Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovich

Bản dịch của Thạch Chương và Trần Lương Ngọc LỜI GIỚI THIỆU (của Max Hayward và Leopold Labedz) Cuốn Một ngày trong Đời Ivan Đênixôvitch của Alêkxanđr Xôlgiênitxyn quả nhiên là tác phẩm làm kinh hoàng nhất xưa nay từng được xuất bản tại Liên Xô. Ngoài sự kiện là một kiệt tác văn chương, nó còn là một tài liệu cách mạng sẽ ảnh hưởng đến khí hậu đời sống bên trong Liên Xô. Nó là một câu truyện không thương xót và được kể một cách tàn nhẫn về những trại lao công cưỡng bách dưới thời Xtalin. Xôlgiênitxyn đã vạch trần cả một thế giới mới. Trong một phần tư thế kỷ, cái hệ thống trại tập truung to lớn được Xtalin tạo nên đã, trực tiếp hay gián tiếp, là một phần của đời sống hàng ngày của mọi người dân Xô-viết. Chẳng có một gia đình nào mà đã không có một người con, một người chồng, một người anh, hay thân nhân nào khác ở trong một trại, và sự thật về những gì Xôlgiênitxyn nói ra đã được biết đdến từ lâu, nhưng chẳng phải lúc nào cũng được tin, bên ngoài Liên Xô. Nhưng cuốn sách của Xôlgiênitxyn, bởi cái phẩm chất nghệ thuật tột đỉnh của nó, tạo ra một ấn tượng hãi hùng và ghê tởm tại ngoại quốc bởi ngay đến cả những nạn nhân xót hận nhất của các trại tập trung Xô-viết. Đã nhiều năm nay rồi, người ta đã có thể nhắc đến sự hiện hữu của những trại tập trung dưới thời Xtalin trong văn chương Xô-viết, và, quả vậy, hình ảnh của người tù được trở về đã trở thành một điều nhàm chán, nhưng sự thật đời sống trong cái địa ngục nhân tạo này ra sao thì chưa hề bao giờ được tiết lộ trong sách vở cho người đọc Xô-viết. Tấm màn yên lặng phủ kín cái vũ trụ lao trại đã dày đặc như tấm màn tuyết che phủ khoảng đất lớn nhất thế giới, kéo dài từ bán đảo Kôla đến Magađan, từ Vorkuta đến Kôlyma. Trong cuộc đấu tranh để vùng dậy từ những vực sâu băng hoại do Xtalin xô họ xuống, các nhà văn Xô-viết sớm hay muộn đã phải thỏa hiệp với sự ông ta phản bội tính nhân bản sâu sắc đã có hồi làm cho văn chương Nga thật là to lớn trước mắt thế giới đó. Sự việc đã xảy đến cho Alêkxanđr Xôlgiênitxyn là phục hồi những giá trị văn chương và nhân bản của quá khứ. Quả là điều thích hợp khi ông đã chọn làm như thế bằng cách phơi bày một cách tàn nhẫn cái thể chế ô nhục đã có hồi vừa là công cụ vừa là hiện thân của một nền bạo quyền vô cùng đáng khinh miệt. Xôlgiênitxyn nhờ đó đã làm yên ổn lương tri bị hành hạ của vô số những người Nga đã phải sống quá lâu trong yên lặng với ý thức về niềm ô nhục này. Như Alekxanđr Tvarđôsky nói trong phần tựa của ông: “Tác dụng của cuốn tiểu thuyết này, cuốn tiểu thuyết vô cùng khác thường về sự thẳng thắn và sự thật đau thương của nó, là làm trí ta vơi nhẹ đi những gì từ trước đến nay chưa hề được nói tới, nhưng đã phải được nói tới. Do đó mà nó làm ta vững mạnh hơn và cao thượng hơn”. Sức mạnh của cuốn tiểu thuyết to lớn đến độ ta cũng có thể chia sẻ cái cảm tưởng này nữa. Lương tri của một dân tộc chẳng thể nào được thỏa mãn bởi một công thức tự kiêu tự đại, ghê tởm trong cái giả đạo đức của nó, theo đó, kể từ những năm của Đại hội thứ hai mươi của Đảng Cộng Sản Liên Xô, những “lỗi lầm” của Stalin đã được gán ghép cho “một số hiện tượng liên kết với sự tôn thờ cá nhân”. Cuốn tiểu thuyết của Xôlgiênitxyn vượt qua hẳn cái mặc ước này. Trong các cung cách khác nữa, Xôlgiênitxyn cũng vượt qua giới hạn của những gì từ trước đến nay đã được phép trong những cuộc thảo luận công khai về quá khứ. Ông chứng minh rằng những trại tập trung chẳng phải là một đặc điểm cô lập trong một xã hội chính ra đáng ngợi khen- kế quả không may của một sự “vi phạm luật pháp xã hội chủ nghĩa”- mà, thật ra, chúng đã là những tiểu vũ trụ của cả xã hội đó nói chung. Cuốn tiểu thuyết vạch một đường song song mặc thị giữa “bên trong” và “bên ngoài” trại: Một ngày trong đời của một công dân Xô-viết tầm thường đã có nhiều điểm chung với đời sống của những người đồng bào với ông đằng sau hàng rào kẽm gai. Bây giờ ta thấy rằng ở cả hai phía hàng rào, đó là cùng một câu truyện về nỗi thống khổ vật chất và tinh thần, về sự băng hoại, niềm uẩn ức và nỗi king hoàng. Khi chọn một công dân rất tầm thường làm nhân vật chính của câu truyện mình, Xôlgiênitxyn đã bẻ gẫy một mặc ước khác. Ivan Đênixôvitch chẳng phải là anh hùng lao động tiêu chuẩn nâng cao lá cờ xã hội chủ nghĩa thắng lợi và bước những bước dài tin tưởng đi vào tương lai Cộng sản chủ nghĩa huy hoàng. Hắn là một con người hèn mọn, chất phác, rất ư là bối rối, chẳng muốn gì hơn là sống hết một kiếp cần lao cách nào tốt nhất mà hắn có thể. Hắn tranh đấu một cách thảm thương để giữ lại được lòng thẳng thắn, tự trọng, và kiêu hãnh trong một cuộc chiến vô vọng với những lực huyền bí mà chúng dường như nhất quyết- vì những lý do vượt tầm hiểu biết của hắn- phá hủy phẩm cách con người của hắn, chối bỏ cái quyền yêu thương quê hương của hắn, và khiến cho công lao của đôi bàn tay hắn trở thành vô nghĩa. Cho đến giờ ta mới chỉ nghe nói đến những nạn nhân được tán tụng nhiều hơn của “thời kỳ tôn thờ cá nhân”. Trong chiến dịch phục hồi được phát động bởi những kẻ thừa kế Xtalin, người ta đã nhấn mạnh vào “những người Cộng sản chính trực bị kết án một cách bất công”. Bây giờ thì, lần đầu tiên, ta học biết được từ Xôlgiênitxyn cái cách lối theo đó hàng triệu người không tên đã trả bằng tự do của họ và bằng chính cuộc đời cho công cuộc “xây dựng xã hội chủ nghĩa”. Xôlgiênitxyn đã phá hủy cho muôn đời cái màng lưới dối trá nó đã từng bao phủ những trại tập trung Xô-viết từ trên ba chục năm nay- ấy là không kể đến những huyễn tượng đã từng được lan truyền đi với niềm tin tưởng nhường ấy và với vẻ ngạo mạn nhường ấy, mà mọi bằng chứng đều trỏ đến tác dụng trái ngược, bởi những kẻ tự cho mình là “những người bạn của Liên Xô”, mà giờ đây đã bị phát lộ là những kẻ bội phản nước Nga đích thực và bội phản tất cả nhân loại. Mong được như thế trên lương tri của họ. Quả sẽ nhầm lẫn, tuy nhiên, nếu chỉ xét cuốn tiểu thuyết của Xôlgiênitxyn trong những quan hệ lịch sử và chính trị thô lỗ. Như mọi tác phẩm lớn của nghệ thuật, nó ở ngoài nơi chốn và thời gian. Khi trình bày một con người, trong một thời gian và nơi chốn đặc thù, trong cái cảnh trí nhớp nhúa nhất có thể tưởng tưởng nổi, Xôlgiênitxyn đã thành công trong việc làm vững mạnh đức tin của ta vào thắng lợi tối hậu của những giá trị văn minh đối với sự ác. Cuốn tiểu thuyết của ông là một vở kịch đạo đức trong đó chàng thợ mộc Ivan Đênixôvitch Sukhôv là Kẻ Bình Phàm vậy. MAX HAYWARD LEOPOLD LABEDZ Nữu Ước, Tháng Giêng, 1963 THAY LỜI TỰA Chủ đề cuốn tiểu thuyết của Alêkxanđr Xôlgiênitxyn thật là khác thường trong văn chương Xô-viết. Nó phản hưởng lại những hiện tượng thiếu lành mạnh trong đời sống chúng ta liên kết với thời kỳ tôn thờ cá nhân, hiện đã được Đảng phơi trần và loại bỏ. Mặc dù những biến cố này thật là gần gũi xét về thời gian, nhưng chúng dường như rất xa vời đối với chúng ta. Nhưng cho dù quá khứ có thế nào, thì ta, trong hiện tại, không được phép lạnh nhạt với nó. Chỉ có cách khảo sát những hậu quả của nó đầy đủ, can đảm và thành thực, ta mới có thể đảm bảo được một sự đoạn tuyệt hoàn toàn và vĩnh viễn với tất cả những sự việc đã đổ một bóng tối trên vùng quá khứ. Đó chính là điều N.S. Khrushchev đã muốn nói khi ông tuyên bố trong bài diễn văn bế mạc đáng ghi nhớ tại Hội nghị thứ hai mươi: “Nhiệm vụ của chúng ta là phải khảo sát kỹ lưỡng mọi khía cạnh của mọi vấn đề liên quan đến sự lạm dụng quyền hành. Đến thời thì rồi ta phải chết, bởi chúng ta tất cả sẽ phải chết, nhưng chừng nào chúng ta còn tiếp tục làm việc thì chúng ta có thể và phải làm sáng tỏ nhiều điều và nói sự thật với Đảng và nhân dân... Việc này phải được thi hành để ngăn ngừa những sự việc như thể khỏi xảy ra trong tương lai”. Một ngày trong Đời Ivan Đênixôvitch chẳng phải là một cuốn hồi ký trong cái nghĩa thông thường của từ ngữ. Nó không chỉ chứa đựng những ghi chép về kinh nghiệm cá nhân của tác giả và ký ức của ông ta về chúng mà thôi, tuy rằng chỉ có kinh nghiệm cá nhân mới có thể mang lại cho cuốn tiểu thuyết một phẩm chất đích thực như thế. Nó là một tác phẩm nghệ thuật. Và chính cái cung cách theo đó chất liệu được sử dụng đã mang lại cho nó cái giá trị nổi bật như một chứng ngôn và làm nó trở thành một tài liệu nghệ thuật, mà khả tính của nó từ trước đến nay dường như không thể có được trên căn bản “chất liệu cụ thể”. Trong Xôlgiênitxyn người đọc sẽ không tìm thấy được một bản trần thuật hoàn toàn đầy đủ về cái thời kỳ lịch sử được đánh dấu đặc biệt bởi năm 1937 đó, thời kỳ thật là đau xót trong tất cả những kỷ niệm của chúng ta. Chủ đề của Một Ngày nhất thiết được giới hạn bởi thời gian và nơi chốn của động tác và bởi những hạn định của thế giới trong đó nhân vật chính bị giam hãm. Một ngày của Ivan Đênixôvitch Sukhôv, một tù nhân trong một trại lao động cưỡng bách, như là Alêkxanđr Xôlgiênitxyn đã mô tả (đây là lần đầu tiên tác giả xuất hiện trên bản in), diễn ra như một bức tranh linh hoạt và xác thực phi thường về bản chất con người. Đây chính là điều trên hết đã mang lại cho tác phẩm cái xung kích độc nhất của nó. Người đọc có thể tưởng tượng ra dễ dàng nhiều người trong số những người được trình bày tại đây, trong các tình huống bi thảm này, như đang chiến đấu nơi tiền tuyến hay làm việc tại các công trình tái thiết hậu chiến. Họ cùng là một loại người, nhưng họ chưa hề bị định mệnh phơi bày trước nỗi nguy khốn hung bạo chẳng những thể xác mà cả tinh thần nữa. Tác giả cuốn tiểu thuyết này không cầu kỳ để cố tình nhấn mạnh cái tính thô bạo chuyên chế nó là hậu quả của sợ đổ vỡ trong luật pháp Xô-viết. Ông đã lấy một ngày rất tầm thường từ lúc thức dậy đến lúc tắt đèn trong đời một tù nhân. Nhưng cái ngày tầm thường này không thể không chất chứa trong tim người đọc những chua xót đau thương cho số phận của những con người này; họ sống động trước mắt người đọc và có vẻ như thật gần gũi với hắn trong những trang cuốn sách này. Thành quả lớn nhất của tác giả, tuy nhiên, là cái chua xót và đau thương đó chẳng hề truyền đạt một cảm giác hoàn toàn vô vọng. Ngược hẳn lại. Tác dụng của cuốn tiểu thuyết này, cuốn tiểu thuyết thật là khác thường về sự thẳng thắn và sự thật đau thương của nó, là làm trí ta vơi nhẹ đi những gì từ trước đến nay chưa hề được nói tới, nhưng đã phải được nói tới. Do đó mà nó làm ta vững mạnh hơn và cao thượng hơn. Câu truyện cay nghiệt này chứng tỏ một lần nữa rằng ngày nay chẳng có khía cạnh nào trong đời sống chúng ta mà không thể được đề cập tới và mô tả trung thực trong văn chương Xô-viết. Bây giờ chỉ còn là vấn đề nhà văn mang lại cho nó bao nhiêu tài năng mà thôi. Còn có một bài học rất đơn giản khác nữa để học được từ cuốn tiểu thuyết này. Nếu chủ đề của một tác phẩm mà thật sự có ý nghĩa, nếu nó trung thành với những sự thật to lớn của đời sống, nếu nó có tính người sâu sắc trong sự trình bày ngay đến cả những đề tài đau đớn nhất, thì nó không thể không tìm thấy được hình thức phát biểu thích hợp. Bút pháp của Một Ngày rất là linh hoạt và độc đáo trong sự khiêm tốn và bình dị phàm trần của nó. Nó hết sức hồn nhiên và do đó có được cái sức mạnh và phẩm cách lớn lao bên trong. Tôi không muốn đoán trước lời phê phán của người đọc về tác phẩm ngắn này, nhưng riêng tôi không còn một nghi ngờ nhỏ nhoi nào hết rằng nó đánh dấu sự xuất hiện trên văn đàn của một tài năng mới, độc đáo, và trưởng thành. Rất có thể rằng sự tác tác sử dụng- cho dù có hiếm hoi và thích đáng đến mấy- một số từ ngữ và phát biểu điển hình cho cái khung cảnh trong đó nhân vật chính đã sống và đã làm việc có thể làm phật lòng một thị hiếu đặc biệt khó tính. Nhưng xét chung tất cả, thì Một Ngày là một tác phẩm mà ta cảm thấy được một niềm tri ân tác giả đến cái độ mà ước vọng lớn nhất của ta là lòng tri ân này nên được những người đọc khác cùng chia sẻ. ALÊKXANĐR TVARĐÔVSKY ° ° ° Cũng như mọi lần, hiệu đánh thức nổi lên lúc 5 giờ sáng- tiếng một chiếc búa gõ vào một thanh sắt bên ngoài Bộ chỉ huy trại. Tiếng kêu ròn rã vẳng lại yếu ớt từng hồi lọt qua các khung cửa kính phủ đầy băng dày có đến ba phân, và tắt dần đi mau chóng. Trời rét, và người giám thị chẳng buồn gõ tiếp làm gì. Âm thanh im bặt và phía bên kia cửa sổ tối đen như mực, cứ như là nửa đêm ấy, lúc Sukhôv phải dậy để đi ra nhà vệ sinh, duy có điều bây giờ ba luồng sáng vàng khè hắt vào cửa sổ từ hai ngọn đèn ở chỗ ngoại vi và một ngọn bên trong trại. Anh không hiểu tại sao mà chả có ai đến mở trại xá cả. Và người ta cũng chả nghe thấy bọn cần vụ kéo thùng vệ sinh lên đòn gánh để khiêng ra ngoài nữa. Sukhôv không bao giờ ngủ quá hiệu đánh thức mà bao giờ cũng nhổm dậy ngay. Như thế anh có được một tiếng rưỡi trước khi điểm danh buổi sáng, một khoảng thời giờ mà bất cứ ai biết được thế nào là đời sống trong trại bao giờ cũng có thể kiếm chác tí tỉnh gì đó. Có thể khâu cho ai đó một lớp vải bọc đôi bao tay từ một miếng vải lót cũ. Có thể mang đến cho một công khu trưởng một đôi giày bốt nỉ đã khô của anh ta trong khi anh ta còn ở trong giường, để tránh cho anh ta khỏi mất công đi chân không lượn đi lượn lại quanh đống giày tìm đôi của mình. Hay có thể chạy đến một trong mấy phòng tiếp tế xem có tí việc gì làm không, quét dọn hay khuân vác gì đó. Hay có thể đi sang nhà ăn dọn chén bát khỏi các bàn và bưng hàng đống đến cho mấy người rửa chén. Đó cũng là một cách đi kiếm đồ ăn, nhưng bao giờ cũng có quá nhiều người khác với cùng một ý nghĩ. Và cái sự tệ nhất là nếu có chút gì còn thừa lại trong một cái bát và bạn lại thè lưỡi ra mà liếm. Bạn không đừng được. Và Sukhôv vẫn còn nghe văng vẳng bên tai những lời nói của tên công khu trưởng đầu tiên của anh, Kuzyômin- một tay tù lâu năm mà hồi 1943 đã ở trong trại được đến mười hai năm rồi. Một lần, bên một đống lửa đốt trong lúc dọn rừng, hắn đã nói với toán người mới được mạng tới từ tiền tuyến như thế này: “Mấy bạn, ở đây là luật rừng đấy ạ. Nhưng dù là ở đây cũng vẫn sống được. Đi đoong trước tiên là tên nào liếm sạch bát, tin tưởng vào trạm xá, hay làm ăng-ten cho bọn coi tù”. Hắn nói quả là đúng quá- dù rằng không lúc nào cũng hẳn là như vậy đối với những tên làm ăng-ten cho bọn coi tù. Chúng biết cách giữ thân lắm. Chúng vẫn sống nhơn nhơn, và chỉ có các tên khác là lãnh đủ mà thôi. Sukhôv bao giờ cũng tỉnh dậy lúc có hiệu đánh thức, nhưng hôm nay anh lại không. Anh cảm thấy khó chịu trong người từ đêm hôm trước- nhức nhối và đau đớn và ớn lạnh, và anh chẳng biết làm cách nào cho ấm được đêm đó. Trong giấc ngủ anh cảm thấy bịnh lắm và rồi đỡ hơn một chút. Suốt đêm anh cứ phát khiếp cái buổi sáng. Nhưng rồi buổi sáng cứ đến, như bao giờ. Với lại ai mà có cách làm cho ấm được, nào là lớp băng chất đống trên cửa sổ như thế kia, nào là một màng lưới sương muối giăng khắp trại xá, nơi mà các bức tường nối với trần nhà? Mà cái trại xá khốn nạn ấy nữa. Sukhôv cứ nằm nguyên trên giường. Anh nằm ở tầng trên cùng, chăn và áo măng-tô chùm kín trên đầu, và cả hai chân nhét vào ống tay áo trấn thủ. Anh chả nhìn thấy gì hết, nhưng anh có thể nghe các tiếng động mà biết được những sự việc gì đang diễn ra trong trại xá và tại chính nơi anh đang nằm. Anh có thể nghe tiếng bọn cần vụ đang chạy huỳnh huỵch khiêng xuống hành lang một trong những thùng vệ sinh chứa có đến gần một trăm lít. Đây được coi là việc nhẹ dành cho những người có tên trong danh sách bệnh nhân- nhưng khiêng được nó ra mà không làm sóng sánh xuống sàn thì chẳng phải là trò đùa! Rồi một người nào trong Công khu 75 đổ một đống giày bốt dạ từ phòng sấy xuống sàn nhà. Và bây giờ một người nào trong công khu của anh cũng làm như thế (hôm nay cũng đến lượt họ dùng phòng sấy). Hai anh công khu trưởng và phó hấp tấp xỏ chân vào bốt, và giường của họ kêu cót két, ọp ẹp. Tên công phu phó bây giờ chắc là sẽ đi lấy khẩu phần bánh mì. Rồi thì anh khu trưởng chắc có lẽ sẽ lên Ban kế hoạch sản xuất (BKHSX) trên Bộ chỉ huy. Nhưng, Sukhôv chợt nhớ, hôm nay đâu có phải là dịp lên thăm mấy ông thư ký BKHSX như mọi ngày thường đâu. Hôm nay là ngày lớn của anh em mà. Anh em đã nghe nói nhiều đến việc công khu mình- 104- đổi từ công việc cất xưởng sang một công việc mới, xây dựng một “Phát Triển Cộng Đồng Xã Hội Chủ Nghĩa” mới. Nhưng cho đến giờ chưa có gì hơn là các khoảng đồng trống phủ đầy những đống tuyết, và trước khi làm được cái gì, thì phải đào hố đã, cắm cọc vào đó đã, rồi giăng dây kẽm gai lên đã- tù làm cho tù hưởng, để khỏi thoát được ra ngoài. Và rồi thì mới bắt đầu xây dựng được chứ. Dám cá mạng là trong một tháng sẽ chẳng có chỗ nào có thể ấm được- ngay đến một cái lỗ dưới đất. Và cũng chẳng đốt lửa lên được nữa- lấy gì làm nhiên liệu mà đốt? Cho nên chỉ còn mỗi hy vọng là làm việc như trâu. Anh công khu trưởng lo lắm và đang nghĩ cách giải quyết, đang nghĩ cách đùn công việc đó cho một công khu nào khác, công khu nào hơi tối dạ một chút. Tất nhiên đâu có thể đi tay không được. Chắc phải đút nửa ký thịt mỡ heo cho ông thư ký trưởng. Hay một ký ấy chứ lại. Có lẽ Sukhôv nên tìm cách có tên trong danh sách bệnh nhân để nghỉ được một ngày. Cứ thử đâu có sao. Cả người anh nhức nhối như giần. Rồi anh tự hỏi viên giám thị nào trực hôm nay? Anh nhớ lại là Ivan Cồ, một tên trung sĩ cao, ốm nhách, mắt đen. Lần đầu tiên nom thấy hắn thì khiếp đến tụt cả quần ra được, nhưng khi biết hắn rồi thì hắn là người dễ dãi nhất trong số giám thị trực- chẳng hề bao giờ nhốt ai vô nhà đá hay kéo ai lên sĩ quan kỷ luật. Thế là Sukhôv có thể nằm nguyên cho đến lúc nào tới giờ Trại xá 9 lên nhà ăn. Cả bộ giường rung chuyển khi hai người cùng nhỏm dậy một lúc- giường trên là láng giềng của Sukhôv, anh chàng đạo Báp-tít Aliêushka, và giường dưới là Buinôvsky, trước kia là đại úy trong hải quân. Khi khiêng hai thùng vệ sinh ra, hai anh cần vụ bắt đầu cãi lộn nhau về việc ai sẽ đi lấy nước nóng. Lời qua tiếng lại chí chóe cứ như hai mụ già. Anh thợ hàn điện ở Công khu 20 bèn rống lên với chúng: “Ê, mấy thằng khốn nạn!”. Và hắn ném một chiếc giày bốt vào chúng. “Tao sẽ làm cho chúng mày câm họng lại cho mà xem”. Chiếc giày bốt văng đến ầm một cái vào cái cột. Mấy tên cần vụ câm họng. Anh phó công phu kế bên lẩm bẩm than phiền: “Này, Vaxili Phiêuđôrôvitch! Mấy thằng khốn nàn ở phòng tiếp tế chơi đểu tao mày ạ. Mình bao giờ cũng được bốn chiếc bánh một ký, mà hôm nay được có ba. Thế là sẽ có tên bị thiếu phần rồi”. Hắn nói nhỏ, nhưng tất nhiên cả công khu đều nghe thấy hết, và tất cả đều nín thở. Ai sẽ bị thiếu phần chiều nay đây? Sukhôv vẫn cứ nằm y nguyên một chỗ, trên tấm nệm nhét đầy cứng mạt cưa. Giá mà nó ra làm sao hẳn một cái đi- hoặc là nóng hung lên hoặc là hết đau đi. Chứ cứ làng nhàng thế này thì anh chả biết ra thế nào hết. Trong lúc anh chàng đạo Báp-tít đang lẩm nhẩm đọc kinh, thì ông đại úy ở nhà vệ sinh quay trở về và nói, không hẳn là với một ai đặc biệt, mà có vẻ khoái trá lắm: “Liệu mà sẵn sàng gân cốt đi, mấy bạn! Ít nhất là hai mươi độ dưới không đấy”. Sukhôv quyết định đi bệnh xá. Và rồi có một bàn tay chắc mạnh nào lột phăng chiếc áo trấn thủ và chăn của anh ra. Sukhôv hất chiếc măng-tô nhồi bông khỏi mặt và nhỏm lên một chút. Đứng phía dưới, đầu ngang tầm giường tầng trên, là tên Thát-đát 1 Ốm. A, ra thằng khốn nạn này đã đến trực và lẻn đến rình anh em từ bao giờ. “S-854!” tên Thát-đát đọc ở miếng mục trắng khâu trên lưng chiếc áo đen. “Ba ngày nhà đá và làm việc như thường!”. Vừa mới nghe thấy cái tiếng nói khan khan tức cười của hắn là tất cả mọi người trong cả khu trại xá- lúc ấy rất là tối (không phải tất cả các đèn đều đã bật) và là nơi có hai trăm người ngủ trên năm mươi bộ giường xếp đầy rệp- thức thì có sinh khí hẳn lên. Những ai chưa tỉnh dậy vội vàng bận quần áo. “Dạ, thưa Công Dân Giám Thị 2 vì tội gì ạ?”. Sukhôv hỏi, và anh lấy cái giọng nghe thảm thương hơn là anh thực sự cảm thấy. Nằm nhà đá mà được làm việc như thường thì không đđến nỗi gì lắm. Bạn có đồ ăn nóng và không có thời giờ nghĩ ngợi lung tung. Không được thả ra đi làm mới thực là hình phạt. “Sao giờ này chưa dậy? Lên văn phòng Chỉ huy trưởng!” tên người Thát-đát dài giọng ra nói- cả hắn lẫn Sukhôv và tất cả mọi người khác đều biết tại sao anh ta phải vô nhà đá. Khuôn mặt nhẵn nhụi, nhăm nhúm của tên Thát-đát không tỏ lộ một tình cảm nào hết. Hắn ngó quanh để tìm bắt thêm một người nào khác, nhưng tất cả mọi người- dù là trong bóng tối hay dưới một ngọn đèn, dù là nằm giường dưới hay nằm giường trên- đều đang xỏ hai chân vào chiếc quần đen, vải đụp, có ghi số ở đầu gối chân trái. Hoặc là họ đã mặc quần áo và đang thu thu vén vén vào người và chạy vội ra của đứng chờ bên ngoài cho đến khi nào tên Thát-đát đi khỏi. Giá như Sukhôv bị vào nhà đá vì quả thực có tội tình gì thì chắc anh đã không cáu sườn đến thế. Cái điều làm cho anh cáu là bao giờ anh cũng là một trong những người thức dậy trước nhất. Nhưng đâu có dịp nào phân bua, giải thích với cái tên Thát-đát này. Cho nên anh vẫn cứ xin tha, kệ mẹ nó, nhưng đồng thời cũng vẫn kéo chiếc quần đụp lên (chiếc quần cũng có một miếng mụn đã sờn và bẩn khâu phía trên đầu gối trái với con số S-854 sơn trên đó bằng màu đen và cũng đã phai rồi), khoác chiếc áo trấn thủ vào người (chiếc này có những hai con số, một trên ngực và một đằng sau lưng), lấy đôi giày bốt ở đống giày trên sàn, đội mũ lên đầu (có cùng một con số đằng trước), và đi theo sau tên Thát đát. Tất cả Công khu 104 trông thấy Sukhôv đang bị dẫn đi, nhưng không ai nói lấy một lời. Cũng vô ích, mà biết nói gì? Giá có công khu trưởng ở đó thì hắn có thể nói đỡ anh một chút, nhưng hắn đã đi mất rồi. Còn Sukhôv thì chẳng nói gì với ai cả. Anh không muốn chọc giận thêm tên Thát-đát. Chẳng cần dặn, anh em cũng sẽ giữ phần ăn sáng cho anh. Hai người bước ra ngoài. Trời rét như cắt, lại thêm sương mù đến ngộp thở. Hai ngọn đèn rọi từ trên các tháp canh ở các góc phía xa đang chiếu bắt tréo vào nhau khắp khu doanh trại. Các ngọn đèn ở khu ngoại vi và các ngọn trong doanh trại hãy còn sáng chưng. Đèn nhiều đến nỗi làm cho những ngôi sao bị xóa mờ hẳn đi. Tiếng giày nhai râu rấu trên tuyết, các tù nhân đang hối hả bận rộn việc này việc nọ- đến nhà vệ sinh, các phòng tiếp tế, phòng gói đồ, hay mang lúa mạch đến nhà bếp nấu. Vai so ro, áo cài cúc thật kín, họ thảy đều cảm thấy lạnh, không hẳn bởi tiết trời băng giá mà đúng ra là bởi họ biết rằng họ sẽ phải ở trong thời tiết đó suốt ngày. Nhưng tên Thát-đát kia, trong chiếc áo măng-tô cũ với những dây nẹp màu xanh đã tả tơi, vẫn bước tới đều đặn, vững vàng, và dường như cái rét không hề quấy quả hắn chút nào hết. Hai người đi qua hàng rào cao bằng gỗ bao quanh khu trừng giới (tức nhà lao bằng đá bên trong trại), qua hàng rào kẽm gai ngăn lò bánh khỏi tay tù nhân, qua góc Bộ chủ huy nơi có một khúc đường rầy phủ đầy sương muối treo lên một cái cột bằng dây kẽm cỡ lớn, rồi lại đi qua một cái cột nữa trên đó- trong một chỗ khuất để giữ cho thủy ngân không xuống quá thấp- có treo hàn thử biểu, băng tuyết phủ dày cộm. Sukhôv liếc nhìn chiếc ống màu trắng sữa mà trong lòng khấp khởi. Nếu nó xuống quá bốn mươi hai độ dưới số không thì anh em sẽ khỏi phải ra ngoài làm việc. Nhưng hôm nay hàn thử biểu chả có xuống đến bốn mươi bốn miếc gì cả. Hai người bước vào BCH- thẳng đến phòng giám thị. Hóa ra- như Sukhôv đã hơi nghi lúc ở trên đường rồi- là họ chẳng bao giờ muốn đẩy anh vô nhà đá làm gì đâu mà chỉ có điều cái sàn trong phòng giám thị cần đôi chút kỳ cọ đó thôi. Quả nhiên, tên người Thát-đát bảo Sukhôv là tha phạt cho và ra lệnh cho anh lau sàn. Lau sàn căn phòng giám thị là công việc của một tù nhân đặc biệt- người cần vụ của BCH, chẳng bao giờ phải làm việc bên ngoài trại. Nhưng trước đây đã lâu tên này đã tự đưa được mình vào chỗ quan trọng trong BCH và rồi tự do ra vô các phòng làm việc của ông thiếu tá, của sĩ quan kỷ luật, và của ông trưởng ban an ninh. Hắn hầu hạ họ tối ngày và đôi khi còn nghe lỏm được những chuyện mà ngay đến các giám thị còn không biết. Thế rồi một hồi hắn còn cho là cọ sàn cho mấy tên giám thị tầm thường là dưới phẩm cách của hắn nữa. Họ cho gọi hắn lên một hay hai lần, rồi mới sáng mắt ra và bắt đầu kéo tù nhân thường vào làm công việc đó. Cái bếp lò trong phòng giám thị đang cháy phừng phừng. Hai tên giám thị áo lột ra hết chỉ còn có sơ-mình bẩn thỉu đang chơi cờ đam, còn một tên thứ ba để nguyên cả chiếc áo lông cừu thắt lưng và để nguyên cả giày bốt đang nằm ngủ trên một chiếc ghế dài hẹp. Có một cái sô và miếng giẻ rách trong góc phòng. Sukhôv quả là sung sướng quá và cám ơn tên Thát-đát đã tha cho anh: “Cám ơn Ông Giám thị . Lần sau em thôi không dậy trễ nữa”. Luật lệ ở đây rất là giản dị- làm hết việc rồi đi ra. Bây giờ đã có việc làm, Sukhôv cảm thấy như hết cả đau nhức. Anh xách cái sô ra giếng, hai bàn tay không đeo bao vì lúc đi vội anh đã quên không mang theo và bỏ chúng ở dưới gối. Các công khu trưởng đi trình diện tại BKHSX đã tụ tập gần cái cột, và một trong số người ít tuổi, trước kia có lần là một Anh Hùng Liên Xô, trèo lên lau hàn thử biểu. Những người kia đứng ở dưới vội la lên: “Chớ có thở vào nó đấy, không nó lên bây giờ!”. “Lên lên gì... mặc kệ mẹ nó... còn ăn thua cái đéo gì nữa đâu”. Tyurin- công khu trưởng của Sukhôv- không có ở đó. Sukhôv đặt sô xuống và đút hai tay vào hai ống tay áo. Anh muốn xem xem là cái gì. Anh chàng ở trên cột nói bằng một giọng khản đặc: “Mười bảy độ rưỡi dưới không- con cặc!” Và ngó lại một lần nữa cho chắc ăn, anh ta nhảy xuống. “Đằng nào thì bao giờ nó cũng sai rồi- hàn thử biểu bố láo”, có người nói. “Đời nào chúng nó lại treo cái tốt ở đây”. Các công khu trưởng tản đi mỗi người một ngả. Sukhôv chạy ra giếng. Tai anh buốt cóng dưới hai vạt mũ che mà anh đã kéo xuống nhưng chưa buột chặt. Phía trên giếng phủ kín một lớp băng dày cho nên cái sô nhét mãi mới chui lọt qua miệng giếng. Còn dây thừng thì cứng như cây ấy. Đôi tay Sukhôv tê cóng, cho nên lúc anh khiêng sô nước bốc khói về đến phòng giám thị anh nhúng ngay chúng vào nước. Anh thấy ấm hơn. Tên Thát-đát đã đi khỏi nhưng bốn tên giám thị đang đứng cãi vả với nhau. Họ đã thôi chơi cờ hay ngủ, và đang cãi nhau xem là tháng Giêng này lãnh được bao nhiêu kê (Trong trại “công nhân tự do 3 hiện đang thiếu thực phẩm, và mặc dầu chế độ thẻ khẩu phần đã hết từ lâu, nhưng các giám thị vẫn còn có thể mua thực phẩm với giá được trừ mà dân địa phương không mua được). “Đóng cửa lại, thằng đầu cứt! Gió lạnh quá”, một tên giám thị quát lên. Mới sáng ra không nên làm ước giày bốt nỉ. Dù có chạy được về trại cũng không có đôi khác mà thay. Suốt tám năm ở trỏng, Sukhôv đã được thấy đủ mọi thứ thăng trầm về tình trạng giày dép. Đã có lúc suốt mùa đông không có bốt nỉ mà đi, lại có lúc ngay đến bốt thường cũng không thấy có mà chỉ có guốc làm bằng vỏ cây phong hay dép “kiểu Xưởng Máy Cày Chelyabinsk” (tức thị dép làm bằng vỏ xe hơi, khi đi còn để lại đằng sau các vết bành xe). Bây giờ thì tình hình giày dép đã khả quan hơn. Hồi tháng Mười- vì có lần anh đã bày mưu lẻn xuống các kho với nhân vật quan trọng thứ nhì trong công khu- Sukhôv đã được một đôi bốt thật chắc, có mũi thật khỏe và bên trong đủ rộng để có thể quấn đến hai lớp vải bao chân ấm. Suốt một tuần anh cảm thấy lạc thú nhất đời, đi đâu cũng va hai gót giày vào nhau khoái trá. Thế rồi tháng Chạp lại được phát bốt nủ nữa chứ, và đời tươi thắm như hoa. Thật chả muốn chết tí nào hết. Nhưng rồi có thằng chó má nào ở phòng kế toán rỉ tai Chỉ huy trưởng: “Cho lãnh bốt nỉ nhưng bắt phải nộp lại đôi kia. Tù không được quyền có hai đôi một lúc”. Thế là Sukhôv phải quyết định hoặc giữ đôi bốt da mới suốt mùa đông, hoặc lấy đôi bốt nỉ- qua suốt mùa xuân tuyết tan- và trả lại đôi mới. Anh đã nâng niu đôi giày đáng yêu này như nâng niu trứng ấy, lấy mỡ thoa vào chúng và đánh cho da mềm ra. Trong suốt tám năm giời, không có gì đã làm anh đau khổ hơn là phải đem trả đôi bốt ấy. Chắc là chúng sẽ bị đổ vào một đống cùng với những đôi khác, và chắc rồi xuân đến anh sẽ chẳng bao giờ tìm lại chúng được nữa. Sukhôv chợt nảy ra một ý kiến. Anh tụt vội đôi bốt nỉ ra, dựng vào một xó, ném mớ vải bao chân lên trên (cái muỗng anh vẫn thường giắt vô một chiếc bốt bỗng rớt leng keng xuống sàn nhà- hồi nãy tuy đi vội như thế mà anh cũng không quên nó), đi chân không, khom mình xuống dội nước vào ngay giày của mấy tên giám thị. Thấy vậy một tên co vội chân lên, miệng hét “Làm từ từ chứ, thằng khốn nạn!”. ...“Sao lại gạo được? Gạo lại thuộc về phần chia khác. So sánh thế nào được”... “Sao phải dùng tới từng ấy nước hả, đồ ngu? Rửa nhà như vậy đấy hả?” “Còn cách nào khác đâu thưa Công Dân Giám Thị? Sàn dính bệt những đất là đất!” “Bộ chưa bao giờ thấy mẹ đĩ rửa nhà hay sao hả đồ ngu?” Sukhôv đứng thẳng người lên, cầm trong tay miếng giẻ nước chảy ròng ròng. Anh nhoẻn một nụ cười ngây thơ, để lộ ra mấy cái răng thiếu vị bị sưng xuất huyết khi ở Ust-Izhma năm 1943, cái hồi mà anh tưởng là đã sắp gục rồi. Tưởng là sắp đi đoong rồi. Đi ỉa chảy, có máu, ruột đau rã rời, ăn vô chả giữ lại được gì hết trọi. Nhưng bây giờ mỗi một cái còn lại từ những ngày đó là cái giọng nói phều phào tức cười của anh. “Thưa Công Dân Giám Thị, em bị xa vợ từ hồi 1941 kia. Giờ cũng chẳng nhớ được nó ra làm sao nữa”. “Coi kìa, bọn chúng lau nhà như thế kia kìa... Mấy tên khốn nạn này chẳng biết làm cái gì cả, mà cũng chẳng thiết làm nữa. Cho chúng ăn bánh mì không đáng. Quân này phải ăn cứt kia!”. “Nhưng việc đéo gì mà ngày đéo nào cũng phải rửa sàn? Lúc nào cũng ướt át. Ê này, 854, nghe đây. Lau qua loa cho nó khỏi ướt thôi, rồi cút!”. ...“Gạo! Làm sao mà so sánh kê với gạo được”... Sukhôv làm lẹ cho nó xong. Có hai thứ làm việc. Như là hai đầu gậy ấy. Làm cho người ta thì làm thật đàng hoàng, còn làm cho người ngợm thì chỉ đại khái thôi. Nếu không thì thiên hạ ngỏm củ từ đã khuya rồi. Đó là cái chắc. Sukhôv lấy giẻ ướt lau qua sàn gỗ một lượt nữa, không để sót một chỗ nào khô, ném luôn cái giẻ chưa vắt vào phía sau bếp lò, đi bốt, đổ chỗ nước còn lại trong sô lên lối đi mà các sếp lớn hay sử dụng, và đi tắt qua nhà tắm, qua câu lạc bộ tối om và lạnh lẽo, đến nhà ăn. Anh còn phải đến bệnh xá nữa- bây giờ lại thấy đau ê ẩm cả người. Rồi lại còn phải tránh cho bọn giám thị ở trước cửa nhà ăn không nhìn thấy. Ông Chỉ huy trưởng đã ra lệnh triệt để bắt các tù nhân đi lạng quạng một mình và nhốt vào phòng kín. Thực là điều hiếm, sáng nay không có nhiều người đứng xếp hàng đợi vào nhà ăn. Anh bèn đi vào luôn. Bên trong mù mịt như một nhà tắm hơi- nào là không khí thấm đầy sương muối bên ngoài tràn vào, nanò là hơi cháo loãng trong nhà ăn bốc lên. Mọi người đang ngồi ở bàn hoặc đứng chen chúc ở chỗ khoảng trống giữa những người ngồi bàn để đợi lấy chỗ. Vừa la lối inh ỏi vừa len lỏi rẽ qua đám đông, hai ba người thuộc mỗi công khu tay bưng khay gỗ chất những tô cháo lúa mạch và cháo ngô, và kiếm chỗ trên bàn để đặt xuống. La đến như thế mà những thằng ngớ ngẩn chẳng nghe thấy gì, xô luôn vào khay của người ta, thế là đổ tóe ra hết! Tiện bàn tay trống bèn nện cho chúng một cú vào gáy! Phải như thế! Cho chúng một bài học, đứng có lớ xớ kiếm chác đồ ăn thừa mà vướng cả lối đi người ta. Phía bên kia có một anh chàng trẻ tuổi làm dấu trước khi ăn. Chắc phải là dân miền Tây Ukraine 4 và là dân mới. Chứ dân Nga thì đã chẳng còn nhớ phải làm dấu bằng tay nào nữa rồi. Ngồi trong nhà ăn lạnh nên phần lớn khi ăn đều vẫn đội mũ, nhưng ăn không vội vã, đuổi theo từng miếng cá thối lẫn trong đám lá bắp cải và nhổ xương ra bàn. Khi xương chất thành một đống sẽ có một anh gạt xuống đất trước khi công khu sau ngồi vào, và rồi xươong sẽ bị dẫm nát ở dưới đất. Nhổ xương ngay xuống đất là bất lịch sự. Ở giữa nhà ăn có hai hàng cột có thể gọi là cột nhà hay giàn chống. Fêtyukôv, một người khác nữa cùng công khu đang ngồi dựa vào cột giữ phần ăn sáng cho Sukhôv. Tên này cũng không phải vào hàng vai vế trong công khu- còn dưới cả Sukhôv nữa. Mới thoạt nhìn tưởng người nào trong công khu cũng như nhau- cũng áo măng-tô đen, cũng mang số- nhưng bên trong thì khác nhau lắm. Người nào cũng có giai cấp ra gì. Buinôvsky, chẳng hạn, không phải là hạng người ngồi giữ bát cho kẻ khác. Và có những việc mà Sukhôv không thèm làm. Chẳng hạn, ta chẳng thể yêu cầu Buinôvsky, ông Đại úy Hải quân đó, giữ bát cho ta được, và có những việc mà ngay đến Sukhôv cũng chẳng thèm làm- những việc dưới tư cách của anh. Fêtyukôv trông thấy Sukhôv đến thì đứng dậy nhường chỗ, thở dài một cái. “Nguội hết rồi. Tôi toan ăn hộ anh- tôi tưởng anh nằm nghỉ nhà mát rồi chứ”. Hắn không đứng chực làm gì. Hắn biết là Sukhôv sẽ không để lại một chút gì cho hắn hết. Nó sẽ liếm sạch nhẵn cả hai tô cho mà coi. Sukhôv rút muỗng giắt trong bốt ra. Anh mến cái muỗng này lắm, nó đã theo anh đi khắp nơi miền Bắc. Chính anh đã lấy giây nhôm đúc nó trong cát và khắc lên nó chữ: “Ust-Izhma 1944” 5 . Rồi anh bỏ mũ ra khỏi cái đầu trọc của anh- dù là lạnh đến nấy anh cũng không bao giờ để nguyên cả mũ mà ngồi ăn. Anh khuấy bát cháo đã nguội và nhìn vội vào bát xem trong đó có gì. Như lệ thường. Không ohải là lớp cháo múc trên mặt nồi nhưng cũng chẳng phải là thứ múc từ dưới đáy nồi. Con nhà Fêtyukôv dám đỡ nhẹ một củ khoai tây rồi lắm ạ. Cháo trong trại giam chỉ ngon duy ở chỗ là thường thường nó nóng, nhưng bây giờ cháo của Sukhôv đã nguội ngắt. Dù vậy anh cũng ăn chậm rãi và cẩn thận như thường lệ. Không việc gì mà vội, dù nhà có cháy cũng mặc. Ngoài lúc ngủ, tù nhân chỉ có thì giờ riêng của mình là mười phút vào bữa ăn sáng, năm phút lúc nghĩ trưa và năm phút nữa vào bữa ăn tối. Cháo ngày nào cũng vậy, chả đổi gì cả. Nó tùy thuộc loại rau dự trữ được trong mùa đông. Năm ngoái chỉ trữ có cà rốt, muối, vì vậy chỉ có mỗi cà rốt trong cháo suốt từ tháng Chín tới tháng Sáu. Năm nay là bắp cải. Trại được ăn ngon nhất vào tháng Sáu, vì hết rau phải dùng lúa mạch thay thế. Tệ nhất là tháng bảy, người ta bỏ lá tầm ma 6 xé nhỏ vào nồi nấu. Cá thì hầu hết chỉ là xương. Thịt cá đã bị luộc rữa ra hết rồi, chỉ còn một chút dính ở đuôi và đầu. Không bỏ sót đến một cái vẩy hay một mẩu thịt còn dính vào bộ xương, Sukhôv nhai nát hết xương, hít lấy nước rồi nhổ ra bàn. Anh không chừa lại một chút gì hết- ngay cả đến mang hay đuôi cũng ăn tuốt. Ăn cả mắt nữa nếu chúng còn năm nguyên tại chỗ, trong đầu cá, chứ nếu đã long ra rồi mà nổi lềnh bềnh trong bát thì anh không ăn. Mọi người đều nhạo anh về chuyện này. Hôm nay Sukhôv lại để dành được đôi chút. Anh chưa trở về trại xá lấy phần bánh mì nên bây giờ ăn không có bánh. Bánh mì thì lúc nào ăn không cũng có thể được, ăn về sau lại đỡ đói. Món thứ hai là món cháo magara đặc cứng, cái món lúa mạch “Tàu” chết tiệt này. Cũng nguội ngắt và đóng bánh lại. Sukhôv xắn ra thành từng miếng. Ngay lúc còn nóng nó cũng đã nhạt nhẽo rồi, ăn chẳng thấy thấm thía gì rồi, chứ đừng nói gì lúc nguội. Thực ra chỉ rặt cỏ là cỏ, có điều là nó màu vàng, trông giống như kê. Người ta lấy nó thay vào lúa mạch, cho là ý kiến hay lắm và bảo là bắt chước người Tàu. Khi nấu lên, một tô nặng khoảng bốn trăm gờ-ram. Không hẳn là lúa mạch thật, nhưng cứ cho là như vậy đi. Anh liếm muỗng, nhét nó vào bốt, đội mũ, rồi đi ra bệnh xá. Trời vẫn còn tối như bao giờ, và những ngôi sao bị lu mờ vì những ngọn đèn trong trại. Và hai ngọn đèn rọi hãy còn quét đi quét lại khắp khu doanh trại. Lúc mới lập trại- đây là một trại “Đặc Biệt” 7 - lính canh hãy còn có nhiều hỏa châu. Mỗi khi điện hư, họ bắn hỏa châu lên phía trên doanh trại như mưa trắng, đỏ, xanh lục- cứ y như ở ngoài mặt trận ấy. Nhưng rồi họ thôi không dùng hỏa châu nữa. Có lẽ họ cho là tốn kém quá. Trời hãy còn tối như lúc có hiệu đánh thức. Nhưng những tay lâu năm có thể căn cứ vào những cái này, cái kia, cái nọ mà biết được là hiệu điểm danh sắp sửa nổi lên. Tên phụ việc cho thằng Thọt (Thọt là một tên cần vụ trong nhà ăn, hắn lấy đồ ăn của nhà ăn để nuôi một tên phụ việc) đã đi kêu trại x

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hồ Sơ Một Tử Tù - Nguyễn Đình Tú
Đọc xong cuốn tiểu thuyết đầu tay của Nguyễn Đình Tú, tôi nghĩ đến một khái niệm còn khá mới mẻ với nền văn học nước ta, đó là loại Tiểu thuyết tội phạm học. Khuất Quang Thụy Cũng phải nói ngay rằng đây cũng chỉ là một khái niệm tương đối mà chúng tôi nghĩ tới trong khi tìm cách tiếp cận cuốn tiểu thuyết đầu tay này của một tác giả trẻ. Nếu bạn không đồng ý với khái niệm này thì cũng chả sao, bạn có thể có một cách hình dung khác để tiếp cận tác phẩm kể trên và có thể cũng sẽ có được những kiến giải lý thú Trở lại cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú. Nội dung của cuốn sách dường như chả có gì mới. Câu chuyện xoay quanh một tên tội phạm bị khép án tử hình với một quá trình diễn biến khá phức tạp để biến một thanh niên nhà quê hiền lành chất phác trở thành một tên giết người nguy hiểm... Nhưng đọc xong cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú, ta không có được cảm giác kiểu như "thế là đã rõ", "thế là xong việc", và rồi chúng ta có thể yên tâm bỏ cuốn sách xuống để chìm vào giấc ngủ hay thanh thản bước vào những công việc thường nhật mà không còn bất kỳ sự vương vấn nào về số phận của nhân vật hay về những vấn đề mà cuốn sách đã xới lên. Sự kiện cuối cùng trong cuốn sách của Nguyễn Đình Tú đặt dấu chấm hết cho số phận của nhân vật chính bằng đoạn đầu đài. Tất cả dường như rất minh bạch, rất đúng trình tự pháp luật. Nhưng không hiểu sao, đọc đến đây, chúng ta vẫn có cảm giác rằng cái chết chưa phải là sự trả giá cuối cùng cho những tội ác mà kẻ tử tù và những kẻ tòng phạm của hắn ta đã gây ra với đời. Vụ án chưa phải là đã khép lại. Vì còn có những câu hỏi quan trọng khác chưa được trả lời. Trong đó có cả câu hỏi: những ai, cái gì, hoàn cảnh nào đã xô đẩy một con người vốn có "tính bản thiện" trở thành một kẻ giết người? Khi đưa kẻ tử tội lên đoạn đầu đài, trong mỗi con người chúng ta đều xuất hiện một cảm giác giống như cảm giác của nhân vật Bằng, bạn học cũ của kẻ tử tội, nay lại là một luật sư bào chữa cho kẻ tội đồ, ấy là dường như mình cũng là kẻ có lỗi, có can dự vào quá trình trở thành kẻ tội phạm của bị cáo. Anh ta nhắc lại lời một ông thầy chung rất đáng kính của cả hai người: “Đáng tiếc, nhưng đáng tiếc hơn là tất cả chúng ta đều có lỗi mà không biết". Cái cảm giác gột rửa ấy xuất hiện khi đọc xong cuốn sách, chúng ta bỗng hiểu rằng, dường như kẻ bị đưa lên cọc xử bắn kia cũng là một nạn nhân mà mỗi chúng ta, ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp đều có lỗi, đều tham gia xô đẩy hắn ta vào con đường tội lỗi để dẫn tới kết cục bi thảm này. Trong cuộc đời nhiều khi chúng ta vô tình gây ra tội ác, hoặc gieo những mầm mống tội ác mà không biết. Đến khi cáimầm ác ấy nảy cành, xanh lá gây hoạ cho đời thì chúng ta lại dửng dưng, coi như mình là kẻ ngoài cuộc vô can, thậm chí chúng ta lại nhân danh pháp luật và đạo đức để phán xử chính những tội ác mà chúng ta đã góp phần gieo mầm và nuôi dưỡng mà không hề hay biết? Có lẽ đây chính là điều khác biệt quan trọng nhất khiến cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú vượt qua khỏi sự thường tình của những cuốn "sách hình sự" "sách vụ án" và có giá trị như một cuốn tiểu thuyết tội phạm học rất đáng được chú ý. Là một cử nhân luật và cũng từng là một cán bộ pháp lý của quân đội một thời gian trước khi trở thành nhà văn, chắc chắn Nguyễn Đình Tú có kiến thức khá vững vàng về "tội phạm học". Nhưng khi khảo sát khái niệm này ở góc độ một nhà văn, Nguyễn Đình Tú đã có những ý tưởng mới mẻ sâu sắc hơn những dòng lý luận khô khan. Anh đã cố gắng thông qua ngôn ngữ và hệ thống hình tượng để lý giải quá trình hình thành nhân cách của một con người cũng như quá trình tha hoá một nhân cách. Anh cũng đã hiểu một cách cặn kẽ khái niệm của Max - Con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội - nên đã đi tìm câu trả lời từ những nguyên nhân xã hội, từ môi trường sống để tìm cách lý giải vì sao con người có thể trở thành những kẻ tội phạm, để từ đó đi đến một định đề rằng, quá trình hình thành nhân cách của một con người là một quá trình xã hội, trong đó mỗi con người chỉ có thể hoàn thiện mình thông qua sự không ngừng vươn lên chiến thắng mọi hoàn cảnh, khắc phục những hạn chế của hoàn cảnh và những cái mà chúng ta vẫn thường gọi là sự trớ trêu của số phận. Phạm Bạch Đàn, nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết sinh ra và lớn lên tại một làng quê nghèo có một nghề truyền thống khá oái oăm là nghề khai thác đá. Cái nghề khai sơn phá thạch ấy tuy gian khổ thật, nhưng chắc chắn nó cũng nuôi sống nổi nhiều kiếp người và sẽ cứ tự nhiên nhi nhiên mà sống nếu không có những sự tác động của thời cuộc. Trong cái làng nhỏ bé ấy cũng có đủ thứ chuyện do thời thế đưa lại như cải cách ruộng đất với những nỗi oan sai làm đảo lộn thang giá trị đạo đức truyền thống, với cuộc kháng chiến chống Mỹ long trời lở đất và rồi với những cái sai, cái đúng trong những chính sách quản lý kinh tế, quản lý xã hội ở nông thôn. Trầm luân là vậy nhưng cái cậu bé đẻ rơi bên gốc cây bạch đàn ngày nào vẫn vượt qua được những hạn chế của hoàn cảnh và số phận để trở thành một học sinh giỏi, thi đỗ vào một trường đại học tại thủ đô. Số phận của Phạm Bạch Đàn đã bước sang một trang mới với những thách thức mới thoạt nhìn tưởng như không ác liệt, gian khổ như bao năm sống vật vã với luống cày và hòn đá ở quê hương, ăn đói mặc rách để cắp sách đến trường, nằm trong ổ rơm nhưng vẫn mơ tới một chân trời tươi đẹp. Những gì mà cậu sinh viên mới này nhìn thấy ở trường đại học hóa ra còn có nhiều điều kinh khủng hơn, đáng ngạc nhiên hơn những gì cậu từng nhìn thấy trong suốt cả quãng đời niên thiếu cộng lại? Tiện đây cũng xin nói ngay rằng người viết những dòng này cũng không khỏi ngạc nhiên và thán phục trước sự dũng cảm, chân thành của tác giả đã khiến những người đọc yếu bóng vía như tôi toát cả mồ hôi hột khi chỉ với vài chục trang sách, tác giả đã cho ta thấy sự băng hoại đến như thế nào của "nền văn hoá và đạo đức học đường" của xã hội ta. (Tôi rất mong đó chỉ là một sự thật đã được “tiểu thuyết hoá” và nó chỉ là sự thật của một thời điểm ngắn ngủi nào đó mà thôi). Thế là từ giảng đường trường đại học, chứ không phải từ đời sống lam lũ ở làng quê là nơi Phạm Bạch Đàn đi những bước đầu tiên tới đoạn đầu đài, anh đã bị đuổi khỏi trường đại học. Dĩ nhiên những lỗi lầm của Đàn cũng có căn nguyên từ quá khứ xa xôi, từ gốc gác xuất thân của anh, nhưng điều quan trọng nhất là bản thân anh cũng chưa đủ bản lĩnh để vượt qua những thử thách đó. Không phải ở vào thời buổi ấy, tất cả sinh viên có xuất thân từ những gia đình nông dân nghèo khổ đều hư hỏng cả. Tuy vậy, Đàn cũng đã quyết tâm làm lại từ đầu. Sau một năm vừa lao động vừa học tập, anh lại thi đỗ vào Đại học. Nhưng con đường làm lại của anh lại "vướng vào cơ chế", một quy chế vu vơ nào đó được đặt ra rằng những sinh viên đã bị đuổi học thì phải hai năm sau mới được thi để trở lại trường. Anh đã nhanh nhảu đoảng trong việc sửa chữa khuyết điểm! Nếu có được cơ hội thứ hai trở lại trường Đại học, số phận Đàn có thể đã khác đi chẳng? Chán nản, thất vọng, anh trở lại làng quê trong bối cảnh ở đó đang diễn ra cuộc đấu tranh giữa cơ chế cũ và cái mới đang hình thành nhưng chưa thắng thế. Anh ủng hộ cái mới, nên anh càng thất vọng hơn. Anh vừa thương cho phận mình vừa thương cho làng xóm “Đói. Đói dài rạc. Đất ấy, ruộng ấy, màu mỡ thế, tươi tốt thế mà thóc cứ lép, sản cứ thấp, sống trên đất luá mà cứ thèm gạo, sống bên núi đá mà cứ nhà tranh vách đất, cứ lầy lội lép nhép trên con đường nhão nhoét, lồi lõm ổ trâu ổ gà. Đám trai làng bạn Đàn kéo nhau đi đào vàng...." Đàn cũng buông trôi theo số phận, nhập vào cái số đông đi tìm vận may nơi rừng thiêng nước độc, để mình rơi vào một môi trường hắc ám, đầy cạm bẫy, đó chính là bước trượt dài của nhân cách, của số phận, đó là cú hích đưa anh tới con đường tội lỗi và... tới đoạn đầu đài. Những gì diễn ra sau đó trên bãi vàng dường như đã là điều tất nhiên, tuy rằng anh cũng đã có đôi lần tìm cách chống lại hoàn cảnh, chống lại số phận, chống lại cả những cái ngẫu nhiên, chống lại cả sự trôi trượt để giữ lấy chút phẩm giá còn lại, nhưng rốt cuộc anh là người bại trận. Xung quanh hình tượng trung tâm kể trên, Nguyễn Đình Tú đã có những thành công nhất định khi xây dựng nên hàng loạt nhân vật phụ, tạo nên sự đa dạng về nhân cách trên cái nền chung của xã hội nước ta ở vào một giai đoạn nhập nhằng giữa quá khứ và hiện tại. Qua những nhân vật này, chúng ta có được sự hình dung về cuộc sống của những làng quê nghèo, của trường đại học và cả một phần xã hội của những con người sống mấp mé giữa lằn ranh đen - trắng, đó là thế giới của những kẻ tội phạm và những người có thể trở thành tội phạm bất kỳ lúc nào. Cái ranh giới giữa có tội và không có tội ở đây thật mỏng manh. Vả chăng, sự mong manh ấy đâu chỉ có ở cái xã hội thu nhỏ quanh những bưởng vàng? Khảo sát những mối quan hệ nhân quả trong cuốn sách của Nguyễn Đình Tú, chúng ta còn có thể chỉ ra nhiều kẻ tội phạm vô hình khác. Đó là kẻ tội phạm mắc những tội danh không được ghi trong những bộ luật thành văn, nhưng không phải vì thế mà sẽ không bị kết án, ít ra cũng là tại toà án lương tâm. Triết lý Nhân - Quả, Thiện - Ác của đạo Phật, tình thương Cơ đốc giáo và những quan niệm đạo đức truyền thống cũng đã được tác giả huy động để làm rõ thêm cái vùng còn mờ nhoè bất cập của những thứ lý luận khô khan, duy lý về luật pháp, về tội ác và sự trừng phạt và về nhiều thứ oái oăm, nhiêu khê do con người đặt ra để tự ràng buộc mình và ràng buộc đồng loại nữa Với những vấn đề rất nghiêm túc được đặt ra trong cuốn sách, Nguyễn Đình Tú đã chứng tỏ mình là một cây bút có trách nhiệm và có tham vọng. Tuy vậy, cũng có thể dễ dàng nhận thấy anh chưa đạt được nhiều lắm cho những mục tiêu nghệ thuật, nhất là nghệ thuật tiểu thuyết. Bố cục của cuốn sách chưa thật chặt chẽ, có chương còn rời rạc. Những đoạn trích dẫn hoặc thuật kể điển tích của Phật giáo, Ki tô giáo chưa nhuyễn và hơi tham lam. Ngoài nhân vật chính, những nhân vật có hình hài, có cá tính chưa nhiều. Có một số nhân vật xuất hiện có "tính thời vụ", được tác giả tung ra khi cần thiết và sau đó thì mất hút hoặc chỉ là những cái bóng mờ nhạt... Bù lại, Nguyễn Đình Tú đã thành công khi tạo ra được cho mình một cách tiếp cận hiện thực khá mới mẻ và một lối kể chuyện có sức cuốn hút. Ít nhất khi đọc cuốn sách này, chúng ta cũng bị lay động và buộc phải suy nghĩ một cách nghiêm túc hơn, ít phiến diện hơn về một số vấn đề đặt ra trong cuộc sống hôm nay. Đó chính là sự khởi đầu tốt đối với một nhà tiểu thuyết. Và sau 8 năm ra đời, Hồ sơ một tử tù cũng đã khẳng định được sức sống riêng của nó với bốn lần tái bản, một lần làm phim, hai lần vinh danh giải thưởng lớn của Bộ Công an. 8 năm ấy Nguyễn Đình Tú cũng đã chứng tỏ khả năng tiểu thuyết của mình với một loạt tác phẩm như Bên dòng Sầu Diện, Nháp và mới đây nhất là Phiên bản. Đến tiểu thuyết Phiên bản, lại một lần nữa, khái niệm tiểu thuyết tội phạm học trở nên rõ ràng hơn trong tôi, nhưng đó sẽ là nội dung của một bài viết khác khi có dịp quay trở lại vấn đề này. Mời các bạn đón đọc Hồ Sơ Một Tử Tù của tác giả Nguyễn Đình Tú.
Phiên Bản - Nguyễn Đình Tú
"Phiên bản" là cuốn tiểu thuyết thứ tư của Nguyễn Đình Tú. Cuốn sách có 31 khúc được sử dụng với 3 ngôi kể khác nhau, giống như một bản nhạc nhiều bè, khai mở nhiều lối đi vào chiều sâu tâm lý nhân vật. Diệu, cô nữ sinh ngây thơ trong sáng, sinh ra trong một gia đình có người anh trai phạm tội, phải đi tù. Bí bức, gia đình cô, trừ bà nội, còn bố, mẹ và cô liều lĩnh thuê tầu vượt biển đi nước ngoài. Cuộc vượt biên trốn chạy và giải thoát không thành. Hơn một trăm con người trên chuyến tầu bị bọn cướp biển giết chết hết. May mắn, cô cùng một người đàn ông theo đạo và đứa cháu trai mới chín tháng tuổi của ông - sau này nó sẽ là một nhà nghiên cứu tội phạm học - thoát chết, sống sót trở về được đất liền. Trở lại cuộc sống bên người bà, Diệu gặp Hưng, một gã lưu manh, bạn tù của anh trai Diệu, rồi từng bước một, như một định mệnh, một tất yếu không sao cởi thoát được, cô dấn thân dần dần vào cuộc đời gió bụi giang hồ. Giang hồ gió bụi ngẫm ra vậy mà có nhiều cung bậc! Hạ đẳng nhất phải kể là loại đao búa côn đồ, gặp người là đánh, thấy của là cướp. Kế đó là lớp bất tri lý, coi thường công an, chính quyền, cả gan chống lại cả người thi hành công vụ, được đồng loài mệnh danh là những kẻ thích tự sát. Loại ba là loại ma xui quỷ khiến, chuyên dùng thuốc kích thích để gia cường “bản lĩnh” chém giết, hiếp đáp, cướp giật. Đại để là vậy! Chứ còn chi ly ra thì có thể phân thành nhiều loại nữa; chẳng hạn, loại chỉ chuyên kiếm tiền, loại chỉ thích ra oai, loại trộm cắp vặt, loại đi ăn cướp chỉ vì phẫn chí, loại bần cùng mà sinh đạo tặc, loại làm ẩu vì chứng rối loạn tâm thần, loại vì tình ái mà gây thù chuốc oán, loại manh động vì ăn phải bùa mê thuốc lú... Diệu lưu manh hoá theo quy luật nội tại, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, trong khi lương tâm vẫn le lói chút tiếc nuối và vài tia ánh sáng nhân phẩm. Vì thực tình là sau cuộc vượt biển không thành trở về, thoạt kỳ thuỷ cô mới chỉ là một cô bé bán thuốc lá lẻ ở bến xe bến tầu, rồi tiến thêm một bước nữa, thấy thiên hạ bao nhiêu đứa sống được bằng ăn cắp, trong khi mình cũng có đủ hai con mắt, hai bàn tay và cái đầu được học đến tận lớp chín mà chỉ trông chờ vào lờ lãi mấy điếu thuốc thì làm sao sống nổi, nhưng cũng mới chỉ là sa chân vào tội tiếp tay cho kẻ gian, nghĩa là mang hộ đồ ăn cắp của bọn chôm chỉa đi bán để ăn hoa hồng thôi. Bước đường tha hóa tiếp diễn ngay sau đó chẳng lâu la gì đối với một kẻ tay đã nhúng chàm, ngày đêm phiêu diêu trong những dục vọng tăm tối, trên mảnh đất nhan nhản những tay anh chị khét tiếng ranh ma quỷ quái hung ác bạo tàn. Rất nhanh thôi Diệu đã lên ngôi nữ chúa, một siêu sao trong giới giang hồ, lập nên một đế chế dọc ngang không còn biết sợ ai! Tập hợp xung quanh và có quan hệ dây mơ rễ má với nữ quái này là một lũ lĩ, những là Lân "Sói", Cộc "Ba Tai", Hưng "Mã", Tùng "Hê rô", Châu "Điên", Tuấn "Chợ"… tàn ác, bạo ngược có thừa, những thành tố bất hảo của một xã hội đen, một thế giới tội phạm! Thế giới tội phạm, một lát cắt của đời sống hiện thực! Của đời sống hiện thực! Xa lạ chăng chỉ là, ở nơi đây không có cái thường quy, cái phổ biến. Thống trị ở nơi đây là cái hỗn mang chi sơ, là những bản năng kinh thiên động địa, là cái ác độc, là thói tàn bạo thâm căn. Thế giới tội phạm! Một bước lùi của lịch sử nhân loại! Nhà văn không viết chỉ bằng cảm hứng. Ortega Y Gasset, tiểu thuyết gia Tây Ban Nha nói đại ý: Chiếc rìu của một tiều phu giỏi chẳng có nghĩa lý gì trên một sa mạc không cây cối. Muốn viết được một cái gì đó cho ra hồn, nhà văn phải có chất liệu và đừng tưởng chất liệu là cái vốn tự có, là nước ở cái giếng sâu không đáy, là vỉa quặng vô tận, thả sức đào bới. Tôi đã hơn một lần rất có cảm tình và thật sự là khâm phục năng lực hiểu biết thấu đáo cái lĩnh vực đời sống, cái đối tượng nghệ thuật mà cây bút Nguyễn Đình Tú, một triển vọng đầy hứa hẹn của văn xuôi hôm nay, đã cầy xới trong tiểu thuyết Hồ sơ một tử tù và mới đây, trong cuốn sách có cái tên rất lạ tai là Nháp của anh. Tất nhiên là chàng sĩ quan - cử nhân Luật này có sẵn cái vốn liếng cơ bản về học thuật đã được trang bị của mình. Nhưng dẫu thế nào thì cái sự sống trực tiếp nhằm khám phá kỹ lưỡng vào chiều sâu bên trong cái thế giới kỳ quái này của nhà văn, vẫn là một nét nổi trội, nó khiến người đọc rơi vào trạng thái say mê với một niềm tin cậy chắc chắn là đã không bị lừa! Một cốt truyên hay! Trước nay tôi vẫn là kẻ bảo thủ, khi cho rằng, cốt truyện, với tổng số các tình tiết éo le, giàu kịch tính cùng các nhân vật có số phận độc đáo của nó, chính là cái khung thép cần có để làm chỗ dựa cho tất cả, là một nhu cầu, là cái khôn ngoan đặc biệt của tiểu thuyết, của truyện dài; vậy thì tội gì mà không tận dụng; huống hồ đây là một tiểu thuyết thuộc dòng hành động và tâm lý. Tất nhiên, cốt truyện hay của Phiên bản chỉ là một mặt mạnh và như một lẽ phải thông thường, đó cũng không phải là mặt chủ yếu nhất của cuốn tiểu thuyết này. Bởi vì, điều đáng kể hơn, sâu sắc hơn còn là, sau cái nhu cầu được nhìn thấy, được hình dung ra nhân vật trong diễn tiến của các sự kiện nối tiếp, người đọc tiểu thuyết còn cái khát khao là được lặn ngụp trong cái vùng còn đang vô cùng mung lung, bí ẩn, mơ hồ của suy tưởng. Tội phạm là vấn đề toàn cầu! Cái ác sinh ra từ khi có loài người, nhưng liệu có phải là nhân chi sơ tính bản ác và con người thì hoàn toàn bất lực, không thể triệt tiêu, không bao giờ chế ngự nổi cái ác, cái ác sẽ tồn tại mãi mãi, nó song hành cùng cái thiện? Tư duy truyền thống trước nay vẫn thường quy tội cho xã hội khi lý giải số phận của các tội phạm. Tám Bính trong Bỉ vỏ của nhà văn Nguyên Hồng cũng không ở ngoại lệ. Nhưng còn những trường hợp khác? Chi tiết nhà văn Nguyễn viết chuyện một nữ tặc sinh ra và hoành hành ở chính mảnh đất quê hương, vùng không gian sinh tỏa của nhân vật Diệu trong Phiên bản là một ẩn dụ nghệ thuật, một điểm nhấn có dụng ý của nhà văn. “Đất này dữ, trai gái đều thành nghịch tặc cả”. Cùng với câu nói đã hơn một lần bà nội Diệu đay đi đay lại với Diệu, công trình nghiên cứu của Tiến sĩ Chín Tháng có nhan đề Tội phạm học dưới giác độ địa văn hoá, phải chăng chính là chủ đích của nhà văn, anh muốn dùng pháp lý đồng thời với Kinh thánh - con người là phiên bảncủa Chúa - để giải minh vấn đề? Và nếu đúng là vậy thì sự kiện Diệu bắn chết Hưng ngay trên giường ngủ của mình ở đoạn kết của cuốn tiểu thuyết có thể coi là một cuộc tự chối bỏ của cái ác từ trong tiềm thức, cái ác tự huỷ hoại cái ác, một mệnh đề mang tính tường luận khá lý thú? Phiên bản là cuốn tiểu thuyết thứ tư của Nguyễn Đình Tú. Cuốn sách có 31 khúc được sử dụng với 3 ngôi kể khác nhau, giống như một bản nhạc nhiều bè, khai mở nhiều lối đi vào chiều sâu tâm lý nhân vật. Khúc được kể bằng ngôi Thị nhằm trần thuật những diễn biến sự kiện của nhân vật chính. Khúc được kể bằng ngôi Em là dòng chảy nội tâm của nhân vật chính. Và các khúc người kể đứng ở ngôi Ta có dáng dấp một cuộc hỏi cung, một cuộc vượt thoát để tìm về bản ngã. Chắc đó cũng sẽ là những thủ pháp tạo thêm hứng thú cho bạn đọc cuốn sách này.   Mời các bạn đón đọc Phiên Bản của tác giả Nguyễn Đình Tú.
Đèn Không Hắt Bóng - Watanabe Dzunichi
AudioBook Đèn Không Hắt Bóng Lâu lắm rồi mới tìm lại được cảm giác thích đọc truyện, mà lại là một cuốn tiểu thuyết dày, giấy đen thui, chữ mờ câm nữa chứ. Nhưng khi ngoài trời mưa rơi rả rích, nằm cuộn chăn trên giường để theo dõi từng bước chân của các nhân vật thì đúng là chẳng còn gì bằng. Y hệt cái cảm giác của những ngày còn nhỏ. Đã đóng trang cuối của cuốn truyện lại từ tối hôm qua nhưng tôi vẫn còn ám ảnh bởi đoạn cuối cùng. Hình ảnh Noriko đứng lặng lẽ, một mình trong phòng mổ, dưới ngọn đèn không hắt bóng, cô độc, lạnh lẽo. Cô chờ đợi Naôê xuất hiện như những ngày xưa. Mọi vật xung quanh cô đều không có gì thay đổi, cuộc sống cũng không có gì thay đổi, nó quen thuộc với cô đến mức cô có cảm tưởng rằng chỉ chốc lát nữa thôi, Naôê sẽ xuất hiện ngay lập tức mà thôi. Nhưng không, anh sẽ không bao giờ có thể mở cửa bước vào phòng mổ như mọi khi được nữa. Giờ đây anh đã yên nghỉ thanh thản vĩnh viễn dưới lòng hồ Sikôtsu, không còn đau đớn, không còn dằn vặt, không có mưu toan, không còn thủ đoạn. Cô không thể hiểu nổi tại sao Naôê không thể xuất hiện, căn hộ của anh vẫn còn kia mà, cái quán café cô và anh hay ngồi vẫn còn, cái bàn quen thuộc vẫn y như ngày nào, ngay cả phòng mổ, cái giường phẫu thuật, chùm đèn mổ, vẫn chẳng có gì thay đổi, tại sao anh không thể xuất hiện lại, ngay trước mặt cô trong lúc này đây. Cảm giác cô đơn đến mức rợn người, cô đơn khủng khiếp. Rồi đây cô sẽ sống thế nào khi không có anh bên cạnh, cô sống vì anh, hạnh phúc vì anh, tất cả đều dành cho anh kia mà, không có anh, rồi thì cuộc đời cô sẽ ra sao? Có nhiều người nói rằng tình yêu của Noriko đối với Naôê là một thứ tình yêu cam chịu, rằng cô không đáng phải làm như vậy, cô nhẫn nhục một cách bất bình thường. Cô mù quáng, cô dại dột, cô khờ khạo. Nhưng tôi lại thấy đó là một tình yêu đẹp. Một thứ tình yêu hiến dâng, tình yêu say đắm, tình yêu cuồng nhiệt, yêu mà không đòi hỏi lại bất cứ một điều gì, cô chỉ biết rằng cô yêu anh, như vậy là đủ. Một người phụ nữ như vậy đáng để yêu lắm chứ. Nhưng, ngược lại, Naôê có yêu Noriko không? Hay đó chỉ là một sự thương hại, một sự hối hận vào lúc cuối đời. Anh muốn đền bù cho Noriko vì anh đã làm khổ cô quá nhiều? Tôi không tin điều đó. Tôi nhìn thấy ẩn sau cái vẻ lạnh lùng, băng giá, bất cần đời và bộ mặt ác quỷ của vị bác sĩ ngoại khoa này là cả một tấm lòng. Có lẽ nó bị căn bệnh ác tính mà anh mắc phải che lấp đi mất, nó bị sự từng trải, những thăng trầm mà anh gặp phải trong cuộc sống che khuất đi mất. Những sóng gió của cuộc đời là đánh tan hết những lý tưởng sống, những hoài bão của anh và trao lại cho anh một đôi mắt biết nhìn xoáy sâu vào tận bản chất của mọi vấn đề. Nhưng “Đèn không hắt bóng” không chỉ có tình yêu giữa Noriko và Naôê. Tôi thích “Đèn không hắt bóng” vì còn nhiều điều khác nữa. Watanabe Dzunichi (tác giả) không chỉ là nhà văn mà ông còn là một tiến sĩ y khoa nữa. Có lẽ chính vì điều đó mà ông đã xây dựng được một hình tượng bác sĩ Naôê rất thật. Có nhiều người khó chịu vì hình tượng này, họ cho rằng Naôê không đáng được tôn vinh vì ông lấy lý do bệnh tật của mình mà chà đạp lên thân phận người phụ nữ v.v… Hơi buồn cười cho những suy nghĩ đó. Naôê không phải là một samurai, cũng chẳng phải là một vĩ nhân, anh chỉ là một bác sĩ bình thường như bao bác sĩ khác, có khác chăng là anh có tài hoa, kinh nghiệm, kiến thức. Cũng phải thôi, anh là phó giáo sư của trường ĐH Y mà. Mà đã là một người bình thường thì những hành động của anh trong hoàn cảnh đó hoàn toàn có thể hiểu được, những hành động rất người, rất thật. Không chỉ có Naôê, tôi còn nhìn thấy một Kobasi tràn đầy lý tưởng sống nhưng cũng vô cùng ngờ nghệch, một Yutaro thực dụng, và cả những bệnh nhân nữa, ông già Isikura bị K dạ dày di căn xương đã đến giai đoạn cuối mà cứ giữ vững niềm tin là mình đã khỏi bệnh, sẽ còn sống vui sống khỏe rất lâu sau đó nữa, hai vợ chồng cụ Uênô và bà Chiyô đã già lắm rồi nhưng lại nghèo, không có con cháu, chỉ có cụ bà lụm cụm chăm sóc cụ ông cho đến chết, cụ ông không đủ tiền truyền máu để tiếp tục sống nhưng sau khi ông mất, cụ bà vẫn đi lùng khắp nơi với số tiền ít ỏi của mình mua cho bằng được vài món quà nho nhỏ biếu bác sĩ để cảm ơn. Tôi cảm nhận được cái cảm giác nghẹn ngào của Kobasi khi buộc phải nhận gói quà đó. Cái cảm giác của người thầy thuốc khi thấy mình bất lực trước sức mạnh của tử thần, bất lực trước sự thật phũ phàng của cuộc sống. Tất cả những nhân vật ấy, tôi thấy rất quen, tôi có cảm giác tôi đã gặp họ ở đâu đó trong bệnh viện rồi. Họ là những mảnh ghép rời rạc, những nét chấm phá của tác giả để cố gắng vẽ nên một bức tranh trung thực nhất của ngành Y. Trong bức tranh ấy, không có những thứ giá trị “Y Đức” hão huyền được đề cao, tâng bốc, không có những hành động cao thượng, không có những câu chuyện cổ tích, không có anh hùng, không có hiệp sĩ, cũng chẳng có vĩ nhân. Chỉ có một sự thật, một sự thật trần trụi như thân thể con người ta dưới ngọn đèn không hắt bóng của phòng mổ vậy. Bạn có thể thấy hình ảnh của bệnh viện Oriental ở đâu đó trong bất cứ bệnh viện nào mà bạn có dịp ghé qua. Câu chuyện còn thú vị vì những xung đột, những mâu thuẫn. Mâu thuẫn giữa lý tưởng của anh chàng bác sĩ mới ra trường Kobasi với sự từng trải của bác sĩ Naôê. Có đôi khi tôi cảm thấy không ưa anh chàng Kobasi này, nhưng cũng có lúc anh làm tôi bật cười vì đôi khi tôi bắt gặp hình ảnh của chính tôi trong đó. Mâu thuẫn giữa quan niệm về “Y Đức” (đạo đức trong nghề Y) và đạo đức theo quan niệm thông thường. Cách giải quyết những mâu thuẫn trên của Naôê hoàn toàn hợp lý. Ít nhất là hợp lý đối với bản thân tôi. Chắc cũng phải còn lâu lắm tôi mới đủ nội lực để có thể giải quyết được như Naôê. Một câu chuyện hay, hoàn toàn xứng đáng với 1 đêm thức trắng như đêm qua. Mời các bạn đón đọc Đèn Không Hắt Bóng của tác giả Watanabe Dzunichi.
Vũ Khí Bóng Đêm Tập 6: Lửa Thiên Đàng - Cassandra Clare
Bóng tối đang bủa vây thế giới Thợ Săn Bóng Tối. Hỗn loạn cùng những tai họa và mất mát liên tiếp ập xuống đầu các Nephilim. Trong khi đó, Clary, Jace, Simon, và nhóm bạn của họ phải sát cánh bên nhau chống lại kẻ thù quỷ quyệt nhất: người anh ruột của Clary.Sebastian Morgenstern rắp tâm gây ra cảnh Thợ Săn Bóng Tối đối đầu Thợ Săn Bóng Tối, một trận chiến nồi da xáo thịt. Với Cốc Hỏa Ngục trong tay, hắn biến đổi Thợ Săn Bóng Tối thành những sinh vật của ác mộng, chia cắt những người thân yêu để xây dựng đội quân Hắc Hóa của riêng mình. Không một thứ vũ khí nào ở thế giới này có thể đánh bại Sebastian – nhưng nếu họ tới xứ quỷ, họ sẽ có một cơ hội, dù là mong manh… Sẽ có hi sinh, sẽ có mất mát và cả thế giới sẽ thay đổi. Ai sẽ sống sót sau tập sáu và cũng là tập cuối cùng của series Vũ Khí Bóng Đêm? Lửa thiên đàng là phần 6 sê-ri Vũ khí bóng đêm, xuất bản ở Anh từ năm 2014, được xếp vào danh sách tiểu thuyết ăn khách nhất do New York Times bình chọn. Trọn bộ series Vũ khí Bóng Đêm (The Mortal Instruments) do Chibooks xuất bản: Thành phố Xương (City of Bones, phần 1) - tải eBook Thành phố Tro Tàn (City of Ashes, phần 2) - tải eBook Thành phố Pha Lê (City of Glass, phần 3) - tải eBook Thiên thần sa ngã (City of Fallen Angles, phần 4) - tải eBook Linh hồn lạc (City of Lost Souls, phần 5) - tải eBook Lửa Thiên đàng (City of Heavenly Fire, phần 6) - tải eBook   Cassandra Clare (27/07/1973), tên thật là Judith Rumelt, nhà văn người Mỹ chuyên viết về thể loại tiểu thuyết kỳ ảo. Từng làm việc tại nhiều tạp chí và tòa báo cỡ nhỏ, trong đó có The Hollywood Reporter. Hiện Cassandra Clare đang sống ở Amherst, bang Massachusetts cùng chồng và ba chú mèo. Các series sách tiêu biểu: Vũ khí bóng đêm (The Mortal Instruments), The Infernal Devices Trilogy, The Dark Artifices Trilogy, The Bane Chronicles, Magisterium (viết chung với Holly Black)… Ngoài ra cô còn viết nhiều truyện ngắn và fan-fic khác. Trailer giới thiệu sách: