Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nói Vậy Mà Không Phải Vậy - Robert J. Samuelson

John Kenneth Galbraith, nhà kinh tế học và nhà văn, đã dùng cụm từ “quan niệm phổ biến”[1] (conventional wisdom) từ cách đây hơn bốn thập kỷ, trong cuốn sách bán chạy nhất của ông năm 1958 với tựa đề Xã hội Thịnh vượng (The Affluent Society). Theo định nghĩa của Galbraith thì các quan niệm phổ biến là tập hợp các niềm tin của đại bộ phận con người về một đề tài hay chủ thể nhất định. Những niềm tin đó không nhất thiết phải là đúng đắn, mà chỉ đơn giản là chúng được hiểu rộng rãi và được tôn trọng. Từ đó, cụm từ này dần dần xâm nhập vào ngôn ngữ của cuộc sống hàng ngày, và khi ý nghĩa ban đầu của Galbraith vẫn tồn tại thì nó đã khơi gợi cảm hứng cho những biến thể hiện đại khác của khái niệm trên. “Quan niệm phổ biến” của Galbraith là đồng nhất, vững chắc và lan tỏa rộng khắp, còn các phiên bản sau này lại cho rằng chúng là những điều hợp xu thế, hợp thời trang một cách khôn ngoan. Nhưng cho dù cũ hay mới thì quan niệm phổ biến (như Galbraith đề cập đến) lại thường là điều sai. Đôi khi quan niệm phổ biến còn đối lập với sự thật. Nó thường là sự sắp đặt các dữ kiện và nhận thức một cách nghệ thuật và có chọn lọc, để cho thấy một chân lý đáng tin cậy - mặc dù đó là sự dối trá. Nhưng các quan niệm phổ biến tồn tại được, bởi vì nó kể lại một câu chuyện khá hấp dẫn, xét theo một mức độ nhất định nào đó. Quan niệm phổ biến có được sức mạnh là nhờ vào khả năng đáp ứng được nhu cầu tâm lý hoặc chính trị. Sau đó hành vi của chúng ta lại giúp củng cố niềm tin. Chúng ta sẽ nhìn thấy những gì mình muốn thấy, sẽ nghe được những điều mình muốn nghe. Chúng ta tìm kiếm những người có uy tín để được lặp lại và củng cố lại các niềm tin và thành kiến của mình. Galbraith đã viết: “trong một chừng mực nào đó thì sự gắn kết của quan niệm phổ biến là một nghi thức tôn giáo, đó là hành động để xác nhận lại, như đọc Kinh Thánh hay đi lễ nhà thờ”. Sớm muộn gì thì quan niệm phổ biến cũng sẽ phải thay đổi hoặc sụp đổ. Nhưng các yếu tố phá hủy nó lại hiếm khi là các phân tích logic hay sự thuyết phục. Đó thường là các tình huống hoặc tác động của các sự kiện thực tế. Với bản chất của mình, quan niệm phổ biến sẽ “phòng vệ” bằng các ngôn từ hoặc lập luận. Người ta không muốn tỉnh ngộ từ các ý tưởng quen thuộc, vị kỷ, và làm vừa lòng họ. Người ta có xu hướng triệt tiêu sự hoài nghi, loại bỏ những bất đồng khó chịu hoặc chối bỏ sự mâu thuẫn. Những gì có thể làm thay đổi tâm trí con người thường là các trải nghiệm rõ ràng không thể phủ nhận và đôi khi khắc nghiệt, sau đó thường thì quan niệm phổ biến bị sụp đổ. Nhưng đây không phải là lý do dễ chấp nhận. Tôi trực tiếp biết điều này. Năm 1969, tôi là phóng viên của một tờ báo. Sự hấp dẫn chủ yếu của công việc này (ngoài việc được nhìn thấy cái tên của mình in trên báo chí) là các cơ hội học hỏi các điều mới mẻ và giải thích các khám phá này trước độc giả. Đó là cái cớ để đặt câu hỏi, thường là không giới hạn, đối với các công dân bình thường. Cái cần được tìm kiếm luôn luôn là “sự thật”, mặc dù “sự thật” đúng nghĩa - thường là rất phức tạp, không rõ ràng và gây nhiều tranh cãi - là khó hoặc không thể xác định được. Khi tôi trở thành người phụ trách một chuyên mục (columnist) của báo năm 1976, mục tiêu vẫn không đổi: đó là chuyển tải các hiểu biết đầy đủ hơn về một vấn đề hay hiện tượng nào đó. Càng làm việc này thì tôi càng “đụng đầu” với các quan niệm phổ biến, bởi vì đó là nơi mà nội dung bài viết dẫn tới. Các bài bình luận của tôi ngày càng đặt câu hỏi hoài nghi hoặc bác bỏ các quan niệm phổ biến. Một số bài bình luận của tôi đã được thu thập lại và trình bày trong cuốn sách này. Tôi không viết bất cứ điều gì để kết tội quan niệm phổ biến. Một số người có xu hướng “chạy theo thời thượng” mới nổi đã quay lại cáo buộc những điều đáng được lãng quên, chỉ vì các sự kiện đó đã làm họ mất uy tín. Vào những năm giữa thập niên 80, đã có những cảnh báo về việc “quá trình suy thoái công nghiệp của Hoa Kỳ” (deindustrialization) khiến chúng ta trở thành một đất nước mà tại đó những người làm hamburger và thợ giặt ủi được trả mức lương thấp (xem “Chúng ta không phải là đất nước của các tiệm giặt ủi”); khái niệm này đã không thể tồn tại sau sự bùng nổ kinh tế trong thập niên 90. Và cũng không có chuyện Nhật Bản sẽ qua mặt chúng ta về mặt kinh tế khi đất nước này vượt qua được sự đình trệ trong thập niên 90. Nhưng những hoài nghi vẫn tiếp diễn, có vẻ như không thay đổi chút nào trước những bằng chứng và lập luận logic bất lợi. Chúng ta được nghe rằng các nhóm lợi ích giàu có và bảo thủ đang thống trị Washington, nhưng thực tế không phải như vậy (xem “Các nhà môi giới quyền lực âm thầm”). Mới gần đây, internet đã được quảng bá là một trong những thành tựu công nghệ vĩ đại nhất từ sau khi ngành in ấn ra đời, sự so sánh này làm tổn thương lịch sử (xem “Internet và Gutenberg”). Đương nhiên, không phải tất cả các quan niệm phổ biến đều sai. Nếu tất cả chúng đều là sai thì xã hội đã tan rã. Những sai lầm của từng ngày, phát xuất từ các ý tưởng sai, sẽ nhân rộng ra và làm cho sự hỗn loạn lan tràn. Nhưng chúng ta không cưỡng lại được các xu hướng mơ hồ. Tại sao vậy? Galbraith đưa ra vài manh mối. Theo cách này hay cách khác, ông chỉ đơn giản là dán lên cái nhãn mới cho thứ đã xưa cũ: tính ỳ của lòng tin. Người ta bám chặt lấy những gì họ đã biết và những gì làm họ cảm thấy thoải mái. Galbraith đã quy cho hiện tượng này là việc không thích quá nhiều cái mới. Mà không chỉ có vậy. Đó là sự nhượng bộ thực dụng trong cuộc sống hàng ngày. Nếu chúng ta liên tục xem xét lại các niềm tin và giả định, chúng ta sẽ đờ đẫn ra vì do dự. Chúng ta sẽ thường xuyên trầm tư và chần chừ không quyết. Nhưng trong văn hóa truyền thông hiện đại, quan niệm phổ biến không còn là những gì như trước đây - và khi đó nó đặt nền móng cho những sai lầm. Theo Galbraith, quan niệm phổ biến bao gồm các ý tưởng cổ điển. Nó giống như rượu vang để lâu ngày. Nó có danh tiếng thông qua việc được vô số các nhân vật có uy tín nhắc đi nhắc lại liên tục qua nhiều năm. Giống như rượu vang, quan niệm phổ biến cũng có thể bị hỏng. Với các sự kiện hoặc các kiến thức mới, quan niệm phổ biến cũng có thể chỉ còn là chuyện đã qua hoặc lý thuyết lỗi thời. Ngược lại, quan niệm phổ biến ngày nay lại thường xuất hiện từ vô định. Các lý thuyết - hầu hết là bàn về các chủ đề mà gần như tất cả mọi người chưa nghĩ đến hay người ta chỉ có chút ít quan điểm rõ ràng - bất ngờ mang tính thời sự và được chấp nhận. Các lý thuyết này không chín muồi theo cách phù hợp, mà được “đóng gói” nhanh chóng, quảng cáo rầm rộ và “bán” một cách quyết liệt. Quan niệm phổ biến đã ít tự nhiên hơn và chứa đựng nhiều toan tính hơn so với trước kia. Nó ngày càng trở thành hoạt động buôn bán có tính trí tuệ hoặc chính trị. Tôi cho rằng điều này giúp giải thích tại sao đa phần quan niệm phổ biến đã trở nên hời hợt, nhầm lẫn và ngu xuẩn. Các ý tưởng là tay sai cho tham vọng của con người, các nhóm lợi ích hoặc các chương trình của giới chính trị hay trí thức. Nó không phát xuất từ những nỗ lực vô tư để khám phá sự thật. Nó là sự vận dụng của kinh doanh và phải gánh chịu mọi sự thái quá của kinh doanh. Người ta nhấn mạnh đến những gì làm nên hoàn cảnh của họ, và bỏ qua hoặc tối thiểu hóa những gì “không dính dáng”. Các tuyên bố là quá lời. Sự kiện được chọn lọc. Việc thẩm định bị phớt lờ hoặc không rõ ràng. Chính trị ảnh hưởng nhiều đến việc này. Nói đến chính trị, tôi không có ý nói riêng về hay tập trung phần lớn vào Đảng Dân chủ hay Cộng hòa, đến khuynh hướng tự do cấp tiến hay bảo thủ. Hình thái chính trị đang thắng thế ngày nay là cái mà tôi gọi là “chính trị giải quyết vấn đề”. Mọi khiếm khuyết trong xã hội, bằng cách nào đó, cần được chuyển đổi thành một “vấn đề” cụ thể, và sau đó có thể được “giải quyết”, thường là do chính quyền, còn nếu không là được giải quyết bởi “thị trường” hoặc một ai khác, một thứ gì khác. Nói chung người Mỹ lạc quan và thực dụng, rất sùng bái sự tiên tiến. Chúng ta gắn bó với ý tưởng cho rằng các vấn đề đều có thể được giải quyết - và từ đó sự không hoàn hảo được giảm đi. Tocqueville cho rằng, người Mỹ tin vào “sự hoàn thiện không giới hạn của con người”. Chúng ta phản đối ý niệm cho rằng một số thiếu sót chỉ đơn giản là những mảng bình thường của cuộc sống. Sau nữa, đây cũng không phải là một lực đẩy mới. Nhưng trong thời đại của chúng ta thì quan niệm phổ biến đã được nhắc đến nhiều hơn. Nó liên tục được nuôi dưỡng bởi các nhóm chủ trương biện hộ, các nhà chính trị doanh nhân (entrepreneurial politicians) - là các ứng viên hoặc viên chức văn phòng không thể dựa vào một bộ máy đảng phái mạnh tại trung ương để tiến lên phía trước, mà ngày càng phải tự thân vận động - và các trí thức lớn, của cả hai cánh Tả và Hữu. Tất cả họ đều rao giảng cho công chúng về tất cả mọi thứ, từ chính sách của chính phủ đến việc phổ biến văn hóa. Chúng ta được dẫn dắt để tin rằng hầu hết các vấn đề xã hội và kinh tế đều có thể được giải quyết và mong muốn của người dân là có thể được xoa dịu hay đáp ứng. Với những vấn đề được tìm ra để giải quyết, những nhóm chủ trương biện hộ, các chính trị gia, và các vị thương nhân kinh doanh ý tưởng khác nhau đã tự khẳng định mình. Họ thiết lập sự nhận biết, nâng cao tầm nhìn của họ, và kết nối các cử tri hoặc khán giả. Sự chủ trương biện hộ hòa lẫn với tự quảng cáo. Sản phẩm mà quá trình này tạo ra là sự thổi phồng bất tận. Một vấn đề không thể đơn giản là quá khiêm tốn, bất tiện, khó tránh khỏi, hoặc khó giải quyết. Vấn đề phải là chuyện lớn, nghiêm trọng, nguy hiểm, và bức xúc - và có thể giải quyết được. Vì vậy, các vấn đề được cường điệu hóa lên về mặt quy mô và mức độ nghiêm trọng, theo đó sức mạnh của các giải pháp đề xuất cũng được thổi phồng lên theo. Việc tìm kiếm các khoản đóng góp cá nhân để tài trợ cho chiến dịch chính trị không thể đơn giản chỉ mang tính tự hạ thấp mình và không “sạch”; nó phải khuấy động được những nền móng cho dân chủ - và có thể thu hồi được từ “chiến dịch cải cách tài chính” (xem “Cái Giá của Chính trị”). Chăm sóc sức khỏe được quản lý (managed care) không thể chỉ đơn giản là một phương pháp mới và chưa hoàn hảo để cung cấp các dịch vụ y tế; nó phải là một cuộc tổng công kích không thương xót dành cho sự tích hợp của y học hiện đại và khôi phục được từ “cải cách y tế” (xem “Chuyện hoang đường về “con quái vật” Chăm sóc sức khỏe được quản lý”). Trong những năm 1990, việc các thành viên Đảng Cộng hòa chiếm đa số ghế trong Quốc hội không thể chỉ đơn giản là sự thay đổi trong quyền lực chính trị để có thể sửa đổi đường lối và bầu không khí chính trị của đất nước. Nó phải là một “cuộc cách mạng” toàn diện làm thay đổi chính trị và cuộc sống như chúng ta đã biết (xem “Họ gọi đây là một cuộc cách mạng?”). Đến một mức độ nhất định, sự biện hộ đòi hỏi việc tranh luận phải trở thành các bài học đạo đức: người tốt (hoặc các ý tưởng tốt) đối lập với cái xấu. Người anh hùng và kẻ xấu xa cùng tạo nên “sức nặng” (throw-weight) của trí tuệ và chính trị để cho chương trình nghị sự được nâng cao, đầy hoài nghi, và có các đối thủ công kích nhau. Ở Hoa Kỳ, loại vận động này tìm thấy một đối tượng khán giả sẵn lòng. Vượt trên sự lạc quan - một niềm tin rằng những gì bị hỏng có thể được sửa chữa - là di sản mang tính nhiệm vụ của chúng ta. Người Mỹ luôn luôn tưởng tượng mình là một ngoại lệ đặc biệt và đúng đắn, nhất quyết cải tiến nhân loại với việc tấn công vào thành trì của sự ngu dốt, quyền lực thối nát hay điều ác. Những đặc tính này của dân tộc là rất tuyệt vời. Chúng thường làm chúng ta chìm vào sự ngây thơ ngấm ngầm rằng: nếu chỉ vì cái gì đó chưa được thực hiện trước đây thì không có nghĩa là điều đó không thể được thực hiện. Những niềm tin vào sự tiến bộ có thể tạo ra tiến bộ và thường xuyên là như vậy. Tuy nhiên, một số đức tính tốt của dân tộc, khi để vượt quá mức hợp lý, cũng trở thành thói xấu (xem “Các vết đen trong đạo đức của chúng ta”). Chính trị “Giải quyết vấn đề” là một trong những loại hỗn hợp khó chịu của sự thành công và thất bại. Khi thất bại, nó dẫn đến một thứ quan niệm phổ biến với đầy rẫy các điều giản đơn và ngớ ngẩn, trong khi vẫn gợi cảm hứng cho các “giải pháp” mà đôi khi có hại nhiều hơn là có lợi. Vấn đề của dịch vụ chăm sóc sức khỏe không phải là “được quản lý”, mà là mâu thuẫn trong nhu cầu của công chúng: chúng ta muốn bảo hiểm y tế toàn diện (universal health insurance), tuyệt đối tự chủ cho các bệnh nhân và bác sĩ trong quá trình điều trị và kiểm soát được chi phí y tế. Không có chế độ nào có thể đồng thời đáp ứng các nhu cầu không nhất quán này. (Nếu tất cả mọi người đã bảo hiểm cho tất cả mọi thứ, và bác sĩ hay bệnh nhân đều có thể yêu cầu bất cứ gì họ muốn - thì chi phí sẽ không thể kiểm soát được.) Vấn đề với “chiến dịch cải cách tài chính” là: nếu sử dụng kết luận logic của nó thì tự do ngôn luận chính trị sẽ bị bịt miệng. Điều phiền toái là truyền thông hiện đại (qua truyền hình, quảng cáo, gửi thư hàng loạt) đều cần tiền. Nếu truyền thông không phải là vấn đề ngôn luận, thì là cái gì? Và nếu mọi người không thể chi tiền để biện hộ cho các quan điểm chính trị và hỗ trợ các ứng cử viên chính trị mà họ tán thành, thì họ “tự do” như thế nào? Nghệ thuật biện hộ có hiệu quả để khỏa lấp các hoài nghi sẽ làm hỏng các thông điệp đạo đức. Vấn đề sẽ không còn đơn giản như vậy nữa, giải pháp không còn rõ ràng như vậy nữa. Xung đột giữa các mục tiêu mong muốn được tối thiểu hóa, và giới hạn thực tế của các giải pháp đề xuất cũng vậy. Chúng ta, những người trong báo giới, hỗ trợ cho sự lẩn tránh - và đôi khi còn xúi giục nó. Là người Mỹ, chúng ta chia sẻ tính nhạy cảm trong việc giải quyết vấn đề. Ngoài ra, chúng ta cũng có lợi ích riêng. Chúng ta cần thu hút và giữ được độc giả. Cả bản năng và lợi ích của chúng ta đều được đặt trong việc nghiên cứu các mâu thuẫn và xung đột. Chúng ta thường hào hứng tham gia vào các cuộc vận động đạo đức hay chính trị. Đó là câu chuyện hay và thu hút các khách hàng của chúng ta. Mặc dù đó là sự thật từ lâu nay, nhưng thực tế cạnh tranh mới đã thổi phồng các hiệu ứng. Chỉ cách đây một vài thập kỷ, trong những năm của thập niên 1960 - phương tiện truyền thông tin tức quốc gia mới chỉ gồm một nhóm nhỏ và ổn định với các tổ chức: 3 mạng lưới truyền hình (ABC, CBS, và NBC); 3 tạp chí (Time, Newsweek, và Thông cáo Tin tức & Thế giới của Hoa Kỳ), một số báo chí quốc gia có tầm cỡ (Thời báo New York, The Wall Street Journal, Bưu điện Washington) trong đó chỉ có một tờ có phạm vi phát hành toàn quốc (tờ Journal) và một vài dịch vụ thông tin chính yếu (Hiệp hội báo chí (Associated Press), Liên đoàn báo chí quốc tế (United Press International). Điều này cho phép các chuyên gia tin tức - các nhà biên tập, các nhà báo - có quyền quyết định những gì là “tin tức” và những gì không phải là “tin tức”. Phán xét của họ rõ ràng là có thể sai lầm và không được “miễn nhiễm” với xu thế chính trị đang thống trị hay xu hướng của giới trí thức. Nhưng các phán xét phần lớn cũng chỉ là phán xét của riêng giới đưa tin mà thôi. Với lượng độc giả ổn định, áp lực thương mại buộc sử dụng tin tức để thu hút người đọc và người xem thời đó là chưa nhiều. Tình hình hiện nay là hoàn toàn khác. Sự phát triển của các phương tiện truyền thông thật ấn tượng: đã có các kênh truyền hình cáp (MTV, ESPN, CNN, C-span); có một mạng lưới truyền hình chủ chốt khác (Fox); thêm hai tờ báo quốc gia (tờ Hoa Kỳ Ngày Nay và Thời báo New York); Internet và vô số các trang web với các tin tức, thông tin tài chính, y tế, khiêu dâm và nhiều nhiều nữa. Không ai còn có thể giữ vững lượng khán giả của mình. Khi các mạng lưới truyền thông còn kiểm soát được các kênh truyền hình, người xem phải theo dõi các chương trình tin tức ban đêm (thường là được ấn định cùng thời điểm) - hoặc không có gì khác để xem. Bây giờ họ có thể bấm nút để xem chương trình nấu ăn, thể thao, hoạt hình, phim truyện, câu chuyện du lịch, mua sắm cho gia đình. Hoặc họ có thể lướt net. Lượng khán giả của mạng tin tức ban đêm sụt giảm nhanh. Độc giả của báo chí cũng giảm, tuy chậm hơn nhưng nói chung là đã giảm. Kết quả là những người kinh doanh tin tức đã mất quyền lực trong việc xác định những gì là tin tức và những gì không phải là tin tức. Ngày càng nhiều, người đọc và người xem mới là những người xác định đâu là tin tức, với việc thu nhặt và chọn lọc những gì họ muốn, hoặc quyết định rằng họ không cần tin tức nữa. Điều này làm tăng thêm yêu cầu đối với người biên tập và các phóng viên báo phải làm sao để cho các tin tức phổ biến hơn và hấp dẫn hơn. Hiện đã có sự nhập nhèm giữa tin tức và giải trí, khi các giá trị của truyền hình đã lan tràn trong tất cả các phương tiện truyền thông. Để lôi kéo khán giả, bài bình luận phải trở nên “cao giọng” hơn. Chương trình “Bắn chéo” (CrossFire)[2] của kênh CNN là người đi đầu: chính trị tương đương như thi đấu vật chuyên nghiệp. Sự độc lập trong công tác biên tập đã bị thu hẹp lại. Biên tập viên vẫn được quyết định những gì sẽ được in hoặc được xem, nhưng nếu những gì họ làm là không thành công trên không gian thị trường, họ sẽ bị thay thế. Các nhà phê bình trong lĩnh vực truyền thông đại chúng thường xuyên than phiền rằng sự thống trị của một vài doanh nghiệp lớn đã hạ thấp các giá trị của thông tin xuống mức chỉ còn là lợi nhuận. Tình trạng này, trong nhiều khía cạnh, lại là ngược lại. Cạnh tranh mạnh hơn đã tấn công vào sự tự chủ trong biên tập. Càng có nhiều gã khổng lồ trong ngành truyền thông thì các giá trị của tin tức lại càng trở nên khó khăn hơn. Khi một vài công ty lớn thống trị thị trường (ba mạng lưới truyền hình là ví dụ rõ ràng), họ có thể chấp nhận sự độc lập cao hơn từ các phòng ban tin tức, chính xác là vì tổng lợi nhuận là con số chắc chắn và có thể dự đoán được. Ngược lại, số lượng các “đại gia truyền thông” ngày nay là rất nhiều và họ cũng ít được an toàn hơn trước. Sự cạnh tranh khốc liệt để giành lấy khách hàng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thành công trong thương mại và xói mòn các giá trị thuần túy của việc biên tập. Đến một mức độ nhất định thì tin tức đã được dân chủ hóa. Nó ngày càng được tung ra theo mệnh lệnh của thị trường. Điều này tạo thuận lợi cho một phong cách biên tập, theo đó nhấn mạnh vào các câu chuyện đạo đức của các đấng anh hùng và những kẻ vô lại, rồi rút ra những xung đột một cách sâu sắc - về bất cứ điều gì để tạo ra một “tin đồn”. Những gì mà tôi muốn đề xuất là: cách thức mà chúng ta, ở đây được hiểu như một xã hội, tổ chức và trình bày thông tin - một cách có hệ thống và hầu như dự đoán được từ trước - ngày càng dẫn đến sự sai lạc. Truyền thông không chắc chắn và những người thực hành chính trị “giải quyết vấn đề” (các chính trị gia, các nhóm biện hộ, “những cái đầu hiểu biết”) đã “kết hôn” với sự dễ dãi. Họ cùng nhau khai thác để đạt được mục tiêu hẹp: có được sự nổi tiếng hoặc khét tiếng, thúc đẩy một chương trình nghị sự của giới chính trị hay trí thức, nắm bắt được khán giả và thị phần. Kết quả là chúng ta bị oanh tạc bởi các luồng vấn đề miên man không dứt (một số vấn đề xã hội, một số căng thẳng trong vấn đề con người - ma túy, bệnh tật, lạm dụng trong hôn nhân gia đình, stress) và các giải pháp đi kèm. Nhiều vấn đề trong số đó là có thật, một số các giải pháp có thể thực sự có ích. Nhưng có sự cường điệu thổi phồng trong cả hai nội dung: vấn đề và giải pháp, bởi vì đó là những thứ thu hút sự chú ý. Tôi gọi quá trình này là “cái sai”. Đó là sự xuyên tạc thực tế nói chung, tuy nhiên không phải là kết quả của sự dối trá cố tình. Đúng hơn thì đó là sản phẩm bình thường của chính trị và truyền thông dân chủ của chúng ta. Điều đó xảy ra, khi chúng ta tìm hiểu và tranh luận các vấn đề có ảnh hưởng đến cả tập thể. Nếu không làm như thế, chúng ta sẽ không phải là chính chúng ta nữa. Nhìn chung, tiến trình này là lành mạnh. Nhưng quá trình này sẽ trở thành không lành mạnh khi nó đơn giản hoá quan điểm của chúng ta về sự thật và lãng mạn hóa sức mạnh của chúng ta khi thay đổi sự thật đó. Đối với tôi, sự đơn giản hóa và cường điệu hóa nhằm phục vụ lợi ích bản thân là một cánh đồng phì nhiêu cho các báo cáo và bình luận. Chúng cầu mong để được trở nên tinh vi và xác thực. Tôi đã cố gắng để cung cấp được một bối cảnh: để cho mọi người có bức tranh vô tư và đầy đủ về thế giới của chúng. Kết luận của tôi là: quan niệm phổ biến (thường) là sai, vì nó là phương tiện cho một số chương trình chính trị hay tham vọng cá nhân. Trong thực tế, tôi không tin rằng có bất kỳ một nhóm chính trị, kinh tế, xã hội, hoặc một nhóm ý thức hệ nào lại có “độc quyền” về cái sai. Bạn có thể nhìn thấy một cơ chế tương tự cũng hoạt động như vậy trên khắp các quang phổ chính trị và trên tập hợp các mối quan tâm và yêu cầu của xã hội. Những người bảo thủ có xu hướng ca ngợi “thị trường”, ngay cả khi thị trường rõ ràng phạm sai lầm (xem “Sự sáp nhập kỳ lạ”). Những người tự do cấp tiến có xu hướng nói quá lời trước những ảnh hưởng dần dần về sau của sự bất bình đẳng trong thu nhập (xem “Không phải là các hộ gia đình điển hình”). Các chuyên gia môi trường bàn về việc hủy diệt hành tinh trong bối cảnh của “ngày tận thế” (xem “Bạn đừng lo lắng”). Một lần nữa, những vấn đề thường là có thực, nhưng chúng cần phải được trình bày trong những điều kiện khắc nghiệt nhất để khơi dậy sự quan tâm hay củng cố cho giải pháp đề xuất. Mặc dù các kỹ thuật đã phổ biến rộng rãi, vẫn có xu hướng nghiêng về các loại “sai lầm” nổi trội nhất: đó là những cái sai “cấp tiến” (liberal untruths). Lý do chính yếu là tầng lớp “viết nguệch ngoạc và nói huyên thuyên” - các nhà báo, biên tập viên, các nhà nghiên cứu học thuật, các nhà bình luận - có xu hướng tự do cấp tiến nhiều hơn là bảo thủ. Rất nhiều các cuộc điều tra đã xác nhận điều này trên báo chí. Năm 1992, gần 90% các nhà báo của Washington ủng hộ Bill Clinton, theo kết quả một trong những cuộc thăm dò ý kiến. Nhưng trên phạm vi quốc gia, lượng phiếu phổ thông dành cho Clinton chỉ là 43%. Một cuộc khảo sát trong giới học thuật (dành cho các giáo sư tại các trường cao đẳng và đại học hệ 2 năm và 4 năm) được xuất bản trong cuốn Giáo dục cấp cao Ký sự (Chronicle of Higher Education) cho thấy: 5,2% cho rằng mình “cực tả”; 39,6% “tự do cấp tiến”; 37,2% “trung lập” (không tả mà cũng không hữu); 17,6% “bảo thủ”; và 0,4% “cực hữu”. Kết quả không phải là một liên minh có ý thức giữa báo chí và nhóm ủng hộ tự do cấp tiến và nhóm chính trị gia Dân chủ. Hầu hết các nhà báo và nhà biên tập (ít nhất là của báo chí, tạp chí tin tức, và kênh truyền hình chính thống, mặc dù rõ ràng không thuộc các tạp chí hoặc chương trình truyền hình chuyên bày tỏ quan điểm) đều tán thành ý kiến cho rằng họ nên khách quan và trung lập. Họ hào hứng đăng tải các scandal liên quan đến những người tự do cấp tiến cũng như bảo thủ. Họ biết rằng hầu hết các chính trị gia và những người theo một phe phái nào đó đều cố gắng “thêu dệt” nên các câu chuyện. Một số nhà báo tự xem mình như là nền tảng thụ động để người khác tuyên truyền. Tất cả chúng ta đều biết rằng mọi người có xu hướng để cho các “nguồn” khác sử dụng. Phần lớn những gì báo chí thực hiện lại không đả động gì nhiều đến các nhà chính trị hay các phe phái. Chúng ta chỉ đơn giản là kể lại một “câu chuyện hay”, hoặc đóng vai trò truyền thống là “giám sát” chính phủ, các cơ quan và các tập đoàn. Xu hướng này còn tinh tế hơn. Những câu chuyện do các chính trị gia tự do cấp tiến và các “chuyên gia” các loại (nhà kinh tế, nhà khoa học, bác sĩ, nhà khoa học xã hội, nhà giáo) kể lại đã tìm thấy những người nghe đồng cảm nhiều hơn là những câu chuyện kể của những người bảo thủ. Các anh hùng và tên vô lại của phe tự do cấp tiến, các giá trị và niềm tin của họ tương ứng sát sao hơn với các triết lý và thành kiến của nhà báo và nhà biên tập. Những gì đến từ các nguồn tự do cấp tiến có vẻ như đáng tin cậy hơn và xác đáng hơn. Nó phù hợp với các ý niệm về xung đột xã hội và theo đuổi một xã hội tốt. (Họ cho rằng) Đây không phải là thành kiến. Đó là thực tế. Thông thường họ không thể tưởng tượng các sự vật theo cách nào khác. Ngược lại, những người bảo thủ - hoặc người không thuộc nhóm tự do cấp tiến -thường được xem là người biện hộ cho các doanh nghiệp và người giàu có. Hoặc họ bị bêu riếu là những người nhẫn tâm và kỳ quặc. Các giá trị của riêng tôi là khá chính đáng (tôi tin là vậy), mặc dù những người khác có dán lên cái nhãn là quá bảo thủ hoặc - ít khi hơn - là quá tự do cấp tiến. Tôi tin rằng Chính quyền trung ương nhìn chung là đem lại các lợi ích cho quốc gia, nhưng tôi cũng nghĩ rằng việc mở rộng chính phủ sẽ đem lại nhiều vấn đề khó khăn mang tính thực tiễn và tạo điều kiện cho sự lạm quyền. Người ta có thể trở nên quá phụ thuộc vào phúc lợi của chính phủ. Thuế có thể tăng quá cao và ảnh hưởng đến sức khỏe kinh tế hoặc tự do cá nhân. Mặc dù khó có thể xác định được các giới hạn nhưng chúng thực sự tồn tại. Tương tự như vậy, tôi đặt nhiều niềm tin vào các “thị trường” - sự tự do để xác định những gì mà chúng ta cần sản xuất, giá cả của chúng, cách thức chúng ta tiết kiệm và đầu tư, và nơi chúng ta làm việc - nhưng tôi không tin rằng các thị trường là cái hiểu-biết-hết-mọi-thứ hoặc hoàn hảo. Các thị trường cũng có sai lầm và cần sự giám sát và điều tiết của chính phủ. Thường thì có ranh giới mỏng manh giữa mức độ quá ít và quá nhiều của công việc này. Sau cùng, tôi tin vào những gì đôi khi bị chế nhạo là “những giá trị truyền thống gia đình”: tình yêu cha mẹ và kỷ luật của cha mẹ, nếu có thể. Với sự may mắn, các bậc cha mẹ có thể giúp con cái của họ lớn khôn và thành những người lớn có trách nhiệm và tự lập. Cha mẹ đem lại tình yêu, các bài học nhỏ về cuộc sống hàng ngày, và những kiến thức cần có. Từ thử thách này mà một cá nhân có thể có năng lực và sự tự tin. Mặc dù việc nuôi dạy con cái là một việc phức tạp - và không có sự đảm bảo cho thành công - các tổ chức của chính phủ và xã hội không thể dễ dàng thay thế cho các bậc cha mẹ đầy tình thương yêu và đủ khả năng (xem “Thứ mà tiền không thể mua được”). Tôi đã có vợ và ba đứa con, hiện chúng ở độ tuổi từ mười đến mười lăm. Đó là những phần quan trọng nhất của đời tôi. Các nhà báo, những người phụ trách chuyên mục là “con lai” (tôi tin là như vậy). Quan điểm của tôi cho rằng họ không phải là nhà báo thuần túy, cũng không phải là người biện hộ thuần túy. Họ là sự kết hợp của cả hai. Họ pha trộn quan điểm và tình cảm trong bài báo của mình. Mối nguy hiểm lớn nhất - hậu quả của việc quá ấn tượng với tầm quan trọng của riêng mình - là trở thành kẻ “nhai lại chính mình” (self-parody): một người có quan điểm và phong cách có thể được dự đoán trước, và có thể bị bắt chước theo một cách dễ dàng. Sự nguy hiểm của riêng tôi là, từ việc liên tục thách thức quan niệm phổ biến, tôi trở thành người hoài nghi chính mình (reflexively skeptical) trước bất kỳ quan điểm nào của đám đông hoặc thường xuyên phê phán bất cứ điều gì là mới hoặc khác biệt. Tôi nhận thức được sự nguy hiểm, nhưng không phải lúc nào tôi cũng có thể vượt lên trên nó. Đa phần trong nghề báo chí, những gì chúng tôi viết ra thường là vào thời hạn chót. Các đánh giá phải được thực hiện một cách nhanh chóng. Chúng thường sai. Tôi nghi ngờ việc liệu có hay không những người phụ trách chuyên mục lớn mà lại không lúng túng vì một số bài viết của mình trong quá khứ. Nếu có những người này thì tôi không nằm trong số đó. Lẽ ra tôi có thể đưa vào cuốn sách này những sai lầm ngớ ngẩn của riêng tôi. Một trong những bài viết yêu thích nhất của tôi đã đặt ra khái niệm về “công nghệ trì hoãn” - đối lập với công nghệ tiên tiến, chúng là các công nghệ mới tạo ra những phương pháp cồng kềnh và đắt tiền để thực hiện các công việc đã được làm một cách đơn giản và không mấy tốn kém trước đây. Một ví dụ là sách điện tử, đối với tôi thì đây đã từng là một ý tưởng tồi, trong khi dùng sách giấy là quá thuận lợi. Sau khi suy xét, tôi đã quyết định không đưa vào đây bài viết này. Robert J. Samuelson Ngày 26, tháng 9 năm 2000 Washington, D.C.I Mời các bạn đón đọc Nói Vậy Mà Không Phải Vậy của tác giả Robert J. Samuelson.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Quản Lý Các Dự Án Lớn Và Nhỏ - First News
Giới thiệu với Bạn bộ sách "Cẩm nang kinh doanh Harvard" do chính trường kinh doanh nổi tiếng thế giới biên soạn - Trường Đại học Harvard. Đây là bộ sách đem đến tri thức đầy đủ và toàn diện bao trùm toàn bộ các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp từ chiến lược kinh doanh, chiến lược marketing, tuyển dụng và quản lý nhân sự, tài chính kế toán, truyền thông, kỹ năng lãnh đạo.... Bạn đang là lãnh đạo doanh nghiệp đây là bộ sách sẽ bổ sung và giúp bạn hoàn thiện hơn kỹ năng kinh doanh của mình. Bộ sách cũng là tài liệu tham khảo rất giá trị và thực tế cho đội ngũ nhân viên, đội nhóm của bạn. BỘ SÁCH  HƯỚNG DẪN KỸ NĂNG BAO QUÁT TOÀN BỘ CÁC HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP CỤ THỂ GỒM 17 CUỐN SAU: 1. CHIẾN LƯỢC KINH DOANH HIỆU QUẢ 2. KỸ NĂNG RA QUYẾT ĐỊNH 3. QUYỀN LỰC TẨM ẢNH HƯỞNG VÀ SỨC THUYẾT PHỤC 4. CÁC KỸ NĂNG QUẢN LÝ HIỆU QUẢ 5. XÂY DỰNG NHÓM LÀM VIỆC HIỆU QUẢ 6. QUẢN LÝ DỰ ÁN LỚN NHỎ 7. QUẢN LÝ TÍNH SÁNG TẠO VÀ ĐỔI MỚI 8. QUẢN LÝ SỰ THAY ĐỔI VÀ CHUYỂN TIẾP 9. TÀI CHÍNH DÀNH CHO NHÀ QUẢN LÝ 10. KỸ NĂNG MARKETING HIỆU QUẢ 11. KỸ NĂNG THƯƠNG LƯỢNG 12. GIAO TIẾP THƯƠNG MẠI 13. TUYỂN DỤNG VÀ ĐÃI NGỘ NGƯỜI TÀI 14. QUẢN LÝ KHỦNG HOẢNG 15. QUẢN LÝ HIỆU SUẤT LÀM VIỆC CỦA NHÂN VIÊN 16. QUẢN LÝ THỜI GIAN 17. HUẤN LUYỆN VÀ TRUYỀN THỤ KINH NGHIỆM NHỮNG GIÁ TRỊ CỤ THỂ BẠN NHẬN ĐƯỢC KHI SỞ HỮU BỘ SÁCH CẨM NANG KINH DOANH HARVARD *** Bạn có được tầm nhìn toàn diện về toàn bộ hoạt động kinh doanh của mình qua đó bổ sung kịp thời những bộ phận, lĩnh vực còn thiếu và yếu. Từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. * Bạn nâng cao được kỹ năng lãnh đạo, từ đó đào tạo và xây dựng được đội ngũ nhân sự chuyên nghiệp. * Bạn học được kỹ năng và kinh nghiệm đúc kết của một trong những trường kinh doanh nổi tiếng nhất thế giới - Trường đại học Harvard. * Bạn có được kiến thức về tài chính dành riêng cho giám đốc và chủ doanh nghiệp. * Bạn tối ưu được hiệu suất làm việc của đội nhóm và toàn bộ nhân viên. Bộ sách là một thư viện thu nhỏ giúp toàn bộ công ty của bạn có được tài liệu tham khảo về nâng cao kiến thức kinh doanh cho toàn bộ các bộ phận công ty. *** Quản lý dự án là một nhiệm vụ quan trọng trong công tác quản lý hiện đại, đặc biệt là đối vời những dự án lớn, phức tạp và đòi hỏi nhiều kỹ năng đa dạng. Theo định nghĩa, quản lý dự án là công việc bô trí, theo dõi và sử dụng các nguồn lực nhằm đạt được một mục tiêu trong một khoảng thời gian cụ thể. Hình thức quản lý này tập trung vào các hoạt động đặc trưng của một dự án, tức là một tập hợp các hoạt động nhằm tạo ra kết quả nhất định và có tính ràng buộc về thời gian, nghĩa là có thời điểm bắt đầu và kết thúc rõ ràng. Công việc thiết kế mầu xe khách mới là một ví dụ phù hợp với định nghĩa về dự án này. Kết quả của dự án đó có thể là các đặc tính kỳ thuật của loại xe mữi được thử nghiệm trên thị trường. Khi các đặc tính kỷ thuật này đã hoàn thiện và loại xe mới đi vào sán xuất, dự án sẽ kết thúc. Trách nhiệm sàn xuất xe, tiếp thị, bán hàng và bảo trì được chuyển giao cho các phòng ban trong công ty. Sự thay đổi nhanh chóng và áp lực mạnh mẽ từ các cuộc cạnh tranh khắc nghiệt dà khiến ngày càng nhiều hoạt động của tổ chức trở thành công việc của dự án. Sự thay đổi về công nghệ, nhu cầu, thị hiếu của khách hàng đã làm giảm bớt tính chất thường nhật của công việc. Công việc đã trở nên phức tạp hơn và các phòng ban của tổ chức vốn được bố trí để làm những việc thường ngày sẽ khó tiếp cận với công việc mới hơn. Bên cạnh đó, áp lực cạnh tranh cũng buộc các tổ chức phải triển khai công việc nhanh hơn. Để có thể hoàn thành đúng hạn và phù hợp với khoản ngân sách đề ra, dự án cần được quản lý tốt. Quy mồ dự án càng lớn, việc quản lý hiệu quả càng khó khăn. Nhà quản lý dự án có nhiệm vụ biển đổi khái niệm mơ hồ ban đầu của cấp lãnh đạo thành một hệ thống có thể vận dụng kiến thức, kỹ nâng và nguồn lực cho một mục tiêu quan trọng của tổ chức. Tóm lại, công tác quản lý dự án và người quản lý dự án sẽ giúp tổ chức thực hiện những nhiệm vụ lớn và quan trọng. Vì vậy, việc quản lý dự án một cách hiệu quả có thể mang lại cho tổ chức những lợi ích sau: • Xúc tiến thực hiện công việc đúng thời hạn và trong phạm vi ngân sách cho phép. • Rút ngắn thời gian phát triển. Bằng cách đáp ứng các mục tiêu đã đề ra trong phạm vi hợp lý, việc quản lý dự án sẽ giúp giảm thiểu các rủi ro. • Sử dụng các nguồn lực hiệu quả. Việc quản lý dự án hiệu quà không làm làng phí tiền bạc hoặc thời gian của nhân viên. Với những lợi ích này, chúng ta sẽ không lấy làm ngạc nhiên khi các giải pháp quản lý dự án đang dược áp dụng ngày càng nhiều cho các công trình xây dựng lớn, trong việc phát triển máy bay quân đội và dãn dụng, xây dựng vvebsite thương mại điện từ, hoạt hình, và nhiều lĩnh vực khác - thậm chí cà nhùng chiến dịch mang tính chất chinh trị.  Nguồn gốc Việc xác định mục tiêu, tổ chức bộ máy, hoạch định chiến lược, quản lý hoạt động và đặt chúng vào vị tri trung tâm của công tác quản lý dự án không còn là công việc mới mẻ đối vói các tổ chức và chắc chắn điều dó đã từng được thực hiện dưới hình thức này hay hình thức khác. Những công trình xây dựng kỳ vì của thế giới cổ đại, như kim tự tháp Ai Cập, đấu trường La Mã hay hệ thông đường sá và thủy lọi, hấu hết đều có những đặc điểm của các dự án ngày nay. Những công việc như thê sẽ không thề hoàn tất nếu không có sự đầu tư thích đáng về kỹ thuật, tài chính, nhân cõng và yếu tố không thể thiếu được là công tác quản lý. Tưong tự, giai doạn cuối thế kỷ 19 được đánh dấu bằng các dự án có quy mô và mức độ phức tạp đáng kỉnh ngạc: những tòa nhà chọc tròi dầu tiên, tuyến đường sắt xuyên lục địa, các con tàu khổng lổ chạy bằng hol nước... Ngay tứ đầu thế kỷ 20, các nhà cách tân trong lĩnh vực kỹ thuật dân dụng đã bắt đầu suy nghi một cách có hệ thống hon trưóc những công việc mà họ đang phải đối mặt. Họ bát đầu áp dụng các phương thức quản lý theo khoa học. Đến thập niên 1930, một sô phưong pháp đà được các nhà quản lý dự án chuyên nghiệp thời bây giờ đưa vào sừ dụng. ĩ)ự án đập ngăn nước Hoover, được xây dựng từ nàm 1931 đến nãm 1935, đà dùng một công cụ lập kế hoạch bằng đồ thị đo Henry Laurence Gantt đề xuát và phát triển. Biểu đồ này hiện nay vẫn được gọi bằng cái tên đơn giản là biểu đồ Gantt. Trong những năm Chiến tranh thê giói lần thứ nhát, dư án Manhattan đà nghiên cứu để sản xuảt loại vù khi hạt nhàn đẩu tiên. Vào cuối thập niên 1950, DuPont, với sự trợ giúp của công nghệ máy tính Remington Rand Univac, áp dụng một phương pháp đà trở nên rất quen thuộc ngày nay là đường tới hạn để quản lý việc vận hành và bảo dưỡng một nhà máy. Gẩn như cùng tại thời điểm đó, hàng tư vấn Booz Allen & Hamỉlton đã hợp tác vóí Lực lượng Hài quản Mỹ xây dựng Kỹ thuật kiểm tra và đánh giá chương trình (PERT) bao gồm các biểu đồ và lịch trình cần thiết cho việc phát triển dự án thiết kế tàu ngầm hạt nhân Polaris. Ngay khi mới hình thành, các phương pháp quản lý dự án đã nhanh chóng được phổ biến trong các lĩnh vực kỹ thuật dân dụng, xây dựng, công nghiệp quốc phòng và rất nhiều linh vực khác. Trên thực tế, hoạt động của một Số công ty là sự nối tiếp của các dự án lớn. Thay vì tổ chức các hoạt động liên quan đến những phòng ban thông thường (như tài chính, tiếp thị...), những công ty này sắp xếp các bộ phận đó vào các dự án chính. Mỉcrosoft chinh là một công ty như vậy. Dù vẫn có các phòng ban theo mô hình doanh nghiệp truyền thống, nhưng các tổ chức dự án của Microsoft (như Offỉce, Windows, v.v.) có ý nghĩa quan trọng hơn nhiều đối với sự thành công của công ty, đồng thời xác định phương thức hoạt dộng của họ. Nâng cao tính chuyên nghiệp Nhờ sự phổ biến các phương pháp quản lý dự án, các tổ chức ngày càng tỏ ra hiệu quả hơn trong việc lập kế hoạch và xây dựng cơ cấu. Những phương pháp này củng trở thành trọng tâm của các khóa học nâng cao, các dịch vụ tư vấn và các chương trình đào tạo về quản lý. Tính chuyên nghiệp ngày càng tăng trong công việc quản lý dự án được phản ánh bằng sự phát triển của các tổ chức. Vi dụ, Hiệp hội Quản lý Dự án (Project Management Assocỉation) đặt tại Hà Lan - có cơ sở khắp Tây Âu, Nga và một số nước đang phát triển - thường xuyên đào tạo, tô' chức hội thảo về các vấn đề quản lý dự án và tài trợ cho các ấn bàn kỹ thuật. Trong khi đó, Viện Quản lý Dự án (Project. Management Institute) - có trụ sở tại Mỹ, gần Philadelphia, với hơn 100.000 thành viên thuộc 125 nước trên thế giới - nhận trách nhiệm tài trợ cho việc nghiên cứu và xuất bản, cùng như duy trì một chương trình đào tạo có cấp chứng chi được kiểm tra nghiêm ngặt để nâng cao chuyên môn về quản lý dự án. Viện cũng hồ trợ các nghiên cứu nhằm mở rông kiến thức về quân lý dự án và đào tạo thông qua các hội thào chuyên đề định kỳ và các khóa đào tạo trực tuyến. Điểm bất lợi duy nhất đối với việc nâng cao tính chuyên nghiệp và sự nhất tri vẻ cách thức quản lý dự án là mọi người đều nám vững phương pháp lập kế hoạch công việc và cách thức làm việc vóí kế hoạch của họ. Tuy nhiên, khó khăn chính nàm ở việc tiên liệu trước mọi vấn đề có khả năng xảy ra. Những sự việc trong tương lai luôn xuất hiện theo những cách bất ngờ trong quá trình nhóm xũc tiến dự án. Điều này đặc biệt đúng trong những ngành công nghiệp phát triển nhanh. Các nhà quản lý dự án phái tiến hành những bước chuẩn bị dể luôn sẳn sàng đối phó với những sự cố bất ngờ, và kế hoạch của họ phái đủ linh hoạt để có thể kịp thời điều chình cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Các nhà quản lý dành hầu như toàn bộ sự chú ý vào việc quản lý rủi ro - một phần của công tác quản lý dự án nhàm dự báo và lập kế hoạch cho những gì có thể diễn tiến không trùng khớp với phán đoán. Điều gì sẽ xảy ra, nếu sản phẩm mẫu thất bại? Điều gì sẽ xày ra, nếu khách hàng thay đổi yéu cầu trước khi hoàn tất dự án? Kế hoạch đối phó VÓI các sự cô’ bất ngờ sẽ được triển khai để xừ lý những rủi ro này. Thê nhưng không ai có thể lường trước tất cà những sự cố bất ngờ, cũng như có thể nghĩ đến mọi cơ hội sẽ gặp trong quá trình thực hiện dự án, dù đây chính là những cơ hội khuyến khích nhóm xem xét nhầm điều chỉnh kế hoạch cũ cho phù hợp với tình hình mới. Bôn cạnh đó, một khl các kế hoạch và lịch trình đà dược nhất trí và dưa vào tài liệu chính thức, chúng sẽ trở thành các nguyên tắc không thể sửa đổi. những người đi chệch khỏi các dường hướng này, không hoàn thành công việc đúng theo thời hạn hay để chi phí vưọt ngân sách dã dịnh sẽ có nguy cơ bị cấp quản lý đánh giá là thiêu năng lực. Khi làm cho kế hoạch và lịch trình trở thành bất di bất dịch, các nhà điều hành đã vô tình nuôi dường một nếp tư duy tiêu cực là các vấn đề nan giãi sẽ bị chôn vùi và những cá nhân cảnh báo vấn đề có thể không đưọ'c giao nhiệm vụ quan trọng, hay thậm chí bị loại ra khỏi nhóm dự án. Nhừng tình huống này rất thường gặp. Những người dày dạn kinh nghiệm trong lĩnh vực này có thề chi ra một vài dự án mà nếu chì xét bề ngoài thì có vẻ như đi đúng hướng. Và dự án đó chỉ thất bại ở cuối chặng đường, khi mọi người không dám lên tiếng vồ những vấn đề họ nhận ra. Nhiều tuần hay nhiều tháng sau, đến cuối dự án, những vấn đề này mới lộ rõ, và lúc dó đã quá muộn để xử lý. Tất cả những khía cạnh khác nhau liên quan đến dự án cũng như việc quản lý dự án sẽ được đề cập chi tiết trong nội dung cuốn sách “Quản lý dự án lớn và nhỏ" này. Cũng như những cuốn khác trong bộ sách “Cẩm nang kinh doanh Harvard”, cuốn sách này sẽ không giúp bạn trở thành một chuyên gia xuất sắc về quản lý dự án. Nhưng vói phần nộl dung chi tiết, hướng dần thiết thực kèm theo những minh họa điển hình, cuốn sách sẽ giúp những ai đang làm công tác quản lý biết cách thực hiện thành công một dự án, dù dự án ở bất kỳ quy mò và mức độ phức tạp nào. Mời các bạn đón đọc Các Quản Lý Các Dự Án Lớn Và Nhỏ của tác giả First News.
Kỹ Năng Thương Lượng - First News
Giới thiệu với Bạn bộ sách "Cẩm nang kinh doanh Harvard" do chính trường kinh doanh nổi tiếng thế giới biên soạn - Trường Đại học Harvard. Đây là bộ sách đem đến tri thức đầy đủ và toàn diện bao trùm toàn bộ các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp từ chiến lược kinh doanh, chiến lược marketing, tuyển dụng và quản lý nhân sự, tài chính kế toán, truyền thông, kỹ năng lãnh đạo.... Bạn đang là lãnh đạo doanh nghiệp đây là bộ sách sẽ bổ sung và giúp bạn hoàn thiện hơn kỹ năng kinh doanh của mình. Bộ sách cũng là tài liệu tham khảo rất giá trị và thực tế cho đội ngũ nhân viên, đội nhóm của bạn. BỘ SÁCH  HƯỚNG DẪN KỸ NĂNG BAO QUÁT TOÀN BỘ CÁC HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP CỤ THỂ GỒM 17 CUỐN SAU: 1. CHIẾN LƯỢC KINH DOANH HIỆU QUẢ 2. KỸ NĂNG RA QUYẾT ĐỊNH 3. QUYỀN LỰC TẨM ẢNH HƯỞNG VÀ SỨC THUYẾT PHỤC 4. CÁC KỸ NĂNG QUẢN LÝ HIỆU QUẢ 5. XÂY DỰNG NHÓM LÀM VIỆC HIỆU QUẢ 6. QUẢN LÝ DỰ ÁN LỚN NHỎ 7. QUẢN LÝ TÍNH SÁNG TẠO VÀ ĐỔI MỚI 8. QUẢN LÝ SỰ THAY ĐỔI VÀ CHUYỂN TIẾP 9. TÀI CHÍNH DÀNH CHO NHÀ QUẢN LÝ 10. KỸ NĂNG MARKETING HIỆU QUẢ 11. KỸ NĂNG THƯƠNG LƯỢNG 12. GIAO TIẾP THƯƠNG MẠI 13. TUYỂN DỤNG VÀ ĐÃI NGỘ NGƯỜI TÀI 14. QUẢN LÝ KHỦNG HOẢNG 15. QUẢN LÝ HIỆU SUẤT LÀM VIỆC CỦA NHÂN VIÊN 16. QUẢN LÝ THỜI GIAN 17. HUẤN LUYỆN VÀ TRUYỀN THỤ KINH NGHIỆM NHỮNG GIÁ TRỊ CỤ THỂ BẠN NHẬN ĐƯỢC KHI SỞ HỮU BỘ SÁCH CẨM NANG KINH DOANH HARVARD *** Bạn có được tầm nhìn toàn diện về toàn bộ hoạt động kinh doanh của mình qua đó bổ sung kịp thời những bộ phận, lĩnh vực còn thiếu và yếu. Từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. * Bạn nâng cao được kỹ năng lãnh đạo, từ đó đào tạo và xây dựng được đội ngũ nhân sự chuyên nghiệp. * Bạn học được kỹ năng và kinh nghiệm đúc kết của một trong những trường kinh doanh nổi tiếng nhất thế giới - Trường đại học Harvard. * Bạn có được kiến thức về tài chính dành riêng cho giám đốc và chủ doanh nghiệp. * Bạn tối ưu được hiệu suất làm việc của đội nhóm và toàn bộ nhân viên. Bộ sách là một thư viện thu nhỏ giúp toàn bộ công ty của bạn có được tài liệu tham khảo về nâng cao kiến thức kinh doanh cho toàn bộ các bộ phận công ty. *** Thương lượng là một phương cách để con người thỏa thuận và trao đổi những khác biệt. Cho dù những khác biệt này liên quan đến việc mưa chiếc xe mới, tranh cãi về họp đồng lao động, các điều khoản bán hàng, một liên minh phưc tap gỉừa hai công ty, hay hiệp ước hòa binh giữa các quốc gia đang giao tranh, thì chúng đều có thể giải quyết được thông qua thương lượng. Thương lượng cũng có nghĩa là tìm kiếm sir nhất trí giữa các bên thông qua dối thoại. Thương lượng luôn hiện hữu trong mọi khía cạnh của cuộc sống, cả ở gia đình lẫn nơi làm việc. Cha mẹ và con cái thương lượng khi bàn về cách cãi thiện điểm số môn toán ở trường. Tương tự như vậy, hai vợ chồng thương lượng khi thỏa thuận ai sẽ dọn dẹp nhà cửa còn ai sẽ đi mua hàng hóa cuối tuần. Tại nơi làm việc, thương lượng xảy ra thường xuyên hơn. Thực ra, gốc La tinh của từ này negotiatus có nghĩa là “xúc tiến kinh doanh”. Trong tiếng Tây Ban Nha hiện đại, nego-cios nghĩa là "kinh doanh”. Một cuộc thương lượng kinh doanh có thể là một sự việc chính thức diẻn ra bằng tranh luận bên bàn thương lượng, tại đó bạn tranh cải về giá cả và cách thực hiện hoặc về các điều khoản phức tạp liên quan đến việc hợp tác kinh doanh. Thưong lượng cũng có thể dỉẻn ra ít trang trọng hơn, như cuộc họp giữa ban và các nhân viên đồng sự mà sự hợp tác của hai bên cần thiết cho việc thực hiện công việc. Nếu bạn là người giám sát, quản tý, hay điều hành, có thể bạn đã dành phần lón thời gian của ngày làm việc để thưong lượng với nhiều người trong nội bô và bên ngoài công ty - nhưng hiểm khi bạn nhận ra điều dó. Thương lượng cũng là khi bạn kết thúc một thương vu hay yêu cầu cap dưới nhất trí các mục tiêu thực hiện nào dó. Thương lượng đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống cả nhân và nghề nghiệp, vì vậy chúng ta cần phải cài thiện các kỹ năng thương lượng của mình. Ngay cả một cải thiện khiêm tốn nhất trong những kỹ năng này cũng có thể đem lại những kết quả đáng kể, như thêm một khoản tăng lưong, thỏa thuận tốt hơn về mua nhà, hay thu xép công việc hiệu quả hơn trong vấn phòng. Cuốn sách “Kỳ năng thương lượng” này có thể giúp bạn cài thiện các kỹ năng thương lượng, giúp bạn trở thành một người thương lượng hiệu quả hơn. Cuốn sách trình bày và giải thích các khái niệm cơ bản duơc các chuyên gia thương lượng và những người giải quyết ván đề sáng tạo áp dụng. Cuốn sách cũng tập hợp những bí quyết thiết thực và ví dụ minh họa nhằm giúp bạn phát triển hơn nửa cuộc sống cả nhân và nghề, nghiệp của mình. cute; dày dạn kinh nghiệm, cuốn sách “Các kỹ năng quản lý hiệu quả” này vần giúp bạn tìm hiểu và cải thiện những kỹ nâng thiết yếu mà mọi nhà quản lý hiệu quả đẻu cẳn phải nắm vững. Mỗi chương trong cuốn sách đều đem lại những lời khuyên thiết thực, huấn luyên cá nhân và cung cấp thông tin nền tảng mà bạn có thể áp dụng ngay trong công việc hàng ngày. Mời các bạn đón đọc Các Kỹ Năng Thương Lượng của tác giả First News.
Huấn Luyện Và Truyền Kinh Nghiệm - First News
Giới thiệu với Bạn bộ sách "Cẩm nang kinh doanh Harvard" do chính trường kinh doanh nổi tiếng thế giới biên soạn - Trường Đại học Harvard. Đây là bộ sách đem đến tri thức đầy đủ và toàn diện bao trùm toàn bộ các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp từ chiến lược kinh doanh, chiến lược marketing, tuyển dụng và quản lý nhân sự, tài chính kế toán, truyền thông, kỹ năng lãnh đạo.... Bạn đang là lãnh đạo doanh nghiệp đây là bộ sách sẽ bổ sung và giúp bạn hoàn thiện hơn kỹ năng kinh doanh của mình. Bộ sách cũng là tài liệu tham khảo rất giá trị và thực tế cho đội ngũ nhân viên, đội nhóm của bạn. BỘ SÁCH  HƯỚNG DẪN KỸ NĂNG BAO QUÁT TOÀN BỘ CÁC HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP CỤ THỂ GỒM 17 CUỐN SAU: 1. CHIẾN LƯỢC KINH DOANH HIỆU QUẢ 2. KỸ NĂNG RA QUYẾT ĐỊNH 3. QUYỀN LỰC TẨM ẢNH HƯỞNG VÀ SỨC THUYẾT PHỤC 4. CÁC KỸ NĂNG QUẢN LÝ HIỆU QUẢ 5. XÂY DỰNG NHÓM LÀM VIỆC HIỆU QUẢ 6. QUẢN LÝ DỰ ÁN LỚN NHỎ 7. QUẢN LÝ TÍNH SÁNG TẠO VÀ ĐỔI MỚI 8. QUẢN LÝ SỰ THAY ĐỔI VÀ CHUYỂN TIẾP 9. TÀI CHÍNH DÀNH CHO NHÀ QUẢN LÝ 10. KỸ NĂNG MARKETING HIỆU QUẢ 11. KỸ NĂNG THƯƠNG LƯỢNG 12. GIAO TIẾP THƯƠNG MẠI 13. TUYỂN DỤNG VÀ ĐÃI NGỘ NGƯỜI TÀI 14. QUẢN LÝ KHỦNG HOẢNG 15. QUẢN LÝ HIỆU SUẤT LÀM VIỆC CỦA NHÂN VIÊN 16. QUẢN LÝ THỜI GIAN 17. HUẤN LUYỆN VÀ TRUYỀN THỤ KINH NGHIỆM NHỮNG GIÁ TRỊ CỤ THỂ BẠN NHẬN ĐƯỢC KHI SỞ HỮU BỘ SÁCH CẨM NANG KINH DOANH HARVARD *** Bạn có được tầm nhìn toàn diện về toàn bộ hoạt động kinh doanh của mình qua đó bổ sung kịp thời những bộ phận, lĩnh vực còn thiếu và yếu. Từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. * Bạn nâng cao được kỹ năng lãnh đạo, từ đó đào tạo và xây dựng được đội ngũ nhân sự chuyên nghiệp. * Bạn học được kỹ năng và kinh nghiệm đúc kết của một trong những trường kinh doanh nổi tiếng nhất thế giới - Trường đại học Harvard. * Bạn có được kiến thức về tài chính dành riêng cho giám đốc và chủ doanh nghiệp. * Bạn tối ưu được hiệu suất làm việc của đội nhóm và toàn bộ nhân viên. Bộ sách là một thư viện thu nhỏ giúp toàn bộ công ty của bạn có được tài liệu tham khảo về nâng cao kiến thức kinh doanh cho toàn bộ các bộ phận công ty. *** Bất kỳ công ty nào cũng đều chú trọng đến việc phát triển nguồn nhân lực và xem đây là một nhiệm vụ quan trọng trong hệ thống quản lý hiệu suất hoạt động bao gồm: đánh giá năng lực thực hiện, đào tạo chính thức và khen thưởng. Đây là những chương trình quản tý chính thức giúp công ty sử dụng, duy trì và phát triển nguồn tài sàn con người. Bên cạnh đó, sự tương tác hàng ngày giữa nhà quản lý và nhân viên, cũng như giữa nhà điều hành và nhà quản lý cũng đóng vai trò quan trọng không kém. Chính những lần tương tác này đà cùng cố kỹ năng, mờ rộng kiến thức cho mọi người và khắc sâu những giá trị mong muốn ờ nơi làm việc. Cuốn sách này chủ yếu tập trung vào hai hoạt động tương tác chính: huấn luyện và cố vấn (truyền đạt kinh nghiệm). Huấn luyện là một hoạt động mà thông qua đó các nhà quán lý hợp tác với cấp dưới cùa minh để khuyến khích phát triển kỷ năng, phô' biển kiến thức, cúng cố các giá trị và cách hành xử nhảm giúp cấp dưới đạt được các mục tiêu cùa tổ chức và chuẩn bị trước cho họ những nhiệm vụ thách thức hơn. Huấn luyện thường là kết quà của việc đánh giá năng lực thực hiện. Tuy nhiên, hoạt động huấn luyện này thường xảy ra trong quá trình thực hiện công việc hàng ngày, mổi khi nhà quản lý thấy cần phải giúp cấp dưới cùa minh làm việc hiệu quà hơn. Tầm quan trọng của việc huấn luyện tăng lên khi cơ cấu tổ chức trở nên bình đẳng hơn và khi sự cần thiết của việc học tập liên tục được nhận ra. Tương tự như huấn luyện, cố vấn là một hình thức phát triển nguồn nhân lực. Cô’ vấn là việc truyền đạt cho người khác những cách thức, kinh nghiệm để họ có thể đạt được những mục tiêu trong sự nghiệp cá nhân. Người cố vấn đóng vai trò một người hướng dẩn đáng tin cậy, đưa ra lời khuyên thích hợp và tạo cơ hội học hỏi cho người được cố vấn. Khác với huân luyện, hoạt động cô vấn thường bắt nguồn từ người có nhu cầu học hỏi và người được cỏ vấn phải chịu trách nhiệm về sự tiến bộ và phát triển cùa bàn thán. Cũng như những cuốn sách khác ưong bộ cầm nang kinh doanh Harvard, cuốn sách Huấn luyện và Truyền kinh nghiệm này tuy không giúp bạn trỡ thành một chuyên gia xuất sắc trong lĩnh vực huấn luyện và cố vấn, song sẻ đem lại cho bạn những kiến thức cơ bán về chù đề quan trọng này. Việc kểt hợp những nội dung trong cuốn sách này với phần thực hành thường xuyên sẽ giúp bạn có được một khỏi dầu tốt cũng như giúp bí)n trở nên hiệu quà hơn trong vai trò một người huấn luyện, người cố vấn hay người tiếp nhận hai hoạt động này. Mời các bạn đón đọc Các Huấn Luyện Và Truyền Kinh Nghiệm của tác giả First News.
Chiến Lược Kinh Doanh Hiệu Quả - First News
Giới thiệu với Bạn bộ sách "Cẩm nang kinh doanh Harvard" do chính trường kinh doanh nổi tiếng thế giới biên soạn - Trường Đại học Harvard. Đây là bộ sách đem đến tri thức đầy đủ và toàn diện bao trùm toàn bộ các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp từ chiến lược kinh doanh, chiến lược marketing, tuyển dụng và quản lý nhân sự, tài chính kế toán, truyền thông, kỹ năng lãnh đạo.... Bạn đang là lãnh đạo doanh nghiệp đây là bộ sách sẽ bổ sung và giúp bạn hoàn thiện hơn kỹ năng kinh doanh của mình. Bộ sách cũng là tài liệu tham khảo rất giá trị và thực tế cho đội ngũ nhân viên, đội nhóm của bạn. BỘ SÁCH  HƯỚNG DẪN KỸ NĂNG BAO QUÁT TOÀN BỘ CÁC HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP CỤ THỂ GỒM 17 CUỐN SAU: 1. CHIẾN LƯỢC KINH DOANH HIỆU QUẢ 2. KỸ NĂNG RA QUYẾT ĐỊNH 3. QUYỀN LỰC TẨM ẢNH HƯỞNG VÀ SỨC THUYẾT PHỤC 4. CÁC KỸ NĂNG QUẢN LÝ HIỆU QUẢ 5. XÂY DỰNG NHÓM LÀM VIỆC HIỆU QUẢ 6. QUẢN LÝ DỰ ÁN LỚN NHỎ 7. QUẢN LÝ TÍNH SÁNG TẠO VÀ ĐỔI MỚI 8. QUẢN LÝ SỰ THAY ĐỔI VÀ CHUYỂN TIẾP 9. TÀI CHÍNH DÀNH CHO NHÀ QUẢN LÝ 10. KỸ NĂNG MARKETING HIỆU QUẢ 11. KỸ NĂNG THƯƠNG LƯỢNG 12. GIAO TIẾP THƯƠNG MẠI 13. TUYỂN DỤNG VÀ ĐÃI NGỘ NGƯỜI TÀI 14. QUẢN LÝ KHỦNG HOẢNG 15. QUẢN LÝ HIỆU SUẤT LÀM VIỆC CỦA NHÂN VIÊN 16. QUẢN LÝ THỜI GIAN 17. HUẤN LUYỆN VÀ TRUYỀN THỤ KINH NGHIỆM NHỮNG GIÁ TRỊ CỤ THỂ BẠN NHẬN ĐƯỢC KHI SỞ HỮU BỘ SÁCH CẨM NANG KINH DOANH HARVARD *** Bạn có được tầm nhìn toàn diện về toàn bộ hoạt động kinh doanh của mình qua đó bổ sung kịp thời những bộ phận, lĩnh vực còn thiếu và yếu. Từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. * Bạn nâng cao được kỹ năng lãnh đạo, từ đó đào tạo và xây dựng được đội ngũ nhân sự chuyên nghiệp. * Bạn học được kỹ năng và kinh nghiệm đúc kết của một trong những trường kinh doanh nổi tiếng nhất thế giới - Trường đại học Harvard. * Bạn có được kiến thức về tài chính dành riêng cho giám đốc và chủ doanh nghiệp. * Bạn tối ưu được hiệu suất làm việc của đội nhóm và toàn bộ nhân viên. Bộ sách là một thư viện thu nhỏ giúp toàn bộ công ty của bạn có được tài liệu tham khảo về nâng cao kiến thức kinh doanh cho toàn bộ các bộ phận công ty. *** Một chiến lược hiệu quả kèm theo việc thực hiện xuất sắc là sự đảm bảo tốt nhất cho thành công của mọi tổ chức. Đây cũng là một minh chứng không thể phủ nhận về năng lực của người quản lý.  Cuốn sách “Chiến lược kinh doanh hiệu quả” này tuy không giúp bạn trở thành một chuyên gia về chiến lược, song cuốn sách trình bày tất cả chủ đề quan trọng để bạn có được một nền tảng kiến thức cơ bản cùng sự khởi đầu đầy tự tin khi hoạch định và thực hiện chiến lược cho tổ chức của mình.  Chiến lược là gì?  Theo nghĩa thông thường, chiến lược (xuất phát từ gốc từ Hy Lạp là strategos) là một thuật ngữ quân sự được dùng để chỉ kế hoạch dàn trận và phân bố lực lượng với mục tiêu đánh thắng kẻ thù. Carl von Clausewitz - nhà binh pháp của thế kỷ 19 - đã mô tả chiến lược là “lập kế hoạch chiến tranh và hoạch định các chiến dịch tác chiến. Những chiến dịch ấy sẽ quyết định sự tham gia của từng cá nhân”. Gần đây hơn, sử gia Edward Mead Earle đã mô tả chiến lược là “nghệ thuật kiểm soát và dùng nguồn lực của một quốc gia hoặc một liên minh các quốc gia nhằm mục đích đảm bảo và gia tăng hiệu quả cho quyền lợi thiết yếu của mình”.  Ngày nay, các tổ chức kinh doanh cũng áp dụng khái niệm chiến lược tương tự như trong quân đội. Chiến lược là kế hoạch kiểm soát và sử dụng nguồn lực của tổ chức như con người, tài sản, tài chính… nhằm mục đích nâng cao và bảo đảm những quyền lợi thiết yếu của mình. Kenneth Andrews là người đầu tiên đưa ra các ý tưởng nổi bật này trong cuốn sách kinh điển The Concept of Corporate Strategy. Theo ông, chiến lược là những gì mà một tổ chức phải làm dựa trên những điểm mạnh và yếu của mình trong bối cảnh có những cơ hội và cả những mối đe dọa.  Bruce Henderson, chiến lược gia đồng thời là nhà sáng lập Tập đoàn Tư vấn Boston đã kết nối khái niệm chiến lược với lợi thế cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh là việc đặt một công ty vào vị thế tốt hơn đối thủ để tạo ra giá trị về kinh tế cho khách hàng. Henderson viết rằng “Chiến lược là sự tìm kiếm thận trọng một kế hoạch hành động để phát triển và kết hợp lợi thế cạnh tranh của tổ chức. Những điều khác biệt giữa bạn và đối thủ cạnh tranh là cơ sở cho lợi thế của bạn”. Henderson tin rằng không thể cùng tồn tại hai đối thủ cạnh tranh nếu cách kinh doanh của họ giống hệt nhau. Cần phải tạo ra sự khác biệt mới có thể tồn tại. Michael Porter cũng tán đồng nhận định của Henderson: “Chiến lược cạnh tranh liên quan đến sự khác biệt. Đó là việc lựa chọn cẩn thận một chuỗi hoạt động khác biệt để tạo ra một tập hợp giá trị độc đáo”.  Hãy xem những ví dụ điển hình sau: Southwest Airlines đã trở thành một hãng hàng không có lợi nhuận cao nhất Bắc Mỹ nhờ vào việc tự tạo cho mình sự khác biệt bằng chiến lược kinh doanh đặc biệt: bán vé giá thấp, khởi hành thường xuyên, phục vụ chu đáo và cung cấp dịch vụ làm hài lòng khách hàng.  Cách thức kinh doanh theo kiểu bán đấu giá trực tuyến đã tạo ra một sự khác biệt lớn cho eBay. Mục đích của eBay là phục vụ quảng cáo rao vặt, kinh doanh tr ên mạng, và mở các phiên đấu giá chính thức, nhưng với cách thức đơn giản, hiệu quả và phổ biến. Sàn bán đấu giá trực tuyến này đã làm eBay trở nên khác biệt so với các đối thủ cạnh tranh truyền thống.  Chiến lược của Toyota trong việc phát triển xe Prius sử dụng động cơ hybrid(1) đã tạo ra lợi thế cạnh tranh trong một phân khúc thị trường ô tô quan trọng: những khách hàng muốn có một chiếc xe không gây ô nhiễm môi trường, ít tiêu hao năng lượng, hoặc loại ô tô với kỹ thuật tiên tiến nhất.  Mời các bạn đón đọc Các Chiến Lược Kinh Doanh Hiệu Quả của tác giả First News.