Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trà Hoa Nữ - Alexandre Dumas

Trà hoa nữ (tiếng Pháp: La Dame aux camélias) là một tiểu thuyết của Alexandre Dumas con (1824 – 1895) viết năm ông 23 tuổi và được xuất bản lần đầu vào năm 1848, là cuốn tiểu thuyết bán tự truyện dựa trên mối tình ngắn ngủi của tác giả và kỹ nữ Marie Duplessis. Trà hoa nữ là một câu chuyện đau thương về cuộc đời nàng kỹ nữ yêu hoa trà có tên là Marguerite Gautier. Nội dung Trà hoa nữ kể về mối tình bất thành của anh nhà giàu Duval với cô kỹ nữ Marguerite, một đề tài tưởng đâu là quen thuộc, nhưng bằng ngòi bút sắc sảo cộng với tình cảm bao dung mà tác giả muốn truyền tải, truyện được độc giả đón nhận không ngần ngại, dù là giới quý tộc, cái giới bị hạ thấp hơn cả cô kỹ nữ trong truyện. Mặc dù Marguerite sống bằng nghề kỹ nữ nhưng trái với nghề của mình, Marguerite là người có tâm hồn và cá tính; nàng có lòng vị tha, biết hi sinh bản thân mình cho người mình yêu. Marguerite Gautier trong chuyện được viết dựa trên hình mẫu của Marie Duplessis, người yêu của chính tác giả. *** Dumas Davy De La Pailleterie (sau này là Alexandre Dumas) sinh năm 1802 tại Villers Cotterêts trong khu Aisne, ở Picardy, Pháp. Ông có hai chị gái là Marie Alexandrine (sinh năm 1794) và Louise Alexandrine (1796 - 1797). Cha mẹ ông là bà Marie Louise Élisabeth Labouret, con gái của một chủ nhà trọ và ông Thomas Alexandre Dumas. Ông Thomas Alexandre được sinh ra tại thuộc địa Saint Domingue của Pháp (nay là Haiti), là con lai ngoài giá thú của Hầu Tước Alexandre Antoine Davy De La Pailleterie, một quý tộc Pháp, Cao Ủy Trưởng về pháo binh trong khu thuộc địa với Marie Cessette Dumas, nữ nô lệ da đen có nguồn gốc từ Afro Caribbean. Không ai biết rõ bà được sinh ra tại Saint Domingue hay ở Châu Phi (dù thực tế bà đã có một tên họ bằng tiếng Pháp nên có lẽ bà là người thiểu số Creole) và cũng không biết rằng cội nguồn của bà là ở đâu. Được cha đem về Pháp và cậu bé Thomas đã sống tự do một cách hợp pháp tại đây, Thomas Alexandre Dumas Davy theo học một trường quân đội và gia nhập quân ngũ khi còn thiếu niên. Khi trưởng thành, Thomas Alexandre lấy tên của mẹ là Dumas làm họ sau khi cắt đứt quan hệ với cha. Dumas được thăng cấp tướng năm 31 tuổi, người lính đầu tiên có gốc gác Afro Antilles đạt được cấp bậc này trong hàng ngũ quân đội Pháp. Ông đã tham gia trong Chiến Tranh Cách Mạng Pháp. Ông trở thành Tổng Chỉ Huy Trưởng trong Quân Đội Pyrenees, người đàn ông da màu đầu tiên đạt được cấp bậc đó. Dù là một vị tướng dưới trướng của Napoléon Bonaparte trong các chiến dịch ở Ý và Ai Cập nhưng Thomas Dumas không còn được tín nhiệm vào năm 1800 nên đã yêu cầu nghỉ phép để quay về Pháp. Trên đường về, tàu của ông phải dừng lại ở Taranto thuộc Vương quốc Napoli, tại đây ông và những người khác bị giữ làm tù binh. Trong hai năm bị giam giữ, sức khỏe ông đã bị yếu đi. Tại thời điểm Alexandre Dumas được sinh ra, cha ông bị suy kiệt nặng nề. Ông Thomas qua đời vì ung thu năm 1806 khi Alexandre lên 4. Người mẹ góa phụ Marie Louise không đủ sức lo cho việc học hành của con trai nhưng Dumas tập đọc mọi thứ trong khả năng và còn tự học tiếng Tây Ban Nha. Những câu truyện kể của mẹ về lòng dũng cảm của người cha trong các trận đánh đã truyền cảm hứng cho trí tưởng tượng sinh động của cậu bé. Mặc dù trở nên nghèo túng, gia đình vẫn có danh tiếng lỗi lạc của người cha để lại và thứ hạng quý tộc để trợ giúp con cái thăng quan tiến chức. Năm 1822, sau khi triều Bourbon phục hưng, Alexandre Dumas 20 tuổi chuyển đến Paris. Ông đã có được một vị trí trong văn phòng thuộc Cung Điện Hoàng Gia của Công Tước Orléans - Louis Philippe. Ông lớn lên với sự chăm sóc và giáo dục của mẹ Dumas học hành chểnh mảng, khi học xong ông làm thư ký cho một phòng công chứng, và bắt đầu viết những vở kịch đầu tiên cùng với một người bạn, Tử Tước Adolphe Ribbing De Leuven. Nhưng những tác phẩm đầu tay đó thất bại. Năm 1823, nhờ viết chữ đẹp, ông được tới làm việc cho Công Tước Orléans với công việc giao gửi hàng ở Paris. Dumas tiếp tục viết kịch và cuối cùng cũng tìm được thành công với vở diễn Henri III và triều đình tại nhà hát Comédie Française, công diễn lần đầu ngày 10 tháng 2 năm 1829. Sự nghiệp văn chương của ông tiếp tục thành công, đặc biệt trong hai thể loại ông ưa thích: Kịch và tiểu thuyết lịch sử. Alexandre Dumas là một nhà văn có sức sáng tác mạnh mẽ. Ông để lại khoảng 250 tác phẩm, gồm 100 là tiểu thuyết, số còn lại là 91 vở kịch, rồi bút ký, phóng sự, hồi ký. Dumas có cả một đội ngũ cộng sự, đặc biệt là Auguste Maquet, người góp phần vào nhiều thành công của Dumas. Trong những tiểu thuyết của ông, nổi tiếng hơn cả là Ba Người Lính Ngự Lâm, còn được dịch Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ (Trois Mousquetaires) và Bá Tước Monte Cristo (Le Comte de Monte Cristo) năm 1844. Đương thời, Dumas bị chê trách là người ham ăn, ham chơi. Ông thường xuyên thết đãi thịnh soạn bạn bè, người thân, công chúng hâm mộ, với những bữa tiệc sang trọng khiến ngay cả Paris cũng loá mắt, trầm trồ. Ông còn để lại một công trình đặc biệt: Cuốn Đại Từ Điển Ăn Uống, mà ông muốn được hậu thế coi là đỉnh cao sự nghiệp văn chương của mình. Trong đời mình Dumas kiếm được 18 triệu franc vàng, song ông luôn luôn nợ nần, nhiều lần trốn nợ, thậm chí ra nước ngoài, những năm cuối đời, phải đến tá túc ở nhà con. Ông mất năm 1870 ở Puys, vùng Dieppe. Thi hài của ông được chuyển về Điện Panthéon năm 2002, bất chấp ý nguyện cuối đời của ông: “Trở về bóng đêm của tương lai cùng nơi tôi ra đời” (rentrer dans la nuit de l'avenir au même endroit que je suis sorti De La vie du passé), “nơi một nghĩa địa đẹp (Villers Cotterêts) trong mùi hoa của rào quanh...” (dans ce charmant cimetière qui a bien plus l'air d'un enclos de fleurs où faire jouer les enfants que d'un champ funèbre à faire coucher les cadavres) • Các Tác Phẩm Những Tội Ác Trứ Danh (1839 -1841); Ba Người Lính Ngự Lâm (1844); Hai Mươi Năm Sau (1845); Những Quận Chúa Nổi Loạn (1845); Bá Tước Monte Cristo (1845 - 1846); Hoàng Hậu Margot (1845); Kỵ Sĩ Nhà Đỏ (1845 - 1846); Tử Tước De Bragelonne (Cái chết Của Ba Người Lính Ngự Lâm, Mười Năm Sau Nữa - 1848); Hoa Tulip Đen (Bông Uất Kim Hương Đen - 1850) *** Người ta chỉ tạo nên nhân vật sau khi đã nghiên cứu kỹ con người. Cũng như, người ta chỉ nói được tiếng nước ngoài sau khi đã học hỏi nghiêm túc tiếng nói đó. Tôi chưa đến tuổi để đi vào sáng tạo. Tôi xin chỉ làm công việc của người kể chuyện. Xin bạn đọc tin chắc với tôi: chuyện này là một chuyện có thật. Tất cả những nhân vật trong đó, trừ vai chính, đều còn sống. Vả chăng, ở Paris vẫn còn có chứng cho hầu hết những sự việc tôi thu thập ở đây. Những nhân chứng đó có thể xác nhận hoặc bổ sung cho câu chuyện, nếu ghi nhận của tôi còn thiếu sót. Nhờ một trường hợp đặc biệt, chỉ riêng tôi mới có thể viết laị sự việc đó. Bởi vì tôi là người độc nhất nắm được những chi tiết cuối cùng của nó. Thiếu những chi tiết này, không thể nào kể lại câu chuyện một cách đầy đủ và thú vị được. Tôi xin cho biết tất cả những chi tiết đến với tôi như thế nào. Ngày 13 tháng 03 năm 1847, tôi đọc được ở đường Lapphit một yết thị lớn màu vàng, thông báo một cuộc bán đấu giá những động sản và những đồ vật hiếm đắt tiền. Cuộc đấu giá này được thực hiện sau khi người chủ đã chết. Trên yết thị không ghi tên người chủ là ai. Nhưng cuộc bán đấu giá sẽ bắt đầu vào ngày 16, từ trưa đến năm giờ chiều, tại đường Anti, nhà số 9. Yết thị còn cho biết trong hai ngày 13 và 14, mọi người có thể đến thăm căn nhà và xem trước đồ đạc. Vốn là người yêu thích những đồ vật quý hiếm, tôi tự nhủ sẽ không bỏ qua dịp này, nếu không mua gì thì cũng đến để xem. Ngày hôm sau, tôi đến ngôi nhà số 9 đường Anti. Còn sớm lắm, thế nhưng nhiều người đã có mặt trong phòng. Họ ăn mặc nhung lụa đẹp đẽ, có xe song mã sang trọng dừng đợi trước cửa, nhưng vẫn ngắm nhìn sự xa hoa tráng lệ đang trải ra trước mắt một cách ngạc nhiên, có thể nói có ý thán phục nữa là khác. Lát sau, tôi hiểu sự thán phục và ngạc nhiên ấy. Bởi vì khi đã xem xét kỹ, tôi nhận biết một cách rõ ràng: đây là căn phòng của một người đàn bà chuyên sống với tình nhân. Nay, nếu có một điều mà các bà phong nhã muốn xem – và ở đây có những bà phong nhã – thì đó chính là tư thất của người đàn bà phóng đãng, mà cách phục sức hàng ngày dám cạnh tranh với các bà. Những người đàn bà này, cũng như các bà, thuê những lô riêng ngay bên cạnh các bà trong các nhà hát; và ở Paris, họ cũng phô bày một cách xấc xược cái nhan sắc hào nhoáng, đồ nữ trang và những vụ tại tiếng. Người đàn bà trước kia là chủ căn phòng này đã chết rồi. Những người đàn bà khác, những con người đạo đức nhất, có thể đi sâu vào bên trong căn phòng của người đã khuất. Cái chết đã thuần khiết hoá không khí cái hang ổ uế tạp lộng lẫy này. Hơn nữa, nếu cần, các bà vẫn có lý do để tự biện hộ: các bà đến đây để mua đồ đạc và không cần biết đây là nhà của ai. Các bà đã đọc yết thị, để có thể lựa chọn trước. Thật là đơn giản. Điều này không thể ngăn cản các bà tìm kiếm, giữa tất cả những cái đẹp đẽ đó, những dấu vết đời tư của cô gái giang hồ sang trọng mà những kẻ khác, chắc chắc, đã từng truyền tụng cho nhau nhiều mẩu chuyện lạ lùng, đặc sắc. Khốn thay! Những bí mật đã chết cả rồi cũng với nữ thần của nó. Vì vậy, dù với tất cả thịên chí, các bà cũng chỉ có thể bắt gặp được nhưng thứ được bày bán sau khi người chủ đã chết và không bắt gặp một cái gì được bán lúc người chủ còn sống. Vả lại, lắm thứ có thể mua được: bàn ghế rất đẹp, những đồ đạc bằng gỗ quý, những chậu sành sứ Xevơ, Trung Quốc, những tượng nhỏ ở Xâcxơ, xatanh, nhung, đăng ten, không thiếu thứ gì. Tôi đi dạo trong căn phòng, theo chân những bà quý tộc tò mò đã đến đó trước tôi. Các bà đi vào một gian phòng căng đầy rèm vải Ba Tư. Tôi sắp bước vào thì bắt gặp các bà đang bước vội ra, miệng tủm tỉm cười. Hình như các bà hơi thẹn vì sự tò mò mới mẻ của mình. Tôi như bị kích thích, lòng ham muốn được vào xem càng mạnh hơn. Đó chính là phòng trang sức đầy những chi tiết tỉ mỉ, mà tất cả đã biểu lộ đến cao độ sự hoang phí của người chủ đã chết. Trên một cái bàn lớn kê sát vách, rộng ba thước, dài sáu thước (thước Anh) tất cả những bảo vật Ocôc và Ôđiôt sáng rực lên. Đó là một bộ sưu tập cực kỳ phong phú. Không một vật nào trong số hàng ngàn vật đó - những thứ rất cần cho sự trang sức của một người đàn bà như người chủ căn nhà này - được làm bằng một kim loại nào khác hơn vàng và bạc. Bộ sưu tập này chỉ có thể được hình thành dần dần, và chắc chắn không phải chỉ do riêng một tình nhân nào tạo lập được. Không chút ngại ngùng, tôi đứng nhìn phòng trang sức của một kỹ nữ. Tôi thích thú quan sát từng chi tiết dù nó thế nào chăng nữa. Tất cả những vật này được chạm khắc rất đẹp và đều mang chữ đầu của những tên họ khác nhau. Tôi nhìn tất cả những vật đó, mỗi vật biểu trưng cho một sự "bán mình" của cô gái đáng thương. Tôi tự nhủ, Thượng Đế đã khoan hồng đối với nàng; vì đã cho nàng được chết trong xa hoa và sắc đẹp, không để nàng phải chịu sự trừng phạt thông thường; nhìn thấy tuổi già của mình - tức cái chết đầu tiên đối với những cô gái giang hồ. Thực vậy, còn gì buồn hơn là phải nhìn thấy sự già nua của tội lỗi, nhất là nơi người đàn bà? Nó không giữ được phẩm giá và cũng không gây được sự hấp dẫn. Sự hối hận cứ triền miên, không phải họ hối hận vì đã đi theo con đường xấu, mà vì những tính toán sai lầm đã có và vì những đồng tiền đã không dùng đúng chỗ. Đó là điều đáng buồn nhất mà người ta thường được nghe nói. Tôi được biết một người đàn bà, ngày trước lẳng lơ đã sinh được một cô bé. Theo lời những người cùng thời cô bé này đẹp không kém gì người mẹ xưa. Với đứa con khốn nạn này, chẳng bao giờ người mẹ đó bảo: "Con là con gái của mẹ", trừ phi để ra lệnh cho cô phải nuôi bà lúc già yếu, như ngày trước bà phải nuôi cô, lúc cô còn thơ ấu. Cô bé khốn khổ tên là Luidơ, vâng lời mẹ làm việc hiến thân lấy tiền, không dục vọng, không đam mê, không thích thú; như cô đã chọn một cái nghề, nếu người ta nghĩ đến việc dạy cho cô một nghề. Bắt buộc hàng ngày phải chứng kiến cảnh ăn chơi sa đoạ ngày từ lúc còn qúa trẻ, cộng thêm vào đó là tình trạng bện hoạn triền miên, cô gái đã đánh mất ý thức về thiện và ác mà Thượng Đế đã phân phát cho cô, nhưng chẳng một ai để ý giữ gìn và phát triển cái ý thức ấy cả. ... Mời các bạn đón đọc Trà Hoa Nữ của tác giả Alexandre Dumas.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Một Linh Hồn
Một linh hồn là tiểu thuyết đầu tay của Thụy An, in năm 1941-Nhà xuất bản Đàn Bà (76 pho Wiélé Hà Nội). Theo Bùi Thụy Băng (con Thụy An), Một linh hồn in năm 1943 (1). Cuốn sách này được Vũ Ngọc Phan đánh giá cao: “Một linh hồn cũng đáng kể là một tiểu thuyết xuất sắc của phụ nữ Việt Nam từ trước đến nay: tác giả đã giàu tưởng tượng, truyện lại xây dựng một cách vững vàng, chắc chắn”. Ông cũng định vị Thụy An trong tư cách nhà văn: “Hàn Mặc Tử đã đem vào thi ca Việt Nam lòng tin tưởng ở đạo Gia-Tô với một giọng say sưa đầm ấm. Thụy An cũng xây dựng cho tiểu thuyết của bà có những nhân vật tin cậy ở đẳng cấp Đấng Cứu Thế ở Đức Mẹ Đồng Trinh và sẵn lòng nhịn nhục, hi sinh”.  *** Bài giới thiệu của Nhà thơ Viên Linh:   Nữ sĩ Thụy AnThụy An Hoàng Dân là một nhà văn nữ nổi tiếng từ trước 1945, vừa qua văn chương vừa bởi cách sống, song danh vọng đã không rực rỡ, số phận lại còn gian lao; bà vào tù ra khám nhiều lần, một đời văn không ngừng va chạm với sắt máu, kể cả với chính mình khi tự cầm đũa chọc thủng một con mắt giữa nhà tù Hỏa Lò Hà Nội.        Thụy An là bút hiệu của bà Lưu Thị Yến, sinh năm 1916 ở Hà Nội, từng viết cho báo Phụ Nữ Tân Văn do Phan Khôi chủ trương, và trên hai tờ Đàn Bà Mới và Đàn Bà đều do chính bà chủ trương, xuất bản ở Sài Gòn và Hà Nội, khoảng từ 1939 tới năm chiến tranh chống Pháp bùng nổ. Trong Nhà Văn Hiên Đại, khi viết về cuốn tiểu thuyết Một Linh Hồncủa Thụy An, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đã dùng câu sau đây để kết luận 8 trang sách về bà: “Một Linh Hồn… đáng kể là một tiểu thuyết xuất sắc nhất của phụ nữ Việt Nam từ trước đến nay: tác giả đã giàu tưởng tượng, truyện lại xây dựng một cách vững vàng, chắc chắn.”        Khoảng đầu thập niên ’50, nhà hoạt động cách mạng Đỗ Đình Đạo, từng là quân ủy trung ương của Việt Nam Quốc Dân Đảng, sau lúc bôn ba qua Trung Hoa trở về thì bị ám sát chết; vụ thanh toán gây sôi nổi trên báo chí Hà Nội lúc ấy, và một số bài báo có nhắc đến tên Thụy An Hoàng Dân như là người trách nhiệm chính. Trong trí nhớ đã phai mờ, tôi hình dung câu chuyện như một truyện tình, tuy rằng có thể đó là một vụ khai trừ vì chính kiến. Giờ này, không rõ tờ báo đọc hồi nhỏ có đáng tin không, tường thuật có chính xác không (không nhớ đó là tờ Tia Sáng hay tờ Giang Sơn, hay tờ Tiếng Dân), tôi đã đi tìm đọc những tác phẩm của nhà văn nữ ấy, như Vợ Chồng, như Bốn Mớ Tóc.       Những năm cuối thập niên ’50, tên Thụy An Hoàng Dân lại được báo chí nói đến, cả ở Hà Nội lẫn ở Sài Gòn. Lần này bà bị chính quyền Miền Bắc qui tội gián điệp, bị bỏ tù 15 năm. Đó là sau vụ Nhân Văn – Giai Phẩm, – bề ngoài là vụ án hữu khuynh chống Đảng, song thời gian đang cho thấy đây nhiều phần là vụ thanh toán các nhà văn gốc Miền Bắc bởi Tố Hữu, một cán bộ văn vần kém cỏi nhưng đắc thế, đầu óc nặng nề địa phương tính, lệt sệt mặt đất vì mặc cảm thua tài nhưng lại ở đỉnh cao của Đảng, phóng dọi qua lăng kính chủ nghĩa để thành cao viễn mà nạn nhân 99% là trí thức văn nghệ sĩ quê quán vùng Sông Hồng: Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh, Trương Tửu, Thụy An, Hoàng Cầm, Văn Cao, Quang Dũng, Nguyễn Bính, Trần Dần… [gốc Bắc mà thoát nạn là vì biết sợ như Nguyễn Tuân, im lặng như Thế Lữ, hay thỏa hiệp từ đầu như Nguyễn Đình Thi]. Tố Hữu tuy đã chết, song chủ trương của đồng bọn / có thể ví như bọn kiêu binh tam phủ thời Hậu Lê / vẫn còn đang hoành hành từ Bắc vào Nam. Trong vụ Nhân Văn – Giai Phẩm, 304 người bị gọi đi tập trung chỉnh huấn, nhưng có 4 người chống lại không đi, trong có Thụy An Hoàng Dân.       Bị tù vì tội gián điệp (vì liên hệ với một người bạn ngoại quốc), bà Thụy An đã khắc lên tường phòng giam số 12 ở nhà pha Hỏa Lò câu sau đây: “Tại nơi này, tôi dã dùng đũa chọc, hủy bỏ một con mắt của tôi để phản đối chế độ cộng sản phi nhân, đàn áp dã man văn nghệ sĩ.” Bà từ trần ngày 10 tháng 6.1989 tại Sài Gòn. Truyện ngắn Giết Chó sau đây, đăng lần đầu trên Tạp chí Phổ Thông của Hội cựu Sinh viên Trường Luật Hà Nội, (số đôi 19-20, tháng 6-7.1953, trang 109), cho thấy Thụy An đã chống Cộng sản ngay từ lúc ấy. Đương thời, hoạt động vào ban đêm của Việt minh Cộng sản thường bị chó phát giác; như phát giác trộm đạo, nên họ đi tới đâu, chó sủa tới đó, vì vậy chó trở thành kẻ thù sớm nhất của “cách mạng”. Truyện này viết cách đây đúng nửa thế kỷ cho thấy Thụy An Hoàng Dân vẫn xứng đáng là nhà văn nữ xuất sắc nhất Việt Nam, như lời Vũ Ngọc Phan viết về tác giả Một Linh Hồn từ năm 1942. *** Thụy An sinh tại Hà Nội, nhưng quê gốc ở làng Hòa Xá, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay là Hà Nội), là con ông Lưu Tiến Ích và bà Phùng Thị Tôn. Có khiếu thơ văn từ nhỏ nên năm 13 tuổi, bà đã có thơ đăng trên báo Nam Phong (1929) và 3 năm sau, lại nhận được giải thưởng văn chương của Triều đình nhà Nguyễn. Chồng Lưu Thị Yến là nhà văn, nhà giáo Bùi Nhung bút hiệu là Băng Dương, em ruột học giả Bùi Kỷ. Nhưng sau khi bà sinh được 6 người con, thì ly thân với chồng từ 1949. Người tình của Lưu Thị Yến là ông Đỗ Đình Đạo, một nhân vật quan trọng của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Sau ông Đỗ Đình Đạo chết vì một nguyên do còn nhiều nghi vấn. Trong thời kỳ Nhân Văn–Giai Phẩm, nhà văn Phan Khôi nhận Lưu Thị Yến là con nuôi. sau khi báo Nhân Văn và Giai Phẩm bị đình bản, bà bị bắt năm 1958 và trong phiên tòa ngày 21 tháng 1 năm 1960 xét xử bà tại Hà Nội, nhiều nhân chứng đều cho rằng bà đã có ảnh hưởng không nhỏ đối với một số văn nghệ sĩ tham gia phong trào này. Tuy nhiên, những người trong cuộc như Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt phủ nhận sự tham gia của bà trong nhóm. Bà bị kết án cũng như Nguyễn Hữu Đang 15 năm tù. Năm 1973, Lưu Thị Yến cùng với Nguyễn Hữu Đang, cũng bị tù vì vụ Nhân Văn–Giai Phẩm, được thả trong diện "Đại xá chính trị phạm trong hiệp định Paris". Vào Thành phố Hồ Chí Minh, bà quy y ở Chùa Quảng Hương Già Lam năm 1987 và mất năm 1989, tại nhà riêng ở đường Lê Văn Sỹ. Mời các bạn đón đọc Một Linh Hồn của tác giả Thụy An.
Đám Ma Tôi
"Đám ma tôi" được nhà xuất bản Tân Việt ấn hành lần thứ nhất vào tháng 11 năm 1940, khi thi sĩ Đinh Hùng vừa mới 20 tuổi. Song nhiều ý kiến cho rằng, có thể tập văn xuôi này được ông viết sớm hơn hoặc có ý định viết từ mấy năm trước đó. Nội dung "Đám ma tôi" thể hiện cách nghĩ của chàng trai trẻ đối với đời sống xung quanh, về quan niệm sống - chết ở đời. Điều đặc biệt là thay vì chọn làm người sống để nói về người chết như cách tư duy thông thường, Đinh Hùng làm ngược lại, chọn làm người chết để nói đến “từng những đời sống rải rác ở đây, ở đó, từng những cuộc đời chiêm bao”. Cụ thể, trong tập văn xuôi, thi sĩ Đinh Hùng thể hiện câu chuyện người con trai 17 tuổi kể trong lúc cậu đang nằm chết, cậu chết đi trong một buổi chiều khi còn là đứa trẻ ngây thơ. “Tôi chết nằm im trên giường, hai tay buông xuôi, mắt nhắm nghiền, ngực không còn thoi thóp.” Chết là việc thản nhiên với cậu bởi có sống ắt sẽ có chết, điều đáng mừng là cậu không phải sống đến tám mươi năm trời ngục thất như lời của ông thầy tướng năm xưa. Bằng giọng văn giễu cợt không chút kiêng kỵ trong “Đám ma tôi”, Đinh Hùng đã sáng tác một bài thơ chia ly “để thấy lòng mình đơn chiếc”, “vẽ phác bóng một rừng người qua mắt để trông, nhìn vài cảnh tượng hay hay... Tôi sống trước để mà cảm trước, tôi chết từ khi đang sống để hiểu thêm ý nghĩa đời này”. *** Viết về cái chết, trước Đinh Hùng (1940) có thi sĩ Hàn Mạc Tử với những vần thơ ngập tràn cô đơn và cõi chết đau thương. Đọc 'Đám ma tôi', đặc biệt đoạn gần cuối, khi người thiếu nữ Hoài yêu say, yêu đắm năm xưa vô tình lạc bước, nàng để ý đến một nấm mồ vì nó điêu tàn nhất nhưng lại bỏ qua dòng chữ khắc mờ trên mộ chí mà chàng Hoài Điệp nằm đó từ năm 17 tuổi, không khỏi liên tưởng đến những câu thơ rất liên quan của Hồ Dzếnh “Nằm im dưới gốc cây tơ/ nhìn xuân trải lụa trên tờ lá non”, và bài thơ tuyệt diệu “Tưởng chuyện ngàn sau”: “Nằm đây, tưởng chuyện ngàn sau/ lung linh nến cháy hai đầu áo quan/ gió lìa cành lá không vang/ tin ta vĩnh quyết trần gian hững hờ!” “… Ta nằm trong ván trông ra/ tủi thân vì thấy người hoa vẫn cười!/ ta toan... giận dỗi xa đời/ chợt hay: khăn liệm quanh người vẫn thơm/ nát thân, không nát nổi hồn/ lẫn trong cái chết vẫn còn cái đau!” 'Đám ma tôi' của tác giả Hoài Điệp (tức thi sĩ Đinh Hùng), do Tân Việt ấn hành lần thứ nhất năm 1940, vừa được Công ty sách Thư Books và NXB Phụ nữ liên kết tái bản tháng 7.2021. - Cảo Thơm - *** Tập văn xuôi Đám ma tôi của tác giả Hoài Điệp (thi sĩ Đinh Hùng), quan niệm về sự sống, cái chết do Tân Việt ấn hành lần thứ nhất năm 1940, vừa được Thư Books và NXB Phụ nữ cho tái ngộ độc giả sau 81 năm. Thi sĩ Đinh Hùng thể hiện câu chuyện người con trai 17 tuổi kể trong lúc cậu đang nằm chết, cậu chết đi trong một buổi chiều khi còn là đứa trẻ ngây thơ: " Tôi chết nằm im trên giường, hai tay buông xuôi, mắt nhắm nghiền, ngực không còn thoi thóp.” Chết là việc thản nhiên với cậu bởi có sống ắt sẽ có chết, điều đáng mừng là cậu không phải sống đến tám mươi năm trời ngục thất như lời của ông thầy tướng năm xưa. Cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay trong một hoàng hôn nắng tắt, từng chứng kiến nhiều cuộc sinh ly tử biệt, từng khóc cho những người đi mãi không về nhưng cậu vẫn chưa thể lý giải được ý nghĩa của sự ly trần. Những trăn trở của cậu được thể hiện qua ngòi bút tài hoa của thi sĩ Đinh Hùng. Đám ma tôi ra mắt độc giả năm 1940, khi Đinh Hùng vừa mới 20 tuổi, cũng có thể được viết sớm hơn khi ông mới 16 - 17 tuổi, thể hiện cách nghĩ của chàng trai trẻ đối với đời sống xung quanh, về quan niệm sống-chết ở đời. Thay vì chọn làm người sống để nói về kẻ chết như cách tư duy thông thường, Đinh Hùng chọn làm người chết để nói đến “từng những đời sống rải rác ở đây, ở đó, từng những cuộc đời chiêm bao”. Tập văn xuôi tràn ngập chất thơ, định danh một “thi sĩ Đinh Hùng” Trong câu chuyện của thi sĩ Đinh Hùng, nhân vật của ông sao nhiều nước mắt quá, nào là mẹ góa, chị gái, anh trai… ai cũng nức nở, sụt sùi, mắt đỏ hoe. Với cậu con trai, chết là sự sung sướng, giản dị hơn cả việc làm quan hay lấy vợ đẹp. Thân xác bất động trên giường kia được mặc cho áo đẹp, chỉnh tề, hương trầm bay nghi ngút, tiếc là không thể lượn lờ đi chơi với bộ cánh người ta mặc cho. Cậu bất lực nhìn người thân họ hàng chọn cho mình nào quan tài, xe ngựa, nơi chôn cất… Khi mặt trời ló dạng, mọi người đều thức giấc, riêng cậu vẫn thờ ơ với buổi bình minh “vì đã đi hết cuộc đời, sang đến hoàng hôn”. Cậu nằm đó, chứng kiến “tình thương” của người thân và những cuộc “thương vay” của hàng xóm láng giềng, bạn bè của họ và của cậu. Cậu trai mới mấy ngày trước còn chơi bời vui vẻ nay tỏ ra giác ngộ, “có chết đi mới biết rằng người ta yêu nhau!”. Nếu không nằm bất động, e là cậu không có dịp chứng kiến bạn bè mình tập trung lại đông đủ cùng một lúc như thế, chuyện có lẽ chỉ xảy ra khi cậu nảy ra ý định cưới vợ nếu còn sống thêm, nhưng lúc này cậu đã chết rồi, mang theo những món nợ trần gian, tiền bạc chưa kịp trả. Cậu nằm đó, lắng nghe những cuộc đối đáp, than van, Đinh Hùng viết: “người nào cũng tìm được câu để nói, nhưng người nào giỏi thì tìm được thêm nguồn sầu để khóc, và khóc với đủ tự do cá nhân”. Cái bản mặt cậu dưới tờ giấy bản có lẽ là sự hiếu kỳ lớn đối với người đến thăm viếng, ai cũng muốn nhìn mặt người chết lần cuối, dù đã nhẵn mặt, với vẻ kính cẩn lạ kỳ. “Chết đi, bạn ạ, chết đi để được hưởng những thú vị quái lạ”. Một cái xác bất động, tưởng như bỏ đi, sai khiến cùng lúc mọi người làm những việc khác nhau, hoặc nằm nghe tiếng não nùng của con gà tận số nào đó vừa bị cắt tiết. Vì không có việc gì làm, cậu trở nên triết lý: “Thì ra cũng có cái chết nầy và cái chết khác, nếu không sao lại có khi hàng vạn con người chết chôn một lúc mà chẳng lôi theo được một mạng con gà?” Cái “tôi” nằm đó với hai bàn tay trắng nhận lấy tặng phẩm của đời lần cuối, chết đi để lại niềm tiếc thương trong lòng người ở lại trần gian và cả những lời tán thưởng không đáng có, không bao giờ có khi còn sống… Chết với cậu là hết, không lời trối trăng bởi lúc sống đâu có ai nghe tiếng lòng cậu nói, không vướng víu nợ đời như những người đang vây quanh cậu lúc này. Người sống tỏ ra thương hại người chết, người chết thì thương hại người sống một cách thành thực. Cỗ quan tài bắt đầu rời nhà cậu, đi vào một con đường thanh vắng, “hai bên đường có cây xanh. Đằng xa là dáng buồn lả lướt của những cánh đồng lúa non”. Nơi cậu nhập tịch thật tịch mịch, xa tiếng ngựa xe thành thị. Những đôi mắt không hẹn cùng trào lệ, những lời sau cuối được thốt ra trước khi hạ huyệt. “Ở đây ai khóc thương được hãy cứ khóc thương, ai thản nhiên được hãy cứ thản nhiên cho nhiều”, linh hồn cậu bâng quơ nghĩ ngợi khi người phu đào huyệt đắp đất lên cỗ quan tài đang nằm sâu dưới lòng đất. Người sống từ giã người chết lần cuối, một lần trong muôn thuở. Khi họ rời đi, linh hồn cậu rồi sẽ bắt đầu những chuỗi ngày lưu lạc, linh hồn ấy không vội rời đi liền theo gót chân đoàn người đưa tang để lại cái xác đơn chiếc làm gì. Một ngày gần nào đó, linh hồn cậu sẽ “đi đây, đi đó, ra ngoài đất khách, ra ngoài quan san… Rồi mùa đông sau biết đâu nó chẳng trở về nhìn cuộc điêu tàn đời nầy kết liễu?” Tấm linh hồn lưu lạc viễn xứ để lại cái xác dưới hố sâu cô đơn khinh đời nằm vắt từ bình minh này sang đến hoàng hôn khác, để lại dưới huyệt sâu cái thân xác trong lòng đất ẩm thấp, “cái xác khô có rùng mình hay không, nào ai được biết?” Xác thân cậu nằm đó, ngày này qua tháng nọ, “ngày xưa trong cái vô tình của lòng người sống, ngày nay trong cõi lạnh lùng của đất thờ ơ”. Như một lẽ tự nhiên, rồi sẽ có lúc người ta cũng thờ ơ với những dòng chữ đìu hiu khắc mờ trên mộ chí. Tập văn xuôi về sự chết nhưng tràn ngập chất thơ, chất thơ về sau định danh một “thi sĩ Đinh Hùng” lừng danh trên thi đàn muôn thuở. Qua Đám ma tôi, qua giọng văn giễu cợt mọi thứ không chút kiêng kỵ, Đinh Hùng đã sáng tác một bài thơ chia ly “để thấy lòng mình đơn chiếc”, “vẽ phác bóng một rừng người qua mắt để trông, nhìn vài cảnh tượng hay hay… Tôi sống trước để mà cảm trước, tôi chết từ khi đang sống để hiểu thêm ý nghĩa đời này”.   Mời các bạn đón đọc Ðám Ma Tôi của tác giả Hoài Điệp.
Ván Cờ Người
Mỗi quốc gia đều có những trò chơi thể thao đặc trưng của riêng mình. Có thể nói, ở nước Anh là quần vợt, ở Mỹ là bóng chày, ở Nhật Bản là kiếm thuật. Còn ở Trung Quốc thì sao? ở Trung Quốc đó chính là trò mạt chược. HỒ THÍCH *** Trong Ván cờ người nổi lên cuộc sống của ba nhân vật: Hồ Bằng, Trình Văn Hòa và Dương Oánh Oánh. Hồ Bằng là một người chơi bài rất giỏi nhưng chưa bao giờ anh ta chơi lớn. Văn Hòa làm việc tại ngân hàng, vì mải mê chơi mạt chược mà bỏ vợ là Dương Oánh Oánh ở nhà buồn chán. Dương Oánh Oánh đã mời Hồ Bằng đến nhà chơi mạt chược để giải sầu. Kể từ đó, cuộc sống gia đình cũng như con đường công danh của các nhân vật này có sự biến động. Trình Văn Hòa phải vào tù vì tội tham ô, nhận hối lộ dẫn đến sự chấn động ở chốn quan trường. Kết cục của Văn Hòa cũng lý giải rằng, cuộc sống là một vòng tròn luôn luôn biển đổi, mỗi người đều có vận mệnh riêng. Và sự tính toán, xoay sở của Hồ Bằng cũng không thể thoát ra khỏi cái vòng tròn ấy.   1. “Ván cờ người” là tác phẩm xứng đáng có trên tủ sách của nhà bạn. Nó không phải là một bông hoa nở lúc bình minh nhưng lại có một sức sống mãnh liệt. “Bốn người ngồi cùng một bàn chơi”, trong cuộc chơi đỏ đen được mất này, người chơi trước sau cũng phải dừng lại. Nhưng cũng có những người quá ham chơi không biết bao giờ mới hạ màn. - Trương Kháng Kháng (Tác giả nổi tiếng P.Chủ tịch Hiệp hội Nhà văn Trung Quốc) 2. Chốn quan trường đầy sóng gió; sự lừa gạt, dối trá ở chốn thương trường; sự bằng mặt nhưng không bằng lòng trong chốn tình trường đã được “Ván cờ người” đề cập đến một cách rõ ràng. Qua đó, chúng ta hiểu được thâm ý sâu xa về mối liên hệ giữa con người với việc chơi bài cũng như quan hệ nhân sinh giữa người với người. - A Thành (Tác giả nổi tiếng) 3. Trong“Ván cờ người”, tác giả đã xây dựng nên một cốt truyện khôi hài, dí dỏm, khắc họa nhân vật rõ nét. Con đường công danh thăng trầm, tình cảm của con người trên bàn mạt chược được phóng đại. Tác phẩm đã vẽ nên một xã hội thu nhỏ với nhiều loại người trở thành một bộ “đánh bạc” đặc sắc. - Vương Cán (Chủ biên Trung Hoa văn học tuyển san - Nhà phê bình văn học TQ) 4. Mạt chược là một trò chơi không phân biệt nam, nữ, già, trẻ. Người chơi thường là những người giàu sang hay quan chức và cũng có không ít nhà lãnh đạo cấp cao. Thông qua trò mạt chược, Vương Thụ Hưng đã xây dựng nên một câu chuyện đầy cơ trí, mưu mô và thủ đoạn. Không những thế, trong “Ván cờ người” còn có những tình cảm bùng cháy mãnh liệt. - Thạch Chung Sơn (Tác giả nổi tiếng) 5. “Ván cờ người” có thể chưa cung cấp đầy đủ cho chúng ta những kiến thức về cách chơi mạt chược nhưng đã miêu tả tỉ mỉ các cuộc tái ngộ của những cao thủ chơi trò này. Điều đó mang lại cho người đọc nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Qua đó, tái hiện một cách khá chân thực về đời sống sinh hoạt của nhân dân và hiện thực xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ. - Dương Thiếu Hành (Tác giả nổi tiếng - Phó Chủ tịch Liên văn tỉnh Phúc Kiến)   Vương Thụ Hưng quê ở tỉnh Giang Tô, là nhà văn, hội viên Hiệp hội Nhà văn Trung Quốc. Ông có nhiều tác phẩm nổi tiếng, trong đó có thể loại truyện dài và tiểu thuyết. Cốt truyện trong các tác phẩm của ông rất phong phú, cách kể chuyện khôi hài, dí dỏm, khắc họa nhân vật rõ nét. Hiện tại, ông đang sống ở Bắc Kinh và giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Xuất bản xã. *** PHẦN MỘT: ĐÔNG Hồ Bằng phấn khởi tiếp lời Mạnh Xuyên Thanh, anh nói quan hệ giữa người với người ở Trung Quốc giống như chơi mạt chược, quá nhiều pha người nhìn người, người trông người, vợ chồng với nhau cũng không ngoại lệ. Mạnh Xuyên Thanh phá lên cười, hỏi Hồ Bằng: “Có phải anh bị vợ quản quá chặt?”. Hồ Bằng bảo không phải, mà là đáng thương cho một số người suốt ngày bị vợ nhìn ngó, những người này không còn được tự do, nên đi giày vò người khác, vậy là có quan bất nhân. I. XÚC XẮC 1 Trong cơ quan, mọi người ít nhìn nhau bằng con mắt xung khắc, mâu thuẫn, nhưng không ai ngờ có nhiều người phản đối ông Mâu, Chánh văn phòng như vậy. Là cấp dưới của ông Mâu, Hồ Bằng cũng không còn nói mập mờ như trước, anh thẳng thắn cảnh cáo ông sẽ gặp rắc rối với cấp trên: đừng làm mất lòng họ, họ đều là bạn mạt chược với nhau. Ông chỉ một mình, họ cả bọn. Công tác thì không nghiêm túc, chơi mạt chược lại rất khí thế. Ông Mâu lòng không phục, miệng cũng muốn nói vài câu, nhưng cố nhịn, chỉ lắc đầu. Cán bộ như ông Mâu chỉ dựa vào thực lực để leo lên, có thế mạnh tự điều trị vết thương, tự nâng cao năng lực. Đã được một bài học, ông cất cái máy kiểm tra thẻ ra vào để ở phòng thường trực, không đuổi đám đang vui vẻ chơi mạt chược trong phòng lưu trữ, đám người rỗi việc bình luận chuyện bài bạc, cũng không dám lén nói xấu họ đi muộn về sớm, bỏ bê công việc. Không những vậy, ông còn đón ý những người chơi mạt chược, cố gắng để họ biết thật ra ông cũng thích mạt chược, chẳng qua cách thích không giống nhau mà thôi. Nhưng trước cấp dưới Hồ Bằng, ông Mâu vẫn làm ra vẻ cứng rắn, quyết không thỏa hiệp. “Tôi đâu vì trượt có mỗi một lần bình bầu dân chủ mà phải từ bỏ nguyên tắc, nhập hội với họ. Tôi chỉ ngồi bàn về đạo lý, bàn về mạt chược mà không đánh mạt chược”. Bình thường ông Mâu chỉ đọc những sách linh tinh, có hiểu biết về mạt chược. Ông ra sức cổ vũ cho văn hoá mạt chược, để mọi người hiểu mạt chược là tập đại thành của nhiều trò chơi thời cổ đại, có đôi có cặp, là sản phẩm kết hợp giữa xúc xắc, bài ngà Tuyên Hòa và bài giấy mã điêu, là văn hóa truyền thống, không phải là thứ rác rưởi, cặn bã. Sự thay đổi biểu hiện từ nhận thức tư tưởng đến hành động này của ông khiến ông trở nên thân cận với một số người, họ đều nói ông Mâu đã thay đổi. Có người còn tỏ ra nịnh bợ và tán dương ông, bảo hiểu biết về mạt chược của ông thật uyên thâm, có thể về Đài truyền hình trung ương để mở diễn đàn mạt chược, chắc chắn sẽ có rất nhiều người xem. Nên nhớ, ở Trung Quốc có biết bao nhiêu người chơi mạt chược. Cậu Cư trong đám lái xe được ông Mâu để tâm chỉ bảo, đã kiếm được tiền trên bàn mạt chược một cách dễ dàng. Tối hôm ấy cậu Cư thua đến đồng tiền cuối cùng, trong lúc nôn nóng đã văng tục, hỏi những người cùng chơi ai đã phát minh ra mạt chược? Không ai biết. Cư lên giọng khinh miệt: “Là do Trần Ngư Môn, người Dũng Thượng, thời Hàm Phong, nhà Thanh, phát minh”. Tiếp theo, cậu ta như tiêm nhiễm tiên khí của Trần Ngư Môn, bắt được quân bài đẹp, rất đắc ý, nói: “Dũng Thượng ở đâu, có ai biết không?” - Không ai biết. Cậu đẩy quân bài ù ra giữa bàn: “Dũng Thượng là Ninh Ba bây giờ. Đánh mạt chược mà không biết tổ tông mạt chược, thật kém tài”. Người ngồi quanh bàn cùng chơi ai cũng tức. Cậu ta ù không lớn, thế mà lúc tính sổ mặt ai cũng tái xanh tái xám. Từ đấy về sau Cư chơi bài hễ nhắc đến Trần Ngư Môn lại ù mấy ván lớn, lần nào thử cũng đúng như vậy. Trong hội chơi có người học cậu ta nhưng không linh nghiệm. Ông Mâu chỉ nói một câu làm mọi người nhận ra: “Mỗi người một khác, không ai giống ai”. Câu nói rất có lý. Tô Sách của phòng tài vụ nói, mỗi lần cô ta bắt bài đều lẩm bẩm: “Mã điêu”, vậy là bắt được bài đẹp. Ông Mâu cười thầm: “Mã điêu, mã điêu là bài mã điêu, hình thù của nó dài dài. Đấy là “thái bổ” của cô”. Mọi người cười ồ, vậy là đặt cho Tô Sách biệt hiệu “thái bổ”, cô ta không hiểu ra sao, nhờ ông Mâu giải thích “thái bổ” là gì? Ông Mâu trả lời không rõ ràng: “Thái bổ là lấy dài bù ngắn, gia đình hài hòa”. Lâu dần, mọi người không còn hứng thú với những điển cố mạt chược mà ông Mâu cứ nói đi nói lại, là bởi ông nói lý thuyết, một khi nói sang thực tế thì coi như không ổn. Mọi người không muốn biết những điều thường thức về mạt chược mà ông Mâu nói ra, ăn trứng không cần biết trứng của con gà nào, đánh mạt chược làm thế nào để ù mới là quan trọng. Lại có người chế giễu ông Mâu không biết đánh mạt chược, không phải cùng hội, chỉ khoe khoang, khoác lác mình hiểu biết hơn người. Mọi người lại nghĩ đến Hồ Bằng, một người không đánh mạt chược nhưng tinh thông mạt chược. Lâu lắm anh ta không đến phòng lưu trữ tổng hợp. Nói một cách chính xác, từ ngày ông Mâu quản lý phòng lưu trữ Hồ Bằng không đến đấy nữa. Mọi người rất thích nói chuyện mạt chược với Hồ Bằng, có người nói anh ta là “vua mạt chược”. Tại sao lại bảo Hồ Bằng là “vua mạt chược”? Anh ta đánh được nhiều tiền không? Không. Hồ Bằng tinh thông mạt chược đến độ mê mẩn, ngẩn ngơ. Chỉ cần có người thuật lại ván bài cho Hồ Bằng nghe, anh nghe đến vòng hai là biết ngay từng nước đi của mỗi người, biết ai nắm trong tay quân nào mà không chịu ra, đang cần quân nào, định thắng thế nào. Lúc đầu mọi người cho rằng anh nói mò, về sau đúng là phải phục. Cái hôm đám cưới Tô Sách, sau cuộc vui cỗ bàn, mọi người kéo nhau đi hát hoặc chơi mạt chược. Những người đi hát nhanh chóng kết thành bè, vui vẻ kéo nhau đi; nhưng người đánh mạt chược vẫn đứng lố nhố ở cửa khách sạn. Đầu tiên những người chơi bài xếp thành hai bàn, sau đấy tìm địa điểm, tìm một nơi rộng rãi để có thể ồn ào một chút. Chị Hứa phòng nhân sự đề nghị đến nhà chị, không có nơi nào tốt hơn ở đấy, chồng chị là Tổng Giám đốc một doanh nghiệp, ở một căn biệt thự có lối đi riêng biệt. Hai bàn mạt chược được xếp đặt trong phòng khách tầng một và tầng hai nhà chị Hứa. Rất nhiều người, có người không kịp ngồi vào bàn, thừa ra. Hồ Bằng và Đổng, hai người này tỏ ra không mặn mà. Hồ Bằng bảo anh không đánh mạt chược bao giờ, Đổng cũng bảo không giỏi, thua một hào chóp mũi cũng đổ mồ hôi. Cả bọn đâu có khách khí, khiêm nhường với hai người, lập tức họ vào cuộc. Hồ Bằng và Đổng xem họ đánh được hai ván rồi đi sang phòng khách kế bên xem ti vi. Đổng nhìn Hồ Bằng, hình như cũng đang không muốn xem phim truyền hình nhạt nhẽo, nhưng anh ta lại tỏ vẻ xem rất chăm chú. Hồ Bằng uể oải ngả người ra tựa sofa, thỉnh thoảng lại giải thích với Đổng về cuộc chiến mạt chược ngoài kia. Hồ Bằng giải thích làm ảnh hưởng Đổng đang xem ti vi, anh ta hơi bực mình, đứng dậy ra ngoài xem có đúng như Hồ Bằng nói hay không, nếu không đúng sẽ bảo anh ta im miệng. Đổng đi vòng quanh bàn mạt chược, đúng như lời Hồ Bằng, ông Lý, Giám đốc sở đang thắng, trước mặt ông ta giấy bạc một trăm chồng cao. Quay lại, Đổng nói: “Bằng, tai cậu thính quá đấy, ngoài kia ai được ai thua cậu đều biết”. Hồ Bằng nói: “Đấy là tớ nghe bài, giống như người mù đánh cờ”. Đổng không tin, cho rằng Hồ Bằng uống quá chén nên ba hoa vậy thôi. Truyền hình xem cũng bằng thừa, dù sao thì cũng không còn gì vui, Đổng rủ Hồ Bằng ra ngoài kia xem họ chơi mạt chược, để xem anh ta có thể nói mò nữa không. Hồ Bằng nói: “Tớ sẽ bảo trước với cậu ai thắng, hoặc ai xuất xung, nói không đúng coi như tớ thua, họ kết thúc ván bài mà tớ chưa nói cũng coi như thua”. Đổng nói, được, ra giá cược đi nào, mỗi ván năm chục đồng nhé. Hồ Bằng lắc đầu, xưa nay tớ không chơi cược tiền, ai thua phải uống một cốc vại nước. Đổng nhìn bình nước khoáng để ở góc tường, còn già nửa bình, dù sao thì không uống một mình, anh ta vỗ ngực: “Chúng ta cược, dù sao thì uống nước tớ không sợ cậu, chưa biết ai thắng ai”. Vừa nói xong, Đổng nghe ngoài kia báo ù, anh ta ra thăm dò, kết quả là anh ta phải uống liên tục và phải chạy vào nhà vệ sinh. Những người đánh bài thấy anh ta cứ chạy đi chạy lại thật kì lạ: tay Đổng này bình thường vốn là con người đứng đắn, trong chiếu rượu cũng không uống nhiều, tại sao hôm nay lại lạ thường như vậy? Chẳng mấy chốc, Đổng không uống nổi nữa, nếu còn tiếp tục đánh cuộc với Hồ Bằng thì bụng vỡ ra mất. Anh ra bàn mạt chược tố khổ: “Tôi thua thê thảm, uống hết nửa bình nước khoáng”. Những người chơi bài muốn biết anh đánh cuộc gì, nghe anh ta nói đánh cuộc ai được thua trên chiếu bạc, không ai có thể hình dung nổi. Có người vừa ù, bảo Đổng gọi Hồ Bằng ra, hỏi anh ta xem ai ù. Hồ Bằng nói ngay: “Ra tam tố, song hưởng, xuất lưỡng gia xung”. Ai cũng thấy kì lạ, hai người cùng ù? Người ù nhìn những người cùng chơi, nghĩ bụng chắc chắn Hồ Bằng sai rồi. Một lúc sau có người cười: “Đúng vậy, tôi cũng ù, tam tố độc điêu”. Hồ Bằng nói: “Tôi không nói khoác, không ai đẩy được tàu hỏa. Tôi ngồi trong kia nghe mọi người đánh bài, biết các người ở đây đánh quân nào. Không tin, tôi nói lại cho mọi người nghe”. Hồ Bằng nói lại ai đã đánh quân nào, anh còn nói với mọi người quân bài ấy cầm trên tay bao lâu, buộc phải đánh là bởi phải nghe bài, nghe vạn tự bài thanh nhất sắc. “Trời đất ơi! Giỏi như vậy mà sao không thấy anh đánh?”. Có người hỏi Hồ Bằng. Mời các bạn đón đọc Ván Cờ Người của tác giả Vương Thụ Hưng.