Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nói Vậy Mà Không Phải Vậy - Robert J. Samuelson

John Kenneth Galbraith, nhà kinh tế học và nhà văn, đã dùng cụm từ “quan niệm phổ biến”[1] (conventional wisdom) từ cách đây hơn bốn thập kỷ, trong cuốn sách bán chạy nhất của ông năm 1958 với tựa đề Xã hội Thịnh vượng (The Affluent Society). Theo định nghĩa của Galbraith thì các quan niệm phổ biến là tập hợp các niềm tin của đại bộ phận con người về một đề tài hay chủ thể nhất định. Những niềm tin đó không nhất thiết phải là đúng đắn, mà chỉ đơn giản là chúng được hiểu rộng rãi và được tôn trọng. Từ đó, cụm từ này dần dần xâm nhập vào ngôn ngữ của cuộc sống hàng ngày, và khi ý nghĩa ban đầu của Galbraith vẫn tồn tại thì nó đã khơi gợi cảm hứng cho những biến thể hiện đại khác của khái niệm trên. “Quan niệm phổ biến” của Galbraith là đồng nhất, vững chắc và lan tỏa rộng khắp, còn các phiên bản sau này lại cho rằng chúng là những điều hợp xu thế, hợp thời trang một cách khôn ngoan. Nhưng cho dù cũ hay mới thì quan niệm phổ biến (như Galbraith đề cập đến) lại thường là điều sai. Đôi khi quan niệm phổ biến còn đối lập với sự thật. Nó thường là sự sắp đặt các dữ kiện và nhận thức một cách nghệ thuật và có chọn lọc, để cho thấy một chân lý đáng tin cậy - mặc dù đó là sự dối trá. Nhưng các quan niệm phổ biến tồn tại được, bởi vì nó kể lại một câu chuyện khá hấp dẫn, xét theo một mức độ nhất định nào đó. Quan niệm phổ biến có được sức mạnh là nhờ vào khả năng đáp ứng được nhu cầu tâm lý hoặc chính trị. Sau đó hành vi của chúng ta lại giúp củng cố niềm tin. Chúng ta sẽ nhìn thấy những gì mình muốn thấy, sẽ nghe được những điều mình muốn nghe. Chúng ta tìm kiếm những người có uy tín để được lặp lại và củng cố lại các niềm tin và thành kiến của mình. Galbraith đã viết: “trong một chừng mực nào đó thì sự gắn kết của quan niệm phổ biến là một nghi thức tôn giáo, đó là hành động để xác nhận lại, như đọc Kinh Thánh hay đi lễ nhà thờ”. Sớm muộn gì thì quan niệm phổ biến cũng sẽ phải thay đổi hoặc sụp đổ. Nhưng các yếu tố phá hủy nó lại hiếm khi là các phân tích logic hay sự thuyết phục. Đó thường là các tình huống hoặc tác động của các sự kiện thực tế. Với bản chất của mình, quan niệm phổ biến sẽ “phòng vệ” bằng các ngôn từ hoặc lập luận. Người ta không muốn tỉnh ngộ từ các ý tưởng quen thuộc, vị kỷ, và làm vừa lòng họ. Người ta có xu hướng triệt tiêu sự hoài nghi, loại bỏ những bất đồng khó chịu hoặc chối bỏ sự mâu thuẫn. Những gì có thể làm thay đổi tâm trí con người thường là các trải nghiệm rõ ràng không thể phủ nhận và đôi khi khắc nghiệt, sau đó thường thì quan niệm phổ biến bị sụp đổ. Nhưng đây không phải là lý do dễ chấp nhận. Tôi trực tiếp biết điều này. Năm 1969, tôi là phóng viên của một tờ báo. Sự hấp dẫn chủ yếu của công việc này (ngoài việc được nhìn thấy cái tên của mình in trên báo chí) là các cơ hội học hỏi các điều mới mẻ và giải thích các khám phá này trước độc giả. Đó là cái cớ để đặt câu hỏi, thường là không giới hạn, đối với các công dân bình thường. Cái cần được tìm kiếm luôn luôn là “sự thật”, mặc dù “sự thật” đúng nghĩa - thường là rất phức tạp, không rõ ràng và gây nhiều tranh cãi - là khó hoặc không thể xác định được. Khi tôi trở thành người phụ trách một chuyên mục (columnist) của báo năm 1976, mục tiêu vẫn không đổi: đó là chuyển tải các hiểu biết đầy đủ hơn về một vấn đề hay hiện tượng nào đó. Càng làm việc này thì tôi càng “đụng đầu” với các quan niệm phổ biến, bởi vì đó là nơi mà nội dung bài viết dẫn tới. Các bài bình luận của tôi ngày càng đặt câu hỏi hoài nghi hoặc bác bỏ các quan niệm phổ biến. Một số bài bình luận của tôi đã được thu thập lại và trình bày trong cuốn sách này. Tôi không viết bất cứ điều gì để kết tội quan niệm phổ biến. Một số người có xu hướng “chạy theo thời thượng” mới nổi đã quay lại cáo buộc những điều đáng được lãng quên, chỉ vì các sự kiện đó đã làm họ mất uy tín. Vào những năm giữa thập niên 80, đã có những cảnh báo về việc “quá trình suy thoái công nghiệp của Hoa Kỳ” (deindustrialization) khiến chúng ta trở thành một đất nước mà tại đó những người làm hamburger và thợ giặt ủi được trả mức lương thấp (xem “Chúng ta không phải là đất nước của các tiệm giặt ủi”); khái niệm này đã không thể tồn tại sau sự bùng nổ kinh tế trong thập niên 90. Và cũng không có chuyện Nhật Bản sẽ qua mặt chúng ta về mặt kinh tế khi đất nước này vượt qua được sự đình trệ trong thập niên 90. Nhưng những hoài nghi vẫn tiếp diễn, có vẻ như không thay đổi chút nào trước những bằng chứng và lập luận logic bất lợi. Chúng ta được nghe rằng các nhóm lợi ích giàu có và bảo thủ đang thống trị Washington, nhưng thực tế không phải như vậy (xem “Các nhà môi giới quyền lực âm thầm”). Mới gần đây, internet đã được quảng bá là một trong những thành tựu công nghệ vĩ đại nhất từ sau khi ngành in ấn ra đời, sự so sánh này làm tổn thương lịch sử (xem “Internet và Gutenberg”). Đương nhiên, không phải tất cả các quan niệm phổ biến đều sai. Nếu tất cả chúng đều là sai thì xã hội đã tan rã. Những sai lầm của từng ngày, phát xuất từ các ý tưởng sai, sẽ nhân rộng ra và làm cho sự hỗn loạn lan tràn. Nhưng chúng ta không cưỡng lại được các xu hướng mơ hồ. Tại sao vậy? Galbraith đưa ra vài manh mối. Theo cách này hay cách khác, ông chỉ đơn giản là dán lên cái nhãn mới cho thứ đã xưa cũ: tính ỳ của lòng tin. Người ta bám chặt lấy những gì họ đã biết và những gì làm họ cảm thấy thoải mái. Galbraith đã quy cho hiện tượng này là việc không thích quá nhiều cái mới. Mà không chỉ có vậy. Đó là sự nhượng bộ thực dụng trong cuộc sống hàng ngày. Nếu chúng ta liên tục xem xét lại các niềm tin và giả định, chúng ta sẽ đờ đẫn ra vì do dự. Chúng ta sẽ thường xuyên trầm tư và chần chừ không quyết. Nhưng trong văn hóa truyền thông hiện đại, quan niệm phổ biến không còn là những gì như trước đây - và khi đó nó đặt nền móng cho những sai lầm. Theo Galbraith, quan niệm phổ biến bao gồm các ý tưởng cổ điển. Nó giống như rượu vang để lâu ngày. Nó có danh tiếng thông qua việc được vô số các nhân vật có uy tín nhắc đi nhắc lại liên tục qua nhiều năm. Giống như rượu vang, quan niệm phổ biến cũng có thể bị hỏng. Với các sự kiện hoặc các kiến thức mới, quan niệm phổ biến cũng có thể chỉ còn là chuyện đã qua hoặc lý thuyết lỗi thời. Ngược lại, quan niệm phổ biến ngày nay lại thường xuất hiện từ vô định. Các lý thuyết - hầu hết là bàn về các chủ đề mà gần như tất cả mọi người chưa nghĩ đến hay người ta chỉ có chút ít quan điểm rõ ràng - bất ngờ mang tính thời sự và được chấp nhận. Các lý thuyết này không chín muồi theo cách phù hợp, mà được “đóng gói” nhanh chóng, quảng cáo rầm rộ và “bán” một cách quyết liệt. Quan niệm phổ biến đã ít tự nhiên hơn và chứa đựng nhiều toan tính hơn so với trước kia. Nó ngày càng trở thành hoạt động buôn bán có tính trí tuệ hoặc chính trị. Tôi cho rằng điều này giúp giải thích tại sao đa phần quan niệm phổ biến đã trở nên hời hợt, nhầm lẫn và ngu xuẩn. Các ý tưởng là tay sai cho tham vọng của con người, các nhóm lợi ích hoặc các chương trình của giới chính trị hay trí thức. Nó không phát xuất từ những nỗ lực vô tư để khám phá sự thật. Nó là sự vận dụng của kinh doanh và phải gánh chịu mọi sự thái quá của kinh doanh. Người ta nhấn mạnh đến những gì làm nên hoàn cảnh của họ, và bỏ qua hoặc tối thiểu hóa những gì “không dính dáng”. Các tuyên bố là quá lời. Sự kiện được chọn lọc. Việc thẩm định bị phớt lờ hoặc không rõ ràng. Chính trị ảnh hưởng nhiều đến việc này. Nói đến chính trị, tôi không có ý nói riêng về hay tập trung phần lớn vào Đảng Dân chủ hay Cộng hòa, đến khuynh hướng tự do cấp tiến hay bảo thủ. Hình thái chính trị đang thắng thế ngày nay là cái mà tôi gọi là “chính trị giải quyết vấn đề”. Mọi khiếm khuyết trong xã hội, bằng cách nào đó, cần được chuyển đổi thành một “vấn đề” cụ thể, và sau đó có thể được “giải quyết”, thường là do chính quyền, còn nếu không là được giải quyết bởi “thị trường” hoặc một ai khác, một thứ gì khác. Nói chung người Mỹ lạc quan và thực dụng, rất sùng bái sự tiên tiến. Chúng ta gắn bó với ý tưởng cho rằng các vấn đề đều có thể được giải quyết - và từ đó sự không hoàn hảo được giảm đi. Tocqueville cho rằng, người Mỹ tin vào “sự hoàn thiện không giới hạn của con người”. Chúng ta phản đối ý niệm cho rằng một số thiếu sót chỉ đơn giản là những mảng bình thường của cuộc sống. Sau nữa, đây cũng không phải là một lực đẩy mới. Nhưng trong thời đại của chúng ta thì quan niệm phổ biến đã được nhắc đến nhiều hơn. Nó liên tục được nuôi dưỡng bởi các nhóm chủ trương biện hộ, các nhà chính trị doanh nhân (entrepreneurial politicians) - là các ứng viên hoặc viên chức văn phòng không thể dựa vào một bộ máy đảng phái mạnh tại trung ương để tiến lên phía trước, mà ngày càng phải tự thân vận động - và các trí thức lớn, của cả hai cánh Tả và Hữu. Tất cả họ đều rao giảng cho công chúng về tất cả mọi thứ, từ chính sách của chính phủ đến việc phổ biến văn hóa. Chúng ta được dẫn dắt để tin rằng hầu hết các vấn đề xã hội và kinh tế đều có thể được giải quyết và mong muốn của người dân là có thể được xoa dịu hay đáp ứng. Với những vấn đề được tìm ra để giải quyết, những nhóm chủ trương biện hộ, các chính trị gia, và các vị thương nhân kinh doanh ý tưởng khác nhau đã tự khẳng định mình. Họ thiết lập sự nhận biết, nâng cao tầm nhìn của họ, và kết nối các cử tri hoặc khán giả. Sự chủ trương biện hộ hòa lẫn với tự quảng cáo. Sản phẩm mà quá trình này tạo ra là sự thổi phồng bất tận. Một vấn đề không thể đơn giản là quá khiêm tốn, bất tiện, khó tránh khỏi, hoặc khó giải quyết. Vấn đề phải là chuyện lớn, nghiêm trọng, nguy hiểm, và bức xúc - và có thể giải quyết được. Vì vậy, các vấn đề được cường điệu hóa lên về mặt quy mô và mức độ nghiêm trọng, theo đó sức mạnh của các giải pháp đề xuất cũng được thổi phồng lên theo. Việc tìm kiếm các khoản đóng góp cá nhân để tài trợ cho chiến dịch chính trị không thể đơn giản chỉ mang tính tự hạ thấp mình và không “sạch”; nó phải khuấy động được những nền móng cho dân chủ - và có thể thu hồi được từ “chiến dịch cải cách tài chính” (xem “Cái Giá của Chính trị”). Chăm sóc sức khỏe được quản lý (managed care) không thể chỉ đơn giản là một phương pháp mới và chưa hoàn hảo để cung cấp các dịch vụ y tế; nó phải là một cuộc tổng công kích không thương xót dành cho sự tích hợp của y học hiện đại và khôi phục được từ “cải cách y tế” (xem “Chuyện hoang đường về “con quái vật” Chăm sóc sức khỏe được quản lý”). Trong những năm 1990, việc các thành viên Đảng Cộng hòa chiếm đa số ghế trong Quốc hội không thể chỉ đơn giản là sự thay đổi trong quyền lực chính trị để có thể sửa đổi đường lối và bầu không khí chính trị của đất nước. Nó phải là một “cuộc cách mạng” toàn diện làm thay đổi chính trị và cuộc sống như chúng ta đã biết (xem “Họ gọi đây là một cuộc cách mạng?”). Đến một mức độ nhất định, sự biện hộ đòi hỏi việc tranh luận phải trở thành các bài học đạo đức: người tốt (hoặc các ý tưởng tốt) đối lập với cái xấu. Người anh hùng và kẻ xấu xa cùng tạo nên “sức nặng” (throw-weight) của trí tuệ và chính trị để cho chương trình nghị sự được nâng cao, đầy hoài nghi, và có các đối thủ công kích nhau. Ở Hoa Kỳ, loại vận động này tìm thấy một đối tượng khán giả sẵn lòng. Vượt trên sự lạc quan - một niềm tin rằng những gì bị hỏng có thể được sửa chữa - là di sản mang tính nhiệm vụ của chúng ta. Người Mỹ luôn luôn tưởng tượng mình là một ngoại lệ đặc biệt và đúng đắn, nhất quyết cải tiến nhân loại với việc tấn công vào thành trì của sự ngu dốt, quyền lực thối nát hay điều ác. Những đặc tính này của dân tộc là rất tuyệt vời. Chúng thường làm chúng ta chìm vào sự ngây thơ ngấm ngầm rằng: nếu chỉ vì cái gì đó chưa được thực hiện trước đây thì không có nghĩa là điều đó không thể được thực hiện. Những niềm tin vào sự tiến bộ có thể tạo ra tiến bộ và thường xuyên là như vậy. Tuy nhiên, một số đức tính tốt của dân tộc, khi để vượt quá mức hợp lý, cũng trở thành thói xấu (xem “Các vết đen trong đạo đức của chúng ta”). Chính trị “Giải quyết vấn đề” là một trong những loại hỗn hợp khó chịu của sự thành công và thất bại. Khi thất bại, nó dẫn đến một thứ quan niệm phổ biến với đầy rẫy các điều giản đơn và ngớ ngẩn, trong khi vẫn gợi cảm hứng cho các “giải pháp” mà đôi khi có hại nhiều hơn là có lợi. Vấn đề của dịch vụ chăm sóc sức khỏe không phải là “được quản lý”, mà là mâu thuẫn trong nhu cầu của công chúng: chúng ta muốn bảo hiểm y tế toàn diện (universal health insurance), tuyệt đối tự chủ cho các bệnh nhân và bác sĩ trong quá trình điều trị và kiểm soát được chi phí y tế. Không có chế độ nào có thể đồng thời đáp ứng các nhu cầu không nhất quán này. (Nếu tất cả mọi người đã bảo hiểm cho tất cả mọi thứ, và bác sĩ hay bệnh nhân đều có thể yêu cầu bất cứ gì họ muốn - thì chi phí sẽ không thể kiểm soát được.) Vấn đề với “chiến dịch cải cách tài chính” là: nếu sử dụng kết luận logic của nó thì tự do ngôn luận chính trị sẽ bị bịt miệng. Điều phiền toái là truyền thông hiện đại (qua truyền hình, quảng cáo, gửi thư hàng loạt) đều cần tiền. Nếu truyền thông không phải là vấn đề ngôn luận, thì là cái gì? Và nếu mọi người không thể chi tiền để biện hộ cho các quan điểm chính trị và hỗ trợ các ứng cử viên chính trị mà họ tán thành, thì họ “tự do” như thế nào? Nghệ thuật biện hộ có hiệu quả để khỏa lấp các hoài nghi sẽ làm hỏng các thông điệp đạo đức. Vấn đề sẽ không còn đơn giản như vậy nữa, giải pháp không còn rõ ràng như vậy nữa. Xung đột giữa các mục tiêu mong muốn được tối thiểu hóa, và giới hạn thực tế của các giải pháp đề xuất cũng vậy. Chúng ta, những người trong báo giới, hỗ trợ cho sự lẩn tránh - và đôi khi còn xúi giục nó. Là người Mỹ, chúng ta chia sẻ tính nhạy cảm trong việc giải quyết vấn đề. Ngoài ra, chúng ta cũng có lợi ích riêng. Chúng ta cần thu hút và giữ được độc giả. Cả bản năng và lợi ích của chúng ta đều được đặt trong việc nghiên cứu các mâu thuẫn và xung đột. Chúng ta thường hào hứng tham gia vào các cuộc vận động đạo đức hay chính trị. Đó là câu chuyện hay và thu hút các khách hàng của chúng ta. Mặc dù đó là sự thật từ lâu nay, nhưng thực tế cạnh tranh mới đã thổi phồng các hiệu ứng. Chỉ cách đây một vài thập kỷ, trong những năm của thập niên 1960 - phương tiện truyền thông tin tức quốc gia mới chỉ gồm một nhóm nhỏ và ổn định với các tổ chức: 3 mạng lưới truyền hình (ABC, CBS, và NBC); 3 tạp chí (Time, Newsweek, và Thông cáo Tin tức & Thế giới của Hoa Kỳ), một số báo chí quốc gia có tầm cỡ (Thời báo New York, The Wall Street Journal, Bưu điện Washington) trong đó chỉ có một tờ có phạm vi phát hành toàn quốc (tờ Journal) và một vài dịch vụ thông tin chính yếu (Hiệp hội báo chí (Associated Press), Liên đoàn báo chí quốc tế (United Press International). Điều này cho phép các chuyên gia tin tức - các nhà biên tập, các nhà báo - có quyền quyết định những gì là “tin tức” và những gì không phải là “tin tức”. Phán xét của họ rõ ràng là có thể sai lầm và không được “miễn nhiễm” với xu thế chính trị đang thống trị hay xu hướng của giới trí thức. Nhưng các phán xét phần lớn cũng chỉ là phán xét của riêng giới đưa tin mà thôi. Với lượng độc giả ổn định, áp lực thương mại buộc sử dụng tin tức để thu hút người đọc và người xem thời đó là chưa nhiều. Tình hình hiện nay là hoàn toàn khác. Sự phát triển của các phương tiện truyền thông thật ấn tượng: đã có các kênh truyền hình cáp (MTV, ESPN, CNN, C-span); có một mạng lưới truyền hình chủ chốt khác (Fox); thêm hai tờ báo quốc gia (tờ Hoa Kỳ Ngày Nay và Thời báo New York); Internet và vô số các trang web với các tin tức, thông tin tài chính, y tế, khiêu dâm và nhiều nhiều nữa. Không ai còn có thể giữ vững lượng khán giả của mình. Khi các mạng lưới truyền thông còn kiểm soát được các kênh truyền hình, người xem phải theo dõi các chương trình tin tức ban đêm (thường là được ấn định cùng thời điểm) - hoặc không có gì khác để xem. Bây giờ họ có thể bấm nút để xem chương trình nấu ăn, thể thao, hoạt hình, phim truyện, câu chuyện du lịch, mua sắm cho gia đình. Hoặc họ có thể lướt net. Lượng khán giả của mạng tin tức ban đêm sụt giảm nhanh. Độc giả của báo chí cũng giảm, tuy chậm hơn nhưng nói chung là đã giảm. Kết quả là những người kinh doanh tin tức đã mất quyền lực trong việc xác định những gì là tin tức và những gì không phải là tin tức. Ngày càng nhiều, người đọc và người xem mới là những người xác định đâu là tin tức, với việc thu nhặt và chọn lọc những gì họ muốn, hoặc quyết định rằng họ không cần tin tức nữa. Điều này làm tăng thêm yêu cầu đối với người biên tập và các phóng viên báo phải làm sao để cho các tin tức phổ biến hơn và hấp dẫn hơn. Hiện đã có sự nhập nhèm giữa tin tức và giải trí, khi các giá trị của truyền hình đã lan tràn trong tất cả các phương tiện truyền thông. Để lôi kéo khán giả, bài bình luận phải trở nên “cao giọng” hơn. Chương trình “Bắn chéo” (CrossFire)[2] của kênh CNN là người đi đầu: chính trị tương đương như thi đấu vật chuyên nghiệp. Sự độc lập trong công tác biên tập đã bị thu hẹp lại. Biên tập viên vẫn được quyết định những gì sẽ được in hoặc được xem, nhưng nếu những gì họ làm là không thành công trên không gian thị trường, họ sẽ bị thay thế. Các nhà phê bình trong lĩnh vực truyền thông đại chúng thường xuyên than phiền rằng sự thống trị của một vài doanh nghiệp lớn đã hạ thấp các giá trị của thông tin xuống mức chỉ còn là lợi nhuận. Tình trạng này, trong nhiều khía cạnh, lại là ngược lại. Cạnh tranh mạnh hơn đã tấn công vào sự tự chủ trong biên tập. Càng có nhiều gã khổng lồ trong ngành truyền thông thì các giá trị của tin tức lại càng trở nên khó khăn hơn. Khi một vài công ty lớn thống trị thị trường (ba mạng lưới truyền hình là ví dụ rõ ràng), họ có thể chấp nhận sự độc lập cao hơn từ các phòng ban tin tức, chính xác là vì tổng lợi nhuận là con số chắc chắn và có thể dự đoán được. Ngược lại, số lượng các “đại gia truyền thông” ngày nay là rất nhiều và họ cũng ít được an toàn hơn trước. Sự cạnh tranh khốc liệt để giành lấy khách hàng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thành công trong thương mại và xói mòn các giá trị thuần túy của việc biên tập. Đến một mức độ nhất định thì tin tức đã được dân chủ hóa. Nó ngày càng được tung ra theo mệnh lệnh của thị trường. Điều này tạo thuận lợi cho một phong cách biên tập, theo đó nhấn mạnh vào các câu chuyện đạo đức của các đấng anh hùng và những kẻ vô lại, rồi rút ra những xung đột một cách sâu sắc - về bất cứ điều gì để tạo ra một “tin đồn”. Những gì mà tôi muốn đề xuất là: cách thức mà chúng ta, ở đây được hiểu như một xã hội, tổ chức và trình bày thông tin - một cách có hệ thống và hầu như dự đoán được từ trước - ngày càng dẫn đến sự sai lạc. Truyền thông không chắc chắn và những người thực hành chính trị “giải quyết vấn đề” (các chính trị gia, các nhóm biện hộ, “những cái đầu hiểu biết”) đã “kết hôn” với sự dễ dãi. Họ cùng nhau khai thác để đạt được mục tiêu hẹp: có được sự nổi tiếng hoặc khét tiếng, thúc đẩy một chương trình nghị sự của giới chính trị hay trí thức, nắm bắt được khán giả và thị phần. Kết quả là chúng ta bị oanh tạc bởi các luồng vấn đề miên man không dứt (một số vấn đề xã hội, một số căng thẳng trong vấn đề con người - ma túy, bệnh tật, lạm dụng trong hôn nhân gia đình, stress) và các giải pháp đi kèm. Nhiều vấn đề trong số đó là có thật, một số các giải pháp có thể thực sự có ích. Nhưng có sự cường điệu thổi phồng trong cả hai nội dung: vấn đề và giải pháp, bởi vì đó là những thứ thu hút sự chú ý. Tôi gọi quá trình này là “cái sai”. Đó là sự xuyên tạc thực tế nói chung, tuy nhiên không phải là kết quả của sự dối trá cố tình. Đúng hơn thì đó là sản phẩm bình thường của chính trị và truyền thông dân chủ của chúng ta. Điều đó xảy ra, khi chúng ta tìm hiểu và tranh luận các vấn đề có ảnh hưởng đến cả tập thể. Nếu không làm như thế, chúng ta sẽ không phải là chính chúng ta nữa. Nhìn chung, tiến trình này là lành mạnh. Nhưng quá trình này sẽ trở thành không lành mạnh khi nó đơn giản hoá quan điểm của chúng ta về sự thật và lãng mạn hóa sức mạnh của chúng ta khi thay đổi sự thật đó. Đối với tôi, sự đơn giản hóa và cường điệu hóa nhằm phục vụ lợi ích bản thân là một cánh đồng phì nhiêu cho các báo cáo và bình luận. Chúng cầu mong để được trở nên tinh vi và xác thực. Tôi đã cố gắng để cung cấp được một bối cảnh: để cho mọi người có bức tranh vô tư và đầy đủ về thế giới của chúng. Kết luận của tôi là: quan niệm phổ biến (thường) là sai, vì nó là phương tiện cho một số chương trình chính trị hay tham vọng cá nhân. Trong thực tế, tôi không tin rằng có bất kỳ một nhóm chính trị, kinh tế, xã hội, hoặc một nhóm ý thức hệ nào lại có “độc quyền” về cái sai. Bạn có thể nhìn thấy một cơ chế tương tự cũng hoạt động như vậy trên khắp các quang phổ chính trị và trên tập hợp các mối quan tâm và yêu cầu của xã hội. Những người bảo thủ có xu hướng ca ngợi “thị trường”, ngay cả khi thị trường rõ ràng phạm sai lầm (xem “Sự sáp nhập kỳ lạ”). Những người tự do cấp tiến có xu hướng nói quá lời trước những ảnh hưởng dần dần về sau của sự bất bình đẳng trong thu nhập (xem “Không phải là các hộ gia đình điển hình”). Các chuyên gia môi trường bàn về việc hủy diệt hành tinh trong bối cảnh của “ngày tận thế” (xem “Bạn đừng lo lắng”). Một lần nữa, những vấn đề thường là có thực, nhưng chúng cần phải được trình bày trong những điều kiện khắc nghiệt nhất để khơi dậy sự quan tâm hay củng cố cho giải pháp đề xuất. Mặc dù các kỹ thuật đã phổ biến rộng rãi, vẫn có xu hướng nghiêng về các loại “sai lầm” nổi trội nhất: đó là những cái sai “cấp tiến” (liberal untruths). Lý do chính yếu là tầng lớp “viết nguệch ngoạc và nói huyên thuyên” - các nhà báo, biên tập viên, các nhà nghiên cứu học thuật, các nhà bình luận - có xu hướng tự do cấp tiến nhiều hơn là bảo thủ. Rất nhiều các cuộc điều tra đã xác nhận điều này trên báo chí. Năm 1992, gần 90% các nhà báo của Washington ủng hộ Bill Clinton, theo kết quả một trong những cuộc thăm dò ý kiến. Nhưng trên phạm vi quốc gia, lượng phiếu phổ thông dành cho Clinton chỉ là 43%. Một cuộc khảo sát trong giới học thuật (dành cho các giáo sư tại các trường cao đẳng và đại học hệ 2 năm và 4 năm) được xuất bản trong cuốn Giáo dục cấp cao Ký sự (Chronicle of Higher Education) cho thấy: 5,2% cho rằng mình “cực tả”; 39,6% “tự do cấp tiến”; 37,2% “trung lập” (không tả mà cũng không hữu); 17,6% “bảo thủ”; và 0,4% “cực hữu”. Kết quả không phải là một liên minh có ý thức giữa báo chí và nhóm ủng hộ tự do cấp tiến và nhóm chính trị gia Dân chủ. Hầu hết các nhà báo và nhà biên tập (ít nhất là của báo chí, tạp chí tin tức, và kênh truyền hình chính thống, mặc dù rõ ràng không thuộc các tạp chí hoặc chương trình truyền hình chuyên bày tỏ quan điểm) đều tán thành ý kiến cho rằng họ nên khách quan và trung lập. Họ hào hứng đăng tải các scandal liên quan đến những người tự do cấp tiến cũng như bảo thủ. Họ biết rằng hầu hết các chính trị gia và những người theo một phe phái nào đó đều cố gắng “thêu dệt” nên các câu chuyện. Một số nhà báo tự xem mình như là nền tảng thụ động để người khác tuyên truyền. Tất cả chúng ta đều biết rằng mọi người có xu hướng để cho các “nguồn” khác sử dụng. Phần lớn những gì báo chí thực hiện lại không đả động gì nhiều đến các nhà chính trị hay các phe phái. Chúng ta chỉ đơn giản là kể lại một “câu chuyện hay”, hoặc đóng vai trò truyền thống là “giám sát” chính phủ, các cơ quan và các tập đoàn. Xu hướng này còn tinh tế hơn. Những câu chuyện do các chính trị gia tự do cấp tiến và các “chuyên gia” các loại (nhà kinh tế, nhà khoa học, bác sĩ, nhà khoa học xã hội, nhà giáo) kể lại đã tìm thấy những người nghe đồng cảm nhiều hơn là những câu chuyện kể của những người bảo thủ. Các anh hùng và tên vô lại của phe tự do cấp tiến, các giá trị và niềm tin của họ tương ứng sát sao hơn với các triết lý và thành kiến của nhà báo và nhà biên tập. Những gì đến từ các nguồn tự do cấp tiến có vẻ như đáng tin cậy hơn và xác đáng hơn. Nó phù hợp với các ý niệm về xung đột xã hội và theo đuổi một xã hội tốt. (Họ cho rằng) Đây không phải là thành kiến. Đó là thực tế. Thông thường họ không thể tưởng tượng các sự vật theo cách nào khác. Ngược lại, những người bảo thủ - hoặc người không thuộc nhóm tự do cấp tiến -thường được xem là người biện hộ cho các doanh nghiệp và người giàu có. Hoặc họ bị bêu riếu là những người nhẫn tâm và kỳ quặc. Các giá trị của riêng tôi là khá chính đáng (tôi tin là vậy), mặc dù những người khác có dán lên cái nhãn là quá bảo thủ hoặc - ít khi hơn - là quá tự do cấp tiến. Tôi tin rằng Chính quyền trung ương nhìn chung là đem lại các lợi ích cho quốc gia, nhưng tôi cũng nghĩ rằng việc mở rộng chính phủ sẽ đem lại nhiều vấn đề khó khăn mang tính thực tiễn và tạo điều kiện cho sự lạm quyền. Người ta có thể trở nên quá phụ thuộc vào phúc lợi của chính phủ. Thuế có thể tăng quá cao và ảnh hưởng đến sức khỏe kinh tế hoặc tự do cá nhân. Mặc dù khó có thể xác định được các giới hạn nhưng chúng thực sự tồn tại. Tương tự như vậy, tôi đặt nhiều niềm tin vào các “thị trường” - sự tự do để xác định những gì mà chúng ta cần sản xuất, giá cả của chúng, cách thức chúng ta tiết kiệm và đầu tư, và nơi chúng ta làm việc - nhưng tôi không tin rằng các thị trường là cái hiểu-biết-hết-mọi-thứ hoặc hoàn hảo. Các thị trường cũng có sai lầm và cần sự giám sát và điều tiết của chính phủ. Thường thì có ranh giới mỏng manh giữa mức độ quá ít và quá nhiều của công việc này. Sau cùng, tôi tin vào những gì đôi khi bị chế nhạo là “những giá trị truyền thống gia đình”: tình yêu cha mẹ và kỷ luật của cha mẹ, nếu có thể. Với sự may mắn, các bậc cha mẹ có thể giúp con cái của họ lớn khôn và thành những người lớn có trách nhiệm và tự lập. Cha mẹ đem lại tình yêu, các bài học nhỏ về cuộc sống hàng ngày, và những kiến thức cần có. Từ thử thách này mà một cá nhân có thể có năng lực và sự tự tin. Mặc dù việc nuôi dạy con cái là một việc phức tạp - và không có sự đảm bảo cho thành công - các tổ chức của chính phủ và xã hội không thể dễ dàng thay thế cho các bậc cha mẹ đầy tình thương yêu và đủ khả năng (xem “Thứ mà tiền không thể mua được”). Tôi đã có vợ và ba đứa con, hiện chúng ở độ tuổi từ mười đến mười lăm. Đó là những phần quan trọng nhất của đời tôi. Các nhà báo, những người phụ trách chuyên mục là “con lai” (tôi tin là như vậy). Quan điểm của tôi cho rằng họ không phải là nhà báo thuần túy, cũng không phải là người biện hộ thuần túy. Họ là sự kết hợp của cả hai. Họ pha trộn quan điểm và tình cảm trong bài báo của mình. Mối nguy hiểm lớn nhất - hậu quả của việc quá ấn tượng với tầm quan trọng của riêng mình - là trở thành kẻ “nhai lại chính mình” (self-parody): một người có quan điểm và phong cách có thể được dự đoán trước, và có thể bị bắt chước theo một cách dễ dàng. Sự nguy hiểm của riêng tôi là, từ việc liên tục thách thức quan niệm phổ biến, tôi trở thành người hoài nghi chính mình (reflexively skeptical) trước bất kỳ quan điểm nào của đám đông hoặc thường xuyên phê phán bất cứ điều gì là mới hoặc khác biệt. Tôi nhận thức được sự nguy hiểm, nhưng không phải lúc nào tôi cũng có thể vượt lên trên nó. Đa phần trong nghề báo chí, những gì chúng tôi viết ra thường là vào thời hạn chót. Các đánh giá phải được thực hiện một cách nhanh chóng. Chúng thường sai. Tôi nghi ngờ việc liệu có hay không những người phụ trách chuyên mục lớn mà lại không lúng túng vì một số bài viết của mình trong quá khứ. Nếu có những người này thì tôi không nằm trong số đó. Lẽ ra tôi có thể đưa vào cuốn sách này những sai lầm ngớ ngẩn của riêng tôi. Một trong những bài viết yêu thích nhất của tôi đã đặt ra khái niệm về “công nghệ trì hoãn” - đối lập với công nghệ tiên tiến, chúng là các công nghệ mới tạo ra những phương pháp cồng kềnh và đắt tiền để thực hiện các công việc đã được làm một cách đơn giản và không mấy tốn kém trước đây. Một ví dụ là sách điện tử, đối với tôi thì đây đã từng là một ý tưởng tồi, trong khi dùng sách giấy là quá thuận lợi. Sau khi suy xét, tôi đã quyết định không đưa vào đây bài viết này. Robert J. Samuelson Ngày 26, tháng 9 năm 2000 Washington, D.C.I Mời các bạn đón đọc Nói Vậy Mà Không Phải Vậy của tác giả Robert J. Samuelson.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bài Học Vô Giá Từ Điều Bình Dị - G Francis Xavier. Ph D
Xung quanh ta có rất nhiều điều bình dị nhưng mang những bài học thật giá trị. Các bạn có thể thấy điều này qua cuốn sách Bài học vô giá từ những điều bình dị của tác giả Francis Xavier. Sách tập hợp các câu chuyện tuyệt vời ở khắp nơi trên thế giới, về mọi tầng lớp xã hội. Những câu chuyện ấy dễ nhớ đến mức bạn có thể kể cho bạn bè, người thân, con trẻ... Bạn sẽ tìm thấy nhiều điều thú vị từ những câu chuyện ấy. Như câu chuyện Dưỡng nuôi chữ nhẫn: ngày xưa ở Ấn Độ, một lũ trẻ quyết tâm chọc giận một ông lão nổi tiếng điềm đạm. Lũ trẻ nói những lời khích bác, thậm chí đánh vào mặt ông, ông vẫn mỉm cười. Đến lần thứ mười, lũ trẻ quỳ xuống xin ông tha thứ và gặng hỏi: “Tại sao ông lại xử sự như vậy?”. Ông đáp: “Đó chỉ là những đứa trẻ”. Câu chuyện nhắc ta rằng tình thương có thể chiến thắng mọi cảm xúc. Song để đạt đến trạng thái đó cần sự kiên trì rèn luyện biết bao. Hay như câu chuyện Hãy làm đúng vai trò của mình. Một vị tướng có đứa con gái 3 tuổi rất tinh nghịch. Ông yêu cầu cô bé phải thực hiện kỷ luật như trong quân đội, thậm chí bắt cô bé gọi ông là ngài. Cô bé cười tươi, nói: “Thưa ngài, con yêu ngài lắm!”. Với cô bé ấy, người bố không là một vị tướng cao cấp mà chỉ là một người cha thương con. Mỗi chúng ta đều đóng nhiều vai trò trong cuộc sống. Nếu chỉ cứng nhắc thừa nhận một vai trò có lẽ ta sẽ gặp nhiều trở ngại. Thay vào đó, sao ta không học cách thích nghi với nhiều vai trò để thấy cuộc sống dễ dàng hơn? Và còn nhiều những câu chuyện có thể làm bạn suy tư, như Món quà đặc biệt cho người yêu quý, Câu chuyện của quỷ dữ, Biết chấp nhận thăng trầm của cuộc sống... 91 câu chuyện trong cuốn sách là những điều mà tác giả tích lũy được qua thực hiện chương trình “Phát huy thiên tài” nhằm phát triển nhân cách, phát huy tài năng của mỗi người. Điều thú vị là tác giả đưa ra những tình huống yêu cầu người đọc tự đưa ra phương án của mình rồi mới công bố đáp án ở cuối sách. Những câu chuyện trong cuốn sách ấy luôn giúp đục giả rút ra cho mình bài học quý giá để tự hoàn thiện bản thân. *** Trong bất kỳ thời đại nào, vấn đề phát triển con người cũng luôn được quan tâm và chú trọng. Điều này nhằm nuôi dưỡng nhân cách và phát huy tài năng của con người. Nó bao gồm nhiều vấn đề như quản lý thời gian, giải tỏa sự căng thẳng, nâng cao trí nhớ và sức mạnh của não bộ, tăng cường sức khỏe và thành công… Cuốn sách Bài học vô giá từ những điều bình dị gồm những câu chuyện khơi gợi cảm hứng và tinh thần học hỏi của mỗi người về thái độ và ứng xử để có được một cuộc sống an nhiên, hạnh phúc. Đây chính là kết quả của những nỗ lực không ngừng của Tiến sĩ Francis Xavier - một bậc thầy kể chuyện, người đã đọc hàng ngàn cuốn sách và tham dự rất nhiều hội thảo cũng như các chương trình đào tạo về thái độ sống và phát triển nhân cách con người. Cuốn sách này là tập hợp các câu chuyện tuyệt vời từ khắp nơi trên thế giới, từ mọi tầng lớp xã hội. Đây là những câu chuyện ngắn gọn mà bạn có thể kể cho bạn bè, người thân của mình nghe trong các buổi tiệc, khi thuyết trình nơi công sở hoặc khi kể chuyện cho con trẻ mỗi ngày. Mỗi chúng ta đều có thể đọc nhiều lần những câu chuyện trong cuốn sách này và bao giờ cũng rút ra cho mình được những bài học quý giá. Đây thật sự là một mỏ vàng mà nếu biết cách khai thác và sử dụng, bạn sẽ có được một kho tàng vô giá. Bạn sẽ được thưởng thức những câu chuyện giàu tính triết lý và nhân sinh. Phần cuối của câu chuyện không được giải đáp ngay mà người đọc phải tự suy nghĩ về câu trả lời. Tất cả đều phải suy nghĩ thật kỹ lưỡng và liên hệ với những tình huống xảy ra trong cuộc đời mình. Phương pháp này được nhiều người đánh giá cao vì nó làm thay đổi tư tưởng và khiến họ không ngừng học hỏi để hoàn thiện chính mình. Hãy đọc cuốn sách bằng tinh thần cởi mở, cố gắng tìm ra lời giải đáp cho các câu hỏi ở cuối mỗi câu chuyện trước khi tham khảo phần đáp án của chúng tôi ở cuối quyển sách. Điều quan trọng là bạn nên suy nghĩ thật kỹ về thông điệp của mỗi câu chuyện cũng như rút ra cho mình những bài học quý giá hơn là đọc lướt qua chỉ để giải trí. Đây thực sự cũng là một món quà nhiều ý nghĩa dành cho con của bạn. Những câu chuyện trong cuốn sách sẽ giúp trẻ tự rút ra cho mình những bài học quý giá và hoàn thiện bản thân mà không cần đến những lời “giáo huấn” của cha mẹ như ngày trước. Nhờ đó, bạn sẽ có vai trò như một người hướng dẫn cho con đọc sách, một người bạn đồng cảm cùng con trong những ý nghĩa ẩn sau mỗi câu chuyện.  Mời các bạn đón đọc Bài Học Vô Giá Từ Điều Bình Dị của tác giả G Francis Xavier. Ph D.
99 Khoảnh Khắc Đời Người - Trương Tử Văn
Con người là một thực thể phức tạp, trong con người chứa đựng nhiều cảm xúc, tâm trạng khác nhau, đôi khi chỉ là một khoảnh khắc nhưng lại có ảnh hưởng rất lớn đến cả cuộc đời... Qua quá trình nghiên cứu con người, các nhà nghiên cứu đã tổng hợp được 99 khoảnh khắc quan trọng nhất trong cuộc đời mà con người phải trải qua, có khi là niềm vui, có khi là nỗi buồn nhưng nếu con người có thể khống chế và điều khiển cảm xúc trong khoảnh khắc đó thì tâm hồn sẽ thanh thản hơn, nhẹ nhàng hơn, để khi trở về với cát bụi con người không phải hối tiếc. Bạn có bao giờ tự hỏi số phận bạn có gắn chặt với mỗi khoảnh khắc sinh mệnh của mình? bạn có thực sự có khoảnh khắc thời gian không? Ngoài khoảnh khắc thời gian ra, bạn còn có khoảnh khắc nào nữa không? Trong trí nhớ của bạn, bạn có nhớ một số việc mình làm và lý giải logic sinh mệnh của mình?.. Những thắc mắc tưởng chừng như sẽ trôi theo như dòng nước, trở thành kí ức được thể hiện trong cuốn sách "99 khoảnh khắc đời người" do Trương Tự Văn, Nguyễn An biên soạn. Khoảnh khắc đời người được giới thiệu trong cuốn sách, gồm các khoảnh khắc từ: Thời niên thiếu đến những năm tháng cuối đời, từ trong giao tiếp xã giao đến không gian rộng lớn, từ những lúc nỗi niềm trăn trở đến khi vượt qua nghịch cảnh, đắc ý khi thành công. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc. Số phận của tôi gắn chặt với mỗi một khoảnh khắc của sinh mệnh của tôi Ngoài khoảnh khắc thời gian ra, tôi còn lại cái gì nữa? Tôi thật sự có khoảnh khắc thời gian chăng? Điều tôi rõ ràng nhất là tôi đã từng làm một số điều gì đó. Chỉ cần trí nhớ chưa hoàn toàn mất hẳn, tôi luôn có thể nhớ lại được một số việc tôi đã từng làm. Nhưng thời gian không gian vẫn trôi đi mãi như dòng nước, một số việc trong hồi ức đều theo sinh mệnh của quá khứ mãi mãi qua đi, không thể tính là cái tôi có hiện tại... *** Chính là do khúc nhạc bi thương tế truy điệu vong linh, mới làm nổi bật lên vẻ vô cùng trang nghiêm và vĩ đại của bản giao hưởng của sinh mệnh. * Mặt trời lạnh lẽo đang nhảy nhót lần cuối cùng ở tít chân trời phía Tây, đang đi về sườn núi phía bên kia để đi ngủ rồi. Lúc mới đầu tôi đến với nhân gian, tôi khóc người ta cười; đến nay khi tôi vĩnh biệt nhân gian, tôi cười người ta lại khóc. Từ trong từng tiếng cười tiếng khóc này tôi đã thể nghiệm được một cuộc đời hoàn toàn mỹ mãn - Cuộc đời của tôi đối với bản thân tôi thật ra không có quá nhiều giá trị để nói. Giá trị của cả đời tôi chỉ ở chỗ đem lại cho người khác niềm vui và hạnh phúc. Cái chết của tôi thật ra không tạo nên đau khổ đối với bản thân tôi, chỉ là một loại giải thoát và hồi quy. Cái chết của tôi chỉ để lại cho những người sống - người thân và bạn bè của tôi những niềm nhớ nhung và luyến tiếc. Tôi đang mỉm cười đi về Thiên quốc. Tôi, một đời không hổ thẹn với Trời, không hổ thẹn với Người, cho nên khi ánh sáng của cái chết sẽ bao trùm lên tôi, thật ra tôi không vì tiếng khóc của người khác mà động lòng. Ngoài một chút tình lưu luyến lúc ẩn lúc hiện ra, trong lòng tôi phẳng lặng như tờ. Khi tôi sống đã đủ, giới tự nhiên đã tặng cho tôi món quà cuối cùng - cái chết này, hãy để cho tôi an giấc mãi mãi ở cung tẩm dưới đất. Tôi bằng lòng đón nhận lời kêu gọi kích động lòng người này, nhắm đôi mắt lại không chút bận lòng, chờ đợi tiếng chuông vang của Thiên quốc. Tôi biết, trong nhân gian cái bình đẳng vĩ đại nhất, triệt để nhất, chính là sinh ra và chết đi. Muôn vật sinh ra, muôn vật chết đi đều không thể chống lại được, không thể ngăn cản được. Trước cái sinh và cái chết muôn vật đều bình đẳng. Sinh so sánh với chết, giá trị của cái chết thông qua giá trị của cái sống thể hiện ra một cách gián tiếp. Chính là vì cái chết mới đột nhiên làm nổi bật lên giá trị của sinh mệnh, mới tỏ rõ sinh mệnh là đáng quý biết bao. Chính là do ánh sáng của cái chết mới làm nổi bật lên ánh sáng của sinh mệnh. Chính là do khúc nhạc bi thương tế vong linh mới làm nổi bật lên vẻ vô cùng trang nghiêm và vĩ đại của bản giao hưởng của sinh mệnh. Nếu như không có cái chết, sinh mệnh còn có ý nghĩa gì nữa? Pofuva trong sách "Mọi người đều phải chết" đã tô nặn nên Fuxưca bất tử. Fuxưca đã từng trải 600 năm phong vân, trước mắt ông chỉ nhìn thấy kẻ đi người lại, mặt trời lên rồi lại lặn, ông ta vẫn không chết, vĩnh hằng cùng với thời gian, thế là ông không có thời gian. Vì ông sinh mệnh vĩnh viễn tồn tại, do đó trên thực tế sinh mệnh đối với ông chẳng có ích gì, ông cũng như không có sinh mệnh. Beatlivi từ chối tình yêu của Fuxưca, đã nói với ông ta một câu đủ để cho loài người chúng ta ngẫm nghĩ mãi mãi: "Ðã đành Ngài có thể sống bằng sinh mệnh của hàng ngàn hàng vạn người, như thế thì Ngài hãy vì những người khác bỏ ra một chút hy sinh, thì có đáng là cái gì?" - Không có cái chết, loài người không thể phát hiện ra giá trị. Ðương nhiên, không có sinh sống thì muôn đời giống như một đêm dài, đó không phải là sự tồn tại mà chúng ta có thể tưởng tượng được. Khi ánh sáng của cái chết bao trùm lên chúng ta, chúng ta thực tế không có lý do để lo sợ và khủng khiếp. Cái chết đối sinh mệnh mà xét không nghi ngờ gì nữa là một việc tuyệt đối và tất nhiên. Chỉ cần chúng ta nghĩ đến đã là đặt mình vào trong việc tuyệt đối, vào trong việc tất nhiên, chúng ta còn lo sợ gì nữa? Con người ta chỉ có khi phải chọn lựa mới có lý do lo sợ, chỉ sợ sai lạc. Cái chết đối với chúng ta là cõi đi về không có chọn lựa nào khác, chúng ta bằng lòng cũng thế mà không bằng lòng cũng thế, vui vẻ cũng thế lo buồn cũng thế, dù thế nào cũng phải bước vào cửa chết cả. Nếu như bạn biểu hiện một dáng vẻ đáng thương hại, chứa chan hàng lệ, nơm nớp lo sợ, thê thảm không dám bước vào cửa. Ðã bước vào rồi vẫn chết không nhắm mắt, mở to miệng ra, làm cho những người đang sống nhìn thấy dáng bộ xấu xí đáng sợ của bạn, lúc này còn khổ biết mấy nữa? Người ta chỉ có thể xót thương kết cục của bạn không được trọn vẹn, cho rằng bạn vẫn còn tham lam không biết chán. Người ta có thể tiếc cho bạn vẫn đem cả lòng tham đi đến Thiên quốc. Sao không êm ả nhắm đôi mắt lại, mỉm cười để vĩnh biệt Nhân gian? Sao không vẽ lên một Dấu Chấm Hết cho việc kết thúc một sinh mệnh. Mời các bạn đón đọc 99 Khoảnh Khắc Đời Người của tác giả Trương Tử Văn.
Đừng Để Tiền Ngủ Yên Trong Túi - Thuật Đầu Tư Thông Minh Của Người Giàu Babylon - Tương Lâm
Được sở hữu một khối tài sản lớn là ước mơ và mong muốn của mỗi chúng ta. Trong thời đại ngày nay, khát hữu một khối tài sản lớn là ước mơ và mong vọng của con người đối với tài sản vật chất lại càng lớn hơn nữa. Thế nhưng giữa ước mơ và hiện thực thường có một khoảng cách nhất định. Chúng ta thường mơ được phát tài, và cũng thường than thở rằng ước mơ ấy quả là xa vời. Đó là vì năng lực ta có hạn? Hay là vì ta không đủ lòng tin? Hay là vì chúng ta chưa tìm thấy bí quyết làm giàu? Sáu nghìn năm trước, Babylon cổ đại mặc dù không hề có bất cứ lợi thế nào về tài nguyên thiên nhiên, nhưng họ vẫn có thể trở nên giàu có. Họ đã xây dựng nên thành Babylon - một thành phố phồn hoa, giàu có nhất bậc thế giới lúc bấy giờ. Nguyên nhân là vì người Babylon đã biết vận dụng một cách hiệu quả trí tuệ của mình để khắc phục sự khắc nghiệt của thiên nhiên, tổng kết và vận dụng các phương pháp làm giàu, đồng thời không ngừng khai thác và phát huy tiềm năng của con người, nhờ đó giúp cho số tiền của mình ngày càng được "sinh sôi" nhiều lên. Babylon nằm bên bờ sông Euphrates, từng là một thành phố tuyệt đẹp, giàu có và sung túc, vàng bạc châu báu của toàn thành phố nhiều không đếm xuể. Sáu nghìn năm trước, nơi đây từng là biểu tượng của sự giàu có. Nhưng tài nguyên thiên nhiên của ngôi thành này lại không mấy phong phú như mọi người hằng tưởng tượng, ở đây không có rừng, cũng không có mỏ quặng, thậm chí đá dùng để xây dựng cũng như các con đường thương mại đều rất ít. Ở Babylon chỉ có nước sông và đất đai phì nhiêu, nhưng lượng mưa không nhiều, còn khí hậu thì nóng và khô cằn. Tuy nhiên, người Babylon đã lập nên kì tích khi họ đã tận dụng được một cách triệt để những tài nguyên thiên nhiên đó để khắc phục điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, vận dụng trí tuệ một cách hoàn hảo để hoàn thành mục tiêu vĩ đại, viết nên trang sử hào hùng được lưu truyền mãi cho muôn đời sau. Đó cũng là một minh chứng rõ ràng cho sự nỗ lực của con người đã chiến thắng thiên nhiên. Có thể thấy, Babylon không chỉ là biểu tượng của sự giàu có mà còn là biểu tượng của trí tuệ. Babylon đã để lại cho loài người công trình đập dẫn nước vĩ đại, công trình nổi tiếng này đã nuôi dưỡng nhiều thế hệ người Babylon. Ngoài ra, người Babylon cũng đã để lại cho nhân loại một bức tường thành vĩ đại, tráng lệ hơn cả Kim tự tháp Ai Cập, và sau này nó đã trở thành một trong bảy kì quan của thế giới cổ đại còn lại cho tới ngày nay. Trước kia, khi loài người còn dùng đá để làm rìu, giáo mác, mũi tên… thì người Babylon đã biết sử dụng sắt thép để chế tác các vật dụng và vũ khí. Đây là một sự tiến bộ vượt bậc so với thời đại. Khoảng sáu nghìn năm trước, người Babylon đã tinh thông các loại kĩ nghệ, điêu khắc, hội họa, dệt, đúc… Bên cạnh đó, trình độ xây dựng của họ cũng không hề thua kém so với các đô thị nổi tiếng khác trên thế giới. Các con phố ngang dọc nối với nhau, thương nhân buôn bán sầm uất... tất cả phác họa nên một cuộc sống phồn vinh nơi đô hội. Khi ấy, người Babylon đã xây dựng được một nền văn hóa của riêng mình. Họ khắc họa cuộc sống đương thời trên đất sét, trong đó bao gồm cả các truyền thuyết dân gian, thơ, lịch sử, luật pháp, khế ước… Babylon cũng có các nhà tư bản và các thương gia thông minh, sáng suốt. Teo lịch sử ghi lại, người Babylon là một trong những tộc người phát minh ra cách trao đổi, mua bán bằng tiền, kí kết biên lai hoặc khế ước cũng như các văn bản về quyền sử dụng tài sản đất đai sớm nhất trong lịch sử. Có thể thấy, lịch sử thành Babylon thật đáng kinh ngạc, còn cư dân nơi đây là một dân tộc vĩ đại và đầy trí tuệ. Mặc dù điều kiện tự nhiên thiếu thốn như vậy nhưng người Babylon cổ đại đã lập nên kì tích, để lại cho thế hệ sau những kết tinh trí tuệ quý giá. Kì tích này cho thấy họ đã biết tận dụng tối đa trí tuệ của mình để khắc phục điều kiện thiên nhiên khó khăn, khắc nghiệt. Tuy vậy, sự hưng thịnh của thành Babylon chỉ tồn tại được một thời gian ngắn. Khoảng một trăm năm sau, Babylon do không chịu nổi sự tàn phá của thiên nhiên nên đã bị vùi lấp, trở thành đống đổ nát. Ngày nay, nơi đây chỉ còn những cư dân du mục Ả Rập với cuộc sống nghèo khổ và những túp lều tạm bợ. Sự tráng lệ của Babylon ngày xưa chỉ còn là một quá khứ tươi đẹp. Mặc dù sự huy hoàng của thành Babylon đã mất đi, sự hưng thịnh không còn, nhưng trí tuệ của người Babylon thì vẫn còn nguyên giá trị. Họ đã để lại cho hậu thế một di sản quý giá, đó là con đường làm giàu: “một đồng vốn, vạn đồng lời”. Tuy đã sáu nghìn năm trôi qua, nhưng trí tuệ và bí quyết về sự giàu có của họ vẫn trường tồn cùng với thời gian, và được lưu truyền cho đến ngày nay. Trong cuốn sách này, nhóm biên soạn cố gắng chọn lọc phươngpháp làm giàu của người Babylon, truyền tải chúng thông qua lời văn rõ ràng và những câu chuyện sinh động. Hi vọng di sản trí tuệ này sẽ mang đến cho quý độc giả những gợi ý sâu sắc và bổ ích, giúp gợi mở cho những người còn đang lo lắng, do dự trên con đường làm giàu, để họ có thể thuận lợi hơn trên con đường thực hiện ước mơ của mình. *** 1. SỰ GIÀU CÓ SẼ MANG LẠI NIỀM VUI VÀ SỰ ĐẦY ĐỦ Ở Babylon cổ đại, bấy giờ Arkad là người giàu có nhất. Ban đầu, Arkad là một người làm công việc khắc chữ cho quan phủ để mưu sinh. Một cơ hội ngẫu nhiên đã giúp ông ta gặp được một phú ông vô cùng giàu có - Algamish. Dưới sự chỉ bảo của Algamish, Arkad dần dần khấm khá lên, rồi trở thành một phú ông giàu có. Về sau, ông được chia cho một phần tài sản của Algamish vì đã có công phát triển công việc của ông ấy và trở thành người giàu có nhất Babylon. Khi còn trẻ, Arkad đã từng muốn tìm cho mình niềm vui và sự đầy đủ từ trong cuộc sống bình dị. Nhưng dần dần, với trải nghiệm cuộc sống ngày càng phong phú thêm, Arkad nhận thấy rằng, sự giàu có có thể giúp ta được chú ý hơn cũng như có nhiều cơ hội hơn để tận hưởng niềm vui và cuộc sống sung túc. Arkad quyết định cần phải nỗ lực để có được niềm vui và cuộc sống sung túc mà sự giàu có mang lại. Ông hiểu rằng, nếu cứ chỉ biết chờ đợi suông mà không bắt tay vào hành động thì cho dù có mục đích và niềm tin đi nữa, ta cũng chỉ có thể mãi mãi giương mắt nhìn người khác tận hưởng niềm vui và cuộc sống giàu có mà thôi. Hoàn cảnh gia đình của Arkad vốn khó khăn, cha ông chỉ là một tiểu thương nhỏ, hơn nữa gia đình lại đông anh em và không có tài sản thừa kế, vì vậy Arkad hiểu rằng, ông chỉ có thể dựa vào sự nỗ lực của chính bản thân để thực hiện mục tiêu mà mình đã đặt ra. Tuy nhiên, Arkad không có gì nổi bật cả, cũng chưa nhìn ra được điểm mạnh của mình, cho nên ông chỉ bỏ thời gian và công sức vào việc học quản lí tài sản. Thực ra, muốn học được việc quản lí tài sản cũng không đơn giản chút nào, ít nhất cũng phải cần mẫn đọc những loại sách vở có liên quan. Nhưng lúc đó Arkad không có đủ thời gian để đi học hỏi, bù đắp những khuyết điểm của mình, nên ông cũng chỉ biết thở dài tiếc nuối về những tháng ngày trôi đi một cách vô ích. Tuy nhiên, từ những kinh nghiệm thực tế của cuộc sống, Arkad dần dần học được cách chi tiêu hợp lí hơn. Sau đó, ông quyết định bắt đầu tích lũy tài sản, và trong quá trình tích lũy ấy, ông đã học và đúc rút ra được phương pháp làm giàu và quản lí tài sản một cách hiệu quả. Bài học đúc kết Người ta có câu: “Tiền không phải là tất cả, nhưng nếu không có tiền thì không làm được gì”. Người có điều kiện kinh tế vững vàng có thể yên tâm tận hưởng những niềm vui trong cuộc sống, đồng thời thôi thúc họ tìm kiếm, theo đuổi những nhu cầu khác mà cuộc sống sung túc mang lại. 2 BẮT ĐẦU TỪ CON SỐ NHỎ Arkad tìm được một công việc, đó là khắc chữ lên những bản đất sét theo yêu cầu của các quan. Anh phải làm việc cực kì vất vả, mỗi ngày đều phải lao động rất nhiều giờ đồng hồ. Thời gian cứ trôi qua, mặc dù Arkad làm việc một cách tận tụy, nhưng vẫn không tiết kiệm được chút tiền nào. Chi phí sinh hoạt cần thiết tiêu tốn hết thu nhập của anh, tuy vậy Arkad vẫn không nản chí, quyết tâm tích cóp tài sản. Một hôm, ông chủ “ngân hàng” Algamish đến quan phủ để đặt bản khắc “Pháp lệnh số chín”. Algamish nói với Arkad rằng: “Chỉ cần anh khắc xong bản pháp lệnh đó trong hai ngày thì tôi sẽ trả cho hai đồng tiền công”. Mặc dù đã phải làm thêm rất nhiều giờ nhưng Arkad vẫn chưa khắc xong pháp lệnh đó vì nó quá dài. Do Arkad không hoàn thành đúng tiến độ công việc nên Algamish đã rất tức giận. Tuy nhiên, Arkad biết rõ rằng Algamish là một người rất giàu có nên đã lấy lại dũng khí và nói với Algamish rằng: “Nếu ông có thể nói cho tôi biết bí quyết làm giàu của ông, tôi sẽ làm việc thâu đêm nay, trước khi trời sáng nhất định sẽ khắc xong những pháp lệnh này cho ông”. Điều khiến cho Arkad cảm thấy vui mừng đó là Algamish đã đáp ứng yêu cầu này, nhưng với điều kiện là trước hết phải khắc xong pháp lệnh đó. Arkad rất vui mừng và đã thức cả một đêm để làm, cuối cùng anh cũng khắc xong. Khi Algamish nhìn thấy Arkad mệt tới mức mình mẩy đau nhức, hoa mắt, đầu óc quay cuồng, ông nói: “Tôi thích những người cầu tiến như anh. Bây giờ, tôi sẽ giữ đúng lời hứa của mình, nói cho anh biết con đường làm giàu của tôi”. Algamish nói một cách chân thành: “Anh phải hiểu rằng, trí tuệ của người trẻ tuổi giống như sao băng bay qua chân trời vậy, sẽ biến mất trong nháy mắt, còn trí tuệ của người già là ngôi sao bất biến không hề thay đổi, nó phát ra ánh sáng rực rỡ; trí tuệ là vĩnh hằng là mãi mãi, mặt trời của ngày hôm nay với mặt trời của ngày mà cha anh sinh ra là một”. Tiếp đó, ông tỏ ra thần bí nói với Arkad rằng: “Đừng cho rằng tôi nói nhiều, anh nhất định phải nhớ kĩ câu nói này, nếu không anh sẽ không thể nào hiểu được đạo lí mà tôi đã nói đâu. Và nếu vậy thì, sự vất vả cả đêm của anh coi như phí công rồi”. Mời các bạn đón đọc Đừng Để Tiền Ngủ Yên Trong Túi - Thuật Đầu Tư Thông Minh Của Người Giàu Babylon của tác giả Tương Lâm.
Người Bản Lĩnh - Hoàng Xuân Việt
Chuyện xưa, Trang-Vương sai mật thám nghiên cứu tình thế nước Trần để đánh. Mật thám về tâu : Không nên đánh Trần quốc. Trang-Vương hỏi : Tại sao ? Mật thám thưa : « Nước Trần đã thủ kiên cố lại chứa chất nhiều của cải. Đánh tất thua. » Ninh-Quốc liền đáp : « Nếu vậy thì nên đánh Trần quốc lắm. Nước ấy nhỏ mà thành hào cao sâu thì dân bị kiệt lực, nhỏ mà tàng trữ nhiều của cải thì thuế nặng, vua bị thù ». Trang-Vương nghe Ninh-Quốc hữu lý, đánh Trần, thắng. Còn chuyện nay ? Lúc làm Tổng thống, có lần Théodore Roosevelt dượt quyền với một Đại úy. Sĩ quan nầy đánh dập mắt trái của ông. Mắt đau rát quá, về sau mờ. Nhưng Roosevelt nén nỗi thống khổ, không hề cho viên Đại-úy hại mình biết. Một giáo sư toán đã đứng đầu sổ danh nhân thế giới hiện nay, người có hồi chánh phủ cùng nhân dân Đức coi như thần, người đã khai sinh một học thuyết làm chấn động giới triết học, được non nghìn quyển sách nghiên cứu, diễn giảng, bạn biết người ấy là ai chắc ? Albert Einstein. Được người đời đưa lên tận mây xanh như vậy, nhưng cha đẻ « thuyết tương đối » sống làm sao ? Sống đơn giản lắm. Ông coi bao nhiêu lời ca tụng của thiên hạ thua chiếc vĩ cầm của ông. Đi đâu Einstein rất ít đội nón, mặc đồ cũ mèm, lòng vô tư, có diện tướng an lạc. Đọc mấy chuyện trên, thưa bạn, chắc bạn có những nhận xét nầy : là Ninh-Quốc biết thấy cái thuận trong cái nghịch. Roosevelt biết trọng lòng dễ sợ của người dưới. Einstein sống đơn giản. Người ta gọi những bực nầy là kẻ có óc Già Giặn. Họ sống hạnh phúc, họ khéo xử thế, họ đắc lực chung qui nhờ bộ óc đã trui. Muốn đi theo vết chân của họ, chúng ta phải nỗ lực rèn đúc tâm hồn « bản lĩnh ». Bởi lòng người khó đo hơn sông biển, ruột xã hội có những hóc kẹt ác, bởi có nhiều phận sự hay cuộc lập thân thường không thành công cách đơn sơ, nên con người, muốn sâu sắc xử đối với kẻ xung quanh, đề phòng những mưu cơ, ăn chịu những thử thách, thất bại, phải khôn ngoan, trầm tĩnh, cẩn thận, lạc quan, can đảm, nói tắt là phải già giặn. Hẳn bà Dorothy Carnegie có lý khi viết quyển Don't grow old grow up để nhấn mạnh sự cần thiết của đức tánh căn bản nầy. Nó là nồng cốt của nhiều nhân đức khác. Nó là chìa khóa của đạo hạnh, luyện tâm, xử gia, xử thế, và hoạt động. Chiếc đũa tiên để sống ấy, người ta có quan tâm tạo cho mình không ? Hình như ít lắm. Đức Giêsu dạy ai không tái sinh làm con trẻ, sẽ không đặng vào thiên quốc. Trong quần chúng, lắm kẻ hiểu lầm chất triết lý nhân sinh thẳm sâu của huấn từ ấy. Đấng Cứu-Thế muốn con người tự tâm hồn nên vô tội, hiền lương, thanh khiết, khiêm từ, sốt sắng, nhẫn nại, bác ái, chịu khó v.v... tức là có bản lĩnh. Vả lại mục đích của luyện thân là làm sao cho ngày càng từng trải, con người bên trong càng lão luyện để làm nên những việc có ích cho bản thân, gia đình, quốc gia, chớ đâu phải lo bảo trì sự trẻ trung hiểu theo nghĩa non nớt mãi để rồi chuốt lấy những hối tiếc. Thực ra ai cũng muốn được gọi là già kinh nghiệm vì trong thực tế ai cũng cảm thấy làm việc gì mà đầu óc non nớt dễ thất bại. Nhưng ở thời nầy vì cơn lốc mê say vật chất xô đẩy, nên nhiều dân tộc, nhiều phong trào thích « vui vẻ trẻ trung ». Trong chức vụ, kẻ cao tuổi bị chê là « hết xài », quàng rờ, lạc hậu. Đức nghiêm trang có khi bị coi là kiểu cách, là khó tánh, ít bặt thiệp, quê mùa. Còn da mồi tóc bạc thì thôi : đã không được kính trọng lại bị coi như cái gì mà ai thấy cũng phải trốn. Đàn bà không sợ chi bằng cái già đã đành, mà đàn ông cũng rộn rịp làm cho trẻ. Người ta thoa phấn cho da mặt trẻ. Người ta lựa màu áo quần, lối trang sức cho thân thể ra vẻ trẻ. Đừng quên thời xuân xanh, cái đáng khen là sự mỹ miều của thân xác, còn cái đáng lo là sự non nớt, khờ dại của tâm não. Về đường tinh thần, tuổi trẻ phải chuẩn bị cho tuổi già, người thanh niên phải thu trữ kiến thức, phải sống kỹ đời sống, rút khôn trong những lần dại, để lúc cao niên chu toàn nghề làm người của mình. Đức già giặn khẩn thiết như thế, mà không phải tự nhiên ai cũng có hay hễ già cả thì tất nhiên già giặn. Có lẽ phần đông chúng ta nhận thấy riêng trong sự phán đoán hay trong việc làm lắm khi chúng ta non nớt, mặc dầu chúng ta đã khá tuổi. Chúng ta ít kiểm điểm hạnh kiểm của mình mà hay chê kẻ khác háo thắng, thiếu khôn ngoan, nghèo nhân đức, không khiêm tốn. Nghe một việc quấy, một tật xấu của tha nhân, chúng ta vội tin người thuật lại, liền chỉ trích. Nhiều chuyện đời, nếu xét kỹ, đơn giản lắm. Chúng ta hấp tấp làm cho nó ra phiền toái, bi đát, nguy nan. Làm lớn có nhiều trường hợp chúng ta phải biết hi sinh một để lợi mười, phải biết thu tâm người dưới, sáng suốt tự quyết, chúng ta lại câu nệ hẹp hòi, nô lệ dư luận khiến công ích bị thiệt hại. Thấy một người cầm hộp á phiện, nói gì không biết chúng ta liền nói người ấy có tật « bắn khí » hay dạy kẻ khác làm quen với nàng tiên nâu. Làm giáo sư hay giám thị, chúng ta in trí, xem tướng học sinh, đoán tính tình, tương lai, công tội, đoán không phải theo tâm lý học hay diện tướng học, mà theo lòng ích kỷ, theo óc tây vị nô lệ tình dục. Trước một công việc gì ta không chịu cân đo lợi hại, thất bại, đâm ra bi quan. Lâm vào một hoàn cảnh nguy nan, liệu không giải thoát được mà chẳng biết ăn chịu đau khổ, cứ oán hận người, trách số phận, chán đời, bỏ bê phận sự. Đó là chưa nói những tật đa ngôn, tánh thắc mắc, thói khoe khoan. Tất cả, thưa bạn, tất cả đều làm cho chúng ta thất bại. Nói tắt đều làm tâm hồn chúng ta còn « xốp » chưa được trui rèn già giặn. Trong cuốn Người Bản Lĩnh nầy chúng tôi nêu cho bạn lý tưởng già giặn. Những vấn đề được trình bày theo lối tùy bút. Chúng là những bí quyết thực hành, chỉ liên hệ với nhau trong lý tưởng làm người. Hi vọng đọc nó, con người bạn sẽ dần dần cường dũng. Đó là phần thưởng thỏa mãn cho người viết cùng bạn đây. Mà chắc đó cũng là nguyện vọng của bạn vì nó làm cho đời bạn lên hương. HOÀNG-XUÂN-VIỆT *** Không phải già cả thì tất nhiên già giặn : người ta có thể đầu hai thứ tóc mà non trí, cũng có thể còn măng xanh mà óc như thép đã trui. NGHIÊM-THỦY-THẠCH Phải có bản lĩnh cao cường lắm mới sống được cuộc đời đơn giản giữa thời đại thờ lạy Bò vàng nầy. FEURZINGER Mỗi ngày, sau giờ vật lộn với cuộc sống vật chất quá ư phiền toái, ta nên có vài phút thả hồn hướng thượng để tìm một viễn cảnh. WATERSTONE Ôi quí đẹp thay : những cha mẹ quê mùa sống thanh bần, dành dụm tiền cho con cái ăn học nên thân với đời. ECPROCLÉSIA Xung quanh bạn có vô số kẻ láo xược cách chân thành. CHRISPROTO Cứ nhoi lên : vấp té thì đứng dậy, tiến ngay không được thì tiến quanh. Mà nhứt định thành công sau cùng. HOÀNG-BÍCH-MỘNG *** Học giả Hoàng Xuân Việt sinh năm 1930 tại Bến Tre. Ông tốt nghiệp cao học tại hai trường Đại chủng viện Saint Joseph và Saint Sulpice. Ông còn theo học và nghiên cứu một cách chuyên sâu những môn như triết học, thần học, xã hội học, phụ nữ học, thiên văn học và năng lực hạnh tâm...có thể sử dụng thành thạo 7 ngôn ngữ: Anh, Pháp, Đức, Hán - Nôm, Bồ Đào Nha, Hy Lạp và cổ ngữ La tinh.   Ông còn là một nhà giáo với 55 năm làm thầy. GS cho biết ông đã làm thầy của khoảng 10.000 học trò, và nếu nhắc lại thì ông có thể nhớ từng người đã học ông vào thời điểm nào. Vì GS từng làm hiệu trưởng hai trường Nhân xã học làm người (từ 1966 - 1975) và Hán-Nôm Nguyễn Trãi (1993 - 2001). Mời các bạn đón đọc Người Bản Lĩnh của tác giả Hoàng Xuân Việt.