Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Căn Phòng Của Giovanni

Tóm tắt, Review và Đánh giá sách Căn Phòng Của Giovanni của tác giả James Baldwin & Đoàn Duy (dịch): Đặt bút viết Căn phòng của Giovanni là một quyết định liều lĩnh, nhưng là một quyết định tôi buộc lòng thực hiện, nhằm khai sáng cho bản thân về niềm tuyệt vọng khôn kham của thân phận hiện sinh và giải mã những chất liệu kỳ dị đã dệt thành bản ngã của tôi. Đây không chỉ là một tiểu thuyết về đề tài đồng tính, đồng tính đơn thuần là phương tiện chuyên chở những gì cuốn sách muốn truyền tải. Với cá nhân tôi, tính dục có mối liên hệ mật thiết với tâm lý con người, xung đột nội tâm về đạo đức, và ý chí lập nghiệp với tư cách một nhà văn. Nếu như không viết Căn phòng của Giovanni, có lẽ tôi sẽ không thể cầm bút viết một tác phẩm nào nữa... (James Baldwin) *** Ẩn dụ bao trùm cuốn sách này chắc chắn là căn phòng của chàng người tình Giovanni, nơi cậu và David ẩn náu, căn phòng nơi cuộc sống trong đó “như đang xảy ra trong lòng biển. Thời gian trôi qua hững hờ bên trên chúng tôi; ngày giờ nào còn ý nghĩa gì”. Một người đàn ông da đen trần truồng trong một khu vườn nguyên sơ tựa như quần đảo Taihiti nơi xa khơi của Paul Gauguin, người đàn ông đó ngồi vắt chân, vừa có vẻ thoải mái mà cũng vừa có vẻ gượng gạo, người đàn ông đó là James Baldwin, hay nói đúng hơn, bức chân dung mang tên Dark Rapture (Sự mê ly tăm tối) về nhà văn James Baldwin trong mắt họa sĩ Beauford Delaney, được vẽ theo trường phái Dã Thú với những đường cọ rốt ráo nhưng thiếu dứt khoát và màu sắc mãnh liệt nhưng bị xé lẻ. Delaney vẽ rất nhiều tranh về Baldwin, đến mức làm cả một hợp tuyển mang tên Chúa đã làm ra gương mặt tôi. Nhưng trong số những bức tranh ấy, có lẽ không một bức tranh nào soi tỏ tâm hồn Baldwin rõ ràng hơn bức tranh này: một người Negro mới như đã sẵn sàng phô bày mình triệt để nhưng vẫn còn đó những nghi vấn, những mặc cảm và tội lỗi không thể giãi bày. James Baldwin ra đời năm 1924. Tình cờ hay định mệnh, đó cũng là năm phong trào Phục Hưng Harlem1 chính thức khởi điểm, sau một bữa tiệc ở câu lạc bộ Civic tại New York do nhà xã hội học kiêm biên tập viên của tờ tập san Opportunity là Charles S. Johnson  tổ chức, với sự xuất hiện của hơn 100 văn sĩ cả da màu lẫn da trắng. Năm 13 tuổi, Baldwin có bài báo đầu tiên đăng trên tạp chí trường trung học, với tựa đề: “Harlem, ngày đó và bây giờ” Harlem, khu phố của người Mỹ gốc Phi, nơi những Langston Hughes, Martin Luther King, Malcolm X, Ralph Ellison, George và Ira Gershwin, Oscar Hammerstein, anh em nhà Marx, Louis Armstrong, Billie Holiday, Bud Powell, Duke Ellington, Fats Waller, Nina Simone đều từng một thời lưu trú, là mối quan tâm suốt đời của James Baldwin. Sau tiểu thuyết đầu tay Go tell it on the mountain lấy bối cảnh Harlem, độc giả chờ đợi tác phẩm thứ hai của James Baldwin cũng là một tiểu cảnh Harlem nữa, nhưng không, đến Giovanni’s Room (theo bản dịch của Đoàn Duy do NXB Hội Nhà Văn và Tao Đàn phát hành là Căn phòng của Giovanni), Baldwin thoát ly khỏi Harlem, thậm chí, khỏi nước Mỹ, đẩy nhân vật của ông đến Paris và Cựu lục địa, và nhân vật của ông, lần này, thậm chí còn không phải một người da đen, mà là một người đàn ông da trắng: “Tổ tiên tôi từng chinh phục một lục địa, băng qua những bình nguyên đầy chết chóc, cho tới khi họ đến một đại dương quay lưng lại châu Âu nhìn vào một quá khứ tăm tối hơn” – không phải một chủng tộc Caucasian thượng đẳng và kiêu hãnh, mà là những kẻ chinh phục đã vượt qua địa ngục để chỉ đành đoạt lấy một miền đất buồn. Đằng nào thì con người dù đội lốt ra sao, đen hay trắng, cũng không qua mặt được những nỗi đau tham lam đã rình sẵn để ngốn ngấu lấy họ. Giờ đây, David, một người đàn ông Mỹ da trắng quay lại nơi bắt đầu, để, như trong cuốn tiểu luận Một câu hỏi về danh tính mà Baldwin từng viết, “chịu đựng những ống nước tồi tàn của Paris, những nhà tắm công cộng, tuổi đời của Paris, và sự bẩn thỉu – để theo đuổi một điều kỳ cùng nào đó, bí ẩn và đa phần là không thể diễn giải rõ, mà có thể gói gọn lại một cách tùy tiện trong một động từ là học”. Dĩ nhiên, sự học mà ông nhắc đến ở tiểu luận này là làm một  sinh viên, còn trong Căn phòng của Giovanni, nhân vật chính đã học về những cặn lắng trong bản ngã của mình, anh thả mình vào một dung môi mới, để những cặn lắng cũ xưa nổi lên – anh bị kéo vào một cuộc tình không thể cưỡng bách với một chàng trai tên Giovanni, hay nói một cách không hoa mỹ, anh “come out” với những khát khao đồng tính. Niềm khao khát nhúc nhắc như một sinh vật biết trườn dần siết chặt lấy anh và nếu muốn thoát ra khỏi nó, anh chẳng còn cách nào khác ngoài cách giết bỏ nó. Lời đề tựa của Căn phòng của Giovanni được trích từ thơ Walt Whitman: “Tôi là con người, tôi đã khổ đau, tôi đã ở đó.” Nó khiến người ta nhớ đến câu đầu tiên trong lá thư tình bất hủ De Profundis của Oscar Wilde gửi người tình đồng tính của mình khi ông ngồi trong ngục thất: “Sự đau khổ là một khoảnh khắc rất dài. Chúng ta không thể chia nó theo các mùa. Chúng ta chỉ có thể lưu trữ những tâm trạng của nó, và biên niên ký lại mỗi lần nó trở về”. Cả hai tác phẩm đều là những lời tự thú, nhưng khác với Oscar Wilde, nhân vật của James Baldwin chịu nỗi đau của người không bị xét xử, người sẽ bị hành hình cuối cùng không phải là anh, thứ duy nhất mà anh phải hứng chịu là một sự yên ổn nằm ngoài sức chịu đựng. James Baldwin dắt ta đi một con đường vòng dài quanh co mà phong cảnh hai bên trải dài tít tắp những trạng huống bi kịch, không điểm tận cùng, không có đích, bởi với một kẻ phạm tội không bị xử tội thì đích cũng đồng nghĩa với sự trở về vạch xuất phát. Ẩn dụ bao trùm cuốn sách này chắc chắn là căn phòng của chàng người tình Giovanni, nơi cậu và David ẩn náu, căn phòng nơi cuộc sống trong đó “như đang xảy ra trong lòng biển. Thời gian trôi qua hững hờ bên trên chúng tôi; ngày giờ nào còn ý nghĩa gì”. Trong văn chương, những căn phòng hoặc là chứa đựng một bí mật kinh hoàng hoặc là một thiên đường kỳ diệu. Căn phòng của Giovanni là cả hai điều đó. Căn phòng ấy là một mật thất của một tình yêu bị cấm, cũng là một tầng hầm của những giấc mơ đóng bụi. Những vách ngăn của căn phòng vừa là nơi trú ngụ và cư lưu, vừa là song sắt chắn giữ không để những say đắm lọt ra ngoài; rồi đến một ngày, căn phòng ấy cũng chính là lăng mộ chôn sống đối tượng của sự say đắm ấy. Phải, dường như Giovanni không phải đợi đến khi bị xử tử mới chết đi, cậu đã chết ngay trong căn phòng của mình vào lần cuối mà David bước vào đó, dưới ánh nắng lóa mắt ngập tràn chiếu lên thân thể cậu trần truồng, trắng bệch và bại hoại. Khi James Baldwin quyết định di cư sang Paris vào năm 24 tuổi, ông nói không muốn mình được đọc “chỉ như một người da đen; hay, thậm chí, chỉ như một cây bút da đen”. Có lẽ đó là một phần nguyên nhân khiến Căn phòng của  Giovanni là một cuốn sách toàn-tập-trắng. Nhưng chính qua sự phản tư của một người đàn ông da trắng bỗng thấy mình bị dạt ra vùng biên và lâm vào tình thế “đồng tính”, anh ta sẽ chiêm ngưỡng thế giới bị màu đen chiếm lấp ra sao. Màu đen không chỉ là một màu da, một dòng giống, một tộc người, mà ở đây, nó hiện diện trong bóng tối, trong những ngày nhập nhoạng Paris, trong một cuộc sống lấp liếm bên dưới bề mặt đời sống thường nhật, trong nỗi âu lo ngột ngạt bị phát giác, trong chính căn hầm mục rữa của tâm hồn anh, nó là tất cả những gì đối lập với ánh sáng lóa mắt của một người đàn ông da trắng dị tính. Thay vì vạch ra biên giới của màu đen, James Baldwin vạch ra biên giới của những gì không phải là màu đen, và trong khi màu trắng (sự sáng tỏ) ngày càng co cụm lại trong nỗi ân hận của mình thì màu đen (sự che đậy) của những nỗi thống khổ ngày càng dâng cao vời vợi. Vậy là, sẽ có lúc, ngay cả một người da trắng cũng sẽ sa vào bóng đen, ngay cả một kẻ ở trung tâm cũng sẽ thấy mình đã mất phương hướng và kẹt ở phía ngoại vi. Đen – trắng, đồng tính – dị tính, chúng chỉ là ẩn dụ của những xung đột giữa sự thật về con người và những kỳ vọng không tưởng mà ngoại cảnh áp đặt lên con người. Nhưng để làm gì? Đằng nào thì con người dù đội lốt ra sao, đen hay trắng, cũng không qua mặt được những nỗi đau tham lam đã rình sẵn để ngốn ngấu lấy họ. *** Tôi đứng bên cửa sổ ngôi nhà lớn này ở miền nam nước Pháp khi đêm xuống, cái đêm dẫn lối tôi đến buổi sáng kinh khủng nhất đời mình. Tôi cầm trên tay ly rượu, chai rượu cặp giữa khoeo tay. Tôi quan sát bóng mình trong khung cửa sổ lấp loáng đương tối dần. Cái bóng của tôi cao, có lẽ khá giống một mũi tên, mái tóc vàng lấp loáng. Khuôn mặt tôi giống một khuôn mặt bạn đã gặp nhiều lần. Tổ tiên tôi từng chinh phục một lục địa, băng qua những bình nguyên đầy chết chóc, cho tới khi họ đến một đại dương quay lưng lại châu Âu nhìn vào một quá khứ tăm tối hơn. Tôi có thể say trước khi trời sáng, nhưng sẽ chẳng ích gì. Kiểu gì tôi cũng sẽ bắt tàu đi Paris. Chuyến tàu sẽ vẫn vậy, những hành khách xoay xở trên những băng ghế gỗ thẳng lưng của toa hạng ba để được thoải mái, thậm chí giữ thể diện, sẽ vẫn vậy, và tôi sẽ y vậy. Chúng tôi sẽ lướt qua vẫn phong cảnh đồng quê không ngừng thay đổi ấy, để lên phía bắc, bỏ lại sau lưng những hàng ô-liu, biển cả và mọi vẻ huy hoàng của bầu trời miền nam giông bão, để tiến vào vùng mưa khói của Paris. Ai đó sẽ mời tôi ăn chung sandwich, ai đó sẽ mời tôi nhấp ngụm rượu vang, ai đó sẽ hỏi xin tôi tí lửa. Người người sẽ tha thẩn ngoài hành lang bên ngoài, nhìn ra cửa sổ, nhìn ngó chúng tôi. Đến mỗi ga, đám tân binh quân phục nâu thùng thình đầu đội mũ màu sẽ mở cửa dòm vào và hỏi Complet?1 Tất cả sẽ gật đầu Phải, như đồng lõa, yếu ớt mỉm cười với nhau khi họ đi khắp tàu. Hai hay ba người sẽ dừng bước trước cửa khoang chúng tôi, hét vào mặt nhau bằng chất giọng nặng nề, tục tĩu, hút thứ điếu nhà binh kinh tởm. Sẽ có một cô gái ngồi đối diện, tự nhủ sao tôi không ve vãn nàng, sẽ bồn chồn trước sự hiện diện của đám tân binh. Tất cả sẽ vẫn vậy, chỉ có tôi là nín lặng hơn. Và miền quê đêm nay cũng nín lặng, miền quê này phản chiếu xuyên qua hình ảnh của tôi trên tấm kính. Ngôi nhà này ở ngay bên ngoài một khu nghỉ dưỡng mùa hè nhỏ bé - vốn hãy còn trống vắng, mùa nghỉ vẫn chưa bắt đầu. Nó nằm trên một ngọn đồi nhỏ, ta có thể nhìn xuống những ngọn đèn phố thị và nghe thấy tiếng thình thịch của biển. Bạn gái tôi, Hella, và tôi thuê ngôi nhà này ở Paris sau khi xem mấy tấm ảnh chụp cách đây mấy tháng. Giờ thì nàng đã đi được một tuần. Giờ nàng đang ở ngoài khơi, trên đường quay về Mỹ. Tôi có thể thấy nàng, rất đỗi thanh lịch, căng thẳng, lấp lánh, bao quanh là ánh đèn vốn đang lấp đầy khách sảnh trên con tàu viễn dương, nốc rượu ừng ực, cười cợt, và quan sát bọn đàn ông. Đó là cách tôi gặp nàng trước đây, trong một quán bar ở Saint- Germain-des-Prés, khi ấy nàng đang uống rượu và quan sát, đó cũng là lý do tại sao tôi thích nàng, tôi đã tưởng nàng hẳn sẽ là người vui nhộn để cùng vui thú. Đó là cách chuyện này khởi sự, toàn bộ chuyện này chỉ có ý nghĩa đến thế là cùng; mặc cho mọi sự, giờ đây tôi không chắc rằng nó có bao giờ thực sự có ý nghĩa nhiều hơn thế đối với tôi không. Và tôi không nghĩ nó có bao giờ thực sự mang nhiều ý nghĩa hơn thế đối với nàng - ít nhất là không cho đến khi nàng làm một chuyến tới Tây Ban Nha, và có lẽ khi thấy mình cô độc, nàng bắt đầu tự vấn rằng liệu cả một đời uống rượu và quan sát đàn ông có phải chính xác là thứ nàng muốn. Nhưng tới lúc đó thì quá trễ tràng. Tôi đã ở cùng với Giovanni rồi. Tôi đã cầu hôn nàng trước khi nàng lên đường đi Tây Ban Nha; và nàng bật cười rồi tôi bật cười nhưng chuyện đó, vì lẽ nào đấy lại làm cho mọi thứ trở nên nghiêm trọng hơn đối với tôi, bao giờ củng thế, và tôi cứ kiên trì; rồi sau đó nàng bảo nàng sẽ phải đi khỏi đây và nghĩ về chuyện đó. Và ngay vào đêm cuối cùng nàng ở đây, ngay lần cuối cùng tôi gặp nàng, khi nàng đang gói ghém đồ đạc, tôi bảo nàng rằng tôi đã từng yêu nàng và tôi khiến bản thân mình tin là vậy. Nhưng tôi tự hỏi liệu có đúng thế không. Khi ấy hẳn là tôi đang nghĩ về những đêm của chúng tôi trên giường, về sự ngây thơ và sự tự tin đến dị kỳ, vốn sẽ không bao giờ trở lại, vốn là thứ làm cho những đêm ấy trở nên quá sức khoái cảm, quá sức khập khiễng với quá khứ, hiện tại, hay bất kỳ thứ gì sẽ đến, và rốt cục quá sức khập khiễng với cuộc đời tôi vì tôi thấy mình không cần đảm lấy bất kỳ trách nhiệm nào ngoại trừ trách nhiệm máy móc nhất cho những đêm đó. Và những đêm này được thực hiện dưới một bầu trời ngoại quốc, không ai trông chừng, không án phạt nào kèm theo - chính cái sự sau cuối này dẫn đến sụp đổ giữa chúng tôi, bởi không gì khôn kham hơn sự tự do, một khi ta đã có nó. Tôi cho đây là lý do tại sao tôi cầu hôn nàng: để ban cho chính tôi một thứ mà neo vào. Có lẽ đây là lý do tại sao, ở Tây Ban Nha, nàng quyết định là nàng muốn cưới tôi. Nhưng buồn thay, người ta đâu thể nào chế ra cột neo, chế ra tình nhân và bạn hữu, giống như họ đâu thể chế ra cha mẹ mình. Đời trao những thứ này rồi lại lấy chúng đi và điều khó khăn ghê gớm là nói Vàng với đời. Mời các bạn mượn đọc sách Căn Phòng Của Giovanni của tác giả James Baldwin & Đoàn Duy (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Một Mùa Thơ Dại - Higuchi Ichiyo
TỦ SÁCH TINH HOA VĂN HỌC Tinh hoa văn học của nhân loại nào cũng cần được khám phá và tái khám phá. Mỗi tác phẩm lớn là một xứ sở kỳ diệu và mỗi lần ta tìm đến là thực hiện một cuộc phiêu lưu hoan lạc. Dịch thuật, giới thiệu và biên khảo về những tác phẩm tinh hoa sẽ mở ra các lối cổng dẫn vào những cảnh tượng văn chương khác nhau, qua những không gian và thời gian vừa hiện thực vừa kỳ ảo. Khát vọng hiểu biết và vui thú trong đời là bản tính của con người ở mọi nơi và mọi thời. Các tác phẩm văn chương thật sự vĩ đại đều mang lại hai điều đó: vui thú và hiểu biết. Nhưng hiểu biết là niềm vui hiếm khi tự đến một cách dễ dãi. Cần đón đợi và hồi đáp. Mọi tác phẩm tinh hoa cần được đón đợi và hồi đáp trong niềm hân hoan có tên là “ĐỌC”. ĐỌC. Cầm sách lên và đọc. Trong sách có bạn hiền, có người đẹp, có mọi thứ. Do vậy, chúng tôi chủ trương TỦ SÁCH TINH HOA VĂN HỌC, xem đó như cửa ngõ của hiểu biết và niềm vui. CÓ NĂM CỬA: • Kiệt Tác: Mỗi Kiệt tác sẽ được dịch trọn vẹn và giới thiệu cả tác giả lẫn tác phẩm trong phối cảnh văn hóa những đặc điểm thiết yếu. • Tuyển: Tuyển chọn những tác phẩm ngắn của một tác giả, một nền văn học hay một chủ đề mang tính điển mẫu (thuộc vòng đời hay vòng mùa) • Kiến Thức: Những kiến thức mà người đọc hiện đại cần có: trào lưu văn học, các nền văn học, thể loại... được trình bày gọn nhẹ, dễ tiếp nhận. • Nghiên Cứu: Các công trình chuyên sâu về một vấn đề văn học, một tác giả thiên tài, lý luận phê bình... • Mới: Về các hiện tượng văn học mới xuất hiện của nước ngoài đang gây chú ý hoặc đoạt các giải thưởng lớn... Mong ước chúng tôi là TỦ SÁCH TINH HOA VĂN HỌC sẽ tiến bước bền vững và được đón nhận thân tình. Tủ sách được biên soạn và dịch thuật từ những nhà giáo, dịch giả và nhà nghiên cứu có uy tín và tâm huyết với văn chương. NHẬT CHIÊU *** Ichiyo - thiên tài của tuổi xuân vĩnh cửu Ichiyo và 24 mùa xuân 24 mùa xuân đó là toàn bộ cuộc đời của cô gái thơ Higuchi Ichiyo! Nàng sinh giữa mùa xuân 1872 và mất vào mùa thu năm 1896. Một tài năng ngoại hạng đã đưa cuộc đời phù du đó lên đài cao văn học hiện đại Nhật Bản thời khai sáng. Cha nàng đã đưa gia đình đến Edo (Tokyo ngày nay) sinh sống và ông đã mua được tước vị Samurai vào năm 1867 sau bao nhiêu năm ước mơ. Và thực là công cốc, bởi cuộc Duy Tân sau đó đã hủy bỏ hệ thống giai cấp. Ichiyo mất cha năm nàng 17 tuổi và bắt đầu biết thế nào là cuộc sống khốn cùng, thế nào là lăn lộn kiếm sống: viết văn đối với nàng có mục đích trước mắt là kiếm tiền nuôi thân và nuôi gia đình. Trừ phi kiếm được nhiều tiền bằng văn chương nếu không nàng sẽ không thoát khỏi cảnh may thuê, giặt mướn hay bán kẹo bánh cho người dân nghèo. Tuy thế, bút hiệu mà nàng bắt đầu ký từ năm 1891 là Ichiyo (nàng tên thật là Natsuko) lại rất ý nghĩa. Ichiyo (Nhất Diệp) có nghĩa là “một lá” ám chỉ cọng lau đơn độc mà Bồ Đề Đạt Ma dùng vượt sông Dương Tử. Với bút danh đó, có lẽ Ichiyo khao khát một cuộc vượt sóng, đến được “bờ bên kia” nào đó. Nàng muốn tìm kiếm được chính bản thân mình ngay trong lúc phải ra sức kiếm tiền. Nàng viết cả thơ và truyện với một lối văn hầu như là cổ điển, không có dấu vết gì của ảnh hưởng Tây phương. Nhưng các nhân vật nữ của nàng đã bắt đầu rất mới trong ý thức và cả trong tâm lý. Hirata Tokuboku nhận xét: “Nàng chưa bao giờ vượt qua sự giáo dục mà nàng nhận được ở truyện Genji, ở Saikaku và các tác phẩm Nhật Bản cổ điển khác, thế mà nàng vẫn hiểu rõ chúng ta vô cùng, mặc chúng ta là những kẻ dấn mình hoàn toàn vào thơ văn phương Tây, và nàng cứ thản nhiên tiến bước đồng bộ với ta - Đó mới thật là sự lỗi lạc!”. Lần lượt, những tiểu thuyết nhỏ nhắn nhưng tuyệt đẹp của nàng xuất hiện: - Ngày cuối năm (Otsugomori, 1894) - Khe nước đục (Nigorie, 1895) - Đêm mười ba (Jusanya, 1895) - Một mùa thơ dại (Takekurabe, 1895) - Những ngả đường cách biệt (Wakaremichi, 1896). Khoảng 20 truyện ngắn, chừng 4.000 bài thơ và vài tiểu luận cùng một bộ nhật ký nổi tiếng - đó là những gì Ichiyo kịp tạo dựng trong cuộc đời mệnh yểu của mình. Nàng chết vì bệnh lao. Trước khi mất, Ichiyo đã nổi tiếng lẫy lừng. Những nhà văn lớn nhất thời ấy đều đến nhà nàng như Koda Rohan, Mori Ogai... Còn Izumi Kyoka thì chẳng ngại ngùng “tự phong” làm đồ đệ của nàng. Và sự ngưỡng mộ, sau cái chết của nàng lại càng dâng cao. Các truyện ngắn lừng danh của Ichiyo lần lượt được dựng thành những bộ phim nghệ thuật vào giữa những năm 1970, ở Tokyo mỗi sớm mai, đài phát thanh lật những trang nhật ký của Ichiyo ra và đọc với giọng truyền cảm ngân vang khắp xứ sở, làm sống dậy một linh hồn u uẩn, người con gái cuối cùng của Phù Tang xưa và người con gái đầu tiên của Nhật Bản mới. Tiểu thuyết Một mùa thơ dại - Kiệt tác của trò chơi làm người Một mùa thơ dại (Takekurabe) vừa xuất hiện đã ngay lập tức tỏa sáng. Hầu như các nhà phê bình đồng loạt nhìn nhận nó là kiệt tác mà không chút do dự sau khi nó được ấn hành đầy đủ vào tháng 4/1896. Chính vì tác phẩm này mà Mori Ogai phải thốt lên: “Cho dù bị chế nhạo là kẻ thờ phụng Ichiyo thế nào đi nữa, tôi cũng không ngần ngại gọi nàng là thi nhân thượng thặng”. Nhan đề Takekurabe (Một mùa thơ dại) có nghĩa đen là “So sánh chiều cao” bắt nguồn từ một tình tiết trong tác phẩm cổ điển Truyện Ise, trong đó đôi trai gái hồi tưởng về thời niên thiếu và những ngày tháng lớn lên bên nhau trên bờ dốc trưởng thành, cùng nhớ lại trò chơi đánh dấu chiều cao trên thành giếng nước. Như vậy, Takekurabe có thể được hiểu là trò chơi thơ dại, tâm hồn thơ dại, là thế giới của những đứa trẻ đang dần lớn khôn, đang ở trên bờ dốc có nhiều biến chuyển thể lực và tâm lý, sự biến chuyển mà Truyện Ise đã biểu hiện tài tình qua bài thơ của chàng trai gửi cho bạn gái: Khắc dấu chiều cao bên thành giếng nước vượt xa lúc nào kể từ ngày cuối nhìn em nao nao Một mùa thơ dại ra đời từ tinh thần của bài thơ ấy, nhưng nó không diễn ra bên bờ giếng nước ở thôn quê như Truyện Ise của đầu thế kỷ 10 mà Ichiyo cho nó một địa điểm khác hẳn, đó là khu phố ăn chơi Yoshiwara ở Edo (Tokyo). Vào năm 1893, Ichiyo mở một hiệu bánh kẹo nhỏ bé gần Yoshiwara. Tuy chuyện làm ăn này không thành công, nhưng nhờ đấy mà nàng có sự hiểu biết về đời sống Yoshiwara: con người, khung cảnh, màu sắc, âm thanh, mùi vị... Từ đó, Yoshiwara được tái hiện tuyệt vời trong nhiều tác phẩm của nàng như Ogai nhận xét: “Điều lỗi lạc nhất là các nhân vật qua lại khu phố này không hề là những dã thú đội lốt người như các bản sao xây dựng nhân vật theo kiểu tác phẩm của Emile Zola, Ibsen, của những kẻ theo đuôi cái gọi là trường phái tự nhiên - mà họ là những con người rất thật, cùng với họ chúng ta có thể khóc cười...”. Thật vậy, Một mùa thơ dại đầy ắp những chân dung rất sống động, khó mà quên, cả người lớn hay trẻ thơ nhưng chủ đề của nó là tình yêu thơ dại. Thế giới của cô bé Midori xinh đẹp, là em gái một kỹ nữ nổi tiếng và cậu bé Nobu hiền lành lặng lẽ, con trai của một nhà sư phàm tục. Thế giới đó còn có những đứa trẻ khác như Shota ở cửa hiệu cầm đồ, Sangoro con trai người phu kéo xe, như Chokichi con trai đội trưởng cứu hỏa... Đám trẻ này, như mọi đứa trẻ ở những nơi khác, lớn lên bên nhau qua những trò chơi, học tập, lễ hội, cãi vã, đánh nhau... Chúng cũng làm những việc người lớn sai bảo như Shota đi thâu tiền lãi, Sangoro đi kéo xe... Đúng hơn, chủ đề của tác phẩm không phải là “niềm thơ dại” mà chính là “niềm thơ dại bị đánh mất”. Chúng lần lượt đánh mất tuổi thơ của mình, leo lên bờ dốc của sự trưởng thành mà chấp nhận định mệnh, chấp nhận những vai trò mà người lớn giao cho chúng. Chúng không chọn lựa và không có quyền chọn lựa. Và đã đến cái ngày Midori vấn cao mái tóc theo phong cách Shimada của một thiếu nữ. Nàng biết mình sẽ phải đi theo con đường của người chị, làm một kỹ nữ. Nhìn cô bạn gái bỗng lộng lẫy ra, Shota kinh ngạc. Trước đây, cậu từng nói đùa rằng cậu sẽ “mua” nàng khi nàng lớn lên. Bây giờ thì cậu sắp làm một ông chủ của cửa hiệu cầm đồ, liệu lời đùa “vô tội” xưa kia có ý nghĩa gì? Không hề đùa cợt, cậu sẽ mua một đêm của Midori, cô bạn nhỏ ngày xưa chứ gì? Dường như bài hát cuối cùng mà cậu hát là: Ngày còn thơ cùng hoa với bướm mải mê chơi đùa Mười sáu bây giờ biết bao buồn khổ tan tành cơn mơ Đúng là sau đó, khi mà Midori ẩn mình vào phòng riêng, Shota đi quanh khu phố lặng lẽ, miễn cưỡng làm công việc của mình, không thiết hát ca gì: “Hiếm khi người ta nghe Shota lại cất lên tiếng hát. Đêm đêm cậu ấy cầm đèn lồng đi quanh khu phố thâu tiền lãi. Bóng cậu đi dọc theo bờ mương nước trông lạnh lẽo quá”. Nhưng Nobu mới thật là một nhân vật cô đơn. Nobu cô đơn và xa lạ ngay giữa gia đình của mình, giữa khu phố, giữa thời đại. Một phần do những hoàn cảnh ấy không cần có anh, một phần do bản chất quá mẫn cảm quá thanh khiết của anh. Trước hết là gia đình. Cha anh là một nhà sư phàm ăn tục uống, tham lam và ích kỷ. Ông ta có một vợ hai con. Ngoài Nobu còn có đứa con gái Ohana. Ohana có nhan sắc, ông ta mở cho nàng một quán trà để nàng có thể bán cái duyên sắc ấy kẻo nó phí hoài đi. Ông ta bảo vợ đi bán kẹp tóc cho khách thập phương những ngày lễ chùa. Ông ta thích ăn thịt lươn và thường sai con trai đi mua, một công việc mà Nobu thấy nhục vì anh căm ghét mọi thứ tanh tưởi. Tại sao một người như thế lại là nhà sư cho được? Và mẹ anh, và chị anh - tất cả những gì họ làm đều khiến cho Nobu sợ hãi, hổ nhục. Cạnh đó là cái khu phố Yoshiwara đầy náo động, đầy bạo lực và trụy lạc. Nó vây bọc tuổi thơ của Nobu. Nobu bị ném vào nó. Nó tồn tại cũng như thế giới của người lớn đang tồn tại mà không cần Nobu có chấp nhận hay không. Và thời đại, một thời đại quá nhiều hứa hẹn, khát vọng, giấc mơ... ở những thập niên cuối cùng của thế kỷ 19. Vào thời đại đó, những người phụ nữ được gì ở Yoshiwara và những đứa trẻ thơ được gì ở Yoshiwara? Chính vì vậy, sự mất mát niềm thơ dại trong tác phẩm Một mùa thơ dại mang tính tượng trưng. Những Nobu, Midori, Shota không chỉ là những đứa trẻ của khu phố không có đêm. Họ còn là cả một thế hệ. Đó là “Một bi ca về sự tan biến của một thời đại ngây thơ trong xã hội Nhật Bản” (nhà phê bình John Lewell). Hay nói rõ hơn như Robert Danly: “Một cách gián tiếp Một mùa thơ dại là bi ca về những vận hội mất mát, thể hiện niềm hối tiếc của thế hệ của thời đại mà Ichiyo sống, về một thời thơ dại và lạc quan đã bị tước đoạt quá phũ phàng”. Tác phẩm kết thúc vào lúc Nobu, trước ngày khoác áo tu, để lại một đóa hoa thủy tiên vàng bằng giấy nơi thềm nhà Midori như một tình yêu bị tước đoạt. “Một buổi mai mờ sương, ai đó đã để lại một đóa thủy tiên giấy trên thềm nhà nàng. Không có lời nhắn nào trong hoa, nhưng Midori vẫn đem đặt nó vào bình, ngắm nhìn trìu mến, nàng thấy nó không hoàn hảo chút nào tuy phảng phất buồn, trong dáng vẻ khô lạnh và cô đơn. Và rồi không biết từ đâu nàng nghe rằng sau ngày đó Nobu vào một tự viện, mặc lấy chiếc áo đen”. Chính trong Một mùa thơ dại, Ichiyo trẻ trung và thầm lặng bước lên đài cao thiên tài. Một thiên tài với tuổi xuân vĩnh cửu. NHẬT CHIÊU Mời các bạn đón đọc Một Mùa Thơ Dại của tác giả Higuchi Ichiyo.
Khóc Giữa Sài Gòn - Nguyễn Ngọc Thạch
Bức tranh hiện thực, với những gam màu xám lạnh về Sài Gòn của tác giả chuyên về những đề tài gai góc. Tất cả nhân vật, sự kiện trong tác phẩm này đều chỉ là hư cấu, nếu có trùng khớp hay hơi hơi giống bất cứ thứ gì ngoài đời, đều chỉ là ngẫu nhiên. Sài Gòn kia hào nhoáng lắm, sôi nổi, đông vui lắm, hà cớ gì phải khóc? Nhưng đọc sách của Nguyễn Ngọc Thạch mới thấy ở những nơi càng rộng lớn, con người càng dễ cô đơn. Gần đây, yếu tố sex xuất hiện khá nhiều trong sách của các nhà văn trẻ. Tuy nhiên, để đưa chất liệu nhạy cảm này vào tác phẩm một cách khéo léo và tinh tế không phải chuyện dễ. Nguyễn Ngọc Thạch đã thành công khi theo hướng này. Sau  Đời Callboy, Lòng dạ đàn bà, Chuyển giới, Mẹ ơi con đồng tính, Chênh vênh hai lăm, Một giọt đàn bà,  Khóc giữa Sài Gòn là cuốn sách tiếp theo Nguyễn Ngọc Thạch viết về những đề tài gai góc của xã hội. Thạch như đang thuật lại những câu chuyện đời thường mà anh là một phần trong số đó. Thạch có một biệt tài khác nữa: hiểu đàn bà hơn chính đàn bà. Anh biết họ cần gì, muốn gì, và đau đớn vì điều gì. Cứ thế, Thạch chỉ việc khắc họa nhân vật thôi, và người đọc - nhất là phái nữ - tự nhiên sẽ tìm thấy mình trong các đứa con tinh thần của Thạch. Cái nhìn của Thạch trong Khóc giữa Sài Gòn không chỉ về tình yêu đơn thuần mà còn về sự hy sinh và nỗ lực kéo người mình yêu khỏi nỗi đau của đời họ, như Phan "đã nguyện dùng phần đời còn lại để giúp Nam lau hết nước mắt đau thương". Dưới con mắt của Thạch, tình dục trở nên thơ và đẹp hơn bao giờ hết. Không trần trụi, cũng không bóng bẩy. Thạch khiến ta có cái nhìn khác hơn về những người đồng tính, về những khát khao tình yêu của họ, về cả những nỗi đau. Họ cũng yêu, đau và chấp nhận hy sinh. Họ cũng có những ước mơ hạnh phúc nhưng bị vướng vào những thị phi của xã hội. Họ bị dư luận nhấn chìm. Nguyễn Ngọc Thạch đã cho người đồng tính quyền được sống, được yêu và có thể ngẩng cao đầu với tất cả mọi người. Chỉ tiếc, những gì đi ngược với quy luật tạo hóa đều có một cái kết buồn... Mời các bạn đón đọc Khóc Giữa Sài Gòn của tác giả Nguyễn Ngọc Thạch.
Mối Tình của Chàng Nhạc Sĩ - Hermann Hesse
Đây không phải là cuốn tiểu sử tự thuật của một nghệ sĩ mà là một cuốn tiểu thuyết nói về mối hiểm hoạ tinh thần thường được gọi là "tiến trình sáng tạo". Cái cặp bất hạnh và lạ lùng này, Muoth và Gertrude, có thể được coi như là phép ẩn dụ thành công đầu tiên của Hesse cho những nguyên tố bất khả hoà giải trong nghệ thuật - hai cái khả tính mà Nietzsche từng đã đặc tính hoá như là Dionysus và Apollo. "Khi tôi quay nhìn kỹ lại cuộc đời mình, như thể từ bên ngoài, thì cuộc đời đó đặc biệt không hạnh phúc. Nhưng tôi còn ít tỏ rõ hơn trong việc gọi cuộc đời đó là bất hạnh dù cho có tất cả những điều lầm lẫn của nó. Dù sao, thật là rồ dại cứ phải tra vấn hạnh phúc hay bất hạnh, vì đối với tôi hình như sẽ khó lòng trao đổi những ngày bất hạnh nhất của đời tôi cho tất cả những ngày hạnh phúc. Nếu cái gì đó trong sự hiện hữu của một người là chấp nhận không thể tránh được một cách có ý thức, để nếm trải điều tốt xấu trọn vẹn và để đưa ta đến chỗ cá thể hơn, không ngẫu nhiên và định mệnh nội tâm song song với số mệnh bên ngoài, thế thì đời tôi không trống rỗng mà cũng chẳng phải là vô giá trị Số mệnh, như nó đã được điều khiển bởi quỷ thần, đã giày xéo tàn nhẫn trên sự hiện hữu bên ngoài của tôi như nó đã làm với mọi người, dù vậy cuộc sống nội tâm của tôi vẫn do tôi định đoạt. Tôi đáng được hưởng sự dịu dàng và cay đắng của nó và chấp nhận trọn vẹn trách nhiệm về cuộc đời ấy. Có những lúc, khi tôi còn trẻ hơn, tôi muốn trở thành thi sĩ. Và nếu bây giờ tôi là thi sĩ, tôi cũng sẽ không phản đối sự cám dỗ để hướng đời tôi trở lại qua những bóng dáng nhẹ nhàng thời thơ ấu của tôi đến những cội nguồn quí giá và che chở của những ký ức đầu đời của mình. Nhưng vật sở hữu này cũng xa vời, thâm thiết và thiêng liêng cho con người mà nay về phần mình tôi đã hoang phí đi mất. Tất cả đều có đó để nói rằng thời hoa niên của tôi là tốt lành và hạnh phúc. Tôi được tự do khám phá khuynh hướng và tài năng của mình, để thích nghi với những lạc thú và nỗi sầu của mình và để hướng đến tương lai không như một sức mạnh lạ lùng cao cả hơn nhưng như là niềm hy vọng và sản vật của sức mạnh của mình. Bởi thế tôi đã qua những trường học không lưu lại dấu vết gì như một kẻ miễn cưỡng, bất tài, tuy là một học sinh lặng lẽ mà sau cùng họ để cho hắn ghi tên vào lớp học, bởi vì hắn dường như thoát khỏi những ảnh hưởng mạnh mẽ mang chụp lên người hắn. Vào khoảng lên sáu hay bảy tuổi, tôi đã nhận ra rằng tất cả những sức mạnh vô hình mà tôi đã dành riêng cái cảm tình mạnh mẽ và kiệt xuất nhất thì đó là âm nhạc. Từ giây phút đó trở đi tôi đã có một vũ trụ cho mình, một đền đài và một bầu trời mà không một ai có thể mang đi khỏi tay tôi hay hạ giảm được, và tôi cũng không muốn chia sẻ cho bất cứ người nào. Tôi trở thành một nhạc sĩ, dù tôi không học chơi bất cứ nhạc cụ nào trước khi tôi được mười hai tuổi và tôi không nghĩ rằng sau này tôi sẽ sinh nhai bằng âm nhạc. Đó là câu chuyện ra sao từ dạo đó, không có bất cứ thay đổi cốt yếu nào, và đó là vì đâu khi nhìn lại đời tôi nó không có vẻ gì khác nhau hay muôn mặt, nhưng từ khởi đầu nó đã phát âm trong một nột nhạc đơn điệu và một mình trực tiếp hướng tới vì sao. Dù sự việc có tốt đẹp hay tệ hại với tôi, cuộc sống nội tâm của tôi vẫn không thay đổi. Bởi vì những thời kỳ dài lâu tôi có thể rong buồm trực chỉ đến những đại dương xứ lạ, không đụng đến sách ký hay nhạc cụ, và tuy vậy ở mỗi khoảnh khắc ấy sẽ là một nhịp điệu hài hoà trong huyết quản và trên môi tôi, một thứ nhịp điệu và âm tiết trong cái lôi cuốn của hơi thở và đời sống. Tuy là khát vọng nồng cháy tôi cũng đã tìm kiếm sự giải thoát, quên lãng và buông thả trong nhiều cách, tuy tôi đã khao khát hướng về Thượng đế, tri thức và thanh bình, tôi luôn luôn tìm thấy chúng chỉ trong âm nhạc mà thôi.........." *** Khi tôi quay nhìn kỹ lại cuộc đời mình, như thể từ bên ngoài, thì cuộc đời đó đặc biệt không hạnh phúc. Nhưng tôi còn ít tỏ rõ hơn trong việc gọi cuộc đời đó là bất hạnh dù cho có tất cả những điều lầm lẫn của nó. Dù sao, thật là rồ dại cứ phải tra vấn hạnh phúc hay bất hạnh, vì đối với tôi thì hình như sẽ khó lòng trao đổi những ngày bất hạnh nhất của đời tôi cho tất cả những ngày hạnh phúc. Nếu cái gì đó trong sự hiện hữu của một người là chấp nhận không thể tránh được một cách có ý thức, để nếm trải điều tốt xấu trọn vẹn và để đưa ta đến chỗ cá thể hơn, không ngẫu nhiên và định mệnh nội tâm song song với số mệnh bên ngoài, thế thì, đời tôi không trống rỗng mà cũng chẳng phải là vô giá trị. Số mệnh, như nó đã được điều khiển bởi quỷ thần, đã giày xéo tàn nhẫn trên sự hiện hữu bên ngoài của tôi như nó đã làm với mọi người, dù vậy cuộc sống nội tâm của tôi vẫn do tôi định đoạt. Tôi đáng được hưởng sự dịu dàng và cay đắng của nó và chấp nhận trọn vẹn trách nhiệm về cuộc đời ấy. Có những lúc, khi tôi còn trẻ hơn, tôi muốn trở thành thi sĩ. Và nếu bây giờ tôi là thi sĩ, thì tôi cũng sẽ không phản đối sự cám dỗ để hướng đời tôi trở lại qua những bóng dáng nhẹ nhàng thời thơ ấu của tôi đến những cội nguồn quý giá và che chở của những ký ức đầu đời của mình. Nhưng vật sở hữu này cũng xa vời, thân thiết và thiêng liêng cho con người mà nay về phần mình tôi đã hoang phí đi mất. Tất cả đều có đó để nói rằng thời hoa niên của tôi là tốt lành và hạnh phúc. Tôi được tự do khám phá khuynh hướng và tài năng của mình, để thích nghi với những lạc thú và nỗi sầu của mình và để hướng đến tương lai không như một sức mạnh lạ lùng cao cả hơn nhưng như là niềm hy vọng và sản vật của sức mạnh của mình. Bởi thế tôi đã qua những trường học không lưu lại dấu vết gì như một kẻ miễn cưỡng, bất tài, tuy là một học sinh lặng lẽ mà sau cùng họ để cho hắn ghi tên vào lớp học, bởi vì hắn dường như thoát khỏi những ảnh hưởng mạnh mẽ đang chụp lên người hắn. Vào khoảng lên sáu hay bảy tuổi, tôi đã nhận ra rằng tất cả những sức mạnh vô hình mà tôi đã dành riêng cái cảm tình mạnh mẽ và kiệt xuất nhất thì đó là âm nhạc. từ giây phút đó trở đi tôi đã có một vũ trụ cho mình, một đền đài và một bầu trời mà không một ai có thể mang đi khỏi tôi hay hạ giảm được, và tôi cũng không muốn chia sẻ cho bất cứ người nào. Tôi trở thành một nhạc sĩ, dù tôi không học chơi bất cứ nhạc cụ nào trước khi tôi được mười hai tuổi và tôi không nghĩ rằng sau này tôi sẽ sinh nhai bằng âm nhạc. Đó là câu chuyện ra sao từ dạo đó, không có bất cứ đổi thay cốt yếu nào, và đó là vì đâu khi nhìn lại đời tôi nó không có vẻ gì khác nhau hay muôn mặt, nhưng từ khởi đầu nó đã phát âm trong một nốt nhạc đơn điệu và một mình trực tiếp hướng tới vì sao. Dù sự việc có tốt đẹp hay tệ hại với tôi, cuộc sống nội tâm của tôi vẫn không thay đổi. Bởi vì những thời kỳ dài lâu tôi có thể rong buồm trực chỉ đến những đại dương xứ lạ, không đụng đến sách ký âm nhạc hay nhạc cụ, và tuy vậy ở mỗi khoảnh khắc ấy sẽ làm một nhịp điệu hài hoà trong huyết quản và trên môi tôi, một thứ nhịp điệu và âm tiết trong cái lôi cuốn của hơi thở và đời sống. Tuy là khát vọng nồng cháy tôi cũng đã tìm kiếm sự giải thoát, quên lãng và buông thả trong nhiều cách, tuy tôi đã khao khát hướng về Thượng Đế, tri thức và thanh bình, tôi luôn luôn tìm thấy chúng chỉ trong âm nhạc mà thôi. Tôi chẳng cần Beethoven hay Bach, âm nhạc đã là một khuyây khoả liên tục cho tôi và là một chứng giải cho tất cả đời sống rằng đã có âm nhạc trên cõi đời, rằng ta có thể, đôi lúc xúc động sâu xa bởi những âm tiết và thấm nhập bởi những hoà điệu. Ôi âm nhạc! Một nhịp điệu hài hoà xuất hiện với bạn, bạn hát lên một cách im lặng, chỉ bên trong người bạn thôi, bạn nhậm chìm hữu thể của bạn trong nó, nó chiếm hữu tất cả sức mạnh và cảm xúc bạn, và trong khi nó sống trong người bạn, nó xoá nhoà tất cả cái chi là tình cờ, xấu xa, thô bạo và buồn sầu trong người bạn, nó mang vũ trụ vào trong hoà điệu với bạn, nó làm cho gánh nặng thành nhẹ nhàng và đem đến đôi cánh cho những tinh thần trì trệ chán nản. Nhịp điệu hài hoà của dân ca có thể làm tất cả điều đó. Và trước hết là hoà điệu! Vì hoà âm của những nốt nhạc thuần khiết có nhịp tiết của mỗi hoà điệu – chẳng hạn, những tiếng chuông nhà thờ - rót đầy tinh thần với vẻ kiều diễm và hoan hỉ, một cảm giác đã làm mạnh thêm bằng mỗi nốt nhạc tiếp thêm, và đôi lúc điều này có thể làm phấn khích tâm hồn và làm nó run rẩy với sự ngây ngất cực điểm như không có một lạc thú nhục dục nào có thể làm được. Về tất cả những ý niệm của sự thuần chân phúc mà công chúng và các thi sĩ đã mơ tưởng, thì cái việc lắng nghe hoà điệu của thiên cầu đối với tôi hình như luôn luôn là điều cao cả nhất và khốc liệt nhất. Đấy là những giấc mơ thân thiết nhất và trong sáng nhất đã sắp hàng – để nghe thời hạn của con tim vũ trụ đập rộn ràng và toàn thể cuộc đời trong hoà điệu thiên bẩm, huyền nhiệm của nó. Ôi chao, làm sao mà cuộc đời lại có thể lẫn lộn và sai điệu và giả dối như vậy, làm sao có thể là dối trá, xấu xa, ghen tị và thu hận giữa con người khi mà bài hát ngắn nhất và đoạn âm nhạc đơn giản nhất cũng giảng giải rằng thiên đàng là sự khải thị trong sự thuần khiết, hoà điệu và hỗ tương tác dụng của những nốt nhạc trong sáng xướng lên. Và làm sao tôi lại có thể xỉ vả con người và trở nên giận dữ khi mà tôi, chính mình, với tất cả thiên chí trên cõi đời lại không thể nào làm cho bài hát và âm nhạc thoát ra từ cuộc đời tôi? Bên trong con người tôi, tôi có thể cảm thấy sự cảnh cáo khẩn thiết là lòng khát khao thèm muốn một lạc thú, thuần tuý, cái âm thanh thiêng liêng thiết yếu đó và nó đã nhạt nhoà, nhưng ngày tháng của tôi thì đầy rẫy những rủi ro và lạc lõng. Dù cho tôi quay về bất cứ hướng nào và tôi cất lên bất cứ giọng nào, chẳng bao giờ có được âm vang chân thật và trong sáng cả. Nhưng thôi, tôi sẽ kể cho bạn nghe một câu chuyện. Khi tôi nhận xét những người mà tôi đã làm đầy những trang sách này – thì quả thật nàng là người có nhiều sức mạnh trên con người tôi, nàng có thể xuyên qua nỗi cô đơn của tôi và lôi ra điều thú tội ở tôi – tôi phải đưa ra tên tuổi của người đàn bà kiều mị yêu dấu này, người không chỉ hạn độ với tôi bằng một tổng số kinh nghiệm và vận mệnh phi thường, nhưng vượt lên trên mọi sự đối với tôi như một biểu tượng linhthánh, một vì sao. ... Mời các bạn đón đọc Mối Tình của Chàng Nhạc Sĩ của tác giả Hermann Hesse.
Đất Khách Quê Người - Mario Puzo
Đất Khách Quê Người là tác phẩm văn học đạt tới sự chân thật, thẳm sâu đến kỳ lạ của nhà văn lừng danh Mario Puzo. Theo tác giả, từ những năm sáu mươi, ông đã dành phần lớn tâm trí cho đề tài nhân sinh này. Ông đã sống, đã thể nghiệm, đã "trầm người" trong khu vực đề tài để diễn tả với một sức mạnh mới. Đất Khách Quê Người là một phần máu thịt của ông, là quê hương, gia tộc, gia đình ông. Mỗi nhân vật trong sách dù xa hay gần, trực tiếp hay gián tiếp…đều là người thân của ông hoặc người ông đã tiếp cận, được sinh ra và lớn lên trong bối cảnh bi thương của con người, buộc phải rời Tổ quốc vượt ngàn dặm biển để kiếm sống nơi đất khách quê người. Mario Puzo là tác giả liên tục thành công trong nhiều cuốn sách, mà tiêu biểu là Bố Già, đã vạch trần và lên án các tập đoàn tội ác Mafia, hoạt động trên đất Mỹ và địa bàn liên quan, với đường dây buôn lậu ma tuý, gái mãi dâm, sòng bạc, ám sát, khống chế, bắt cóc tống tiền. Đất Khách Quê Người khi được xuất bản đã nhanh chóng được công chúng chào đón và được dịch ra nhiều thứ tiếng. Khác với tác phẩm Bố Già – tận cùng mãnh liệt, trong Đất Khách Quê Người, chúng ta nhận diện một Mario Puzo hồn hậu, sâu xa, tinh tế. Bằng văn phong bình dân, ông viết sinh động và phong phú, xây dựng nên một bản dân ca bi hùng tráng, ly kỳ trong cụ thể, đồ sộ trong giản đơn…Ông đã sống, đã yêu, đã đau khổ và vui sướng cho tác phẩm rất chân phương và lạ lùng này. Nếu Bố Già là đỉnh nhọn thì Đất Khách Quê Người là mặt bằng rộng lớn, với chiều sâu của nhà văn thấu suốt con người và vì lợi ích con người mà chiến đấu bằng bút lực dữ dội, làm rung động lòng người. Toàn bộ khung cảnh cuộc hành hương này được Mario Puzo khái quát vào cuộc sống một gia đình lưu vong người Ý Angeluzzi-Corbo, mà góa phụ Lucia Santa một người đàn bà nghèo khổ, dốt nát nhưng là người mẹ sống chết vì con, đầy bản sắc Ý và rất đỗi anh hùng. Năm mười bảy tuổi Lucia Santa cùng hai người bạn gái rời gia đình vượt mấy ngàn cây số trên đại dương để sang Mỹ lấy chồng, mà chàng trai ấy cô chỉ nhớ thoang thoáng là có cùng chơi giỡn với nhau lúc nhỏ. Nhà nghèo nên ngày Lucia Santa ra đi, ông già không cho nổi con gái cưng một bộ đồ cưới và tấm khăn trải giường. Xuống tàu đi, Lucia Santa dù rất mực thương cha nhưng vẫn hận cha mình mãi. Nơi đất khách, bốn mươi năm ròng rã gia đình Lucia Santa sống gói kín trong căn hộ số 358 lầu bốjn, chung cư đại lộ Số Mười, khu tây New York. Nơi lưu cư này bà đã sinh nở cho hai đời chồng, nuôi dạy sáu đứa con và cố giữ đúng nề nếp tập tục dân nước Ý, phản đối lối sống buông thả của đám trẻ theo kiểu Mỹ. Nhưng quan trọng nhất là bà chỉ huy con cái tập trung sức lực và trí khôn chống lại sự nghèo khổ, tủi nhục, mặc dù có lần bà bảo các con bà phải biết tự hào về cái nghèo thơm thảo của chính mình. Bà cho rằng mình nghèo nhưng là cái nghèo vĩ đại. Chung quanh mối quan hệ đan xen với gia đình do “dũng tướng” Lucia Santa cùng Octavia, đứa con gái thông minh và cương trực, chèo chống, cuộc sống xã hội của cộng đồng lưu dân Ý trên đất Mỹ ở đại lộ Số Mười hiện ra rõ đến đỗi người đọc thấy như có mình trong đó. Chúng ta chảy nước mắt đau khổ hoặc vui mừng cùng các nhân vật. Thuật ẩn ngữ và lối nói dí dỏm trào phúng là đặc tài của Mario Puzo bộc lộ ở đây. Trở lại buổi đầu, Lucia Santa với những khát vọng về một vùng đất mới giàu sang bị tan vỡ, dù đó là vùng đất “hứa”. Thực tế này cho thấy ở bất cứ nơi nào cũng có cái ác, có hiếp đáp, giành giựt, có mưu sâu kế độc để hãm hại nhau. Nhưng ở bất cứ nơi đâu cũng có con người sống gắn bó với nhau, yêu thương nhau, giữ cho kỳ được những bản thể tốt đẹp vẫn có của mình để cùng hướng lên cuộc sống văn minh. Đất KHách Quê người chính là bài ca về sự nỗ lực lao động quên mình để có cuộc sống ấm no, và người chân thật dẫu ở đâu vẫn có thể sống hiên ngang, đứng vững bên cạnh bọn gian xảo, chiếm đoạt, vu khống… Cuối cùng khi về già, con cháu đầy đàn, Lucia Santa lên chiếc xe nhà về khu Long Island sang trọng, giã biệt căn hộ chung cư và kiếp sống lầm than. Chi tiết này Mario Puzo cho bạn đọc một niềm vui có thật. Đây là tính nhân hậu của nhà văn. Đọc Đất Khách Quê Người không phải chỉ để thông cảm một cách sâu xa về đồng loại, mà còn để tự hào và tin cậy ở chính mình. *** Larry Angeluzzi thúc con ngựa ô đen bóng trên lòng đường như một khe núi, giữa hai dãy tường nhà cao dòm trật ót. Dưới những chân tường, trên lề đường lát đá xanh, phân ô biệt lập mỗi lô nhà, lũ trẻ ngừng chơi đùa, im thin thít chiêm ngưỡng anh Larry. Larry vung vẩy đèn dầu màu đỏ thành một vòng cung lớn, những tia lửa toé ra từ những móng sắt của con ngựa khua trên đường rầy xe lửa, làm loé sáng những viên đá trải trên đại lộ Số Mười và lừ đừ theo sau là đoàn tàu chở hàng chậm chạp từ nhà ga cuối cùng, trên phố Hudson tiến về phương bắc. Năm 1928, sở Đường Sắt trung ương New York phải sử dụng những con đường trong thành phố để xuôi ngược bắc nam, nên phải có người cưỡi ngựa mở đường để tránh tai nạn giao thông. Chỉ vài năm nữa, khi cầu nổi xây xong, hình ảnh người dẫn đường chỉ còn là kỷ niệm của lịch sử thành phố. Nhưng Larry Angeluzzi không hề biết nó là người cuối cùng trong nghề này. Nó ngồi trên mình ngựa cứ kiêu hãnh như một cao bồi chính hiệu miền Tây. Nó luôn ăn diện: ghệt trắng nặng, mũ rộng vành, đồng phục quần xanh bằng vải thô cứng, bó chặt tới mắt cá bằng những cái cặp sáng bóng. Nó cho ngựa đi nước kiệu qua thành phố hâm hấp nóng của đêm hè. Những người đàn bà ngồi trên mấy thùng cây nói chuyện tào lao với nhau, cánh đàn ông đứng xớ rớ nhả từng ngụm khói xì gà khét lẹt nơi góc phố. Đám trẻ con nhao nhao bất kể nguy hiểm chạy theo bám vào xe lửa đang chạy. Tất cả đều hiển hiện trong ánh sáng vàng đầy khói của đèn đường và ánh sáng trắng của mấy bóng đèn cửa hàng bánh kẹo. Tới mỗi ngã tư, những cơn gió từ sông thổi tới, làm cho người và ngựa tỉnh táo hẳn, cùng làm mát mẻ cái đầu máy xe lửa đen ngòm. Trên khoảng đất trống trong công viên Chelsea, lố nhố bóng tụi trẻ ngồi chồm hổm xem phim miễn phí. Từ xa trên màn ảnh lớn, Larry thấy con ngựa và anh chàng cưỡi khổng lồ, như đang rầm rập phóng ụp xuống hố, con ngựa của nó hốt hoảng bật ngửa đầu. Qua khỏi ngã tư, những bức tường nhà lại hiện ra. Larry về tới gần nhà. Một cây cầu vượt dành cho người đi bộ bắc từ đại lộ Số Mười qua đường Số Ba Mươi. Qua khỏi gầm cầu là về tới nhà, coi như công việc đã hoàn tất. Đội lệch mũ, Larry cho ngựa phi thẳng về chuồng. Hầu hết những người đang ngồi trên lề đường Số Ba Mươi và Số Ba Mươi Mốt đều là bà con, bạn bè. Larry phóng nước đại qua gầm cầu, vẫy tay với lũ nhóc đang đứng trên lan can cầu. Rồi Larry cho ngựa đi sát lề, rẽ trái vào bãi đất trống của sở Đường Sắt. Phía sau, đầu máy xe lửa khổng lồ nhả ra từng đợt khói trắng mịt mù và như một phép lạ, cây cầu và lũ trẻ biến mất trong làn khói, với những tiếng kêu vui vẻ vút cao lên tận bầu trời đầy sao mờ tỏ. Xe lửa chở hàng uốn vòng vào bãi, cây cầu lại hiện ra, lũ trẻ ào ào nhảy xuống những bậc thang, chạy dọc theo phố. Larry buộc ngựa vào cây cột bên cạnh căn chòi của người bẻ ghi rồi ngồi xuống băng ghế. Bên kia đại lộ là thế giới thân quen của nó. Gần góc đường Số Ba Mươi là cửa hàng bánh rực rỡ ánh đèn, lũ trẻ vây quanh tủ kem trang trí hoa lá loè loẹt. Chính ông chủ Panettiere múc những thìa kem đủ màu thật hậu hĩ. Vì bây giờ lão giàu rồi, còn thừa tiền phung phí cả trong trò chơi chạy đua ăn tiền nữa. Kế bên cửa hàng bánh là cửa hàng thực phẩm treo đủ thứ dăm bông, thịt nguội gói giấy màu. Rồi đến tiệm hớt tóc của lão chủ chuyên đố kỵ, ganh ghét, cứ thấy mái tóc nào mới, không mang dấu ấn của đôi tay, nhát kéo của lão, lão lại gườm gườm khó chịu. Cửa tiệm hớt tóc cửa đóng kín mít để đánh bài. Trẻ con tràn lên lề đường, nhốn nháo như bầy kiến, đàn bà thì quần áo đen ngòm, tụ tập thành từng nhóm trước mỗi nhà. Nhóm nào cũng ồn ào như đang cãi nhau. ... Mời các bạn đón đọc Đất Khách Quê Người của tác giả Mario Puzo.