Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sự Lựa Chọn Của Hoàng Tử Alloran

MỘT TỈ DẶM SAI LẦM. Với sáu cặp cánh tôi bay dập dềnh ở trên cao và nhìn bao quát cảnh tượng bên dưới. Than ôi! Lúc này tôi chỉ có một thân một mình ngay giữa một hành tinh xa lạ. Sợ sệt, chua xót, và mất tinh thần. Với sáu cặp cánh tôi bay dập dềnh ở trên cao và nhìn bao quát cảnh tượng bên dưới. Tôi đang trong lốt biến hình. Một người Andalite bốn chân và hai tay đã hóa thành một con chim kafit 12 cánh. Phi cảng bạt ngàn của thế giới Taxxon trải dài dưới chân tôi. Một rừng phi thuyền thấy mà ghê đang náu mình trong những ụ tàu kim loại hình thù dị hợm. Tàu thuyền từ khắp mọi ngả của Đế chế Yeerk tụ về đây: những tàu vận tải thô sơ, các chiến đấu cơ gọn nhẹ, và cả một tàu Lòng Chảo kềnh càng. Dáng đậu chầu hẩu của nó khiến tôi liên tưởng tới một con nhện ba chân lểnh khềnh, đáng ghét. Chếch bên trái của tôi nửa dặm là tàu vận tải của người Skrit Na - con tàu khiến tôi phải lần tới đây. Bên trong nó có chứa một thứ quí giá mà bọn Yeerk chưa hay biết: Vòng Xoáy Thời Gian. Cách nửa dặm bên phải tôi là chiếc tàu hàng chứa hàng ngàn con sên Yeerk kinh tởm đã được tôi cứu thoát khỏi lệnh tiêu hủy của Hoàng tử Alloran. Ngay dưới tôi là con tàu Jahar. Trông nó như một tác phẩm nghệ thuật bị quăng vất vưởng giữa một bãi rác khổng lồ. Vẻ đẹp tuyệt mỹ của nó nổi lên rực rỡ giữa đám tàu Yeerk xộc xệch, thô thiển. Và kia! Hai sinh vật kỳ lạ có tên là Chapman và Loren vừa bước ra khỏi tàu Jahar. Chapman xấn xổ đẩy Loren đang bị trói, ngã vập xuống ngay dưới chân tên Phó-Visser Bảy, tên Yeerk Mượn xác-Hork-Bajir lo chuyện an ninh ở phi cảng… “Đó là thứ tôi muốn trao đổi.” Chapman nói. “Cả một hành tinh đầy ắp những… cái này.” Arbron thằng bạn lính nhỏ của tôi đâu rồi? Hoàng tử-Chinh chiến Alloran đang ở chốn nào? Lần cuối cùng tôi thấy họ là khi họ đang ở trong lốt Taxxon. Giới hạn hai giờ biến hình đã trôi qua. Mong sao họ đã hoàn thành kịp thời… Bọn Yeerk tóm lấy Loren và lôi cô đi sềnh sệch. Chapman thì đang cố gắng giao tiếp với tên Phó-Visser Bảy. Bỗng dưng tôi hoảng hồn: Chapman biết về Vòng Xoáy Thời Gian! Nếu hắn tìm ra cách nói cho bọn Yeerk hiểu thì tất cả chúng tôi sẽ đi đời. Đúng rồi, tôi phải làm một cái gì đó! Nhưng biết làm cái gì bây giờ? Thật điên hết sức! Số phận của toàn thể dân tộc tôi đang phụ thuộc vào tôi. Vào chính tôi! Có lẽ Chapman chưa kịp tiết lộ cho tên Phó-Visser Bảy về điều kinh khủng ấy. Dễ gì mà hắn chịu nhả món hàng mặc cả lớn nhất của mình ra. Hắn cũng giống như tụi Skrit Na - ích kỷ, tham lam và lúc nào cũng chăm chắm nghĩ đến chuyện vơ vét và sở hữu của cải. Chắc chắn hắn quyết không để vuột Vòng Xoáy Thời Gian đâu. Tôi đập mạnh sáu đôi cánh chim kafit, lao về hướng tàu Skrit Na. Phía dưới, bọn Yeerk đang kéo lê Loren. Chúng nhẫn tâm lôi tóc cô - tiếng thét đau đớn của Loren vọng đến tận tai tôi. "Lorent, tôi đây, Elfangor đây!" Tôi gọi xuống. Tôi thấy Loren quay đầu tới lui theo cách con người để nhìn ra đằng sau. "Đừng lo, tôi đang truyền ý nghĩ cho riêng cô thôi, không ai nghe thấy đâu. Bình tĩnh đi nào, chớ làm cho tụi nó điên tiết." Loren ngưng kháng cự và ngoan ngoãn bước đi giữa hai tên Hork-Bajir. "Hãy nhớ một điều: đừng hó hé về Vòng Xoáy Thời Gian. Nếu bọn Yeerk có nó thì tất cả sẽ đi tong. Hãy tin tôi. Tôi sẽ cứu cô." Như hầu hết các loài khác, con người giao tiếp với nhau bằng âm thanh nên dĩ nhiên là Loren chẳng thể đáp lại tôi bằng ý nghĩ được. Tôi chỉ biết hy vọng rằng Loren tin tôi. Đúng. Cô phải tin. Nhưng nếu tôi là cô, liệu tôi có tin một người lạ đã đẩy mình vào tình cảnh trớ trêu không nhỉ? Gạt bỏ mọi thứ vớ vẩn ra khỏi đầu óc, tôi tất tả bay tới chỗ tàu Skrit Na. Có mấy tên Mượn xác-Gedd đang chăm bẵm con tàu. Những người Gedd rất vụng về này là loài đầu tiên bị bọn Yeerk chinh phục và chỉ những tên Yeerk thấp kém mới phải nhận vật chủ Gedd. Hình như bọn Mượn xác-Gedd đang kiểm tra những chỗ bị hư hại trên vỏ tàu Skrit Na. Tôi cần phải lẻn vào con tàu ấy và lái nó ra khỏi hành tinh này. Tôi đáp xuống gầm ụ tàu bẩn thỉu gần nơi tàu Skrit Na đậu. Có cả một đống xà bần lẫn rác rưởi ngập ngụa tích tụ nhiều năm ở đó. Rốt cuộc, đất cảng đã biến thành một nhà máy tái chế chất thải cho tàu thuyền. Mùi hôi thối xông lên thật khủng khiếp. Tôi hoàn hình giữa đống đồ thải nhớp nháp đó. Bốn chân tôi thòi ra từ bốn cánh chim kafit. Hai cánh khác biến thành hai cánh tay tôi. Cái đầu chim óng mượt phình bè ra rồi nhú lên hai cuống mắt, trong khi đôi mắt chim trở thành cặp mắt chính của tôi. Những đôi cánh thừa teo rúm lại và biến mất, trong khi mẩu đuôi chim thon mỏng hóa thành chiếc đuôi Andalite dũng mãnh, lợi hại. Nhưng buồn thay, tôi không thể mang dáng hình Andalite trên xứ Taxxon đầy rẫy bọn Yeerk này được. Chắc chắn một người Andalite sẽ là mục tiêu di động cho bọn Yeerk nếu hiên ngang đi lại giữa phố. Chắc chắn tôi sẽ chết tức khắc, ngay sau khi bước ra khỏi chỗ núp mười giây. Tôi chỉ có một con đường: biến thành người Taxxon. ADN của tên Taxxon bị thu nạp vẫn còn ở lại mãi trong tôi. Tôi ráng nuốt trọn nỗi sợ hãi và ghê tởm để bắt đầu biến hình. Ngay lúc cảm thấy cơ thể sâu bọ ụi mọc ra tôi liền cảm thấy cơn đói cuồng bạo của Taxxon gào thét, trong khi tôi đang cố thực hiện một kế hoạch - hòng cùng lúc cứu quê hương tôi, bạn bè tôi, Loren và tất cả. Vừa biến hình được một nửa thì tôi nghe có tiếng ì oạch, lạch bạch của một tên Taxxon. Đôi mắt cuống của tôi đã mất nhưng vẫn còn đôi mắt chính. Tôi quay qua nhìn. Hắn chỉ còn cách tôi chừng hơn ba mét. Chắc hắn đã mai phục trong bóng tối. Chỉ cần hắn la lên báo hiệu là tôi sẽ biến thành bữa trưa cho tụi Taxxon ngoài kia. "Elfangor! Bồ đó hả?" *** Biên Niên Sử Người Andalite gồm có: Tập 1: Chuyến Du Hành Của Elfangor. Nguyên tác: The Andalite Chronicles #1: Elfangor’s Journey. Ebook mới tương đương tập 1 – Bộ đặc biệt cũ (Thiên hà lâm nguy) Tập 2: Sự Lựa Chọn Của Hoàng Tử Alloran. Nguyên tác: The Andalite Chronicles #2: Alloran’s Choice. Ebook mới tương đương tập 2 – Bộ đặc biệt cũ (Một tỉ dặm sai lầm) Tập 3: Người Ngoài Hành Tinh Qua Đời.Nguyên tác: The Andalite Chronicles #3: An Alien Dies. Ebook mới tương đương tập 3 – Bộ đặc biệt cũ (Người lạ mặt qua đời). *** Katherine Alice Applegate là một nữ tác giả rất được ưa chuộng với: Animorphs, Remnants, Everworld, và hàng loạt cuốn sách khác, mặc dầu nhiều cuốn bị ảnh hưởng bởi phong cách viết của những tác giả khác. Hầu hết những cuốn sách phổ biến nhất của Applegate thuộc về thể loại khoa học viễn tưởng, phiêu lưu mạo hiểm. Bà đã giành được giải thưởng Sách mới hay nhất dành cho trẻ em năm 1997 của Publishers Weekly. Bộ truyện Animorphs của bà, vẫn đang nhận được sự hâm mộ nồng nhiệt của độc giả trẻ trong những năm gần đây. Applegate sinh ra ở Michigan năm 1956. Sau đó bà đã chuyển đến sống ở nhiều nơi như: Texas, Florida, California, Minnesota, Illinois, Bắc Carolina, và sau khi sống ở Pelago, Italy, một năm, bà đã chuyển đến sống ở: Nam California. Kể từ hồi còn thơ ấu, bà đã là một người yêu động vật, điều đó chính là lý do để bà viết bộ Animorphs và viết như thế nào. Như hầu hết mọi người bình thường khác, Applegate cũng có những ước mơ từ thời thơ ấu. Bà đã có mơ ước trở thành một bác sỹ thú y hoặc một nhà văn. Ở trong trường trung học, một phần mơ ước của bà đã trở thành sự thật, khi bà làm những công việc của một bác sỹ thú y. Giờ đây, khi đã trở thành một nhà văn, phần kia của mơ ước cũng đã trở thành sự thật. Một vài công việc mà bà đã làm là: nhân viên đánh máy, phục vụ bàn và trồng trọt. Điều đó cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc viết sách. Bà đã nghiên cứu rất nhiều về động vật để viết những cuốn sách của mình. Ngoài việc viết văn, bà còn là một cây violoncello nghiệp dư. Applegate còn thích làm vườn, du lịch và tất nhiên là… đọc sách. Mời các bạn đón đọc Biên Niên Sử Người Andalite Tập 2: Sự Lựa Chọn Của Hoàng Tử Alloran của tác giả Katherine Alice Applegate.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lời Chẩn Đoán Cuối Cùng - Arthur Hailey
Lời chẩn đoán cuối cùng (The Final Dianosis), Phi Trường (Airport), Khách Sạn (Hotel), là những tác phẩm nổi tiếng của Arthur Hailey bên cạnh nhiều vở kịch nổi tiếng được trình diễn khắp nơi trên thế giới và nhiều kịch bản phim rất thành công.   Lời chẩn đoán cuối cùng là một tiểu thuyết về đề tài Y khoa. Bối cảnh là một bệnh viện lớn – nơi sự sống khởi đầu và kết thúc – trong đó trung tâm điểm là phòng xét nghiệm. Từng ngày các phòng mổ chờ đợi trong khi các bác sĩ bệnh lý học cặm cụi với ống nghiệm, kính hiển vi và những mảnh mô người để đưa ra lời chẩn đoán cuối cùng có tính cách quyết định đối với tính mạng và sức khỏe của bệnh nhân.   Đây là cuốn tiểu thuyết về một con người – bác sĩ Joseph Pearson – già nua, hách dịch và tự mãn với khả năng không thể sai lầm của mình. Thói tự mãn tri thức trong công tác y khoa, thái độ coi thường sự hội ý đa dạng và những phát kiến khoa học mới mẻ...đã gây ra những bi kịch cho con người.   Như tất cả những tác phẩm khác của Arthur Hailey, “Lời chẩn đoán cuối cùng” đề cập đến sự làm việc và thái độ của con người trong việc làm. Bệnh viện Three Counties là một môi trường lao động có sự trì trệ bên cạnh những nỗ lực cải tổ ; có tâm hồn rung cảm trước những đau khổ của con người bên cạnh bộ óc chỉ biết nghĩ đến bệnh nhân như bài toán bí hiểm thách đố sự thỏa mãn tri thức ; có miệng lưỡi phê phán khắt khe bên cạnh lòng thông cảm bao dung.   Bằng tư liệu y học chính xác, các chương sách đưa người đọc vào phòng mổ, vào phòng xét nghiệm với những tim, gan, phổi, thận phơi bày dưới bàn tay của nhà phẫu thuật. Các vấn đề chuyên môn y học - mà phần nhiều là bệnh học ung thư và xét nghiệm - được trình bày một cách dễ hiểu khiến người đọc có cảm tưởng như được sống và làm việc trong một bệnh viện thực sự.   Xin giới thiệu “Lời chẩn đoán cuối cùng” như một tia X quang giúp bạn đọc nhìn rõ hơn thế giới phức tạp và cao quý của những người áo trắng.  *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như Phi trường, Bản tin chiều, Trong khách sạn... *** David Coleman ngủ không yên giấc. Suốt đêm tâm trí anh cứ trở về với bệnh viện Three Counties, khoa Xét nghiệm và bác sĩ Joseph Pearson.   Không một biến cố nào trong những ngày vừa qua làm thay đổi được lầm lỗi của bác sĩ Pearson trước cái chết của em bé Alexander. Tuy ông đã tỏ ra có tinh thần trách nhiệm rất cao vào tuần trước, sai lầm của ông vẫn tồn tại. Coleman cũng không thay đổi suy nghĩ cho rằng khoa Xét nghiệm của bệnh viện Three Countie về mặt quản trị, là một mớ hỗn độn, bị sa lầy vì những quan niệm cổ hủ, bị què quặt vì những phương pháp lỗi thời mà lẽ ra cần phải được vứt bỏ từ lâu rồi.   Thế nhưng, qua bốn ngày đổ mồ hôi sôi nước mắt vừa rồi, David Coleman thấy lòng mình đối với Pearson có thay đổi và hòa dịu. Tại sao nhỉ ? Mới tuần trước đây thôi, anh còn xem Pearson là kẻ bất tài gần đất xa trời mà còn tham quyền cố vị. Từ đó, không có gì cụ thể xảy ra đủ làm thay đổi sự đánh giá chắc nịch của anh. Thế thì lý do nào khiến anh áy náy về điều ấy trong lúc này ?   Đã đành không thể chối cãi được rằng ông cụ đã chỉ đạo chiến dịch thương hàn một cách quyết liệt và tài tình mà Coleman nếu có đứng ra đảm đương chắc cũng thua xa. Nhưng chuyện đó có đáng ngạc nhiên cho lắm hay không ? Xét cho cùng, chẳng qua là nhờ vào kinh nghiệm. Pearson lại đang vướng vào tình cảnh khó khăn nên phải gắng sức đạt thành công, âu đó cũng là điều dễ hiểu.   Lúc này, cái nhìn khái quát của anh về Pearson không còn gay gắt và chắc nịch như trước nữa. Một tuần trước đây anh còn xếp nhà bệnh lý học cao niên này vào hàng trí thức “rỗng tuếch” tuy đã có những thành tích này thành tích nọ trong quá khứ. Nhưng nay anh không dám chắc về điều ấy nữa. Anh ngờ rằng giờ đây mình sẽ không dám chắc về  nhiều điều khác.   Không ngủ được, anh đến bệnh viện rất sớm. Lúc hơn 8 giờ anh bước vào văn phòng xét nghiệm  và thấy bác sĩ tập sự Roger Mc Neil đang ngồi tại bàn làm việc của Pearson.   - Xin chào - Mc Neil nói - ông là người trước tiên đấy. Những người khác có lẽ còn đương ngủ cả.   David Coleman hỏi :   - Công việc còn đọng lại nhiều chứ hả ?   - Không đến nỗi nào - Mc Neil đáp - Những việc quan  trọng tôi đuổi kịp cả rồi. Chỉ còn lại một mớ thuộc loại  không cần gấp. Seddons đã giúp cho rất nhiều. Tôi đã bảo hắn bám theo bệnh lý học luôn thay vì trở về với phẫu thuật.     Một ý nghĩ khác nữa đang làm cho Coleman băn khoăn. Anh hỏi bác sĩ tập sự :   - Còn cô y sinh, cái cô bị cưa chân ấy mà. Cái chân đã được khảo sát lại chưa  - Anh nhớ lai cuộc chẩn đoán mà Pearson và anh đã bất đồng ý kiến.   - Chưa - Mc Neil tìm trong chồng hồ sơ bệnh án nằm trên bàn rồi lớn tiếng đọc : Vivian Loburton, tên cô gái đó ! Việc này chưa cần nên tôi vẫn để dành đó. Cái chân vẫn nằm trong tủ lạnh. Ông muốn tự tay làm việc này chăng ?   - Phải - Coleman đáp. Có lẽ tôi sẽ làm. ... Mời các bạn đón đọc Lời Chẩn Đoán Cuối Cùng của tác giả Arthur Hailey.
Chiếc Lọ Giáng Sinh Diệu Kỳ - Jason F. Wright
Chiếc lọ Giáng sinh diệu kỳ mang dáng dấp của một câu chuyện cổ tích hiện đại. Tác phẩm sẽ đánh thức trong bạn những rung động ngọt ngào về cái đẹp của lòng trắc ẩn và tình yêu thương mà con người vẫn dành cho nhau trong cuộc đời này. Và rồi biết đâu chính bạn sẽ bắt đầu tìm một chiếc lọ thủy tinh cho riêng mình để tích góp những đồng xu lẻ, để truyền thống đẹp đẽ này không ngừng được nhân rộng và để con người không bao giờ mất đi niềm tin vào sự hiện hữu của phép nhiệm mầu trong thế giới thực này. “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng, để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi... để gió cuốn đi....” đây chính là thông điệp sống đầy yêu thương mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã gởi cho chúng ta qua nhạc phẩm Để gió cuốn đi. Và, ở phía bên kia bờ đại dương, cũng với tinh thần nhân văn đó, nhà văn, nhà báo tên tuổi Jason F.Wright đã gửi đến cho mọi đọc giả tác phẩm Chiếc lọ Giáng sinh diệu kỳ.  “Hope Jensen là một nữ nhà báo trẻ tài năng. Năm cô 23 tuổi, mẹ nuôi của cô qua đời. Giáng sinh năm ấy, trong lúc Hope đang vô cùng tuyệt vọng thì có người đã bí mật đặt trước bậc thềm nhà cô một món quà Giáng sinh đặc biệt - một chiếc lọ Giáng sinh chứa đầy tiền. Cô gái trẻ quyết tâm đi tìm nguồn gốc chiếc lọ ấy. Quá trình tìm hiểu đã đưa cô đến với gia đình Maxwell - những người đã khởi nguồn cho truyền thống trao tặng những chiếc lọ của niềm hy vọng. Hope thực lòng muốn đăng bài viết của cô về những con người hào hiệp, nhân ái mà cô rất mực yêu quý trên trang nhất của tờ báo nơi cô làm việc, nhưng làm như vậy cũng có nghĩa là Hope sẽ đánh mất niềm tin gia đình Maxwell đã dành cho cô bấy lâu nay. Quyết định của Hope đã thay đổi cuộc đời cô, và cuộc đời của nhiều người khác”. Ở chiếc lọ Giáng sinh, các bạn biết không, điều kỳ diệu chẳng ở đâu xa mà chính là sự cảm thông, sự quan tâm, chia sẻ. Điều kỳ diệu cũng chẳng phải là to tát mà là những gì gần gũi, bình bị như lọ tiền xu trong lúc túng quẩn cấp bách “một miếng khi đói bằng một gói khi no”, rồi một vòng tay ôm, một bờ vai cũng đủ tiếp thêm nghị lực cho người khó khăn vượt qua gian khó... Cuộc sống hôm nay có quá nhiều điều bất an, thì những thông điệp yêu thương đó thật cần thiết, mang niềm tin, hy vọng đến cho mọi người.  Tôi tin rằng, chiếc lọ Giáng sinh không những đã làm nên điều kỳ diệu, lan tỏa lửa ấm yêu thương trong đêm đông lạnh giá trong tác phẩm mà còn có hiệu ứng tích cực đến cuộc sống thực của chúng ta. Trong lúc tôi viết những dòng này, tôi cũng biết các bạn ở đây, đó, xa, gần đã có những chiếc lọ đựng tiền xu của mình trên nóc tủ lạnh. Riêng tôi, cũng đã bắt đầu một lọ từ hôm qua, sau khi đọc xong tác phẩm này. Tôi xin kể một mẩu chuyện nhỏ liên quan đến lọ tiền xu: cách nay vài hôm, có hai em học sinh đến nhà sách chúng tôi mua sách, khi tôi thối lại tiền thừa bằng tiền giấy thì cả hai em đồng thanh đề nghị: “Chị có tiền xu không, thối cho em tiền xu đi!”, thấy tôi ngạc nhiên, một em cười, rằng: “Để em bỏ vào lọ thủy tinh!” - thường thì 90% khách hàng không chịu nhận tiền xu thối lại, vì họ sợ rớt mất, 10% còn lại thì nhận nhưng không hài lòng lắm. Rồi thì chuyện thối tiền xu tôi cũng quên ngay cho đến hôm qua, khi đọc xong Chiếc lọ Giáng sinh diệu kỳ thì mọi sự vỡ òa! Thật là vui quá vì chúng ta đã và đang có những tấm lòng, những chiếc lọ Giáng sinh đang được gieo rắc và nhân rộng. Giáng sinh đã về đến trước hiên nhà, tôi xin trân trọng giới thiệu đến quý bạn đọc gần xa một cuốn sách hay nên đọc và làm quà tặng cho người thân, bạn bè. *** Bạn có tin vào điều kỳ diệu đêm Giáng Sinh? Bạn có tin những điều ước, những món quà mà bạn hằng mong mỏi sẽ được gửi tới bạn theo một cách bí mật nào đó? Câu chuyện thật dễ thương và xúc động của Jason F. Wright cho chúng ta thấy tình yêu và sự diệu kỳ vẫn lan tỏa trong những đêm đông lạnh giá. Sự kỳ diệu không ở đâu xa xôi mà sự kỳ diệu chính ở sự quan tâm chân thành, lòng tốt của con người dành cho nhau trong cuộc đời này. Chiếc lọ Giáng Sinh diệu kỳ gửi đến người đọc một thông điệp giản dị: Sự cảm thông, chia sẻ của mỗi người có thể mang lại phúc lành, niềm tin, hy vọng cho biết bao người xung quanh. Qua câu chuyện của Jason F. Wright, bạn sẽ biết thêm rằng Giáng Sinh không chỉ gắn liền với ông già Noel, những cây thông được trang hoàng lộng lẫy, những bản thánh ca, những điều nguyện ước, tâm trạng háo hức mong chờ được nhận quà của bầy trẻ nhỏ..., mà còn có một truyền thống rất ý nghĩa gắn liền với những chiếc lọ chứa đầy những đồng xu lẻ. Mỗi chiếc lọ như một lời chúc phúc cho người đón nhận nó. Để rồi chúng ta thêm hiểu ý nghĩa sâu sắc, cao đẹp của bài học Cho - Nhận. Để chúng ta thêm vững tin rằng dẫu có chia ly, nước mắt, cuộc sống này vẫn đẹp. Mời các bạn đón đọc Chiếc Lọ Giáng Sinh Diệu Kỳ của tác giả Jason F. Wright.
Chàng Hải Âu Kỳ Diệu - Richard Bach
Richard Bach là nhà văn nổi tiếng người Mỹ, xuất bản năm 1970, kể cho chúng ta về cuộc đời của Jonathan, một chàng hải âu: “Đối với hầu hết hải âu, ăn quan trọng hơn là bay. Nhưng riêng với Jonathan Livingston, niềm say mê bay lại lớn hơn tất cả mọi thứ khác trên đời”. Vì thế chàng bắt đầu tập bay; bay với tốc độ cao, bay ở thế nhào lộn,... Nhưng Đàn Hải âu lại không thích chàng làm như thế, do đó chàng bị coi là nỗi nhục nhã, chàng trở thành kẻ bị Lưu Đày, bị bỏ mặc trong sự cô đơn, nhưng điều đó không làm chàng nản chí, vì sự thật là những con hải âu khác sẽ không bao giờ biết được vẻ đẹp và cảm giác vĩ đại khi bay.   Ở đây chàng Hải âu học được một điều: “Thiên Đường không phải là nơi chốn, mà cũng không phải thời gian. Thiên Đường là trạng thái khi ta đạt được toàn thiện”... Những hải âu luyện tập qua nhiều đời để đạt được sự toàn thiện. Nếu ở kiếp sống này ta không học thêm được cái gì cả, thì thế giới của kiếp sống sau sẽ giống hệt như thế giới này... Nhưng nếu ta học cách bay và ta luyện tập đủ tốt, thì ta sẽ ở trên cao hơn những bậc thang không có kết thúc để lên đến Thiên Đường, vì vậy đó chỉ là một bước tiến xa hơn. Bay ở đây được hiểu như là một cách nghĩ vậy... Ta phải nghĩ bản thân ta là một thực thể tự do vô hạn, ta tự do khỏi tất cả những Luật Lệ vốn chỉ trực ngăn cản ước vọng của bản thân ta.  *** Richard Bach sinh năm 1936, vốn là phi công chiến đấu và thợ cơ khí máy bay. Ông là tác giả của mười một đầu sách, trong đó nổi tiếng nhất là Hải âu Jonathan Livingston (Jonathan Livingston Seagull) và Ảo ảnh: Những cuộc phiêu lưu của một nhà tiên tri bất đắc dĩ (Illusions: The Adventures of a Reluctant Messiah, 1977). Richard Bach sinh tại Oak Park, Mỹ –  con trai của Roland Robert và Ruth Helen (Shaw) Bach, cháu trai của nhà soạn nhạc thiên tài Johann Sebastian Bach. Ông từng học tại trường Long Beach State College (nay là đại học California, Long Beach). Không chỉ là một phi công máy bay, Richard Bach còn là một nhà văn. Niềm yêu thích viết lách đến từ khi ông còn học trung học. Cùng với niềm đam mê về hàng không, hình ảnh máy bay và bầu trời xuất hiện trong hầu hết các cuốn sách của Richard. Điển hình là hình ảnh chú chim hải âu say mê bay trong Jonathan Livingston Seagull, được lấy cảm hứng từ chính những chuyến bay của ông. Với hơn 60 triệu bản sách được bán, Richard Bach là một trong những tác giả được yêu thích nhất thế giới. Các tác phẩm gần đây nhất của ông bao gồm: Travels With Puff, Puff And Illusions II: The Adventures Of A Reluctant Student. ***  Chàng Hải Âu Kỳ Diệu là một câu chuyện nhỏ nhưng những bài học mà nó đem lại chứa đựng rất nhiều triết lý sống. Khi chúng ta cố gắng tìm xem những gì có thể làm được, chúng ta đã tự tạo ra giới hạn cho chính bản thân mình. Việc trói buộc bởi những suy nghĩ của người khác cũng là một loại giới hạn. Jonathan sẵn sàng từ bỏ mọi thứ, vượt qua định kiến xã hội và niềm tin về những điều không thể. Nhờ đó, cậu hiểu được một chân lý: không bao giờ tồn tại giới hạn. Đây cũng là tư duy mà chúng ta cần phải học. “Không giới hạn ư, Jonathan?. Cậu nghĩ, và cậu mỉm cười. Hành trình học tập của cậu đã bắt đầu”. Chàng Hải Âu Kỳ Diệu là một cuốn sách tuyệt vời tiết lộ cho chúng ta biết tự do thật sự là như thế nào. Khi chúng ta học với sự thực hành đủ, chúng ta sẽ biết rằng khả năng của mình là vô hạn. Tự do sống theo cách bạn muốn và không để lạc lối bởi quan điểm của người khác, đó là bài học thứ nhất. Lựa chọn cách sống và con đường mà bạn sẽ đi, dù không dễ dàng, đó là bài học thứ hai. Không ngừng nhận thức về bản thân, bạn sẽ khám phá bản ngã thật sự của chính mình, đó là bài học thứ ba. Và cuối cùng, đừng bao giờ nghĩ rằng đây chỉ là câu chuyện của một con chim – “Tặng chàng hải âu đích thực đang sống trong mỗi một chúng ta” – Richard Bach. Trong phần cuối của quyển sách là lời cuối của sư phụ của chàng. Đó là: “Tiếp tục hành động cho Tình Yêu Thương”. Trong phần này chàng hiểu là tinh thần không thể nào được thực sự giải thoát mà không có lòng thứ tha và đối với chàng đó là cách để tiến bộ tâm linh, dẫn đến con đường giác ngộ chứ không phải con đường khổ luyện của một đệ tử. Chàng quay trở về vớí nhóm hải âu để chia sẻ những lý tưởng mình vừa khám phá và kinh nghiệm to lớn mình vừa trải qua và sẵn sàng cho cuộc chiến đấu gay go với những qui điều cứng nhắc của nhóm hải âu đó. Khả năng tha thứ được xem là “điều kiện bắt buộc có để vượt lên cao”. “Con có hết sức muốn bay bổng để có thể tha thứ cho các huynh đệ của mình và học hỏi và trở về với họ một ngày nào đó và giúp họ không?” Đó là lời chàng hỏi những đệ tử của mình trưóc khi giảng thuyết tiếp cho họ. Cốt lỏi trong ý tưởng này là tư tưởng: kẻ giỏi hơn có thể thăng tiến bằng cách rời bỏ những kẻ yếu kém hơn mình là hoàn toàn không thể chấp nhận được. Do vậy mà tình yêu đáng phải được kính trọng và sự tha thứ cũng có cùng tầm mức quan trọng như sự tự do khỏi áp lực bị buộc phải tuân theo những khuôn thước do mọi người đề ra. Bây giờ xin được nói qua về tác giả Richard Bach. Richard David Bach sinh năm 1936 là một nhà văn ngươì Mỹ. Ông được nổi tiếng qua hai cuốn truyện có thật nhiều người đọc là Jonathan Livingston Seagull và The Adventures of a Reluctant Messiah. Sách của ông mang trong đó triết lý rằng những giới hạn thể chất của mình và sư tạm bợ của nó chỉ có tính cách của mặt mỏng bề ngoài mà ta có thể vượt qua được. Ông rất đam mê bay bổng và với những quyển sách viết về lướt cánh, tung mây và về “bay”, theo nghĩa ẩn dụ của chiều hướng tâm linh. Ông đã theo nghiệp bay từ hồi 17 tuổi. Sinh ra ở Illinois, theo học ĐH Long Beach State College năm 1955 là tác giả của một số truyện có thực và giả tưởng. Đa số là loại bán-tự -truyện, dùng những dữ kiện thật hay hư tạo từ cuộc đời của chính mình để phô diễn triết lý của ông. Ông phục vụ với tính cách trừ bị trong Hải quân và sau đó là trong Phi đội chiến đấu 108 trong Không quân Phòng không New Jersey, và là phi công F-84F trong Phi đoàn 141, Không quân Hoa kỳ. Sau đó ông là cây viết về kỷ thuật cho Douglas Aircraft và đóng góp bài cho tạp chí Flying. Năm 1960, ông được điều qua phục vụ ở Pháp. Muà hè năm 1970, ông và người bạn phi hành du lịch sang Aí nhỉ Lan để bay trong một cuốn phim. Năm 1973, cuốn Chàng Hải Âu Kỳ Diệu được quay thành phim với phần diển tả do danh ca Neil Diamond phụ trách. Cuốn sách thứ nhì của ông ra đời năm 1977 là câu chuyện về một nhà tiên tri của thời hiện tại quyết định từ bỏ lý tuởng của mình. Trong những năm của 1990, ông xuất hiện trên online trong website của “Compuserve” và đích thân trả lời emails cho từng ngươì gỡi. Tháng Tư năm 2005, ông được phỏng vấn trên đài truyền thanh Conscious Talk Radio và đã được truyền lại vài lần vào năm 2006. Ông có sáu con với người vợ đầu tiên. Bà này đã đánh máy và duyệt bản thảo cho hầu hết bài viết của ông. Bà này cũng là một phi công và viết một quyển sách về đời bay của mình. Con trai của ông là một nhà báo và kỷ sư về nhu liệu có viết sách nói về cha mình. Năm 1977 ông lập gia đình lại với một phụ nữ ông gặp trong thời gian quay cuốn phim về chàng hải âu Jonathan. Họ chia tay năm 1999 và ông cưới ngươì thứ ba vào tháng Tư 1999. Bach là một trong số tác giả Mỹ chịu ảnh hưởng triết lý của Đông phương và đã tìm về Chân Ngã để vượt qua những giới hạn của thân xác rồi đưa tâm linh về với Vô Ngã. Bach đã không cho phép mình mãn nguyện khi đã giác ngộ mà cho rằng mình phải tìm về để giúp đở cho đồng loại đang chìm trong bể mê. Có lẽ đây là điểm son chói lọi của “Chàng Hải Âu Kỳ Diệu” này vậy./. Mời các bạn đón đọc Chàng Hải Âu Kỳ Diệu của tác giả Richard Bach.
Viên Tướng Của Đạo Quân Chết - Ismail Kadare
Viên Tướng Của Đạo Quân Chết là câu chuyện về cuộc tìm kiếm hài cốt binh sĩ ở Anbani của một viên tướng sau 20 năm chiến tranh kết thúc - một cuộc hành trình của tâm trạng và nhận thức của một kẻ mang niềm kiêu hãnh, một nước lớn đi khai hóa văn minh cho một nước bé. Nhưng vượt lên tất cả những điều ấy là hình ảnh một đất nước Anbani hiểm trở, hùng vĩ với những truyền thống đẹp đẽ, lâu đời , với những con người ngoan cường dũng cảm, biết vượt qua những đau thương của chiến tranh để tự khẳng định mình...." Mê và cay đắng, viên tướng của đạo quân chết là khúc bi thương cho những người trẻ tuổi của tất cả những quốc gia đã bị đưa ra nước ngoài để chết cho cuộc chiến". *** Ismail Kadare là một nhà văn còn trẻ (ông sinh năm 1936) nhưng đã có một vị trí hàng đầu trong văn học Albania hiện đại. Ông nổi tiếng ngay từ tập thơ đầu tay «Mùa xuân tương lai» sáng tác năm ông mới mười tám tuổi rồi năm 1957, ông đoạt giải thưởng văn học quốc gia với trường ca «Những niềm mơ ước». Một trường ca khác của ông - «Công chúa Argjiro» - được độc giả Albania rất ưa thích. Ông còn có một tập truyện ngắn «Đám cưới». Tuy nhiên tên tuổi ông chỉ thực sự được biết đến ở nước ngoài với cuốn tiểu thuyết «Viên tướng của đạo quân chết». Nội dung cuốn sách này thật ra rất đơn giản. Hai mươi năm sau khi chiến tranh kết thúc, một viên tướng (tác giả cố ý không nói rõ họ tên, tuổi tác, quốc tịch của hắn; người đọc chỉ «ngẫu nhiên» biết hắn cao một thước tám mươi hai và đoán chừng hắn là người Ý) cùng với một linh mục, hàm đại tá, làm thông ngôn, sang Albania để tìm kiếm thi hài các binh sĩ của đạo quân phát xít nước hắn đã tử trận ở Albania. Theo những bản danh sách và bản đồ được lập sẵn một cách công phu, tỉ mỉ, hắn và ông linh mục, có một cán bộ chuyên môn Albania và một kíp công nhân đi cùng, đã lặn lội khắp đất nước Albania, đào bới, thu nhặt những nắm xương tàn của đạo quân phát xít hai mươi năm trước đây đã bại trận. Cuộc tìm kiếm kéo dài hai năm ròng rã; các bộ hài cốt tìm thấy được bỏ vào các túi nylon đặc biệt màu xanh, sọc trắng, viền đen và gửi về cho các gia đình đã bao năm nay chờ đợi chồng con họ. Cuối cùng, viên tướng hoàn thành công việc, tổ chức lễ cầu hồn, mở một tiệc chiêu đãi nhỏ rồi lên đường về nước. Câu chuyện chỉ có vậy, bình thường và có thể nói là khô khan nữa, đến cái mức tưởng đâu như không có gì để viết được thành một cuốn tiểu thuyết. Nhưng Ismail Kadare đã biết chọn một góc nhìn độc đáo. Ông không kể lại câu chuyện theo chủ quan của ông, một người Albania, mà là thông qua con mắt của viên tướng, quân nhân một nước trước đây đã tiến hành một cuộc xâm lăng tàn bạo và đẫm máu trên đất nước Albania và giờ đây nhận nhiệm vụ đi sang Albania với rất nhiều định kiến. Ismail Kadare chỉ để cho nhân vật chính của ông nhìn thấy và kể lại những gì phù hợp với tính cách của hắn. Có thể nói đất nước Albania được miêu tả ở đây không phải là đất nước Albania của bản thân tác giả mà là một đất nước xa lạ nhìn qua con mắt của viên tướng: toàn núi non ghê rợn, với bùn lầy, mưa tuyết, gió lạnh… Ngay câu mở đầu cuốn sách đã xác định rõ cách nhìn ấy: «Mưa pha tuyết rơi trên đất khách…»; đó cũng là câu bắt đầu chương chót và cuốn sách chấm dứt với câu: «gió vẫn thổi không ngừng». Trong hai năm trời lang thang đây đó để khai quật mồ mả, viên tướng chỉ nhìn thấy có bùn lầy mùa thu và mưa tuyết mùa đông. Qua câu chuyện kể lại theo một trình tự thời gian chặt chẽ, Ismail Kadare đã không để cho viên tướng được thấy cảnh mùa xuân, cũng như không để cho ông ta có được một nụ cười. Câu chuyện bắt đầu với mưa, tuyết và kết thúc với gió thổi. Như vậy, câu chuyện không phải đơn thuần chỉ kể lại sự việc mà thực ra chính là quá trình diễn biến trong tâm tư viên tướng từ khi đặt chân lên Albania cho đến lúc ra sân bay trở về nước. Chính vì thế mà, nếu như độc giả không biết gì về tên tuổi, dung mạo, bề ngoài của viên tướng - trừ chiều cao một thước tám mươi hai, - thì trái lại, qua đoạn này, đoạn khác, đây một nét, kia một chi tiết, người ta biết rất rõ tâm trạng của hắn từng lúc một. Hắn lên đường sang Albania với quan niệm đây là một sứ mệnh cao cả, thiêng liêng; hắn rất thích thú câu nói của một mụ quý tộc nước hắn ca tụng hắn trước ngày khởi hành: «Như một con chim oai hùng và đơn độc, ngài sẽ bay lượn trên những ngọn núi lặng lẽ và bi thảm ấy để lôi kéo con em khốn khổ của chúng ta ra khỏi nanh vuốt chúng». Hắn luôn luôn muốn người Albania hiểu là hắn cầm đầu cái phái đoàn hai người, hắn là nhân vật quan trọng nhất. Hắn ngầm chê bọn tướng lĩnh ngu dốt xưa kia đã đưa quân đội nước hắn «những con em của chúng ta, oai hùng và dũng cảm», đến chỗ thất bại và bị tiêu diệt, còn hắn, hắn đến Albania để đưa các tử sĩ đó ra khỏi quên lãng. Hắn tự cho mình là đại diện của một cường quốc văn minh đi đến một nước dã man, lạc hậu, nhỏ xíu chỉ bằng một cái chấm trên bản đồ. Hắn đặc biệt chú ý tìm kiếm di hài viên đại tá Z, con trai độc nhất của mụ quý tộc giàu có, quyền thế nọ, «con cưng» của Bộ Chiến tranh, «có bản lĩnh của một thiên tài quân sự» đã «mất tích» ở Albania. Gia đình viên đại tá đã xây sẵn một ngôi mộ nguy nga bằng cẩm thạch, có dựng tượng, trồng hoa hồng để chờ đón hài cốt của «người anh hùng» đó và đặt hết hy vọng vào viên tướng… Trong một lúc rượu say chuếnh choáng, tâm sự với người bạn đồng hành, viên tướng đã thổ lộ ý muốn của hắn là «sẽ hiên ngang đi giữa những người Albania, nhìn họ một cách căm hờn và khinh bỉ»; hắn đã «hình dung trước buổi lễ bàn giao hài cốt, long trọng và nghiêm trang,» và sẽ «cho diễu các quan tài binh sĩ nước hắn giữa đám dân chúng Albania để cho họ thấy là cái chết của chúng ta còn đẹp hơn cả cuộc sống của họ»… Nhưng rồi sự việc đã diễn ra khác hẳn, như hắn về sau đã đau khổ thú nhận: «Thái độ kiêu hãnh của chúng ta biến mất trước tiên, rồi tất cả những công việc này chẳng còn gì là long trọng nữa và cuối cùng những ảo tưởng của tôi cũng tan biến và bây giờ chúng ta đi dạo trong sự hờ hững chung của mọi người, dưới những con mắt bí hiểm và giễu cợt, như những thằng hề thảm hại của chiến tranh, còn đáng thương hơn cả những kẻ đã chiến đấu và chiến bại trên đất nước này». Thật vậy, hai năm trời trèo đèo, lội suối, xuôi ngược trên khắp các nẻo đường đất nước Albania, viên tướng đã đi từ phát hiện này đến phát hiện khác, từ thất vọng này đến thất vọng khác, những định kiến của hắn sụp đổ dần. Cái bi kịch của hắn là ở chỗ chính hắn đã từng sống những ngày đầu của chiến tranh vào mùa xuân 1939, khi quân phát xít đổ bộ lên Albania: đài phát thanh nước hắn báo tin «chiến thắng» dồn dập, dân chúng Albania đem hoa ra đón tiếp những đạo quân «sẽ dẫn văn minh và hạnh phúc đến cho họ». Rồi báo chí đăng bài, tranh ảnh, ca ngợi mùa xuân rực rỡ, bầu trời, mặt biển Albania chan hòa ánh nắng, các cô gái Albania duyên dáng, những y phục và những điệu múa đầy màu sắc. Binh lính nước hắn và cả bản thân hắn nữa - lúc đó hắn đang ở châu Phi - đều náo nức mơ ước được điều sang cái nơi thanh bình, tươi đẹp ấy, dưới bóng những cây ô liu cổ thụ… Và giờ đây, chính hắn lại tới đó để thu nhặt tàn tích của chính những đạo quân ấy và đồng thời cũng là thu nhặt những bằng chứng tuyệt đối về sự thất bại thảm hại của chúng. Có những đơn vị đã bị tiêu diệt hoàn toàn, xương người lẫn lộn với xương lừa ngựa, có những tên, kể cả sĩ quan, đã đào ngũ, đi ở cho nông dân Albania để mưu cầu cái sống thừa trong ô nhục, rồi cuối cùng chết vì tay những đơn vị trừng phạt của chính quân đội phát xít. Viên đại tá Z, «người anh hùng» của hắn, thực ra chỉ là một tên sát nhân hung ác, chỉ huy «Tiểu đoàn xanh» khét tiếng tàn bạo, đã cưỡng dâm một cô bé Albania 14 tuổi khiến cô bé tủi nhục nhảy xuống giếng tự tử; y đã bị giết chết không biết chôn ở đâu. Cho đến một tối nọ, công việc sắp hoàn thành, viên tướng cao hứng tự động đến dự một bữa tiệc cưới của một gia đình nông dân Albania, một bà cụ đã ném cái túi đựng hài cốt tên đại tá Z xuống trước mặt hắn, «như nhổ vào mặt hắn», với những lời nguyền rủa thậm tệ vì bà cụ chính là mẹ cô bé Albania nọ, chồng bà cụ đã bị «Tiểu đoàn xanh» treo cổ, chính bà cụ đã giết tên đại tá Z khi tên này - không biết cô gái đã tự tử - hôm sau lại mò đến nhà cô ta. «Và trong sự im lặng chung, viên tướng từ từ cúi xuống, run rẩy nắm lấy cái túi bê bết bùn,… hất lên vai, khom khom đi ra, như mang trên vai tất cả nỗi sỉ nhục và sức nặng của trái đất.» Bên cạnh những mẩu chuyện biết được về từng trường hợp binh sĩ nước hắn, viên tướng cũng được biết nhiều chuyện về người Albania, về truyền thống và phong tục tập quán Albania, về cuộc chiến đấu của nhân dân Albania… Sự hy sinh của Nik Martini, một người dân miền núi, đã để lại trong lòng hắn một ấn tượng sâu sắc: Nik Martini đã một mình vác súng đi xuống bờ biển, một mình đương đầu với cả đạo quân đổ bộ, đông như kiến cỏ. Tất nhiên, như viên tướng xác nhận, anh đã chiếm được một vị trí chiến đấu lợi hại, chỉ có trọng pháo mới đánh bật được anh ra khỏi đó, nhưng dù sao thì Nik Martini, cũng như biết bao người Albania khác, từng nhóm năm ba người một, hoặc đơn độc một mình, từ khắp nơi đổ đến bờ biển để cản đường quân xâm lược rồi hy sinh, không để lại dấu vết, trừ những bài hát của nhân dân sáng tác để ca ngợi và tưởng nhớ họ, - dù sao đi nữa, viên tướng cũng cảm thấy kinh ngạc, xấu hổ: Ních Martini, cũng như các chiến sĩ Albania khác, là những hình ảnh hoàn toàn khác hẳn binh sĩ nước hắn, khác hẳn tên đại tá Z. Một bên là những con người chân chính, biết mình chiến đấu cho cái gì và bất chấp những cuộc giao phong chênh lệch, đã dũng cảm lao vào quân thù, làm trọn nhiệm vụ con người của họ; một bên là sức mạnh mù quáng, ngu ngốc, hung ác và xét cho cùng, hèn nhát. Rút cuộc, chuyến đi hai năm trời của viên tướng là một nỗi ê chề, nhục nhã kéo dài, một cơn ác mộng, lắm lúc khiến hắn gần như sa vào tình trạng thác loạn tinh thần. Cuối cùng, đêm hôm trước ngày hắn lên đường trở về hước, hắn đã nghĩ đến cách đánh tráo hài cốt, lấy một bộ xương cũng cao một thước tám mươi hai để thế vào di hài viên đại tá Z mà, trong một lúc hoang mang thảng thốt, hắn đã hất xuống suối. Đang lúc say rượu, hắn loạng choạng đến cửa buồng ông linh mục đã khóa chặt, lom khom nói qua lỗ khóa để bày tỏ ý đồ gian lận của hắn. Bất đồ, hắn nhầm buồng, cửa buồng sịch mở, một bà to béo hiện ra, sỉ vả hắn tàn tệ đã nhòm vào buồng bà ta giữa lúc đêm hôm khuya khoắt. Cái cảnh vừa kệch cỡm, vừa thảm hại ấy, đánh dấu sự rã rời, suy sụp hoàn toàn trong con người hắn: còn đâu «con chim oai hùng, đơn độc bay lượn…», còn đâu sứ mệnh thiêng liêng, cao cả? Rõ ràng qua diễn biến tâm tư của viên tướng, có tính chất một biểu tượng, Ismail Kadare đã giễu cợt và lên án quân đội phát xít và nói chung, tất cả các đạo quân xâm lược. Nhưng vượt lên trên cả nhân vật trung tâm ấy, choán hết cả cuốn sách chính là hình ảnh đất nước và nhân dân Albania. Mặc dù câu chuyện được kể lại qua con mắt viên tướng nước ngoài, người ta vẫn thấy Ismail Kadare yêu tha thiết đất nước ông với những núi non hiểm trở, hùng vĩ, với những truyền thống đẹp đẽ, lâu đời, với những con người ngoan cường dũng cảm, từ bao đời nay vẫn trọng danh dự và nhân phẩm và hiện đang xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội. Ông ca ngợi cuộc chiến đấu anh hùng của nhân dân nước ông và nói chung, của tất cả các dân tộc đứng lên chống ngoại xâm để bảo vệ độc lập, tự do của mình. Qua cái chết của bác thợ đấu già Gjoleka - bị nhiễm trùng vì chiếc khuy gỉ trên quân phục một tên lính phát xít chết đã 20 năm nay - ông còn ngụ ý rằng chiến tranh chưa thật sự kết thúc hay nói cho đúng hơn, hòa bình chưa phải đã vững chắc: như những con vi trùng, tuy bị vùi sâu dưới đất cùng với xác tên lính hàng mấy chục năm trời, khi gặp khí trời, ánh sáng, lại phục hồi tất cả cái tính độc hại ác liệt của nó, chiến tranh vẫn còn ngấm ngầm âm ỉ, chờ lúc chúng ta lơ là để nổ ra, tàn phá. Tất cả những ý đó, Ismail Kadare đã thể hiện với một nghệ thuật già dặn, vững vàng. Những hình ảnh tương phản, những so sánh về hai mẫu người, hai hệ tư tưởng, hai thế giới khác nhau, ông để người đọc tự rút ra, tự suy nghĩ lấy. Ông chỉ trình bày những sự việc rất thực và chọn lọc, theo lối nhìn và cảm nghĩ của viên tướng nước ngoài, và kể lại câu chuyện một cách rất tự nhiên, thoải mái, gọn gàng, giản dị, khiến người đọc có cảm giác như ông rất «khách quan», hầu như thản nhiên với nhân vật của ông, với những sự việc ông kể, và do đó, từ một đề tài rất bình thường, đơn giản, nếu không phải khô khan, ông đã viết nên một cuốn sách thật hấp dẫn, có sức mạnh thuyết phục và tác động sâu sắc, xứng đáng là một tác phẩm ưu tú của Albania, một tác phẩm chúng ta có thể học tập được nhiều chẳng những về nội dung mà cả về nghệ thuật thể hiện. NGUYỄN VĨNH Mời các bạn đón đọc Viên Tướng Của Đạo Quân Chết của tác giả Ismail Kadare.