Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thiên Đường Tiền Xu Tập 2

Thiên đường Tiền xu vẫn vậy, luôn làm vui lòng khách đến , vừa lòng khách đi. Ngặt một nỗi đám bánh kẹo ở tiệm lạ làng quá, khiến họ mê mẩn hết rồi. Đến nỗi lần nào Beniko cũng phải cẩn thận dặn dò khách về những tai ương có thể ập đến nếu lỡ ăn bánh kẹo không đúng cách, vậy mà người thì quên béng, người thì nghe rồi bỏ đấy. Để rồi cuối cùng có thể bị cuốn vào một thế giới xa lạ... *** Hiroshima Reiko, sinh tại tỉnh Kanagawa, Nhật Bản và là một tác giả sách thiếu nhi lừng danh. Năm 2005, bà đoạt giải Juniorboukenshousetsu với tác phẩm Suiyou no mori. Bà cũng là tác giả của vô số các tác phẩm văn học thiếu nhi, kỳ ảo nổi tiếng khác. jyajya, sinh tại Fukuoka, từng làm nhân viên cho một công ty phát triển các ứng dụng trên điện thoại. Năm 2011, jyajya bắt đầu ra làm thiết kế tự do và hiện đã lấn sân sang cả lĩnh vực vẽ minh họa. *** Bánh cuộn siêu trộm Hidemoto vừa thở hổn hển vừa chạy vào một con hẻm tối. Hắn có cảm giác dù mình có chạy thế nào, chạy kiểu gì những kẻ phía sau vẫn sẽ đuổi kịp. Khỉ thật. Là đám cảnh sát đây mà. Cảnh sát gì mà lại đi rình bắt cả trộm vặt như mình chứ. Đúng là lũ rỗi hơi. Muốn bắt thì bắt bọn trộm tài sản kia kìa. Hidemoto bất giác chửi thầm trong bụng. Đúng vậy, Hidemoto là một tên trộm. Hơn thế nữa còn là một tên trộm vặt vãnh tầm thường. Hắn chẳng những vụng về mà còn nhát gan. Hắn chỉ dám đột nhập khi chủ nhà đi vắng hoặc lấy cắp đồ ở cửa hàng tiện lợi, ấy vậy mà toàn hỏng việc. Lần này cũng thế. Đói quá nên hắn định sẽ trộm cơm nắm ở cửa hàng tiện lợi, ai ngờ đúng lúc đó mấy người đàn ông rần rần từ đâu kéo tới. Thôi chết rồi! Cũng may hắn vẫn còn có trực giác của một tên trộm, nhận ra đám người đó chính là cảnh sát mặc thường phục, Hidemoto lập thức tháo chạy. Hắn lao ngay vào con hẻm bên cạnh, rồi chỉ biết phó mặc cho đôi chân chạy bán sống bán chết. Hắn còn chẳng rõ mình đang chạy đi đâu, chỉ biết phải chạy cho thật nhanh. Chạy được một lúc cuối cùng hắn cũng phải dừng lại vì không còn chút sức lực nào nữa. Hắn dỏng tai nghe ngóng nhưng không thấy động tĩnh gì. Xem ra thoát rồi. Trời tối đen như mực làm hắn lao phải con hẻm này nhưng hóa ra lại hay. Hidemoto thở dốc, ngồi thụp xuống nền đất bẩn thỉu. Đầu gối hắn vẫn run bần bật, hơi thở vẫn gấp gáp. Nói gì thì nói hắn đã bốn mươi sáu tuổi rồi. Hồi mười mấy, hai mươi chạy trốn kiểu này có thấm gì với hắn, nhưng giờ ở tuổi này âu cũng lực bất tòng tâm. Lần tới có khi hắn sẽ chạy không nổi, cứ ngồi đấy chờ bị tóm cũng nên. Cảm giác sợ hãi đó vẫn dai dẳng đeo bám tâm trí Hidemoto. Hắn muốn được thanh thản. Hắn muốn được giải thoát khỏi nỗi sợ khủng khiếp này. Đúng lúc thâm tâm hắn đang vang lên những suy nghĩ đó, Hidemoto chợt có linh cảm, hắn quay người lại. Ở ngay phía sau, sâu tận cùng con hẻm có một cửa hàng nhỏ. Cửa hàng trông có vẻ lâu đời với biển hiệu khang trang đề tên “Thiên đường tiền xu”. Gần nửa đêm rồi mà chừng như ở đây vẫn đang mở cửa. Tò mò không biết đó là cửa hàng gì, Hidemoto căng mắt ra nhìn. Thế rồi hắn ngạc nhiên khi thấy trong quầy bày vô số các loại bánh kẹo đủ sắc màu. Ra là một tiệm bánh kẹo à. Hồi nhỏ hắn cũng hay đến tiệm bánh kẹo lắm. Nhắc mới nhớ, lần đầu tiên hắn ăn trộm cũng là ở tiệm bánh kẹo. Hắn đã qua mắt được bà chủ tiệm, lén lút nhét một cục thạch màu đỏ vào túi, sau đó bước ra khỏi cửa trong khi trống ngực vẫn đập thình thịch. Kể từ đó, hắn bắt đầu rời xa con đường đúng đắn, sa chân vào trộm cắp. Hidemoto vừa hồi tưởng lại cảm giác hối hận pha chút hoài niệm, vừa tiến đến gần tiệm bánh kẹo như thể bị lôi cuốn bởi một sức hút lạ kỳ nào đó. Cảnh sát có thể đuổi kịp hắn bất cứ lúc nào. Hắn phải rời khỏi đây ngay lập tức. Bụng nghĩ vậy, nhưng đám bánh kẹo trong tiệm cứ níu chặt lấy trái tim hắn không rời. Bánh giầy mến mộ, Nước chanh giả bệnh, Hạnh nhân hải tặc, Kẹo thời tiết, Bánh xèo lộn xộn, Soda Tengu[1], Pinocchio Pick[2], Bánh đậu đỏ nửa đêm. Toàn những loại bánh kẹo hắn chưa thấy bao giờ, Hidemoto bỗng vui mừng khôn xiết. Hắn say sưa ngắm nghía hết loại này đến loại khác, cùng lúc đó một cái bóng to lớn chậm rãi trượt đến từ bóng tối sâu bên trong cửa tiệm. Hidemoto sửng sốt, cái bóng giờ đã biến thành một người phụ nữ cao to đứng trước mặt hắn. Người này có tạng người to con, cao hơn Hidemoto cả hai cái đầu. Chị ta mặc bộ kimono màu đỏ tím, mái tóc được tô điểm bởi vô số những trâm cài đầu. Mặt chị ta trông vẫn còn trẻ, thế nhưng tóc lại bạc trắng hết cả. Đôi môi tô son đỏ chót nở một nụ cười bí hiểm đầy ẩn ý. Người này không xoàng đâu. Hidemoto bắt đầu run lên, nhưng hắn không thể chạy trốn nổi. Toàn thân hắn không tài nào cử động, như thể nó đã bị khâu lại với cái bóng của chính mình vậy. Thế rồi, người phụ nữ lịch sự cúi đầu. “Chào mừng quý khách đến với Thiên đường tiền xu bán hàng cả ban đêm của chúng tôi. Mời quý khách cứ từ từ xem hàng.” “À, chẳng là, tôi...” “Tiệm bánh kẹo Thiên đường tiền xu của chúng tôi có thể biến điều ước của những khách hàng may mắn thành hiện thực. Chắc chắn quý khách sẽ tìm thấy món đồ mình đang cần. Nếu quý khách ngại tìm, ta sẽ tìm giúp. Nào, xin đừng khách sáo, hãy cho ta biết quý khách muốn gì.” Dứt lời, bà chủ tiệm lập tức tiến lại gần Hidemoto. Bị áp đảo bởi khí thế ấy, Hidemoto buột miệng nói ra suy nghĩ thật của mình. “Tôi muốn trở thành một tên trộm tài giỏi, một siêu trộm huyền thoại, xuất sắc hơn người, và không bao giờ bị tóm.” Nói xong, Hidemoto biết mình đã lỡ miệng. Nói vậy khác nào hắn vừa tự thú mình chính là một tên trộm. Hidemoto định chống chế rằng đó chỉ là lời nói đùa. Thế nhưng, mới đó mà bà chủ tiệm đã gật đầu mất rồi. “Nếu vậy, có một món lý tưởng cho quý khách đây. Xin quý khách đợi một lát nhé.” Nói rồi bà chủ tiệm lấy thứ gì đó từ giá đựng đồ tận trong cùng ra. Đó là một chiếc bánh mì ngọt. Mặt trên của bánh phủ lớp đường trắng trông như bánh mì chiên hoặc bánh rán vòng, nhưng hình dáng lại khác. Chiếc bánh này có hình giống cặp ria mép. Trên chiếc túi ni lông trong suốt bọc ngoài ghi dòng chữ “Bánh cuộn siêu trộm”. Trái tim Hidemoto đập rộn ràng trong lồng ngực. Chiếc bánh này là của mình! Định mệnh bảo nó phải là của mình! Trong đời hắn chưa bao giờ khao khát thứ gì đến vậy. Hắn thấy trân quý và coi trọng món bánh mì ngọt nhỏ bé này còn hơn cả vàng bạc lẫn đá quý. Bà chủ tiệm khẽ thì thầm những lời đường mật vào tai Hidemoto lúc này còn đang dán mắt vào món bánh đầy thèm thuồng. “Đây là Bánh cuộn siêu trộm. Tôi nghĩ nó chính là thứ quý khách đang tìm. Quý khách thấy sao? Chiếc bánh này có một trăm yên thôi?” Hidemoto vội vàng thọc tay vào túi tìm tiền lẻ. Không hiểu sao hắn không hề có ý định lấy cắp chiếc bánh. Đúng hơn là ý nghĩ trộm cắp thậm chí chưa từng xuất hiện trong đầu hắn. Bà chủ tiệm tươi cười nhận đồng một trăm yên từ Hidemoto. “Ồ. Quả nhiên. Đúng là đồng một trăm yên của năm Chiêu Hòa thứ năm mươi sáu rồi. Xin mời, bánh của quý khách đây.” Hidemoto giật lấy chiếc Bánh cuộn siêu trộm bà chủ tiệm đưa cho. Mình đã có nó! Mình đã có nó! Mình đã có nó rồi! Hidemoto vui mừng khôn tả, đầu óc hắn lâng lâng như thể vừa trúng vé số một trăm triệu yên. Đúng lúc đó, bà chủ tiệm lại thủ thỉ vào tai Hidemoto những lời vô cùng kỳ lạ. “Quý khách nên tiết chế vừa phải thôi. Trên đời này có những người còn may mắn hơn quý khách nhiều. Nếu quý khách quên mất điều đó thì...” Nhưng Hidemoto chẳng mảy may bận tâm tới lời cảnh báo đó. Mua được Bánh cuộn siêu trộm rồi, hắn cũng chẳng còn việc gì ở đây nữa. Hắn muốn được ở một mình nên lao như bay ra khỏi cửa hàng. Loáng một cái, Hidemoto đã đứng bên ngoài con hẻm khuất, tối tăm và yên tĩnh. Sau khi chắc chắn xung quanh không có người, Hidemoto mới nhìn ngắm chiếc bánh cuộn thật lung. Càng nhìn chiếc bánh, hắn càng bị lôi cuốn. Trên túi đựng có ghi những dòng chữ thế này: Ưu điểm của chiếc bánh này là việc có thể hành động ẩn danh dưới lớp cải trang tùy chọn. Nếu bạn khao khát được như siêu trộm Lupin tài hoa, người đã thực hiện thành công những phi vụ táo tợn và ngoạn mục mà không ai hay biết thì chiếc bánh cuộn siêu trộm này chính là dành cho bạn. Sau khi ăn bánh, ngay lập tức bạn sẽ sở hữu “năng lực trộm cắp”. Sẽ không người nào nhớ được khuôn mặt bạn và cũng sẽ chẳng ai phát hiện ra bạn được. Nào, cùng bước vào thế giới trộm cắp đẳng cấp thôi! Bước thì bước! Hidemoto xé túi ni lông, lấy chiếc bánh bên trong ra. Ở bên ngoài, Bánh cuộn siêu trộm lại càng hấp dẫn hơn. Lớp đường phủ trên mặt bánh sáng lấp lánh như những viên kim cương nhỏ xinh. Hidemoto cắn phập một miếng. Bánh ngon tuyệt vời. Vỏ ngoài giòn rụm, bên trong xốp mềm như bánh kếp. Lại thêm vị ngọt của lớp đường bọc ngoài không thể cưỡng lại được. Đang đói nên Hidemoto chỉ cắn bốn miếng đã hết bay chiếc bánh. Vừa ăn xong, hắn liền cảm thấy có gì đó rất khác thường. Dường như mọi thứ trên đời chẳng còn gì đáng sợ hết. Hidemoto đứng dậy, thong thả bước ra khỏi con hẻm. Hắn vừa ra tới mặt phố sáng đèn thì chạm trán ngay mấy người đàn ông. Hắn nhớ mặt một người trong số đó. Chính là một trong những tay cảnh sát mặc thường phục đuổi theo hắn ban nãy. Bình thường hắn đã giật nẩy mình lên, bấn loạn rẽ vào một con ngõ nào đó rồi. Hoặc hắn sẽ đột ngột quay gót, bỏ chạy thục mạng. Nhưng hẳn là nhờ ăn Bánh cuộn siêu trộm nên Hidemoto mới bình tĩnh thế này. Hắn tiến thẳng tới trước mặt đám người nọ. Khuôn mặt mấy người đàn ông mỗi lúc một gần hơn. Khi ánh mắt hai bên giao nhau, hắn mới chột dạ “Kiểu này có khi toi rồi”. Thế nhưng đám cảnh sát nhanh chóng nhìn về hướng khác, đi lướt qua hắn. Hidemoto nở nụ cười thỏa mãn. Bánh cuộn siêu trộm có năng lực thật rồi. Bọn chúng không nhớ mặt mình. Giờ mình đã có năng lực cải trang của Lupin. Hay quá! Từ giờ không còn phải canh cánh nỗi lo bị bắt nữa. Mình thích trộm gì thì trộm ấy thôi! Hidemoto nhảy cẫng lên vui sướng, chạy biến vào màn đêm. Thế rồi từ đó Hidemoto cứ trộm rồi lại trộm. Hắn không thèm đột nhập vào nhà trống hay trộm vặt vớ vẩn nữa. Giữa ban ngày ban mặt hắn đường đường chính chính bước vào những cửa hàng đá quý lớn, ních đầy đá quý vào túi ngay trước mặt nhân viên cửa hàng rồi lại thản nhiên đi ra. Vậy mà chẳng ai nhận ra hành vi phạm tội của hắn cả. Giả như ai đó có nhận ra đồ đạc của mình bị mất và đuổi theo hắn đi chăng nữa, họ cũng sẽ chẳng nhớ ra khuôn mặt hắn và cuối cùng đành bỏ cuộc thôi. Dĩ nhiên hành tung của tên trộm bí ẩn đã trở thành đề tài gây xôn xao dư luận. Hidemoto còn hân hoan phấn khích vì mỗi ngày hắn đều được báo đài nhắc tới. Mọi người đều đang đổ dồn sự chú ý vào mình. Mình cũng ra trò đấy chứ. Được rồi. Đã vậy mình sẽ học siêu trộm Lupin, gửi thư thách đấu xem sao. Gửi thư rồi mà vẫn trộm được đồ ngon lành cành đào, tên tuổi của mình lại chẳng càng nổi như cồn ấy à. Nghĩ là làm, Hidemoto gửi thư thách đấu tới đồn cảnh sát dưới danh nghĩa “siêu trộm Lupin”. “Vào ngày... tháng...,... giờ... phút, chiếc vương miện của của hàng đá quý ... sẽ thuộc về ta. Các người muốn ngăn cản ta thì cứ thử xem. Siêu trộm Lupin.” Thế rồi giữa vòng vây bảo vệ nghiêm ngặt của cảnh sát, hắn vẫn dễ dàng lấy được thứ mình muốn. Thật thú vị làm sao. Hắn tận hưởng sự hưng phấn và ly kỳ mỗi khi qua mặt được cảnh sát. Rồi cả cảm giác chẳng ai bằng mình, lẫn sự khoái trá khi báo đài công kích đám cảnh sát thiếu năng lực. Dù đây là điều hắn không tài nào hiểu nổi. Hidemoto càng ngày càng không thể dừng lại. Ham muốn sở hữu những món đồ dần biến mất, thay vào đó hắn chỉ còn cảm giác thích trộm cắp. Chuyện xảy ra sau khi hắn trở thành siêu trộm Lupin khoảng một tháng rưỡi. Hidemoto hay tin Nhật Bản mới mượn được một chiếc vương miện tuyệt phẩm từ nước ngoài. Chiếc vương miện vốn thuộc về hoàng tộc Nga, trên đó khảm những viên ngọc lục bảo và ngọc trai cỡ lớn, lộng lẫy đến sững sờ. Hidemoto liếm môi thán phục vẻ đẹp của chiếc vương miện. Đây chẳng phải là món đồ rất xứng đáng với tên tuổi của “siêu trộm Lupin” hay sao? Ồ. Ra nó đang được trưng bày tại bảo tàng à. Thế này là mỡ dâng tới miệng mèo rồi chứ gì nữa. Như thường lệ, Hidemoto gửi thư thách đấu cho cảnh sát và báo đài trước rồi mới tới bảo tàng. Biết tin siêu trộm Lupin đang nhắm tới chiếc vương miện, cảnh sát đã cho tăng cường bảo vệ rất nghiêm ngặt. Họ lại làm việc chu đáo thế này thật cảm kích quá, Hidemoto cười thầm trong bụng. Tuy nhiên, xin chia buồn. Nỗ lực của các vị cũng đành vô dụng trước năng lực của Bánh cuộn siêu trộm mà Hidemoto này sở hữu thôi. Hidemoto vừa cười khẩy vừa len lỏi qua các cảnh vệ, thoắt cái đã đứng trước chiếc vương miện. Chiếc vương miện tỏa sáng lấp lánh bên trong một hộp kính đặc biệt. Nó lộng lẫy gấp bội lần những hình ảnh trên tivi và tạp chí. Mình sẽ bổ sung nó vào bộ sưu tập chứ không bán. Thi thoảng lấy ra đội cho giống vua chúa, nghe cũng được đấy chứ. Hidemoto nghĩ bụng, thế rồi hắn chạm tay vào hộp kính. Tức thì, khóa hộp bật mở đánh tách. Hidemoto nhàn nhã lấy chiếc vương miện từ trong hộp ra, cho vào túi. Xung quanh rất đông người nhưng không ai tri hô lên cả. Bởi vì họ đâu có nhìn thấy việc Hidemoto làm. Chắc phải một phút sau khi Hidemoto cao chạy xa bay họ mới nhận ra được. Hidemoto vừa cười đắc thắng vừa lướt qua đoàn người, đi về phía lối ra. Đột nhiên có tiếng lách cách, thế rồi cổ tay hắn truyền đến một cảm giác lạ thường. Đồng thời, một giọng nói vang lên sang sảng. “Siêu trộm Lupin! Anh bị bắt vì đã thực hiện hành vi trộm cắp!” Hidemoto sửng sốt ngoảnh lại. Đó là một người đàn ông trung niên lực lưỡng. Đôi mắt sắc sảo của người này đang nhìn Hidemoto chằm chằm. Theo phản xạ, Hidemoto định chạy trốn, nhưng hắn không thể. Tay hắn đã nằm gọn trong còng số tám. Tại sao! Tại sao hắn ta lại biết? Tại sao mình lại bị tóm cơ chứ! Lòng hắn rối như tơ vò tới nỗi cơ thể kiệt quệ sức lực. Giữa lúc đó, tiếng bàn tán xôn xao mỗi lúc một lớn. “Chiếc vương miện biến mất rồi!” “Này, nghe nói Lupin bị bắt rồi...” “Nhìn kìa, có phải đằng kia không? Có phải hắn không?” “Gì chứ. Chỉ là một ông chú thôi mà. Có đúng là Lupin không vậy?” Một nhóm cảnh sát đẩy những người xung quanh sang một bên, rầm rập ập tới. “Thanh tra Mikawa!” “Tôi đây. Như các cậu thấy, tên này là Lupin. Không phải nói nhiều, bằng chứng đây.” Người đàn ông được gọi là thanh tra Mikawa kia giật lấy túi của Hidemoto, lấy chiếc vương miện ra. Xung quanh trở nên náo loạn, những lời bàn tán xì xào mỗi lúc một lớn hơn. “Người đó là thanh tra trong truyền thuyết đấy.” “Tôi cũng biết ông ấy. Ông Mikawa này chính là người đã bắt được thủ phạm cướp ngân hàng Tokugawa.” “Cả vụ bắt cóc ở Kyoto nữa. Tôi vẫn nhớ vụ đó.” “Lần này lại bắt được Lupin nữa... Cảnh sát đúng là cừ quá.” Mọi người đổ dồn sự chú ý về phía thanh tra Mikawa. Chẳng ai buồn để ý tới tên siêu trộm Lupin, tức Hidemoto đang thất thểu kia. Điều này càng khiến Hidemoto thêm phần suy sụp. Hidemoto bị dẫn giải lên xe cảnh sát giữa những ánh đèn chớp không khoan nhượng của mấy tay phóng viên ảnh. Ngồi trong chiếc xe chật chội, cuối cùng Hidemoto mới định thần lại. Mình bị bắt rồi. Rõ ràng mình không thể bị bắt, vậy mà giờ bị tóm gọn rồi. “Tại... tại sao chứ!” Hidemoto bất giác ôm lấy đầu, hét lên. “Không thể thế này được. Tao là siêu trộm Lupin. Tao không thể nào bị bắt. Đây chỉ là mơ thôi! Giấc mơ thôi! Sao có thể thế này chứ.” “Không đâu, là thật đấy.” Chẳng biết từ lúc nào, thanh tra Mikawa đã ngồi cạnh Hidemoto, ném ánh nhìn sắc sảo về phía hắn. “Tao mới nằm viện vì tai nạn không lâu mà hình như mày đã làm loạn ghê quá nhỉ. Tên khốn này. Mày dám đem cảnh sát bọn tao ra làm trò đùa đấy à. Giờ thì vào tù mà ăn năn hối cải đi nhé.” Hidemoto run lẩy bẩy khi nghĩ đến chuyện mình sẽ bị tống vào phòng giam. Nhưng hắn vẫn không thể chấp nhận thực tế và kêu gào thảm thiết. “Đây là mơ! Không thể như vậy được! Tao không thể bị bắt...” “Sao mày có thể chắc chắn như thế?” “Bởi vì tao là Lupin. Tao đã ăn bánh ở tiệm bánh kẹo ấy. Lũ cảnh sát các ngươi làm sao bắt được siêu trộm Lupin...” “Tên kia!” Thanh tra Mikawa đột ngột túm lấy cổ áo Hidemoto. Vẻ mặt viên thanh tra hơi biến sắc. “Tiệm bánh kẹo mày nói có phải tiệm Thiên đường tiền xu không?” “Hả?” Hidemoto trợn tròn mắt. Tại sao gã thanh tra này lại biết về tiệm bánh kẹo đó? “Mày... mày... mày... tiệm bánh kẹo đó...” “Đúng vậy, tao biết tiệm bánh kẹo đó đấy.” Mặt Hidemoto mỗi lúc một tái nhợt. Tim hắn dội lên những tiếng thình thịch khó chịu. “Mày đã mua gì ở đó?” “... Bánh cuộn siêu trộm.” “Hừm, đúng là ở đó có thứ như vậy thật. Thế là mày đã mua nó à? Vậy thì chấp nhận đi thôi.” “Thôi đừng nói chuyện đó nữa. Nói đi. Sao mày lại biết tiệm bánh kẹo đó?” Thanh tra Mikawa đột nhiên phì cười, buông cổ áo Hidemoto ra. “Từ hồi còn là đứa trẻ ranh, tao đã muốn trở thành một người ra tay trừng trị kẻ xấu. Sau khi nhập học trường cảnh sát, có lần tao tình cờ bắt gặp tiệm bánh kẹo đó. Và tao đã mua món bánh Pudding thanh tra anh hùng, đồng minh của chính nghĩa. Có lẽ nhờ món bánh ấy mà cho đến giờ tao chưa hề bỏ sót một tội ác nào hết.” Thanh tra Mikawa nở nụ cười giễu cợt. “Chuyện là như vậy đấy, siêu trộm Lupin à. Mày đã bị đồng minh của chính nghĩa bắt rồi, bỏ cuộc đi thôi.” “Tao... tao vẫn không hiểu!” Hidemoto gào lên. “Chẳng... chẳng phải cùng một tiệm bánh kẹo sao? Vậy mà tại sao Bánh cuộn siêu trộm của tao lại yếu hơn Pudding thanh tra anh hùng của mày chứ. Không... thể chấp nhận được!” Vừa dứt lời, Hidemoto chợt nhớ lại. Những lời cuối cùng của người phụ nữ ở tiệm bánh kẹo đó... “Quý khách nên tiết chế vừa phải thôi. Trên đời này có những người còn may mắn hơn quý khách nhiều. Nếu quý khách quên mất điều đó thì...” Thanh tra Mikawa nói với viên cảnh sát ngồi sau tay lái, “Lái xe đi.” Chiếc xe cảnh sát lăn bánh, chở theo Hidemoto với khuôn mặt như người đã chết. * * * Eshiro Hidemoto. Bốn mươi sáu tuổi. Người đàn ông có đồng một trăm yên năm Chiêu Hòa thứ năm mươi sáu. Mời các bạn đón đọc Thiên Đường Tiền Xu Tập 2 của tác giả Hiroshima Reiko.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ác Quỷ Mùa Xuân
Một cánh hoa bên lề lập dị… Phần lớn những thiếu nữ lần đầu ra mắt đều mơ ước tìm được một đức ông chồng. Tiểu thư Pandora Ravenel thì lại có kế hoạch khác. Cô gái trẻ xinh đẹp đầy hoài bão thà ở nhà và vạch ra kế hoạch kinh doanh mới còn hơn trở thành một phần của mùa vũ hội London. Nhưng chỉ một đêm trong phòng khiêu vũ sáng lấp lánh, cô đã bị bẫy vào một vụ bê bối lớn với một anh chàng xa lạ điển trai. Một kẻ phóng đãng đầy hoài nghi… Sau nhiều năm thành công trong việc tránh xa bẫy hôn nhân một cách dễ dàng. Gabriel, Đức ngài St. Vincent, cuối cùng cũng bị cùm-chân lại bởi một cô gái nổi loạn vô phép nhất. Thật ra thì cô chẳng muốn dính dáng gì đến chàng cả. Nhưng Gabriel lại thấy mình không thể cưỡng lại ý chí kiên cường của Pandora. Anh sẽ làm bất cứ điều gì để có được cô, ngay cả khi cuộc hôn nhân của họ chỉ để thuận tiện hóa một ‘bản hợp đồng của quỷ’. Một âm mưu nguy hiểm… Sau khi chịu khuất phục trước vẻ phong trần cùng sự gợi cảm của Gabriel, Pandora đồng ý trở thành cô dâu của anh. Nhưng ngay sau đó cô phát hiện ra những nỗ lực kinh doanh của mình đã vô tình trở thành đồng minh cho một âm mưu nguy hiểm và chỉ có chồng cô mới có thể giữ cho cô được an toàn. Và khi Gabriel bảo vệ cô khỏi một kẻ thù còn chưa xuất đầu lộ diện, thì họ đã nhận ra ‘bản hợp đồng của quỷ’ giữa họ chính là sự khởi đầu tuyệt vời nơi thiên đường. ***   Evangeline, Nữ công tước của Kingston, bế cháu trai sơ sinh của mình ra khỏi bồn tắm cho trẻ con và quấn cậu bé trong một chiếc khăn mềm màu trắng. Cười khúc khích, đứa bé gồng đôi chân cứng cáp của mình và cố gắng đứng trong lòng bà. Đứa trẻ khám phá khuôn mặt và mái tóc của bà bằng bàn tay ướt át, và Evie bật cười trước sự âu yếm trìu mến của đứa cháu. "Nhẹ thôi nào, Stephen." Bà nhăn mặt khi cậu bé nắm lấy sợi ngọc trai kép quanh cổ bà. “Ồ, ta biết ta không nên đeo những thứ đó vào lúc tắm cho cháu mà. Quá nhiều c-cám dỗ.” Evie thường nói lắp, mặc dù bây giờ nó đã nhẹ đi rất nhiều so với thời bà còn trẻ.       “Thưa Đức bà,” cô bảo mẫu trẻ, Ona, kêu lên, chạy nhanh về phía bà. “Tôi lẽ ra phải nâng cậu chủ nhỏ Stephen ra khỏi bồn tắm cho bà. Một cậu bé mũm mĩm. Cậu ấy chắc như một viên gạch vậy”.       “Thằng bé không gây rắc rối gì cả,” Evie trấn an cô ta, hôn lên đôi má ửng hồng của đứa bé và cạy nắm tay đang túm chặt chuỗi vòng ngọc trai của cậu ra.       “Đức bà thật tốt bụng khi giúp chăm sóc đứa trẻ trong ngày nghỉ của bà vú.” Cô bảo mẫu cẩn thận bế đứa bé khỏi vòng tay của Evie. "Bất kỳ người giúp việc nhà nào cũng sẽ rất vui khi làm việc đó, vì bà có nhiều việc quan trọng hơn phải làm."       “Không c-có gì quan trọng hơn các cháu của ta. Và ta thích dành thời gian trong phòng trẻ - điều đó khiến ta nhớ lại khi các con ta còn nhỏ”.       Ona cười khúc khích khi Stephen với lấy chiếc mũ trắng xù trên đầu cô. "Tôi sẽ rắc phấn và mặc quần áo cho cậu ấy ngay bây giờ."       “Ta sẽ thu dọn đồ trong bồn tắm,” Evie nói.       “Thưa Đức bà, bà không cần làm điều đó." Rõ ràng là cô bảo mẫu đang cố gắng đạt được sự cân bằng hiệu quả giữa thái độ nghiêm khắc và cầu xin. "Không phải trong bộ váy lụa tuyệt đẹp của bà - bà phải ngồi trong phòng khách và đọc sách, hoặc thêu một cái gì đó." Khi Evie hé môi để tranh luận, Ona nói thêm một cách đầy ẩn ý, "Bà vú sẽ lấy đầu tôi nếu bà ấy biết tôi đã để bà giúp đỡ những việc mà tôi có thể làm được."       Bỏ cuộc.       Biết rằng Bà vú sẽ lấy đầu của cả hai người họ, Evie đáp lại bằng một cái gật đầu cam chịu, mặc dù bà không thể cưỡng lại việc lẩm bẩm, "Tôi đang đeo tạp dề."       Cô bảo mẫu rời khỏi phòng tắm với một nụ cười mãn nguyện, bế Stephen đến phòng trẻ.       Vẫn quỳ trên tấm thảm tắm trước bồn tắm, Evie đưa tay ra sau tháo dây buộc chiếc tạp dề bằng vải nỉ. Bà nghiêm túc nhận thức rằng không dễ dàng gì để đáp ứng kỳ vọng của những người hầu về cách cư xử của một nữ công tước. Họ quyết tâm không cho bà làm điều gì vất vả hơn là khuấy trà bằng một chiếc thìa bạc. Và khi đã là bà của hai đứa cháu, bà vẫn còn mảnh mai và cân đối - có thể dễ dàng nhấc một đứa trẻ sơ sinh trơn trượt khỏi bồn tắm, hoặc nô đùa với lũ trẻ qua vườn cây ăn quả. Mới tuần trước, bà đã bị người làm vườn la rầy vì đã trèo qua một bức tường đá xếp chồng lên nhau để lấy một vài mũi tên đồ chơi bị lạc.       Khi đang loay hoay với chiếc nút tạp dề cứng đầu, Evie nghe thấy tiếng bước chân phía sau. Mặc dù không có bất kỳ âm thanh hay dấu hiệu nào khác về danh tính của vị khách, nhưng bà biết đó là ai, ngay cả trước khi ông quỳ xuống sau lưng bà. Những ngón tay mạnh mẽ gạt tay bà ra, và nút thắt được giải phóng bằng một lực kéo khéo léo.       Một tiếng thì thầm trầm đục vuốt ve làn da nhạy cảm ở gáy bà. “Ta thấy chúng ta đã thuê được một bảo mẫu mới. Thật thú vị." Đôi tay nam tính thông minh luồn xuống bên dưới chiếc tạp dề đang nới lỏng, di chuyển một cách êm ái từ eo lên đến ngực bà. “Đúng là một tiểu yêu tinh. Ta đoán em sẽ ở đây.”       Evie nhắm mắt lại, tựa lưng vào giữa hai đùi dang rộng của ông. Một cái miệng dịu dàng, được thiết kế cho tội lỗi và cảm giác, lướt nhẹ trên cổ bà.       “Ta nên cảnh báo em,” giọng nói quyến rũ tiếp tục, “nên giữ khoảng cách với chủ nhân. Hắn ta là một kẻ dâm đãng khét tiếng."       Một nụ cười nở trên môi bà. “Tôi cũng từng nghe thấy điều đó. Anh ta có xấu xa như người ta nói không?”       “Không. Tệ hơn nhiều. Đặc biệt là đối với những phụ nữ có mái tóc đỏ.” Ông tháo vài chiếc ghim từ mái tóc của bà cho đến khi một bím tóc dài buông xuống vai bà. “Cô gái tội nghiệp - Ta e rằng hắn sẽ không để cho em yên.”       Evie rùng mình trong khoái cảm quen thuộc khi bà cảm thấy ông hôn dọc theo một bên cổ bà. "T-tôi nên xử trí với anh ta như thế nào?"       “Như mọi khi,” ông nói giữa những nụ hôn.       Một tiếng cười khúc khích bất lực thoát ra khỏi bà khi bà xoay người trong vòng tay ông để đối mặt với ông.       Ngay cả sau ba thập kỷ kết hôn, trái tim của Evie vẫn lỗi nhịp khi nhìn thấy chồng bà, trước đây là Đức ngài St.Vincent, giờ là Công tước của Kingston. Sebastian đã trưởng thành thành một người đàn ông hào hoa với vẻ ngoài vừa đáng sợ vừa chói mắt. Kể từ khi lên làm công tước mười năm trước, ông đã có được một phẩm giá xứng đáng với một người có quyền lực đáng kể của mình. Nhưng không ai có thể nhìn vào đôi mắt xanh nhạt cuốn hút ấy, sống động với những tia lửa và băng giá, mà không nhớ rằng ông đã từng là kẻ gian ác nhất nước Anh. Ông ấy vẫn vậy - Evie có thể chứng thực điều đó.       Thời gian đã đối xử với Sebastian một cách chiều chuộng, và sẽ luôn như vậy. Ông là một người đàn ông đẹp, gầy và thanh lịch, mái tóc vàng nâu của ông  giờ được phớt nhẹ màu bạc ở thái dương. Một con sư tử ngủ đông, người mà không ai có thể vượt qua ngoại trừ với nguy cơ của chính họ. Sự trưởng thành đã cho ông một vẻ ngoài lạnh lùng, uy quyền sâu sắc, cảm giác của một người đàn ông đã từng nhìn thấy và trải nghiệm đủ để ông hiếm khi có thể bị vượt mặt. Nhưng khi có thứ gì đó thích thú hoặc chạm vào ông, nụ cười của ông vừa rực rỡ vừa không thể cưỡng lại được.       “Ồ, em đấy ư,” Sebastian nói với giọng hơi ngạc nhiên, dường như đang suy nghĩ về việc cuối cùng ông đã quỳ gối trên tấm thảm phòng tắm với vợ trong tay như thế nào. "Ta đã chuẩn bị để gỡ rối cho một cô hầu gái đầy kháng cự, nhưng em là một trường hợp khó khăn hơn.”       “Anh có thể cám dỗ em,” Evie vui vẻ đề nghị.       Chồng bà mỉm cười, ánh nhìn rực rỡ của ông nhẹ nhàng di chuyển trên khuôn mặt bà. Ông vuốt lại một vài lọn tóc thanh thoát đã chuyển từ màu hồng ngọc sang màu mơ mềm mại. “Tình yêu của anh, anh đã cố gắng làm điều đó trong ba mươi năm nay. Nhưng bất chấp những nỗ lực tận tâm của anh . . . ” Một nụ hôn ngọt ngào gợi tình sượt qua môi bà. “. . . em vẫn có đôi mắt ngây thơ của bông hoa bên lề nhút nhát mà anh đã bỏ trốn cùng. Em không thể cố gắng trông có một chút mệt mỏi ư? Hay vỡ mộng chẳng hạn?” Ông lặng lẽ cười trước những nỗ lực của bà và hôn bà lần nữa, lần này với một áp lực đầy trêu chọc, cảm giác khiến mạch máu bà đập nhanh hơn. Mời các bạn đón đọc Ác Quỷ Mùa Xuân của tác giả Lisa Kleypas.
Dải Sam
Một người phụ nữ thuộc tầng lớp bần cùng và bị khinh rẻ nhất trong xã hội Ấn Độ, người phải đi nhặt phân sống của dân làng bằng đôi bàn tay trần. Một cô gái trẻ đang sống bình yên tại một miền biển nước Ý, ngày ngày cần mẫn làm việc trong xưởng sản xuất của gia đình. Và một nữ luật sư danh tiếng tại vùng biển Canada, với hai đời chồng, ba đứa con cùng một sự nghiệp đầy hứa hẹn. Dải Sam là một câu chuyện cảm động về 3 người phụ nữ này, những người phụ nữ không chịu khuất phục trước số phận mà người khác đã định đoạt cho họ. Bạn có thể lướt qua họ hàng ngày trên đường phố. Trước con mắt vô tình của bạn, họ hiện ra như những người hết sức bình thường, nhưng bạn không hề biết về cuộc tranh đấu mà họ đang theo đuổi có khi phải đánh cược bằng cả mạng sống. Cuộc đấu tranh mà bạn không hề biết tới ấy, chúng thật sự phi thường. Smita, Giulia và Sarah sẽ khiến bạn phải tự hỏi: Nếu ở vào hoàn cảnh của họ, liệu bạn có thể có sự can đảm và quyết đoán đến thế không? Và rồi bạn sẽ tìm được câu trả lời cho chính mình, rằng ta buộc phải trở lên mạnh mẽ không ngờ khi ra rơi vào hoàn cảnh không có sự lựa chọn nào khác. *** Ngay trong hai tuần đầu phát hành, tác phẩm “Dải sam” (tên gốc La Tresse) của nữ nhà văn người Pháp Laetitia Colombani đã tạo ra một cơn sốt mới khi cuốn sách này bán được 54.000 bản. Hai tháng sau đó, số ấn phẩm bán ra đã tăng thêm 15.000 bản. Tính đến tháng 3-2018, 340.000 bản của cuốn sách này được độc giả nồng nhiệt đón mua, đây thực sự là niềm ao ước của rất nhiều nhà văn. Không những vậy “Dải sam” còn mang về cho Laetitia Colombani vô số giải thưởng danh giá như Cúp Văn học năm 2017; Quả cầu Pha-lê năm 2018…, một thành tích nổi bật trong chuỗi hoạt động nghệ thuật của cô. “Dải Sam” xoay quanh số phận của ba người phụ nữ ở những quốc gia khác nhau. Thay vì thuật lại đời sống của từng nhân vật, tác giả đã lựa chọn cách kể xen kẽ từng khoảnh khắc cũng như các biến cố trong cuộc đời của những người phụ nữ ấy. Ba người phụ nữ ở ba vùng đất khác nhau và tưởng chừng như chẳng liên quan gì đến nhau nhưng với cách dẫn dắt của tác giả, người đọc đã cảm nhận được sự liên quan đầy thú vị giữa họ và dần tìm ra câu trả lời vì sao tác phẩm lại có tên gọi là “Dải Sam”.  Tác phẩm mở đầu với câu chuyện về Smita, một người phụ nữ Ấn Độ làm nghề dọn nhà xí. “Công việc của Smita đang làm, quả thật, không một từ ngữ nào có thể dùng để miêu tả được nó. Việc của cô là đi nhặt phân của những người khác với đôi tay trần từ sáng đến tối”. Smita vẫn nhớ cái cảm giác lần đầu tiên theo mẹ làm công việc này. “Cô đã nôn thốc, nôn tháo ở vệ đường. Smita đã học cách nín thở. Giá mà cô có thể sống mà không cần thở, nhưng rõ ràng là cô cần phải thở. Hãy nhìn xem cô ho đến mức nào. Cô cũng cần phải ăn nữa chứ. Đã từ lâu Smita mất đi cảm giác ngon miệng khi ăn. Đói ư? Cô đã không còn nhớ được cảm giác đói là như thế nào nữa rồi”. Không những vậy, cô không được phép chạm mặt những người dân làng và lại càng không được phép trò chuyện với họ. Cô không chỉ là kẻ bần cùng không ai đếm xỉa đến mà cô còn phải vô hình. Chồng cô, Nagarajan làm nghề tìm bắt chuột với hai bàn tay không. Anh cũng không thể quên ngày đầu theo bố làm công việc này. Khi đó, anh mới lên 8 tuổi. Bố Nagarajan đã dạy anh cách nhận biết những lỗ nhỏ xíu, nơi trú ẩn của loài chuột trên mặt đất. Đó là những dấu hiệu vô cùng đặc trưng. Vào ngày hôm đó, khi anh luồn tay vào trong cái lỗ. Một cơn đau nhói chạy dọc làn da, con chuột đã cắn vào phần da mỏng nhất trên tay anh. Nagarajan đã hét lên và bàn tay anh đẫm máu. Những người Dalit như Nagarajan không được nhận thù lao, họ chỉ có quyền giữ lại những gì mình kiếm được và vì thế, chuột là những gì anh được nhận. Buổi tối, gia đình anh ăn những con chuột nướng với cơm. Nghề nhặt phân và nghề bắt chuột đều là những công việc “cha truyền con nối”. Như lời tác giả đã viết, đó là “một vòng tròn mà không ai có thể thoát ra. Một cái nghiệp nặng nề!”. Vào buổi sáng nọ, Smita đã đưa ra một quyết định liều lĩnh, đó là đưa con gái 6 tuổi của cô, Lalita đến trường. Cô cho rằng, đó là cách giúp con gái cô thoát khỏi cái công việc bẩn thỉu và bị xã hội khinh rẻ. Nhưng mọi chuyện đâu dễ dàng như những gì cô nghĩ. Dù lão thầy giáo đã nhận tiền của Smita và nhận con gái cô nhưng ngay trong ngày đến trường đầu tiên, tất cả những gì con bé Lalita nhận được chỉ là những làn roi mây đánh đập khiến làn da đứa trẻ “như bị chẻ nứt làm đôi, những vết máu vẫn còn mới đây. Sắc đỏ son tứa ra như dấu chân bindi trên trán”. Đâu chỉ dừng lại ở đó, đứa trẻ 6 tuổi ấy còn phải hứng chịu những lời phỉ báng: “Mày sẽ chết trong đống phân như mẹ mày và bà mày. Sẽ chẳng có gì ở đây dành cho chúng mày, lũ tiện dân, thứ đồ bỏ đi của nhân loại, không có gì ngoài thứ mùi ô nhục ghê tởm đó, qua hàng thế kỉ, chỉ có phân của những kẻ khác, chất thải của thế giới này là thứ để chúng mày lượm lặt”. Đến giờ ăn trưa, lão thầy giáo còn tịch thu hộp cơm của Lalita và không cho cô bé ăn. Trước những hành động thô bạo, đầy khinh miệt, cô bé không khóc, không gào thét, không hé răng nửa lời, không cầu xin. Cô bé thật mạnh mẽ, đầy phẩm cách!  Smita cảm thấy tự hào cho sự dũng cảm của đứa con gái bé nhỏ nhưng người phụ nữ chưa bao giờ tỏ ra yếu mềm, đầu hàng trước những cay đắng mà cuộc sống đưa lại ấy bỗng chốc trở nên nhỏ bé như chính đứa con của cô và bật khóc cho những hy vọng nhỏ nhoi vừa bị dập tắt của cô. Cô đã khao khát nhưng không thể mang đến một cuộc sống tốt đẹp hơn cho con gái của cô. Tuy vậy, Smita không bỏ cuộc. Cô đã trải qua nhiều đêm không ngủ và khi cô nghe người ta nhắc đến Chennai, vùng đất dành riêng cho những người Dalit, nơi đó có trường phổ thông và đại học. Không những vậy, tới đó, gia đình cô sẽ không phải ăn thịt chuột mỗi bữa, cô chẳng còn phải đi nhặt phân. Cô và chồng sẽ tìm được công việc mới và họ sẽ được mọi người tôn trọng. Một tương lai tươi sáng đang hiện ra trước mắt cô. Và cô đã đưa ra một quyết định táo bạo nhưng cũng vô cùng nguy hiểm: bỏ trốn. Anh Nagarajan, chồng cô tìm mọi lý lẽ để thuyết phục vợ. Anh lo sợ, khi bị phát giác, gia đình anh sẽ bị trừng phạt khủng khiếp. Chắc chắn, họ sẽ chết trong mục ruỗng, chết theo cách thảm khốc nhất có thể. Người ra sẽ không bao giờ buông tha cho con gái họ. Và một điều khác, họ hoàn toàn trắng tay vì họ đã trao hết số tiền tích góp còm cõi cho thầy giáo Lalita để con bé được đi học. Smita quyết định lấy lại số tiền thầy giáo Lalita đã nhận của vợ chồng cô. Cô biết vợ lão ta giấu ở đâu và cô sẽ tới để cầm đi đúng số tiền của mình, không hơn một roupie. Smita đã kiên cường mang theo đứa con gái bỏ trốn, kể cả khi chồng cô không đi theo. Vượt qua bao khó khăn, thử thách, nỗi sợ hãi bị phát hiện trên suốt quãng đường trốn chạy, cuối cùng, cô và con gái đã an toàn đặt chân đến ga Tirupati. Smita quyết định không đến Chennai như dự kiến, cô sẽ cùng con gái đi về phía ngọn núi linh thiêng Tirumala để tạ ơn Lord Venkateshwara, vị “Chúa tể của Bảy Ngọn Đồi” – một trong những hoá thân của thần Vishnou. Người ta tin rằng, Ngài sẽ nghe thấy tất cả những lời thỉnh cầu trong đau khổ của người dân và biến những mong muốn đó thành hiện thực. Khi bước chân đến Đền Thờ Vàng, Smita và con gái cũng giống như những người nghèo khổ khác, họ đã dâng lên Lord Venkateshwara thứ tài sản duy nhất của họ, đó là mái tóc. Truyền thống này vẫn được duy trì đến ngày nay dù tuổi đời của nó cũng lên tới cả hàng vạn năm. Người dân dâng lên thần linh mái tóc của họ nhằm thể hiện rằng, họ sẵn sàng hy sinh cái “tôi” của mình, chấp nhận xuất hiện trước Chúa trời trong hình hài khiêm nhường nhất, trần trụi nhất. Smita nhìn thấy dưới chân mình một mớ tóc đen huyền, đó từng là một thời trở một phần của cô nhưng giờ đã trở thành ký ức. Cô cảm nhận tâm hồn và thể xác mình hoàn toàn tinh khiết, như được ban phước lành và đã sẵn sàng cho một tương lai tươi sáng ở phía trước. Tác giả không kể tiếp đoạn sau của cuộc đời Smita và con gái của họ ra sao nhưng bà đã ưu ái dành những lời văn tràn đầy hy vọng để kết thúc câu chuyện của Smita như sau: “Khi rời khỏi Điện Thờ Vàng, tay nắm chặt tay con gái, Smita không cảm thấy buồn bởi cô biết chắc một điều, trước lễ vật của họ, Chúa Trời sẽ biết cách để tỏ lòng đền đáp”. Ai sẽ giúp Giulia cứu lấy xưởng làm tóc bên bờ vực phá sản của gia đình cô? Mái tóc của hai mẹ con Smita đã vượt qua nhiều đại đại dương và bao vùng đất để đến với xưởng làm tóc của gia đình cô gái Giulia (sống ở Sicillia, nước Ý). Chính mái tóc của những người phụ nữ như Smita đã mang đến cuộc sống mới cho xưởng làm tóc lâu đời ngấp nghé bờ vực phá sản của gia đình Giulia cũng như mối tình rạo rực, đầy yêu thương giữa cô và người đàn ông nhập cư, không xu dính túi. Có thể nói, tác giả đã dành những trang văn vô cùng lãng mạn để miêu tả chuyện tình giữa Giulia và người đàn ông khiến cô chưa bao giờ cảm thấy bối rối đến thế, Kamaljit Singh. Lần đầu tiên cô gặp Kamal là khi anh xuất hiện trong một lễ diễu hành trên phố. Và lần đầu tiên họ bắt chuyện với nhau là khi cô vô tình gặp lại anh tại một thư viện. Lần này, cô đã bạo dạn tiến gần đến anh và ngỏ ý giúp anh lựa chọn một cuốn sách cải thiện khả năng viết bằng tiếng Ý. Chàng thanh niên da sẫm màu Kamaljit Singh đã cầm lấy cuốn sách và không quên cảm ơn cô trước khi ra về. Ngày hôm sau, Giulia quay trở lại thư viện và ấp ủ niềm hy vọng thầm kín sẽ được nhìn thấy anh thêm một lần nữa. Và điều mong ước ấy đã hiện ra trước mắt cô. Cô thật sự bất ngờ và trái tim cô như ngừng đập khi nhìn thấy chàng trai kia đang đứng đúng chỗ họ trò chuyện ngày hôm và vô tình ngước mắt về phía cô như thể anh đang chờ cô tới. Thì ra, lý do anh đến đây là bởi, anh muốn mang tặng cô một chai dầu ô liu ở trang trại anh làm việc để cảm ơn cô. Cảm động trước sự chu đáo, dịu dàng và phẩm cách của anh, Giulia ngỏ ý mời anh đi dạo vài bước cùng cô trên con đập chắn sóng. Kể từ sau ngày hôm đó, cả hai gặp nhau mỗi ngày. Họ hẹn nhau ở thư viện, cùng nhau đi ăn trưa và cuối cùng là đi dạo bên bờ biển. Điều khiến cô vừa tò mò vừa thích thú ở người đàn ông này là vì anh không giống như những người đàn ông trong gia đình cô. Nét tính cách phổ biến của họ là gia trưởng, dễ nổi nóng và ngoan cố.  Chuyện tình của họ ngày càng đi xa hơn, cho đến một ngày, Giulia dẫn anh đến một cái hang, không ai biết tới. Cô muốn chỉ cho anh thấy, đó là nơi thỉnh thoảng cô thường tìm đến để đọc sách. Đó thực sự là nơi yên tĩnh, ẩm ướt và tối tăm. Và rồi chuyện đó cũng đã đến! Mời các bạn đón đọc Dải Sam của tác giả Laetitia Colombani.
Con Gái Của Mẹ
Con gái của mẹ là một cuốn tiểu thuyết được kết tinh bởi nước mắt, dằn vặt và một bí mật bị chôn vùi trong suốt nhiều năm. Câu chuyện xoay quanh cuộc sống khốn khổ của ba người phụ nữ vì sự trớ trêu của số phận và lời nói dối kéo dài gần bốn thập kỷ.   “Khi tôi nhìn thấy khuôn mặt bé con của mình lần đầu tiên, tôi đã cố gắng hết sức để lưu giữ hình ảnh ấy khắc sâu vào trong tim. Khi con bé bị đưa đi, tôi sẽ không bao giờ nhìn thấy nó nữa…” 38 năm sau Sabina, cô gái nhỏ bé năm nào mang thai thiên thần của riêng mình và cô không hiểu sao một người mẹ lại có thể bỏ rơi đứa con của mình và tại sao bố mẹ cô lại giữ bí mật về chuyện đó. Sabina quyết tâm tìm kiếm người phụ nữ đã từng vứt bỏ mình. Nhưng những thứ cô khám phá ra lại khiến mọi thứ thay đổi, ngoại trừ việc người phụ nữ ấy vẫn đau đáu nhớ thương cô suốt những năm qua. *** Tôi vô cùng may mắn khi lại được hợp tác với đội ngũ của Bookouture để cho ra đời cuốn sách này, đặc biệt là Oliver Rhodes - tôi không biết cảm ơn sao cho đủ. Emily Ruston, cảm ơn cô rất nhiều vì đã kiên trì hỗ trợ, nhất là khi tôi bí ý tưởng. Và Jennie Ayers, cảm ơn bạn vì công tác biên tập xuất sắc. Về phần bạn bè và gia đình, những người đã đóng góp ý tưởng và phản hồi cho những bản thảo đầu tiên - Melissa, Tracy, mẹ, dì Chris và Jodie - cảm ơn mọi người. Và Sally - cảm ơn cặp mắt tinh tường của cháu! Về phần ‘Phocas phamily’ của tôi - đặc biệt là Cody, Bill và Val - cảm ơn vì sự ủng hộ của các bạn. Khi phải chịu sức ép từ một câu chuyện, tôi có thể bị ám ảnh, gắt gỏng và khó gần - vậy nên lời cảm ơn to lớn nhất xin dành cho Dan - chồng tôi, những đứa con tuyệt vời của chúng tôi, bạn bè và gia đình tôi - những người luôn kiên nhẫn - cảm ơn tất cả mọi người đã chịu đựng tôi trong suốt quá trình thực hiện cuốn sách. Và cuối cùng, xin lưu ý: mặc dù nhiều nhà hộ sinh hay nhà cho ‘mẹ và bé’ tồn tại ở Úc cho tới nửa sau thế kỷ XX, song bối cảnh của cuốn tiểu thuyết này (‘Nhà hộ sinh thành phố Orange’) chỉ là một địa điểm hư cấu. *** Trong gia đình tôi, ai cũng biết rõ một sự thật, đó là tôi không giỏi giữ bí mật. Tôi nhớ từ trước tới nay, chỉ có hai lần tôi giữ được điều gì đó thú vị cho bản thân. Lần đầu là khi tôi phải lòng người bạn thân. Chúng tôi ra ngoài ăn tối với một nhóm bạn và khi đang thưởng thức món khai vị, tôi bắt gặp anh đang nhìn tôi chăm chú với tình yêu và niềm kiêu hãnh, đến mức ánh mắt ấy có thể làm tôi tan chảy. Tôi cố gắng giữ phát hiện đáng ngạc nhiên đó cho mình trong vài giờ - nhưng ngay khi những người khác vừa về khỏi, tôi lại buột miệng kể ra trong khi đang nói về một chuyện hoàn toàn không liên quan. Ted bảo rằng suốt buổi tối, tôi đã tránh ánh mắt anh, làm anh thắc mắc mãi. Anh bảo dù tôi không nói ra những điều thầm kín, nhưng đôi mắt tôi lại không vâng lời… nếu tối hôm đó, chỉ cần tôi nhìn anh, thì tôi sẽ không cần phải nói thêm lời nào. Tôi cho rằng chính vì cái lịch sử giữ bí mật tồi tệ như vậy nên cũng thật ngạc nhiên tôi có thể giấu mẹ tròn hai ngày việc tôi mang thai. Biết tôi không giữ mồm giữ miệng, chúng tôi phải luôn đề phòng - tôi mời cha mẹ tới ăn tối và ngay khi chúng tôi thống nhất ngày giờ xong, Ted lấy di động của tôi và giấu biến đi. Kể cả không dùng tới biện pháp cực đoan như vậy, tôi cũng chắc chắn lần này, mình sẽ giữ được bí mật. Tôi muốn lời thông báo phải thật đặc biệt. Là con một, tôi vẫn luôn cảm thấy một áp lực vô hình là phải cho họ một đứa cháu. Cha mẹ chưa từng đề cập với tôi về việc lập gia đình và sinh con, nhưng ở tuổi gần 40, tôi thấy bạn bè họ đều có một đàn cháu tíu tít, ồn ào. Họ trao đổi những câu chuyện tự hào khi được làm ông bà chẳng khác nào trẻ con trao đổi thẻ trò chơi và cho đến thời điểm đó, cha mẹ tôi thì chẳng có gì để kể ngoài những câu chuyện về sự nghiệp giảng dạy không ấn tượng lắm của tôi và những chuyến du lịch với Ted. Sẽ thật tuyệt nếu cha mẹ dùng bữa với chúng tôi rồi sau đó, trong lúc uống cà phê, chúng tôi sẽ lịch sự thông báo, nhưng chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra. Thay vào đó, tôi đứng ở cửa chào họ với hai hộp quà được bọc kĩ càng và hẳn là kèm một nụ cười tươi khó hiểu còn mắt thì đẫm lệ. “Sabina, mọi việc đều ổn chứ con? Cái này để làm gì?” Mẹ do dự đón lấy chiếc hộp. Mẹ dùng tay kia treo túi xách lên giá áo gần cửa ra vào rồi cẩn thận tháo khăn quàng và móc lên trên cùng. Cha bước vào sau và đặt một nụ hôn phớt như thường lệ lên má tôi, sau đó nhận món quà và tò mò lắc hộp. “Cha à! Đồ dễ vỡ đấy!” Tôi bật cười, tay thiếu kiên nhẫn giơ lên giục họ đi vào trong để đóng cửa. Tôi thấy họ trao nhau ánh nhìn bối rối và cảm thấy đôi gò má mình căng ra vì cười nhăn nhở. “Hai người ngồi xuống và mở hộp đi ạ. Ôi, nhanh lên nào!” Ted đứng trong góc nhà quan sát - góc mà chúng tôi trưng dụng làm bếp. Anh đang kiểm tra món ăn công phu mà tôi chuẩn bị dở trước khi bị phân tâm vì loay hoay thắt ruy-băng thật chỉnh tề trên những hộp quà. Chồng tôi có những biểu hiện kỳ lạ từ sáng hôm kia, khi chúng tôi đứng trong phòng tắm chứng kiến hai vạch hiện lên trên que thử thai. Ted rất hồi hộp và phấn chấn, đúng như tôi mong đợi, nhưng tôi không ngờ anh lại vui sướng đột ngột vậy. Chúng tôi đã sẵn sàng cho chuyện này, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Khi cha mẹ đã yên vị và bắt đầu tháo ruy-băng trên hộp quà, Ted dựa vào bức tường cạnh lò nướng và khoanh tay trước ngực. Anh nhìn tôi và tôi cảm nhận được niềm vui tràn ngập giữa chúng tôi. Chúng tôi đã giữ được một bí mật trong tim đến tận phút cuối mà không ai biết. Cha mở hộp trước. “Một chiếc cốc ư?” ông bối rối nói. Ông xoay chiếc cốc trắng và thấy dòng chữ ở bên kia chiếc cốc. Ông ngoại tuyệt vời nhất thế giới. Cha choáng váng nhìn tôi, rồi suýt làm rơi cốc vì chạy như bay tới ôm tôi. “Sabina! Ôi, con yêu!” Đúng như dự đoán, tôi cười và rớt nước mắt thấm vào vai áo cha khi nghe ông phát biểu cảm tưởng về tin vui này. “Con biết tin từ khi nào?” “Mấy hôm trước ạ.” “Vậy khi nào con bé ra đời?” “Con bé?” tôi bật cười. “Nó sẽ ra đời vào tháng Mười Một ạ.” “Hai con đã nghĩ tới chuyện đầu tư vào trái phiếu giáo dục chưa? Chẳng bao giờ là quá sớm đâu. Các ưu đãi thuế cũng rất lớn đấy. Tuần tới, cha sẽ gửi ít thông tin qua mail cho các con. Sabina, ngồi xuống nào, con cần nghỉ ngơi. Có rượu sâm panh chưa? Chúng ta cần sâm panh, một dịp như thế này không thể thiếu một chút Moët* được. Cha sẽ đi mua.” Cha nhẹ nhàng dìu tôi ngồi xuống đi-văng, giờ tôi mới liếc nhìn mẹ. Bà đã mở xong món quà và đang ngồi thần người trên ghế sofa. Bà cầm chiếc cốc, khum tay lại và chống khuỷu tay lên đùi. Đôi gò má bà hồng ửng lên, đôi mắt bà ánh lên một sự căng thẳng lạ lùng. “Megan? Mẹ không sao chứ ạ?” Ted rời góc bếp và nhanh chóng đến bên sofa và ngồi cạnh mẹ. Bà hơi run rẩy rồi dành cho Ted và tôi một nụ cười rạng rỡ. “Đây đúng là một tin vui. Mẹ rất mừng cho hai con. Mẹ không… cha mẹ thậm chí còn không biết rằng hai con đã nghĩ tới việc có con.” “Mẹ à, con đã 38 tuổi rồi. Chúng con đã kết hôn, có sự nghiệp ổn định, đã đi khắp thế giới và giờ đây, chúng con đã có một tổ ấm tại Sydney… Còn chờ đợi gì nữa?” “Con nói đúng. Tất nhiên là con nói đúng.” Bà quay lại nhìn chiếc cốc và nói nhỏ, “Nhưng 38 hay 98 đi nữa, con vẫn sẽ luôn là đứa con bé bỏng của mẹ.” “Ồ, vui lên nào, Meg,” cha đứng dậy và rờ vào túi sau tìm chìa khóa. “Bà sẽ sớm có một đứa bé thực thụ để chơi đùa cùng. Tôi đi mua sâm panh đây. Đi với cha chứ, Ted?” “Em để ý rau nhé, Hạt Đậu?” Tôi vẫn đang quan sát mẹ. Mẹ lại đang nhìn chiếc cốc. Tôi gật đầu và mỉm cười với Ted, nhưng ngay sau khi cha bước ra ngoài, tôi dùng vai ra hiệu về phía mẹ. Ted nhún vai và tôi nhăn mặt đáp trả cái nhìn bối rối của anh. Khi chỉ còn hai mẹ con, tôi quyết định giải quyết dứt điểm những căng thẳng. “Mẹ, trông mẹ có vẻ không vui lắm.” “Dĩ nhiên là mẹ phải vui chứ.” Mẹ đặt chiếc cốc vào hộp và đứng dậy, bước qua căn phòng nhỏ hẹp, chỉ trong vài bước chân đã tiến vào bếp và phòng ăn của chúng tôi. Bà đặt chiếc hộp lên bàn ăn và nhìn nó đăm đăm. “Con nói con có thai bao lâu rồi?” “Tám tuần, con nghĩ vậy. Tuần tới, con sẽ siêu âm cho chắc chắn, nhưng bác sĩ nghĩ là con sẽ sinh vào tháng Mười Một.” “Con yêu!” Mẹ quay lại nhìn chằm chằm vào tôi. “Đáng lẽ con chưa nên nói cho mọi người. Giờ chỉ mới mang thai tám tuần, không có gì đảm bảo rằng sẽ mẹ tròn con vuông.” Tôi thấy toàn thân choáng váng khủng khiếp trước những lời tàn nhẫn đó. Trong giây lát, tôi không biết nên phản ứng thế nào. Những lời của mẹ thật độc ác cùng giọng điệu sắc sảo - bà đang cảnh báo tôi. Tôi chưa từng mảy may nghĩ cái thai có thể có vấn đề gì… và làm sao có thể thế được? Tôi chưa bao giờ mang thai, tại sao tôi lại nghĩ đến điều tồi tệ nhất chứ? Tôi không chắc lúc này sắc mặt tôi thế nào, nhưng tôi ngay lập tức kìm nén nước mắt. Mẹ cau mày, tôi thấy bà siết chặt nắm tay và hít một hơi thật sâu. Mời các bạn đón đọc Con Gái Của Mẹ của tác giả Kelly Rimmer.
Danh Sách Của Schindler
Trong bóng đen khủng khiếp của các trại diệt chủng thời Đệ nhị Thế chiến, có một nhà công nghiệp Đức đã trở thành cứu tinh của người Do Thái. Oskar Schindler, con người ham lạc thú, kẻ còn lâu mới được coi là mẫu mực, cũng đồng thời là kẻ đã mạo hiểm cả mạng sống của mình để bảo vệ những đồng loại khác chủng tộc mà nếu không có ông thì hẳn đã kết thúc cuộc đời trong lò thiêu. Danh sách của Schindler đã kể một câu chuyện có thật khác thường như vậy, một câu chuyện tự nó đã có thể làm người đọc choáng váng mà không cần đến một phương tiện văn chương cầu kỳ nào. Nó có thể làm ta khóc, như bộ phim kinh điển dựng từ chính nó của Steven Spielberg đã làm cho hàng triệu người khóc, nhưng trên hết nó làm ta hiểu hơn về những gì đã xảy ra, những sự kiện, những con số, những chân dung chi tiết hơn của cả nạn nhân, thủ phạm và người cứu nạn. Holocaust là một chương lịch sử kinh hoàng gần như nằm ngoài tưởng tượng của loài người tỉnh táo. Nhưng những câu chuyện như Bản danh sách của Schindler chính là tia hy vọng trấn an, rằng ngay cả trong hố sâu tuyệt vọng nhất của lịch sử vẫn luôn có một cá nhân nào đó nhận ra và dám làm điều đúng đắn, rằng nhân tính sẽ thắng dù cho có bị thử thách khốc liệt ra sao. *** Review Trần Thông:   Trong “Danh sách của Schindler”, Thomas Keneally đã kể chi tiết về cuộc đời của một nhà tài phiệt người Đức tên là Sudeten, người thành lập một nhà máy sản xuất men ở thành phố Krakow của Ba Lan nhưng dường như nó đã bị Đức Quốc xã chiếm đóng. Oskar Schindler là một người đàn ông có uy tín và có khả năng kinh doanh đáng nể trong thời kỳ chiến tranh. Nhưng có một cuộc chiến khác nổ ra ở một nơi toàn cảnh đẹp như tranh vẽ ở Đông Âu -một cuộc chiến sẽ in hằn vết sẹo vào sâu trong lịch sử loài người: cuộc đàn áp người Do Thái. Schindler theo dõi những người Do Thái ở Krakow, mỗi người có câu chuyện của riêng mình, kể về những điều kiện chật chội của khu ổ chuột trong thành phố, bị cắt đứt khỏi cuộc sống và sau đó bị đuổi ra khỏi trại lao động đầy áp bức bóc lột dưới sự cai trị của chỉ huy tàn bạo, Amon Goeth. Nhưng trong cái bóng của sự tham lam kiếm tiền của Schindler, anh ta thể hiện một sự từ bi và lòng nhân hậu đối với các nhân viên Do Thái của mình. Với sự giúp đỡ của một kế toán viên, đồng thời cũng là người bạn lâu năm tên là Itzhak Stern, Schindler đã lập ra một danh sách không bình thường. Bằng cách thêm tên các công nhân vào danh sách, Schindler khiến họ không còn bị hỗn loạn và tàn sát ở Plaszow, mà thay vào đó là thiên đường – nơi nhà máy của anh ta đang hoạt động. Bằng cách mua chuộc các quan chức bằng những đồng tiền đen bạc, Schindler “di chuyển ngầm” bên dưới vòng quay của chế độ chuyên chế gây ra khủng hoảng cho thành phố này và cuối cùng cứu được 1.200 đàn ông, phụ nữ và trẻ em Do Thái khỏi các buồng khí của Auschwitz và Gross-Rosen. Schindler Juden sống ở mọi nơi trên thế giới và đến năm 1993, Schindler đã cứu được 6.000 trẻ em và cháu của mình một cách hiệu quả. Oskar Schindler qua đời năm 1974 và, như Keneally viết, ông được thương tiếc trên toàn thế giới. Việc câu chuyện này là có thật đã cho tôi rất nhiều niềm tin vào nhân loại. Tôi phải thừa nhận rằng cuốn sách này là tuyệt vời về mọi phương diện. Chủ đề được tiếp cận với sự nhạy cảm của tác giả khiến cho mọi câu văn trở nên cực kỳ dễ đọc. Câu chuyện không chỉ lướt qua sự tàn bạo của các sự kiện, như nhiều cuốn sách khác đã làm mà “Danh sách của Schindler” chính xác là một tiểu sử được tạo ra với cùng một kiểu tinh tế của một tác phẩm văn học. Oskar Schindler là một con người lang thang, một người nghiện rượu. Và mặc dù anh ta không bao giờ là một người chồng tốt với người vợ thẳng thắn của mình nhưng anh ta đã cứu sống 1.200 người. Thật đáng khâm phục. *** Oskar Schindler sinh ra ở Sudetenland nói tiếng Đức. Khi còn trẻ, ông là một thành viên của Đảng Quốc xã và khi chiến tranh bắt đầu, ông đã thành lập một nhà máy ở Cracow để sản xuất hàng hóa cho Quân đội Đức. Ông nhanh chóng trở nên rất giàu có với tư cách là một trong những tầng lớp tinh hoa của Đức Quốc xã. Tuy nhiên, ông và vợ Emilie trở nên kinh hoàng trước cách đối xử với người Do Thái và nhanh chóng bắt đầu thu xếp để bảo vệ những người lao động Do Thái của họ, chủ yếu bằng tiền của họ. Vào cuối cuộc chiến, họ đã cứu khoảng 1200 người Do Thái. Trong bóng đen khủng khiếp của các trại diệt chủng thời Đệ nhị Thế chiến, có một nhà công nghiệp Đức đã trở thành cứu tinh của người Do Thái. Oskar Schindler, con người ham lạc thú, kẻ còn lâu mới được coi là mẫu mực, cũng đồng thời là kẻ đã mạo hiểm cả mạng sống của mình để bảo vệ những đồng loại khác chủng tộc mà nếu không có ông thì hẳn đã kết thúc cuộc đời trong lò thiêu. Danh sách của Schindler đã kể một câu chuyện có thật khác thường như vậy, một câu chuyện tự nó đã có thể làm người đọc choáng váng mà không cần đến một phương tiện văn chương cầu kỳ nào. Nó có thể làm ta khóc, như bộ phim kinh điển dựng từ chính nó của Steven Spielberg đã làm cho hàng triệu người khóc, nhưng trên hết nó làm ta hiểu hơn về những gì đã xảy ra, những sự kiện, những con số, những chân dung chi tiết hơn của cả nạn nhân, thủ phạm và người cứu nạn. Holocaust là một chương lịch sử kinh hoàng gần như nằm ngoài tưởng tượng của loài người tỉnh táo. Nhưng những câu chuyện như Danh sách của Schindler chính là tia hy vọng trấn an, rằng ngay cả trong hố sâu tuyệt vọng nhất của lịch sử vẫn luôn có một cá nhân nào đó nhận ra và dám làm điều đúng đắn, rằng nhân tính sẽ thắng dù cho có bị thử thách khốc liệt ra sao. ​*** Năm 1980 tôi vào một tiệm bán vali ở Beverly Hills, California hỏi giá cặp tài liệu. Chủ tiệm là Leopold Pfefferberg, một cựu tù sống sót của Schindler. Chính tại đây, dưới những giá đồ da nhập khẩu từ Ý của Pfefferberg, lần đầu tiên tôi được nghe về Oskar Schindler, gã lãng tử phong lưu người Đức, nhà đầu cơ, kẻ mê hoặc, biểu tượng của sự đối lập, và về nỗ lực của Oskar nhằm giải cứu một bộ phận của một chủng tộc bị tru di, trong những năm tháng về sau được biết tới qua cái tên chung là Holocaust. Cuốn sách về cuộc đời oanh liệt của Oskar này trước hết dựa trên nội dung phỏng vấn năm mươi cựu tù ở bảy quốc gia - Australia, Israel, Tây Đức, Áo, Mỹ, Argentina và Brazil. Nó được làm phong phú thêm bằng một chuyến đi, được sự đồng hành của Leopold Pfefferberg, đến các địa điểm xuất hiện nổi bật trong sách: Cracow, nơi Oskar chọn làm quê hương; Płaszów, nơi đặt trại lao động khủng khiếp của Amon Goeth; phố Lipowa, Zablocie, nơi ngày nay nhà máy của Oskar còn đứng đó; Auschwitz-Birkenau, từ đây Oskar đã giải cứu đoàn tù nữ. Những câu chuyện còn căn cứ vào hồ sơ tư liệu và những thông tin khác từ một vài cộng sự thời chiến của Oskar mà tác giả còn có thể tiếp cận, cũng như đông đảo bạn bè thời bình của ông. Nhiều lời chứng chi tiết về Oskar, do các cựu tù Do Thái gửi tới Yad Vashem, Cơ quan Tưởng niệm các Anh hùng và bậc Tử vì đạo, giúp câu chuyện thêm phong phú hơn nữa. Bên cạnh đó là lời chứng bằng văn bản từ các nguồn riêng và bộ sưu tập giấy tờ, thư tín của Schindler, một số của Yad Vashem, số khác do bạn bè Oskar cung cấp. Sử dụng chất liệu cùng thủ pháp tiểu thuyết để kể một câu chuyện có thật là lối đi quen thuộc của văn chương hiện đại. Đó cũng là con đường tôi lựa chọn ở đây - vì viết tiểu thuyết là kỹ năng duy nhất tôi nắm chắc, và các kỹ thuật tiểu thuyết có vẻ phù hợp với một nhân vật mơ hồ và có tầm vóc như Oskar. Dù vậy tôi vẫn cố gắng hạn chế hư cấu hoàn toàn, vì hư cấu sẽ xói mòn giá trị của câu chuyện, và cố gắng phân biệt hiện thực và những huyền thoại thường gắn liền với một con người tầm cỡ Oskar. Đôi khi tôi buộc phải tái tạo một cách hợp lý những đối thoại mà Oskar và các bên tham gia chỉ để lại ký lục hết sức vắn tắt. Song phần lớn các trao đổi và đối thoại, cùng mọi sự kiện, đều căn cứ theo hồi ức chi tiết của các Schindlerjuden (người Do Thái của Schindler), của bản thân Schindler, và nhiều người khác có cơ hội chứng kiến nghĩa cử phi thường của Oskar. Trước tiên, tôi xin cảm ơn ba cựu tù sống sót của Schindler - Leopold Pfefferberg, Thẩm phán Moshe Bejski tại Tòa án tối cao Israel, và Mieczyslaw Pemper - những người không chỉ gửi gắm cho tác giả ký ức của mình về Oskar, và cung cấp tài liệu góp phần vào sự chính xác của câu chuyện, mà còn đọc bản thảo đầu tiên và góp ý những điểm cần sửa chữa. Nhiều người khác, từ các cựu tù cho đến đồng sự của Oskar thời hậu chiến, đã trả lời phỏng vấn và nhiệt tình đóng góp thông tin qua thư tín và tài liệu. Trong số đó có Frau(1) Emilie Schindler, bà Ludmila Pfefferberg, tiến sĩ Sophia Stern, bà Helen Horowitz, tiến sĩ Jonas Dresner, ông bà Henry và Mariana Rosner, ông Leopold Rosner, tiến sĩ Alex Rosner, tiến sĩ Idek Schindel, tiến sĩ Danuta Schindel, bà Regina Horowitz, bà Bronislawa Karakulska, ông Richard Horowitz, ông Shmuel Springmann, ông Jakob Sternberg quá cố, ông Jerzy Sternberg, ông bà Lewis Fagen, ông Henry Kinstlinger, bà Rebecca Bau, ông Edward Heuberger, ông bà M. Hirschfeld, ông bà Irving Glovin, và còn nhiều nữa. Tại thành phố quê tôi, ông bà E. Korn không chỉ chia sẻ hồi ức về Oskar mà còn là nguồn động viên thường trực. Tại Yad Vashem, tiến sĩ Josef Kermisz, tiến sĩ Shmuel Krakowski, Vera Prausnitz, Chana Abells, và Hadassah Mödlinger đã tạo điều kiện rộng rãi cho tôi tiếp cận hồ sơ nhân chứng về Schindler và các tư liệu phim, ảnh liên quan. Sau cùng, tôi muốn tôn vinh nỗ lực của ông Martin Gosch nhằm đưa cái tên Oskar Schindler đến với thế giới, và bày tỏ lòng cảm ơn bà quả phụ Lucille Gaynes, về sự hợp tác với dự án này. Nhờ sự hỗ trợ của tất cả mọi người, câu chuyện phi thường của Oskar Schindler đã lần đầu tiên xuất hiện một cách trọn vẹn. TOM KENEALLY (1) Tiếng Đức: cô, bà, dùng cho người phụ nữ đã kết hôn. ​ Mời các bạn đón đọc Danh Sách Của Schindler của tác giả Thomas Keneally.