nghe.” Tác phẩm tự thuật của Gorky là một kho vốn sống phong phú, miêu tả lại bước đường gian truân đã dẫn dắt Gorky tới tuổi trưởng thành, nêu lên những ấn tượng sâu sắc nhất đã gợi hình, gợi ý, chuẩn bị cho đời sống văn học của Gorky. Tác phẩm không chỉ là tiểu sử riêng của một cá nhân mà còn là bức chân dung của cả một thế hệ, bức họa rộng lớn về phong cảnh, đất nước và xã hội Nga cuối thế kỉ XIX với những nét khắc họa điêu luyện, sâu sắc về cả diện mạo và tâm lí sinh động của con người. Tính điển hình của các hiện tượng được miêu tả trong tác phẩm bộ ba Thời thơ ấu, Kiếm sống, Những trường đại học của tôi khái quát cao độ, làm rung động và chiếm được cảm tình lớn của độc giả. Nhà văn Alexander Shirvanzade[5] đã nói về tác phẩm bộ ba tự thuật của Gorky như sau: ‘Theo quan điểm của tôi, toàn bộ cuốn sách tượng trưng cho cuộc sống của nhân dân Nga; cuốn sách kể về tâm hồn nặng trĩu không chỉ của dân tộc Nga mà của các dân tộc nói chung. Anh xem, tôi có phải là người Nga đâu, tôi là người Armenia, sinh trưởng và sống khác xa cuộc sống Nga, vậy mà những gì anh miêu tả rất giống cuộc sống của dân tộc tôi. Anh hãy tin rằng nhà văn Pháp, nhà văn Anh, hay nhà văn ở bất kì nước nào, xuất thân từ nhân dân hoặc hiểu biết cuộc sống của dân tộc mình, cũng sẽ nói với anh những điều như vậy.”[6] Nhà cách mạng Đức Rosa Luxemburg[7] trong bài luận văn Tinh thần văn học Nga có bàn tới tác phẩm tự thuật của M. Gorky như sau: “Chú bé kêu gào như một con sói con bị truy bức, nhe nanh vuốt sắc nhọn trước số mệnh. Cái tuổi thơ ấu đầy khốn quẫn, đau khổ, nhục nhã, hoài nghi, lưu lạc, gần gũi với những cặn bã của xã hội ấy bao hàm tất cả những đặc trưng có tính chất điển hình trong cuộc sống của giai cấp vô sản nước Nga đương thời. Phải đọc hồi kí của Gorky mới có thể lường được quá trình phát triển kinh khủng của ông – từ dưới đáy của xã hội vươn đến đỉnh cao của thế giới quan khoa học, của nghệ thuật thiên tài và của sự tu dưỡng văn hóa. Vận mệnh cá nhân của Gorky tượng trưng cho giai cấp vô sản Nga – giai cấp nhìn bề ngoài thì thiếu văn hóa, thô bạo, dưới thời Nga hoàng đã trải qua những thử thách của cuộc đấu tranh tàn khốc và trong một thời gian ngắn ngủi đến kinh người, trong vòng hai mươi năm, trở thành lực lượng tích cực của lịch sử.”[8] Đối với Gorky, cuộc sống và số phận ông cũng là cuộc sống và số phận của nhân dân ông; những điều khủng khiếp xảy ra xung quanh ông có ghê gớm đến thế nào đi chăng nữa cũng không thể làm ông mất lòng tin vào cuộc sống. Ông vẫn nhìn thấy trong cuộc sống những mầm non tốt đẹp của tương lai và vạch ra con đường của quá trình phát triển lịch sử sau này. Đó là một trong những điểm khác biệt giữa tác phẩm tự thuật của Gorky và các tác phẩm tự thuật cổ điển khác. Trên cơ sở tài liệu tự thuật, Gorky đề ra một trong những vấn đề quan trọng nhất của hiện thực xã hội chủ nghĩa – vấn đề hình thành tính cách con người tiêu biểu cho những mói quan hệ mới – mà sau này nhiều nhà văn khác kế thừa. Có thể nói tác phẩm tự thuật của Gorky là một tác phẩm hiện thực xã hội chủ nghĩa cổ điển đặc sắc, bởi vì Gorky đã cương quyết vạch trần chủ nghĩa tư bản theo lập trường quan điểm của Đảng, đồng thời cũng khẳng định tương lai vĩ đại của dân tộc Nga. Các nhà nghiên cứu và phê bình văn học nhiều lần nhận định rằng, chỉ xét riêng các chi tiết miêu tả một cách tế nhị, tinh vi tâm hồn, đặc điểm tâm lí, nghệ thuật thể hiện nội tâm, tác phẩm bộ ba tự thuật của Gorky có thể sánh ngang với các tác phẩm ưu tú của nền văn học thế giới. Tuy nhiên, điểm nổi bật trong sáng tác của Gorky là quá trình hình thành tư tưởng cách mạng, quá trình con người nhận thức xã hội. Đó chính là cái sáng tạo mà Gorky đã đóng góp vào truyền thống văn học vẻ vang của quá khứ, và chính điều đó đã xác định giá trị tác phẩm bộ ba tự thuật của Gorky với sự phát triển của nền văn học Xô viết và thế giới. Trần Khuyến Mời các bạn đón đọc Kiếm Sống của tác giả Maxim Gorky.
Chiến Tranh Giữa Các Thế Giới
Được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1898, “Chiến tranh giữa các thế giới” (tên gốc: “War of the Worlds”) là một lời dự báo u buồn cho tương lai của nhân loại. Chiến tranh giữa các thế giới là một trong những cuốn sách thuộc giai đoạn đầu sự nghiệp của H.G.Wells, minh chứng rõ nhất cho những xu hướng sáng tác ấy. Cuốn sách tường thuật lại sự kiện người sao Hoả đổ bộ lên Trái đất và cuộc xâm lăng kéo dài gần một tháng trời sau đó. Làng mạc bị thiêu rụi, con người bị thảm sát bởi Tia Nhiệt bắn ra từ những con tàu và những cuộn khói độc màu đen kịt, Luân Đôn bị xoá sổ, những người sống sót bỏ chạy trong kinh hoàng… Nhân chứng của tất cả chuỗi sự kiện ấy là một người Trái đất nhỏ bé. Anh ta buộc phải lao vào một cuộc đào thoát điên cuồng, để rồi tự hoài nghi “Có lẽ tương lai nằm trong tay họ, chứ không phải chúng ta”. 117 năm là khoảng thời gian đủ dài để chứng minh tính “vượt thời gian” của Chiến tranh giữa các thế giới. Việc cuốn sách được xuất bản từ thế kỉ 19 không hề ngăn cản việc nó đã dự báo trước, không phải thảm hoạ, mà là góc nhìn của những con người ở thế kỉ này – vốn dĩ sống cách xa nó đến hơn 100 năm có lẻ. Loài người càng tiến thêm được những bước sâu hơn, xa hơn vào vũ trụ thì mối nghi ngờ của họ, dự cảm của họ, thậm chí cả sự tự ti của họ đối với một điều bất trắc vô hình cũng vì thế mà không ngừng tăng lên. Trong cuốn sách của mình, ông mô tả cỗ máy của bọn xâm lăng là những khối máy móc khổng lồ với chùm Tia Nhiệt có khả năng thiêu đốt mọi thứ chỉ bằng một tia sáng. Quân đội đã tiêu diệt được một trong số những cỗ máy ấy, nhưng hoàn toàn nhờ vào may mắn. Những cỗ máy giết người ấy vẫn là kẻ chiến thắng sau cùng trong mỗi trận chiến, và loài người trở thành kẻ trốn chạy trên chính đất đai quê hương mình. Một tấm gương vỡ mãi mãi không thể là một tấm gương lành, giống như hoà bình sau chiến tranh không bao giờ là hoà bình trước cuộc chiến ấy. Trong Chiến tranh giữa các thế giới, người ta vẫn tiếp tục sống, và làm những việc người ta vẫn thường làm, nhưng trong thẳm sâu suy nghĩ, mỗi người trong số họ đều biết rằng họ đã cách xa mãi mãi những tháng ngày yên bình trong quá khứ. Thế giới ấy đã mất đi vĩnh viễn, không thể vãn hồi. Cùng với sự mất mát ấy, con người biết rằng giờ đây họ mãi mãi không còn an toàn, nhỏ bé và dễ bị tấn công giữa vũ trụ bao la này. *** Herbert George Wells (21/09/1866 - 13/08/1946), thường được biết đến với cái tên H. G. Wells, là một nhà văn người Anh nổi tiếng với những tiểu thuyết khoa học viễn tưởng như Kẻ Vượt Thời Gian, Người Vô Hình, Đảo Bác Sỹ Moreau, Xứ Sở Của Người Mù, Chiến Tranh Giữa Các Thế Giới, Tiên phong lên mặt trăng.... Ông là một nhà văn của nhiều thể loại truyện, tiểu thuyết, bao gồm cả viễn tưởng, phi viễn tưởng hay các bài bình luận về lịch sử và xã hội. Wells cũng là một người theo chủ nghĩa xã hội, các tác phẩm của ông sau này thường nặng tính chính trị và giáo điều. Chỉ có những tác phẩm tiểu thuyết khoa học viễn tưởng của ông là vẫn còn rất được ưu chuộng hiện nay. Wells và Jules Verne thường được coi "cha đẻ của khoa học viễn tưởng". Công việc: Tiểu thuyết gia, Giáo viên, nhà sử học, nhà báo. Wells có nhiều tác phẩm thuộc các thể loại khác nhau, trong số đó 5 tác phẩm nổi tiếng nhất của ông đều là truyện Sci Fi, mỗi cuốn đều tạo ra một dòng văn riêng biệt cho thể loại độc đáo này Wells sống rất đào hoa. Ông trải qua hai đời vợ (1 trong số đó là chị họ mình) và trong quãng đời kết hôn ông vẫn thường xuyên qua lại với nhiều phụ nữ khác. Một số người còn trở thành cảm hứng cho ông viết sách Wells có bút lực hiếm ai bì kịp, bốn năm liền cho xuất bản bốn cuốn bestsellers, và có thể viết 3 cuốn tiểu thuyết hay mỗi năm. Trong một cuốn sách phi hư cấu của mình H. G. Wells dự đoán rất chính xác sự phát triển của các khu thành thị, kinh tế toàn cầu hoá và các cuộc xung đột vũ trang nổ ra trên toàn cầu. Năm 1938, cuốn Chiến tranh giữa các thế giới của H. G. Wells được phát sóng trên radio, gây nổ ra cả một cuộc hoảng loạn vì mọi người tưởng người Sao Hoả đang xâm lăng thật. Lời cuối cùng Wells nói trước khi mất là: "Đi chỗ khác. Ta có sao đâu." Một số tác phẩm của H. G. Wells được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Kẻ Vượt Thời Gian - Herbert George Wells Người Vô Hình - Herbert George Wells Đảo Bác Sỹ Moreau - Herbert George Wells Xứ Sở của Người Mù - Herbert George Wells Chiến Tranh Giữa Các Thế Giới,  Tiên phong lên mặt trăng .... Mời các bạn đón đọc Chiến Tranh Giữa Các Thế Giới của tác giả H. G. Wells.
Ngôi Nhà Của Người Cá Say Ngủ - Higashino Keigo
Tác phẩm kỉ niệm 30 năm cầm bút của Bậc thầy trinh thám số 1 Nhật Bản. Đồng thời được vinh danh trong top 10 sách văn học bán chạy nhất năm 2015 và 2016 theo thống kê từ NIPPAN. Nhà văn Keigo Higashino trở lại với một tác phẩm về tâm lý xã hội và y học đầy trăn trở và suy tư. Vẫn còn đó sự tò mò và hồi hộp nhưng lại thêm vào  những diễn biến tâm lý xã hội sâu sắc về ranh giới giữa sự sống và cái chết. Xoay quanh câu chuyện về một cặp vợ chồng dự định sẽ ly hôn sau khi cô con gái Mizuko vào cấp một.Nhưng tin dữ ập đến, một tai nạn bất ngờ không may ập đến với cô bé ở bể bơi. Nhưng sự thật còn đau đớn hơn gấp bội khi đứa con gái duy nhất của họ đã chết não nhưng trái tim vẫn còn đập bởi một sức mạnh kì lạ. Chính vào giây phút dấu hiệu của sự sống đang lụi tàn dần, cha mẹ cô bé phải tiếp nhận một sự thật tàn khốc: có nên hiến tạng của cô bé hay không? Trái tim cô bé vẫn còn đang đập và những ràng buộc riêng trên mặt luật pháp đã không cho vị bác sĩ nào dám khẳng định cô bé đã tử vong. Họ buộc lựa chọn tiếp tục chăm sóc đứa con gái đã rơi vào trạng thái thực vật hay buông tay, chấp nhận hiến tạng đứa con gái yêu duy nhất? Tất cả tạo nên một chuỗi những âu lo với bố mẹ cô bé :“Vậy kẻ hại chết con gái tôi sẽ là tôi sao? Không chỉ là những trăn trở về mặt pháp luật mà còn nhen nhóm hi vọng mong manh rằng chỉ cần trái tim còn đập thì một ngày kia cô bé sẽ dần lấy lại ý thức?. “Liệu cố gắng níu giữ sự “sự tồn tại” của một người đã chết có ý nghĩa gì? Hay đây chỉ là sự ích kỷ của bản thân họ khi từ chối hiến tạng con gái mình?. Điều này đã khiến người mẹ đã có những ý nghĩ không thấu đáo nhất thời nhưng cuối cùng... Nhà văn Keigo đã khéo léo gợi nhắc một khía cạnh nhức nhối không chỉ tồn tại trong xã hội Nhật Bản mà còn có giá trị hiện thực ở nhiều nơi trên thế giới về vấn đề hiến tạng. Cuốn sách còn giống như một lời gợi nhắc về tình cảm gia đình, về tấm lòng của những người làm cha làm mẹ dành cho những đứa con của mình. Gia đình là nơi không ngừng yêu thương và không bao giờ nói bỏ cuộc. Rõ ràng chỉ có yêu thương mới khiến người ta trăn trở đến thế, muốn cố gắng hết sức để cứu con gái yêu duy nhất. Giống như người cá vậy, cô bé Mizuko có một trái tim thật đẹp, những nhịp đập yếu ớt vẫn muốn gửi gắm đến cha mẹ tình yêu chưa một lần nói ra. Một lần nữa nhà văn Keigo Higashino lại khiến người đọc trăn trở trong từng câu văn, từng hình ảnh, từng cung bậc cảm xúc và để lại trong lòng độc giả câu hỏi day dứt “Nếu bạn ở trong hoàn cảnh ấy, liệu bạn sẽ lựa chọn ra sao?” và có lẽ đáp án lại tùy thuộc vào cách nghĩ của mỗi người. *** Higashino Keigo, sinh năm 1958 tại Osaka, là nhà văn trinh thám hàng đầu hiện nay tại Nhật Bản. Năm 1985, Higashino Keigo giành được giải Edogawa Rampo lần thứ 31 cho tác phẩm trinh thám hay nhất với tiểu thuyết Giờ tan học. Các năm sau đó, Higashino Keigo liên tục được đề cử vô số giải thưởng văn học lớn. Năm 1999, ông đoạt giải Mystery Writers of Japan Inói chuyện với tiểu thuyết Bí mật của Naoko, và năm 2006, là giải Naoki lần 134 cho Phía sau nghi can X. Năm 2012 tiểu thuyết Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya giành giải thưởng Chuokoron lần thứ 7. Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya đã bán được hơn một triệu bản ở Nhật, hơn một,sáu triệu bản tại Trung Quốc, được dựng thành kịch hai lần vào năm 2013 và 2016. Một số tác phẩm của Higashino Keigo đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam:  Phía Sau Nghi Can X - Higashino Keigo Bạch Dạ Hành - Higashino Keigo Bí mật của Naoko - Higashino Keigo Thánh Giá Rỗng - Higashino Keigo Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya Hoa Mộng Ảo Ngôi Nhà Của Người Cá Say Ngủ ... Mời các bạn đón đọc Ngôi Nhà Của Người Cá Say Ngủ của tác giả Higashino Keigo.