Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tấn Bi Kịch Z - Ellery Queen

10 năm sau thành công rực rỡ của  Tấn bi kịch X  và  Tấn bi kịch Y ,  Tấn bi kịch Z  ra đời! Thanh tra Thumm đã trở lại với cô con gái thông minh, có khả năng quan sát và liên kết các sự việc. Thượng Nghị sĩ tham nhũng Joel Fawcett – một người có vô vàn kẻ thù, bị sát hại! Bác sĩ Ira Fawcett, cũng bị sát hại! Hung thủ là một! Aaron Dow – tên tù nhân mới phóng thích vô tình trở thành kẻ tình nghi. Với quyết tâm tìm kiếm bằng chứng để minh oan cho Aaron Dow, bố con thanh tra Thumm đã đạt mình vàomột cuộc chiến công lý với tia hy vọng chỉ bằng 1%. Một lần nữa, Thumm lại phải nhờ đến sự minh mẫn của người bạn già Drury Lane Câu hỏi cuối cùng sẽ được giải quyết ra sao mang tên Z? *** Chín năm về trước, hai chàng trai trẻ cộng tác dưới cùng một bút danh là Ellery Queen được người đọc cùng hoàn cảnh thuyết phục đã viết nên một loạt truyện trinh thám mới. Kết quả từ công sức đáp ứng theo yêu cầu đó là sự ra đời của nhân vật ngài Drury Lane, một nghệ sĩ diễn kịch Shakespeare tuổi đã về già có năng lực trinh thám tuyệt diệu khác người. Dễ hiểu rằng loạt truyện ca ngợi những kỳ công của ngài Drury Lane không thể công khai mang tên tác giả Ellery Queen; vì nếu truyện mang tên Ellery Queen thì đã tôn vinh những kỳ công của ngài Ellery Queen. Vậy nên hai chàng bèn nghĩ ra bút danh thứ hai; và “Tấn bi kịch của X”, tác phẩm đầu tiên trong loạt truyện bốn cuốn về Drury Lane, đã làm xao động thế giới văn chương bình lặng dưới tên người viết là “Barnaby Ross”. Giờ đây, mối liên hệ giữa (các) tác giả Ellery Queen và (các) tác giả Barnaby Ross trên thực tế đã hoàn toàn biến mất. Truyện của mỗi tác giả được phát hành qua một nhà xuất bản khác nhau; quanh mỗi cái tên đều được kỳ vọng thêu dệt bao điều mập mờ và bí ẩn; ở thời kỳ mang hai bút danh ấy trong đời sống công luận, quả thực đã có một giai đoạn mà hai cái tên này đã bực dọc nhìn nhau trước nhiều bục diễn đàn đầy đố kỵ, bên nào cũng mượn sự che chắn của chiếc mặt nạ giả trang để ẩn mình kỹ lưỡng… một làm bộ điệu Ellery Queen, một ra dáng là Barnaby Ross, và cả hai đều vờ vịt một cách hùng hồn ra điều là cặp đối thủ đáng gờm trong lĩnh vực sáng tác truyện trinh thám. Những gì họ nói về nhau trước sự lắng nghe đầy tò mò của thính giả diễn thuyết, từ Maplewood, New Jersey cho đến Chicago, Illinois, dù vẫn có lời khen tặng song cũng không thiếu lời công kích, vậy là bằng sự gạt gẫm này bảo vệ lấy ảo tưởng của tính cách cá nhân thô kệch. Thế nhưng, vẫn có một manh mối tinh vi luôn tồn tại mà, một khi bị thám tử ghế bành thận trọng phát hiện, sẽ lập tức xác lập rành rành mối quan hệ giữa Ellery Queen và Barnaby Ross, và tòi ra mánh lới lừa phỉnh xấu xa mà hai kẻ này đã bày ra trước công chúng cả tin trong suốt chín năm. Vì nếu bạn đọc ghé qua Lời tựa của “Chuyện bí ẩn về chiếc nón La Mã” (tác phẩm đầu tiên của Ellery Queen viết về Ellery Queen), bạn đọc sẽ tìm thấy từ dòng mười bảy đến dòng hai mươi hai trên trang X tiết lộ đáng chú ý sau đây: “Chẳng hạn, vào thời ông dành ra bao công sức trinh thám tài tình trong vụ án mạng Barnaby Ross giờ đã xưa cũ, người ta nói rằng: ‘Richard Queen bằng kỳ công này đã xác lập vững chắc tiếng tăm của mình bên cạnh những bậc thầy trinh thám hình sự như…’” Chính từ trích đoạn ngụy tác này mà “Barnaby Ross” đến lúc cần thiết đã được chọn để tạo thành bút danh mới - cốt sao cho Barnaby Ross quả thực ra đời vào năm 1928, tại thời điểm mà Lời tựa của cuốn Queen đầu tiên ấy được viết ra, dù mãi đến năm 1931 cậu ta mới được hai ông bố của mình làm lễ rửa tội và dọn vào ngôi nhà riêng của mình. Vậy nên, giờ ta có thể nói thế này: Barnaby Ross đã, đang và mãi mãi chính là… Ellery Queen; và ngược lại. *** Đôi lời về ngài Drury Lane Chúng ta luôn giữ một cảm giác nhẹ nhàng trong lòng về gã dở hơi này. Người này, bảo là nghệ sĩ quê mùa thì chưa hẳn mà gọi là con gà gô cũng không hoàn toàn … gọi là kẻ khoác lác cũng đúng nhưng bảo là thiên tài cũng chẳng sai, và cũng là một thám tử khác thường nhất từng sống trên đời (ngoại trừ là kẻ mà sẽ là không có tên tuổi, có lẽ vậy). Giống người anh em của mình (chẳng phải họ vốn cùng sinh ra bởi hai gã thanh niên xảo quyệt ấy sao?), ngài Drury Lane có gốc gác từ trường phái suy luận - theo nhánh đặc biệt mà chú trọng đến độ quá đáng vào tính chất khách quan để thỏa mãn yêu cầu độc giả; vì thế trong “Tấn bi kịch của X”, cũng như những Tấn bi kịch tiếp theo, bạn đọc sẽ thấy mọi manh mối đều đã sẵn đó để tự mình suy đoán trước khi đi vào phần kết của câu chuyện. Vì vậy trong giây phút hồi sinh trang nghiêm này … Drury Lane muôn năm! Kính chào, Ellery Queen Thứ sáu, ngày 13 tháng 9 năm 1940, New York *** Đôi điều về NGÀI DRURY LANE CÁC TRÍCH ĐOẠN ĐƯỢC BIÊN SOẠN CHO NHÀ XUẤT BẢN DO NGÀI CHARLES GLEN TUYỂN CHỌN TỪ NHỮNG GHI CHÉP SƠ BỘ VỀ TIỂU SỬ CHƯA HOÀN CHỈNH CỦA LANE Trích từ Ai là Ai trong nghệ thuật sân khấu, ấn bản năm 1930: DRURY LANE, diễn viên; sinh tại New Orleans, La, vào ngày 3/11/1871; con trai của Richard Lane, nam diễn viên bi kịch người Mỹ và Kitty Purcell, nữ diễn viên hài kịch nhà hát ca múa nhạc người Anh; không kết hôn. Học vấn: kèm cặp tại gia. Xuất hiện trên sân khấu lần đầu: năm 7 tuổi; vai diễn quan trọng đầu tiên: năm 13 tuổi, vở “Sự mê đắm” của Kiralfy, Nhà hát Boston; lần đầu thủ vai chính: năm 23 tuổi, vở “Hamlet,” Nhà hát Daly’s, N.Y; vào năm 1909, tại Nhà hát Drury Lane, Luân Đôn; đã biểu diễn liên tục vở “Hamlet” trong khoảng thời gian dài nhất tính đến thời điểm ấy - hơn 24 lượt so với kỷ lục trước đó của Edwin Booth. Tác phẩm đã biên soạn: Tuyển tập Shakespeare, Triết lý của Hamlet, Tiếng gọi sau bức màn nhung, v.v. và v.v.. Câu lạc bộ: Players, Lambs, Century, Franklin Inn, Coffee House. Thành viên Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Hoa kỳ. Hội viên danh dự, Bắc đẩu Bội tinh Pháp quốc. Nhà riêng: Lâu đài Hamlet, nhìn ra sông Hudson, N.Y. (ga đường sắt: Lanecliff, hạt Westchester). Giải nghệ sân khấu: năm 1928. Trích từ Thế giới New York, thông cáo về việc giải nghệ sân khấu của ngài Drury Lane (1928): “… Drury Lane sinh ở New Orleans, tại hậu trường một nhà hát tăm tiếng hạng nhì, Nhà hát Comus, phải thời kỳ gia đình nhà Lane lâm cảnh túng bấn, vào lúc mà Richard ‘có quyền đi đâu, làm gì tùy ý’ còn Kitty thì phải quay lại sân khấu để trang trải cuộc sống hai vợ chồng và chuẩn bị cho đứa con sắp chào đời… Cái chết bất hạnh lúc sinh nở của bà là hậu quả của sự gắng sức quá độ trước ánh đèn sàn diễn, đứa bé… bị sinh non trong phòng thay đồ khi bà vừa diễn xong màn thứ nhất … “… thế rồi Drury Lane gần như được nuôi nấng trên sân khấu, được mang đi từ nhà hát này sang nhà hát khác bởi người cha cố gượng nuôi con, sống khốn khó qua ngày trong những ngôi nhà thuê chung rẻ tiền. Tiếng nói đầu đời của cậu bé là ngôn ngữ kịch; thay nhau chăm sóc cậu là những diễn viên; học vấn của cậu là những gì thuộc về kịch…. Chập chững biết đi cậu bé đã sắm những vai diễn nhỏ… Năm 1887, Richard Lane qua đời vì chứng viêm màng phổi, lời cuối trước khi nhắm mắt là tiếng nhắn nhủ khàn khàn dành cho đứa con trai vừa tròn mười sáu tuổi: ‘Con hãy trở thành diễn viên kịch.’ Thế nhưng, dù khát vọng của Richard dành cho con trai có lớn lao thế nào, nó cũng kém xa so với đỉnh cao mà chàng trai trẻ Drury cuối cùng đã đạt được…. “… Cái tên đặc biệt, theo như ông cho biết gần đây, là do cha mẹ chủ ý đặt cho ông, dựa vào truyền thống sân khấu vĩ đại gắn liền với Nhà hát Drury Lane lâu đời…. “… nói rằng ông phải giã biệt sân khấu do bệnh điếc ngày càng nặng ở cả hai tai - và đến nay căn bệnh đã trầm trọng đến mức ông không còn phân biệt được một cách toàn vẹn giữa các chất giọng trầm bổng khác nhau của chính mình…. “… Ngoại lệ duy nhất trong quyết định từ bỏ những vai diễn ruột thịt của ngài Lane là cả một sự việc lạ lùng. Ông nói rằng, hàng năm vào ngày 23 tháng 4, ông sẽ diễn trọn vở ‘Hamlet’ tại nhà hát riêng ở trang viên Hudson của mình. Lý do ông trân trọng chọn đúng ngày này vì, theo sự chấp nhận rộng rãi của công chúng, đó là dịp kỷ niệm ngày sinh lẫn ngày mất của Shakespeare. Một điều rất thú vị là ngài Drury Lane đã diễn vai này trên năm trăm lần, chiếm kỷ lục về buổi diễn trên khắp các quốc gia cùng chung gốc rễ về văn hóa và lịch sử Anh.” Trích từ bài báo đăng trên tạp chí Điền trang thôn quê, mô tả trang viên của ngài Drury Lane, lâu đài Hamlet: “… Trang viên được thiết kế theo truyền thống kiến trúc Elizabeth* thuần nhất, gồm một tòa thành khổng lồ, và bao quanh là cả một ngôi làng thu nhỏ dành cho những người sống và làm việc cho ngài Lane. Trong ngôi làng này, mỗi ngôi nhà là một bản sao nguyên vẹn của túp lều thời Elizabeth với kiểu mái rạ đặc trưng, đầu hồi chóp nhọn, v.v. Tất cả đều được trang bị tiện nghi hiện đại, nhưng được che đậy khéo léo để không gây xáo trộn cảm giác về một thời đại trong quá khứ…. Cảnh quan vườn tược là cả một khung cảnh tuyệt đẹp; tỷ như, những hàng rào cây xanh là do đích thân chuyên gia của ngài Lane đưa về từ các vùng nông thôn Anh quốc.” Trích từ bài phê bình của Raoul Molyneux đăng trên tạp chí La Peinture, Paris, 1927, về Bức chân dung ngài Drury Lane, tranh sơn dầu, họa sỹ Paul Révissons: “… y như lần tiếp kiến ngài trong chuyến thăm vừa qua của tôi…. Vóc dáng cao lớn mảnh dẻ, trầm lặng nhưng mang vẻ sinh động khó tả, mái tóc trắng như cước lòa xòa dài tận cổ, đôi mắt màu lục xám tinh nhanh sắc sảo, nét mặt cân đối hoàn hảo gần như cổ điển, thoạt nhìn cho ta cảm giác bất động vô hồn song lại có khả năng đổi thay đột ngột…. Ông đứng thẳng người, sừng sững như Đại đế Carolus, cánh tay phải trong chiếc áo choàng thụng màu đen quen thuộc, bàn tay phải đặt trên quả nắm cây gậy gỗ mận gai trứ danh của ông, chiếc mũ dạ màu đen tròn vành thì để trên bàn cạnh bên…. Hiệu ứng kỳ quái của bóng tối càng nổi bật vì y phục u buồn của ông … nhưng được giảm nhẹ đi bằng cảm giác thật kỳ lạ rằng, người này chỉ cần nhấc ngón tay và thế là toàn bộ phục trang của thế giới hiện đại sẽ rơi tuột xuống chân, để lại nơi ông một dáng hình rực rỡ từ quá khứ….” Trích thư của ngài Drury Lane gởi ngài Bruno, công tố viên hạt New York, ngày 5 tháng 9 năm 193-: “Xin được thứ lỗi về việc đã mạo muội xen vào phận sự của văn phòng quý ngài khi đính kèm theo đây một bài phân tích khá dài dòng, hoàn toàn tự tay tôi biên soạn, liên quan đến vấn đề nan giải của cảnh sát về việc tìm ra kẻ giết John Cramer. “Các dữ liệu phân tích của tôi hoàn toàn dựa vào những gì tôi thu thập được từ những bài báo mà thông tin đôi lúc còn chưa thỏa đáng về vụ án này. Tuy vậy, thiết nghĩ rằng khi xem qua nội dung phân tích và đáp án, ngài sẽ đồng ý cùng tôi rằng cách sắp xếp giữa các sự việc với nhau như tôi trình bày chắc chắn sẽ dẫn đến một kết luận logic duy nhất. “Mong ngài đừng xem đây chỉ là giả định từ một người luống tuổi đã về hưu. Tôi vốn đặc biệt quan tâm đến tội ác hình sự, và sẵn sàng hỗ trợ khi có yêu cầu của ngài về bất cứ vụ án nào khác mà kết luận xem ra còn vô định hoặc bất khả thi.” Điện tín đã nhận tại lâu đài Hamlet, Ngày 7 tháng 9 năm 193-: LỜI THÚ TỘI ĐÃ XÁC NHẬN ĐÁP ÁN XUẤT SẮC CỦA NGÀI VỀ VỤ ÁN CRAMER - CHẤM - LIỆU THANH TRA THUMM VÀ TÔI ĐÂY CÓ THỂ GHÉ ĐẾN SÁNG MAI LÚC MƯỜI GIỜ BA MƯƠI ĐỂ TỎ LỜI CẢM ƠN ĐỒNG THỜI THAM VẤN Ý KIẾN NGÀI VỀ VỤ ÁN MẠNG LONGSTREET. WALTER BRUNO *** Vì sự tham gia của riêng tôi vào các sự kiện lịch sử này chẳng khơi gợi được gì hơn sự quan tâm lịch thiệp và ngắn ngủi từ những ai theo dõi vận mệnh của ngài Drury Lane, nên tự tôi sẽ kể qua bằng một ghi chép, cũng ngắn ngủi như thói đỏng đảnh của phụ nữ. Tôi trẻ trung, điều này phần nhiều được những nhà phê bình nghiêm khắc nhất thừa nhận. Tôi được trời phú cho đôi mắt to, xanh và trong veo - mà nhiều quý ngài thích làm thơ từng bảo - trông như cả một vì tinh tú ngự trên chín tầng mây. Một nam sinh trẻ măng, tốt bụng tại Heidelberg có lần từng ví màu tóc tôi với mật ong. Một quý bà người Mỹ thích đả kích sâu cay tại Cap d’Antibes mà tôi từng gặp gỡ đã ví mái tóc ấy phần nào giống cọng rơm khô. Gần đây khi đứng trong tiệm làm đẹp Clarisse tại Paris bên cạnh bộ đầm béo* bà ta bồ kết nhất, tôi phát hiện ra phom người mình thực sự gần đạt được những số đo hình thể quyến rũ của mụ đàn bà hay khinh người ấy. Thực ra, ngoài đôi bàn tay, bàn chân tôi đạt chuẩn hình thể - điều này theo đánh giá cỡ chuyên gia của chính ngài Drury Lane - tôi còn sở hữu bộ não làm việc theo trật tự tuyệt hảo. Cũng có người nói rằng một trong những nét quyến rũ chết người của tôi nằm ở chỗ “thiếu khiêm tốn một cách tinh tế,” một lời chém gió mà tôi cảm thấy chắc chắn sẽ gây họa cho tôi trong quá trình viết bài này. Các chi tiết thô thiển nhiêu đó đã đủ. Phần còn lại tôi có thể tự đặt tên cho nó là Chuyến Du Ngoạn Bắc Âu. Tôi đã từng đi chu du, có thể nói như vậy, kể từ những tháng ngày tóc thắt bím và mặc đồ thủy thủ. Các chuyến du ngoạn của tôi xen kẽ những lần dừng chân dài hạn: Ví như chẳng hạn tôi mất hai năm tại một ngôi trường tư thục đáng sợ ở London, nán lại trên Bờ Trái* trong mười bốn tháng trước khi tự thuyết phục mình rằng cái tên Patience Thumm sẽ chẳng được nói đến một cách kính cẩn như những cái tên Ganguin và Matisse. Giống Marco Polo tiến về phương Đông, tôi đi khắp các dải đất phương Đông; như Hannibal tấn công những cánh cổng thành Rome, tôi khám phá nền văn hóa châu Âu. Hơn nữa, tôi là người có tâm hồn khoa học: Tôi đã thử tinh dầu ngải absinthe tại Tunis, vườn nho Clos Vougeot tại Lyon và rượu aguardiente tại Lisbon. Tôi bị bật móng chân khi trèo lên ngôi thành cổ Acropolis tại Athens, cảm thấy vui sướng đầy dâm đãng khi đắm mình trong bầu không khí mê hoặc của hòn đảo Sappho. Chẳng cần phải nói thêm, tất cả những chuyến đi này dựa vào khoản tiền trợ cấp hào phóng với cái đuôi là một sinh vật bất tử hiếm hoi bậc nhất - một bà vú tiện cái là mắc chứng loạn thị và có khiếu hài hước. Du ngoạn giống như món kem sữa béo, nó cứ lan rộng mãi ra; tuy nhiên, sẽ chẳng ai chịu nổi nếu cứ ăn hoài một món. Và người đi du ngoạn, cũng như kẻ háu ăn, sẽ quay về nhà và hài lòng với chế độ ăn có kiểm soát hơn. Thế nên, với sự kiên quyết dịu dàng như một trinh nữ, tôi bỏ mặc bà vú đáng yêu tội nghiệp tại Algiers và giong buồm về nhà. Món thịt bò nướng tuyệt hảo của bố chào mừng tôi vẫn đang nằm yên trong bụng. Nói thật là ông thấy khiếp đảm khi thấy tôi cố tuồn vào New York bản tiếng Pháp cuốn Người Tình Của Phu Nhân Chatterley đáng yêu, rách tơi tả, cuốn sách khiến tôi phải hy sinh bao nhiêu buổi tối tuyệt đẹp tự giam mình trong phòng riêng tại trường tư thục nữ sinh. Nhưng khi giải quyết xong vấn đề nhỏ này, trước sự vui sướng của tôi, ông nhanh chóng đẩy tôi len qua cửa hải quan. Sau đó, chúng tôi yên vị trong sự tĩnh lặng êm dịu ở căn hộ của ông tại thành phố, hai con bồ câu đưa thư hoàn toàn xa lạ. Lúc này, khi đọc Tấn Bi Kịch X và Tấn Bi Kịch Y, tôi nhận thấy rằng ông bố già xấu xí, to lớn, vụng về và vĩ đại của tôi, thanh tra Thumm, chưa một lần giới thiệu những trang sách sinh động, sôi nổi này cho cô con gái thích xê dịch. Không phải vì ông không yêu mến tôi: Tôi hiểu được điều ấy từ ánh mắt ngỡ ngàng, phần nào đó đến kinh ngạc của ông khi chúng tôi hôn tạm biệt nhau trên cầu tàu. Chúng tôi chỉ đơn giản là ngày càng xa nhau. Mẹ đã tống cổ tôi sang châu Âu cho bà vú chăm sóc khi tôi còn quá nhỏ, không thể phản kháng. Tôi nghi ngờ sự thay đổi trong tình cảm luôn là điều đáng quý, đến lượt bà cũng ham mê tìm hiểu những nét thanh lịch, tao nhã ướt át của cuộc sống Lục địa già qua các lá thư tôi viết. Trong khi đó, người bố tội nghiệp chẳng có cơ hội nào, việc chúng tôi dần xa cách không phải hoàn toàn do lỗi của mẹ. Tôi nhớ lại hồi mình là con bé yếu ớt bò lổm ngổm dưới chân bố, quấy rối ông với những chi tiết đẫm máu nhất của những tội ác ông đang điều tra, đọc hết tất cả các tin tức vụ án với sự thích thú và không ngừng tấn công ông trên Phố Centre với những gợi ý ngớ ngẩn. Ông chẳng bao giờ mắng tôi nhưng tôi chắc chắn ông thấy nhẹ nhõm khi tôi bị tống sang Châu Âu. Dẫu sao đi nữa, bố con tôi phải mất vài tuần để nuôi dưỡng tình cảm trở lại mối quan hệ bình thường. Ông chưa sẵn sàng về tâm lý trước những lần viếng thăm chớp nhoáng của tôi trong thời gian lang thang, nào là ăn trưa mỗi ngày với một thiếu nữ trẻ đẹp, những nụ hôn chúc ngủ ngon, và trải qua tất cả những vui vẻ khi ông đóng vai một ông bố gia trưởng. Một thời gian ông thực sự hốc hác, mệt mỏi. Ông thấy sợ tôi hơn vô số tội phạm liều lĩnh từng săn đuổi suốt cuộc đời thanh tra. •   •   • Tất cả những đoạn này là phần mở đầu cần thiết cho câu chuyện của tôi về ngài Drury Lane, và vụ án lớn về Aaron Dow, tù nhân trong nhà tù Algonquin. Vì điều này giải thích được làm sao kẻ lang thang như Patience Thumm lại có liên quan đến một vụ án mạng. Trong những năm tháng lang thang và thư từ với bố - đặc biệt sau khi mẹ qua đời - tôi thấy tò mò trước những bóng gió thường xuyên, tình cảm của ông với thiên tài già cả lạ lùng ấy, ngài Drury Lane, người đã xuất hiện một cách hoành tráng trong cuộc đời ông. Dĩ nhiên, tôi không xa lạ với tên tuổi quý ông già nua này, với lý do tôi là độc giả trung thành của các truyện trinh thám có thật lẫn hư cấu. Lý do nữa là vì quý ông hưu trí hấp dẫn này không ngừng được giới báo chí, tại cả Mỹ lẫn châu Âu, tung hô như một siêu nhân. Đâu đâu cũng nhắc đến những kỳ tích ông đạt được trong các vụ án với tư cách là điều tra viên. Sau tai nạn bất ngờ khiến ông bị điếc, sự nghiệp diễn viên kịch của ông cũng chấm dứt. Nhiều lần những dư âm của chúng vẫn còn vẳng đến tai tôi tận Châu Âu. Sau khi quay về nhà, tôi bất ngờ nhận ra mình chẳng còn mong muốn gì hơn được gặp gỡ con người phi thường, sống trong một lâu đài tuyệt đẹp nhưng đầy mê hoặc nhìn ra sông Hudson. Nhưng tôi lại thấy mình quan tâm hơn đến đôi tai của ông khi phá án. Sau khi nghỉ hưu ở phòng Thám tử New York, bố tôi bỏ lại sau lưng bao nhiêu năm tháng phá án là món ăn giấc ngủ, sự tồn tại kiểu này khiến ông buồn chán đến không chịu nổi. Thế nên, điều không tránh khỏi là ông mở văn phòng thám tử tư, danh tiếng của riêng ông mang lại thành công cho ông ngay từ đầu. Về phần tôi, vì chẳng có việc gì để làm và cảm thấy rằng cuộc đời mình cũng như những kinh nghiệm từ chuyến du học vừa đủ giúp tôi kiếm sống một cách nghiêm túc, có lẽ điều không tránh khỏi là tôi phải đứng dậy từ nơi tôi đã từ bỏ nhiều năm về trước. Tôi bắt đầu dành nhiều thời gian hơn tại văn phòng của bố, quấy rầy ông như ngày xưa và lắng nghe tiếng càu nhàu bực bội của ông. Dường như ông nghĩ rằng một đứa con gái thì phải có sức hấp dẫn giống như một bông hoa cài áo. Nhưng vì được thừa hưởng cái cằm bướng bỉnh của ông, sự kiên trì của tôi đã khiến ông nản lòng. Có vài dịp thậm chí ông còn cho phép tôi theo đuổi một cuộc điều tra khiêm tốn. Nhờ đó tôi học được nhiều thuật ngữ và môn tâm lý học của hình sự hiện đại - một khóa học thô sơ rất có ích giúp tôi thấu hiểu vụ án liên quan đến Dow. Nhưng có một chuyện dường như hữu ích hơn nhiều. Kinh ngạc không kém gì bố, tôi thấy rằng mình sở hữu một bản năng quan sát và suy luận phi thường. Tôi bất ngờ nhận ra mình có một tài năng rất đặc biệt, có lẽ được nuôi dưỡng bởi môi trường làm việc ban đầu, và sự quan tâm không thay đổi của tôi đối với tội phạm. Bố tôi rên rỉ, “Patty, con cứ như ả hầu bàn trơ trẽn trong bữa tiệc vậy. Con sẽ khiến quý ông già ngượng chết mất. Có Chúa mới biết, như những ngày xưa với Drury Lane ấy!” Và tôi đáp: “Ngài thanh tra đáng yêu ơi, đó là một lời khen tuyệt vời. Khi nào thì ngài định giới thiệu con với ông ấy đây?” Cơ hội đã đến một cách bất ngờ ba tháng sau khi tôi về nước. Giống như mọi cơ hội khác - nó bắt đầu hoàn toàn bình thường - sau đó biến thành một cuộc phiêu lưu tuyệt vời. Đúng như những gì trái tim một cô nàng luôn thèm khát và háo hức như tôi có thể mơ tới. Một hôm, một người đàn ông cao lớn, tóc xám ăn mặc trang nhã xuất hiện tại văn phòng của bố tôi. Sắc mặt ông ta lo lắng khiến tôi liên hệ với tất cả những ai từng tìm đến. Qua tấm thẻ rập nổi, tên ông ta là Elihu Clay. Dò xét tôi bằng đôi mắt sắc lạnh, ông ta ngồi xuống, hai bàn tay khum lại trên đầu gậy chống. Với thái độ khô khan, thận trọng của một chủ ngân hàng nguời Pháp, ông ta tự giới thiệu bản thân. Ông ta là chủ sở hữu Clay Marble Quarries - những mỏ đá chính tại hạt Tilden, vùng Thượng New York; văn phòng và nhà riêng ở thành phố Leeds, Anh quốc. Cuộc điều tra ông ta muốn nhờ bố tôi tiến hành có tính riêng tư và bảo mật. Đây là lý do chính của ông ta khi đến đây ngoài việc tìm kiếm một nhà điều tra. Ông ta một mực đòi phải thận trọng mọi nhẽ… “Tôi hiểu,” bố tôi cười toét. “Hút xì gà đi. Ai đó đang ăn cắp tiền mặt trong két à?” “Thực ra là không! Tôi có… à… một hội viên hùn vốn ẩn danh.” “Ha,” bố tôi nói. “Cho tôi biết đi.” Tên hùn vốn ẩn danh này - có vẻ giờ đây, sự ẩn danh này đã chuyển sang khía cạnh đáng lo ngại nhất - là Fawcett, bác sỹ Ira Fawcett. Người này là em trai của thượng nghị sĩ hạt Tilden, Joel Fawcett. Một ngài thượng nghị sĩ không ít thì nhiều cũng “chính trực”. Theo cái nhíu mày của bố, tôi nghĩ đây chắc chắn là một quý ông không trung thực và không có trái tim trong sáng. Là người không do dự tự phong mình là ‘thương nhân trung thực nhất của phái cựu trào’ giờ đây có vẻ Clay thấy hối hận khi hợp tác cùng bác sỹ Fawcett. Tôi đồ rằng bác sỹ Fawcett là một nhân vật khá đáng sợ. Ông ta khiến công ty dính líu đến các hợp đồng mà Clay nghi ngờ rằng có nguồn gốc bốc mùi. Ngành kinh doanh này rất thịnh vượng - quá thịnh vượng. Quá nhiều hợp đồng trong hạt và bang đều liên quan đến Clay Marble Quarries, cần thiết phải kiên quyết tiến hành một cuộc khảo sát tình hình. “Không có bằng chứng à?” bố tôi hỏi. “Chẳng có chút nào, thưa thanh tra. Rõ ràng hắn quá thông minh. Tất cả những gì tôi có chỉ là những nghi ngờ. Ông sẽ nhận vụ này chứ?” Nói rồi Elihu Clay đặt ba tờ giấy bạc giá trị cao nhất lên bàn. Bố liếc nhìn tôi. “Chúng ta nhận vụ này được không, Patty?” Nét mặt tôi băn khoăn. “Chúng ta bận lắm. Nếu thế phải hủy tất cả các vụ kia…” Elihu Clay nhìn tôi chằm chằm một lúc. “Tôi có ý kiến,” ông đột ngột nói. “Tôi không muốn Fawcett nghi ngờ ngài, ngài Thanh Tra. Cùng lúc đó ngài sẽ phải làm việc với tôi. Tại sao ngài không cùng cô Thumm đây đến các nhà khách của tôi tại Leeds? Cô Thumm đây có thể tới - chẳng phải tiện hay sao?” Tôi đoán rằng bác sỹ Ira Fawcett không phải là người trơ như gỗ đá trước sức quyến rũ nữ tính. Khỏi cần nói, ngay lập tức tôi cảm thấy thú vị. “Chúng ta xoay xở được mà bố,” tôi mạnh mẽ nói, và như thế mọi việc được thu xếp. •   •   • Chúng tôi mất hai ngày chuẩn bị mọi thứ, có thể nói như vậy. Đến tối Chủ nhật chúng tôi đã hoàn tất gói ghém đồ đạc cho chuyến đi tới Leeds. Elihu Clay đã đi trước chúng tôi, quay về vùng nông thôn cùng ngày ông đến thăm New York. Tôi còn nhớ mình đang duỗi dài chân trước đống lửa, nhấm nháp rượu brandy đào - chai rượu tôi đã trót lọt tuồn qua mặt anh sĩ quan hải quan trẻ tuổi tốt nhất - thì nhận được điện tín của thị trưởng Bruno - chính là ngài Walter Xavier đã từng làm công tố viên hạt New York khi bố tôi còn là một viên thanh tra tích cực. Còn bây giờ ông ta là một thống đốc nổi tiếng, hiếu chiến của bang New York. Bố tôi đập tay vào hông cười khúc khích, “vẫn là lão Bruno này! Chà, Patty, đây đúng là cơ hội con đang mong. Bố đoán rằng chúng ta có thể thực hiện được?” ... Mời các bạn đón đọc Tấn Bi Kịch Z của tác giả Ellery Queen.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tình Yêu Phù Thủy (Biệt Thự Bạch Mã)
Tình Yêu Phù Thủy hay Biệt Thự Bạch Mã là tên bản dịch của cuốn tiểu thuyết The Pale Horse do nhà văn trinh thám nổi tiếng Agatha Christie sáng tác. Trong phầm này, chúng ta sẽ cùng thanh tra Lejeune đi tìm chân tướng sự việc. *** Agatha Christie Tình Yêu Phù Thủy Người dịch: TRẦN BÌNH Lời Mở Đầu Nguyên tác tiếng Anh :THE PALE HORSE Mark Easterbrook, người tường thuật các sự kiện chính trong truyện, chứng kiến một vụ đánh nhau  giữa hai cô gái trong một quán rượu ở Chelsea. Chẳng bao lâu sau đó, anh đọc được tin cáo phó trên báo về cái chết của cô Thomasina Tuckerton, một trong hai cô gái đã đánh nhau đó. Và trong một bữa ăn tối với bạn bè, anh lại nghe một cô gái, Poppy Stirling, nói bóng gió đến CON NGỰA NHỢT NHẠT, một nơi có thể sắp đặt trước cái chết cho người khác. Khi Mark gặp Corrigan, một bác sĩ pháp y bạn anh, anh lại được bạn cho xem một danh sách những cái tên tìm thấy trong đôi giày của cha Gorman, người cũng vừa bị giết chết sau khi đến rửa tội cho một phụ nữ đang hấp hối. Trong đó có tên của phu nhân Hesketh-Dubois, mẹ đỡ đầu của anh, người vừa qua đời gần đây, và tên của Thomasina Tuckerton, cô gái mà anh vừa đọc tin cáo phó trên báo. Anh bắt đầu cảm thấy lo sợ và nghĩ rằng những người có tên trong bản danh sách kia là những người có cái chết đã được báo trước… *** Chiếc bình pha cà phê chạy điện đặt phía sau lưng tôi rít lên như một con rắn đang giận dữ. Tiếng động tự nó có vẻ như là một cái gì thê thảm và gần như là ma quái. Tôi nghĩ rằng trong thời đại của chúng ta có biết bao nhiêu âm thanh làm chúng ta khó chịu như tiếng rú của máy bay phản lực, tiếng gầm điếc tai, doạ nạt của tàu điện ngầm khi ra khỏi đường hầm, tiếng của những vật nặng đi qua làm rung chuyển nhà cửa... cho đến tiếng kêu của những máy móc dùng trong gia đình như tủ lạnh, máy hút bụi... cũng vậy. Hình như chúng nói: "Coi chừng, chúng ta là những vị thần bị buộc chân để phục vụ các người, nếu các người không thể kiểm soát nổi chúng ta và... ". Ôi một thế giới có biết bao nhiêu là nguy hiểm!  Tôi quấy một thứ nước đặc sánh trong một chiếc tách đặt trước mặt. Mùi thơm thật là dễ chịu. - Chỉ dùng có vậy sao, thưa ngài? Một chiếc bánh kẹp thịt, vài quả chuối là một miếng thịt lợn hun khói nữa chứ? Cách ăn uống hỗn tạp như vậy quả là lạ lùng đối với tôi. Nhưng tôi đã ngồi trong một quán rượu ở Chelsea cũng như đã thích ứng được với những thói quen ở đây. Tôi nhận một chiếc bánh kẹp thịt mà nhà hàng đã mời chào. Tuy đã là dân sống ở Chelsea, từ ba tháng nay, trong một căn hộ đủ tiện nghi, nhưng tôi còn xa lạ với nó về nhiều mặt. Tôi đang viết một cuốn sách nói về khoa kiến trúc của Mông Cổ, và để làm được việc đó đáng lẽ tốt hơn cả là tôi có thể sống ở Hampstead hoặc ở Bloomsbury. Môi trường sống của tôi thì lại hoàn toàn khác hẳn: tôi sống trong cái vũ trụ của cá nhân tôi. Tối hôm nay tôi lâm vào một trong những cơn buồn chán thường thấy của các nhà văn. Khoa kiến trúc Mông Cổ, các vị hoàng đế Mông Cổ và tất cả những đặc điểm của cuộc sống Mông Cổ đột nhiên đối với tôi chỉ còn là bụi bậm và tàn tro. Chúng có liên quan gì đến tôi? Tại sao tôi lại muốn viết về chúng? Tôi chối bỏ làm việc. Hình như nó không còn là hay ho đối với tôi nữa, nó nghèo nàn về văn phong và mất hết lý thú. Tôi ném bản thảo đi và đưa mắt nhìn chiếc đồng hồ quả quít. Đã mười một giờ khuya. Tôi đã ăn tối chưa nhỉ? Chưa, cái dạ dày của tôi trả lời. Còn bữa lót dạ thì đã lâu lắm rồi. Trong tủ lạnh của tôi chỉ còn một miếng lưỡi lợn khô cứng mà tôi chẳng muốn đụng đến chút nào. Do đó tôi xuống đường King s và bước hú hoạ vào một quán cà phê có biển treo, đề tên chủ quán “Luigi" ghép bằng những bóng đèn huỳnh quang màu đỏ. Ngồi trước chiếc bánh kẹp thịt, vài quả chuối và miếng thịt lợn hun khói, tôi nghĩ về những tiếng động trong cuộc sống hiện đại, về những cái xấu luôn luôn trội hơn những cái tốt, về sự bền vững để giành chiến thắng Chiếc bình pha cà phê chạy điện vẫn réo bên tai. Tôi gọi một tách cà phê nữa và liếc nhìn xung quanh. Một trong các chị gái tôi đã nói là đừng bao giờ trở thành người quan sát. Lúc này tôi chăm chú quan sát tất cả. Trong quán ánh sáng lù mù, nhìn không rõ. Khách hàng gồm hầu hết là những người trẻ tuổi. Tôi thấy các cô gái thường là bẩn thỉu như mọi cô gái ngày nay. Hình như các cô mặc quá nhiều quần áo. Một vài tuần lễ trước đây, tôi đã chú ý đến điều này trong khi đi ăn sáng với các bạn tôi. Cô gái ngồi gần tôi khoảng hai chục tuổi, dù trời không lạnh lắm, cô cũng mặc một chiếc săng-đay dày, màu vàng, một chiếc váy đen ra một đôi tất len đen. Mặt cô loáng ướt vì mồ hôi, người có toả ra một mùi len ngấm nhiều mồ hôi và mùi tóc lâu ngày không gội. Theo các bạn tôi thì cô ta là người rất quyến rũ. Còn tôi, tôi chỉ có một ý đỉnh là ném cô vào một bể nước nóng cùng với một miếng xà phòng và ra lệnh cho cô kỳ cọ thật kỹ! Tôi nghĩ rằng, về một điểm nào đó, tôi ít thích nghi với thời đại của mình. Tôi tưởng nhớ một cách thú vị về những cô gái theo đạo Hindu với những mớ tóc đen mượt, những chiếc váy màu sặc sỡ, có nhiều nếp rất duyên dáng theo từng cử động của thân thể. Một tiếng động mạnh kéo tôi ra khỏi những kỷ niệm êm đềm đó. Hai cô gái ngồi bàn bên cãi nhau. Bạn bè khuyên giải nhưng không kết quả. Bất thình lình, một cô tát cô kia đang cố gắng giật chiếc ghế của mình đang ngồi. Họ úm nhau như những chị hàng cá và thét lên những lời tục tĩu. Một cô tóc màu hung rối bù, cô kia tóc màu hoe cứng đờ. Những tiếng kêu động viên nổi lên ở các bàn khác. - Lại đây! Cho nó một trận, Lou! Đứng cuối sàn nhảy, người vô can là Luigi, một người gốc Ý, giọng trọ trẹ, can thiệp: - Ê, đằng kia, chà! Như thế đủ rồi! Cảnh sát sẽ đến tóm cổ các cô. Đủ rồi. Tôi bảo các cô! Nhưng cô tóc hung đã túm tóc cô tóc hoe và điên cuồng giật mạnh. - Mày chỉ là một con đĩ! Một con đĩ cướp chồng người! - Con đĩ chính là mày đấy! Luigi và các vệ sĩ của hai cô kéo họ ra. Cô tóc hung giơ cao mớ tóc màu hoe đẹp trong tay lên với một vẻ chiến thắng rồi ném nó xuống đất. Bất chợt cửa mở và một người cảnh sát đại diện cho chính quyền đứng sững ở ngưỡng cửa. - Ở đây xảy ra chuyện gì vậy? Lập tức mọi người lập thành một mặt trận để chống lại kẻ thù chung: - Người ta vui đùa - Một trong những  trai trả lời. - Đúng - Luigi nhấn mạnh - Bạn bè họ vui đùa với nhau. Anh ta lấy chân đá nắm tóc vào gầm bàn. Những người có liên quan tới vụ ẩu đả nhìn nhau cười ngượng ngùng trước cặp mắt nghi ngờ của viên cảnh sát. Như là một sự tình cờ, các khách hàng khác cho rằng đi khỏi quán lúc này là tốt hơn cả. Người cảnh sát đưa mắt nhìn theo họ: "Cái đó, lần này thôi. Nhưng… các người sẽ được chú ý". Sau đó anh ta bỏ đi. Người vệ sĩ của cô gái tóc hoe thanh toán tiền. - Có đau không? - Luigi hỏi cô gái đang buộc lại khăn quàng dưới cằm. Luigi đã xen vào câu chuyện của cô một cách xấu xa. Họ đã giật tóc cô. - Ô, cái đó không làm tôi đau - Cô lơ đãng trả lời. Cô cười với người chủ quán - Tha lỗi cho chúng tôi, Luigi. Họ đi ra. Quán vắng tanh. Tôi tìm tiền. - Có thể nói là cô ta nổi khùng - Luigi nhận xét. Anh ta cầm cái chổi, quét hất những lọn tóc vào gầm quầy hàng. - Cái đó thật là tàn bạo - Tôi nói. - Nếu là tôi thì tôi đã kêu thét lên rồi - Luigi nói thêm - Nhưng cái cô Tommy ấy, cô ta đã lên cơn khùng. - Anh biết rõ cô ấy chứ? - Cô ta hầu như tối nào cũng có mặt ở đây. Tên cô ta là Tuckerton. Thomasina Tuckerton. Nhưng ở đây người ta gọi cô là Tommy Tucker. Cô ta có vô khối tiền. Ông già cô để lại cho cô cả một gia tài. Và cô ta đã làm gì? Cô ta sống trong một căn phòng bẩn thỉu trên đường Wandsworth Bridge và đi lang thang với một nhóm người như cô. Cái đó làm tôi sửng sốt đến ngã người ra. Họ có nhiều tiền. Họ có thể mua bất cứ cái gì, trọ cả trong khách sạn Ritz nếu họ muốn, nhưng cách sống ấy hình như đã lôi cuốn họ. Tôi thì tôi cắt đứt ngay cái kiểu sống như vậy. Tôi hỏi anh ta về lý do của cuộc cãi đánh nhau. - Ờ, cô Tommy đã nẫng tay trên người bạn trai của cô kia. Không cần phải đánh chửi nhau, xin ngài hiểu ý tôi là như vậy! *** Gợi Ý Thứ Tự Đọc Tác Phẩm - Guide To ReadGợi Ý Thứ Tự Đọc Tác Phẩm - Guide To Read   Nguồn: FB/groups/acvnfan Nhóm đã tổng hợp lại theo bảng xếp hạng của các fan thế giới, xếp theo thứ tự truyện hay nhất đầu tiên. Có 2 cách đọc: Từ dễ đến khó, Đọc theo thể loại. (Hoặc đọc trộn lung tung cho đỡ nhanh chán, dở hay-dở hay-ngắn dài-... cứ thế =))) Ahiru, gõ lại từ ảnh hướng dẫn. CÁCH 1 - TỪ DỄ ĐẾN KHÓ   A. Basic - Truyện cơ bản Gồm các truyện ngắn nổi bật, 20-50 trang cho các bạn tập làm quen với văn phong tác giả. * Poirot Investigates: - Double Sin/ Thừa một chứng tích phạm tội - The Chocolate box/ Hộp Sô cô la - Case of missing will/ Bản di chúc độc đáo * Truyện ngắn Paker Pyne: - A Fairy in the Flat/ Tiên nữ trong căn hộ (trong tập Hãng thám tử tư) - Case of the Distressed Lady/ Người thiếu phụ tuyệt vọng - The Gate of Baghdad/ Cánh cổng thành Bagdad * Hãng thám tử tư/ Partners in Crime: - Finessing the King/ Đưa vua vào thế bí - A Pot of Tea/ Một tách trà - The Man in the Mist/ Người đàn ông trong sương mù * Gợi ý thêm: - Thirteen Problems/ 13 vụ án - Golden Ball/ Quả cầu vàng - The dream/ Giấc mơ khủng khiếp   B. Advance - Truyện nâng cao Là những tiểu thuyết nổi bật. 1. Death on the Nile/ Án mạng trên sông Nile 2. One Two Buckle My Shoe/ Một, Hai, Ba Những cái chết bí ẩn 3. Death the Clouds/ Cái chết trên mây 4. Peril At End House 5. Crooked House/ Ngôi nhà cổ quái 6. Cards on the table/ Những quân bài trên mặt bàn 7. Appointment With Death/ Hẹn với tử thần 8. Death Comes as the End/ Tận cùng là cái chết 9. Five little pigs/ Năm chú heo nhỏ 10. The Moving Finger/ Ngòi bút tẩm độc *Gợi ý thêm: 11. The clocks/ Những chiếc đồng hồ kỳ lạ 12. 4:50 from Paddington/ Chuyến tàu 16h50 13. Hallowe'en Party/ Ngày hội quả bí 14. Lord Edgware Dies/ Dao kề gáy 15. Hercule Poirot's Christmas/ Chết trong đêm Noel - Giáng sinh của Hercule Poirot   C. Masterpiece - Kiệt tác Những truyện kinh điển 1. And Then There Were None/ Mười người da đen nhỏ 2. Murder On The Orient Express/ Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông 3. The Murder Of Roger Ackroyd/ Vì Sao Ông Ackroyd Chết 4. The Abc Murders/ Chuỗi án mạng A.B.C 5. Curtain, Poirot's Last Case/ Thám tử rời sân khấu 6. A Murder Is Announced/ Cái chết được báo trước 7. Murder on the Links/ Vụ giết người trên sân golf 8. The Mysterious Affair At Styles/ Thảm kịch ở Styles 9. The Murder at the Vicarage/ Án mạng ở nhà cha xứ/ Bí mật trong chiếc vali 10. Toward zero/ Thời khắc định mệnh CÁCH 2 - XẾP HẠNG THEO THỂ LOẠI   A. Đánh lừa tâm lý người đọc - Readers totally blind 1. And Then There Were None/ Mười người da đen nhỏ 2. The Murder Of Roger Ackroyd/ Vì Sao Ông Ackroyd Chết 3.Five little pigs/ Năm chú heo nhỏ 4. The Abc Murders/ Chuỗi án mạng A.B.C 5. Cards on the table/ Những quân bài trên mặt bàn 6. Curtain, Poirot's Last Case/ Thám tử rời sân khấu 7. A Murder Is Announced/ Cái chết được báo trước   B. Yêu đương ướt át - Love injured/sloppy 1. Elephants Can Remember/ Theo dấu chân voi 2. Sad Cypress/ Cây bách buồn 3. Ordeal by Innocence/ Nhân chứng không ai ưa 4. Death on the Nile/ Án mạng trên sông Nile 5. Endless night/ Đêm dài vô tận 6. The Hollow/ Thung lũng   C. Xã hội đen - Underground 1. Big Four/ Bộ tứ 2. The Pale Horse/ Biệt thự "Bạch mã" 3. The clocks/ Những chiếc đồng hồ kỳ lạ 4. Murder On The Orient Express/ Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông 5. The Seven Dials Mystery/ Bảy mặt đồng hồ 6. The Mystery Of The Blue Train/ Bí mật chuyến tàu xanh   D. Bị chỉ trích nhiều - Most commented 1. The Murder Of Roger Ackroyd/ Vì Sao Ông Ackroyd Chết 2. The Man In The Brown Suit/ Viên kim cương Nam Phi 3. The Hollow/ Thung lũng 4. The Mysterious Mr. Quin/ Người đàn ông bí ẩn   E. Phiêu lưu - Adventure 1. The Man In The Brown Suit/ Viên kim cương Nam Phi 2. Death Comes as the End/ Tận cùng là cái chết 3. Appointment With Death/ Hẹn với tử thần 4. Death on the Nile/ Án mạng trên sông Nile 5. They Came to Baghdad/ Điệp vụ thành Bagdad   F. Tâm linh - Spirituality 1. The Pale Horse/ Biệt thự "Bạch mã" 2. Dumb witness/ Nhân chứng câm 3. The Sittaford Mystery/ 5 giờ 25 phút 4. A Caribbean Mystery/ Điều bí ẩn của bà Marple   G. Bi kịch gia đình - Too much love 1. Elephants Can Remember/ Theo dấu chân voi 2. The Hollow/ Thung lũng 3. Nemesis/ Nữ thần báo oán 4. Endless night/ Đêm dài vô tận 5. Hallowe'en Party/ Ngày hội quả bí 6. Hercule Poirot's Christmas/ Giáng sinh của Hercule Poirot 7. Lord Edgware Dies/ Dao kề gáy   H. Khởi đầu khó tin - Hard to believe at beginning 1. The clocks/ Những chiếc đồng hồ kỳ lạ 2. Elephants Can Remember/ Theo dấu chân voi 3. Hallowe'en Party/ Ngày hội quả bí 4. The Seven Dials Mystery/ Bảy mặt đồng hồ 5. The Man In The Brown Suit/ Viên kim cương Nam Phi 6. Cat among pigeons/ Cú vọ và đàn bồ câu   I. Cái kết 'khó nuốt' - The end made me not satisfied 1. Hallowe'en Party/ Ngày hội quả bí 2. The Hollow/ Thung lũng 3. The Seven Dials Mystery/ Bảy mặt đồng hồ 4. The Man In The Brown Suit/ Viên kim cương Nam Phi 5. Why didn't they ask Evans? Người trong ảnh   J. Quá ích kỷ - So selfish 1. Mrs McGinty's Dead/ Cái chết của bà McGinty 2. The Hollow/ Thung lũng 3. Endless night/ Đêm dài vô tận 4. Hercule Poirot's Christmas/ Giáng sinh của Hercule Poirot 5. Appointment With Death/ Hẹn với tử thần   K. Vụ hay và dở nhất của bà Marple - Best& Worst MsMarple TUYỆT: 1. A Murder Is Announced/ Cái chết được báo trước 2. The Moving Finger/ Ngòi bút tẩm độc 3. 4:50 from Paddington/ Chuyến tàu 16h50 4. Nemesis/ Nữ thần báo oán 5. The Murder at the Vicarage/ Án mạng ở nhà cha xứ DỞ: 1. A Pocket Full of Rye/ Một nắm lúa mạch 2. Sleeping Murder/ Giết người trong mộng 3. At Bertram's Hotel/ Bí ẩn khách sạn Bectram   L. Vụ hay và dở nhất của Poirot - Best& Worst H.Poirot TUYỆT: 1. The Murder Of Roger Ackroyd/ Vì Sao Ông Ackroyd Chết 2. Murder On The Orient Express/ Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông 3. Curtain, Poirot's Last Case/ Thám tử rời sân khấu 4. Five little pigs/ Năm chú heo nhỏ 5. Peril at the End House 6. The Abc Murders/ Chuỗi án mạng A.B.C 7. One Two Buckle My Shoe/ Một, Hai, Ba Những cái chết bí ẩn 8. Death on the Nile/ Án mạng trên sông Nile 9. Hercule Poirot's Christmas/ Chết trong đêm Noel DỞ: 1. Dead Man's Folly/ Ngôi đền của người chết 2. Big Four/ Bộ tứ 3. Murder in Mesopotamia/ Vụ án mạng ở vùng Mesopotamie 4. The Hollow/ Thung lũng 5. Cat among pigeons/ Cú vọ và đàn bồ câu 6. Elephants Can Remember/ Theo dấu chân voi 7. Dumb witness/ Nhân chứng câm 8. The clocks/ Những chiếc đồng hồ kỳ lạ 9. The Mystery Of The Blue Train/ Bí mật chuyến tàu xanh (Riêng tui hok thấy danh sách dở này đúng lắm...)   M. Hơi rối và nhàm - A bit complicated & tired 1. Nemesis/ Nữ thần báo oán 2. The Hollow/ Thung lũng 3. Sleeping Murder/ Giết người trong mộng 4. Death on the Nile/ Án mạng trên sông Nile Bảng xếp hạng này mang tính tham khảo. Có vài truyện hơi dài dòng với con trai nhưng chị em đọc lại thích kiểu tình củm sướt mướt ^^" Truyện không đề tên tiếng Việt, là những truyện chưa có bản dịch. Truyện mà mình không có đăng lên, là những truyện chưa có bản số hóa. Hiuhiu (_ _______)~~   Mời các bạn đón đọc Tình Yêu Phù Thủy (Biệt Thự Bạch Mã) của tác giả Agatha Christie.
Người Thay Thế H23
Câu chuyện miêu tả việc CIA muốn đầu độc ,sát hại ,ám sát Fidel Castro nhưng ko thành .Kèm theo đó là sự tài giỏi những điệp viên Cuba trong “Người Thay Thế H23                 Người dịch : Đức Thuần – Hoàng Lan                 dịch từ bản tiếng Nga, Nhà xuất bản Quân sự, Bộ Quốc  Phòng Liên Xô, M., 1982         - Tác giả : Đ.  L. I – BA – NHÉC         - Nhà xuất bản : Quân đội nhân dân         - Năm xuất bản : 1985 *** Người thay thế H.23 ca ngợi tinh thần quả cảm,tài lược mưu trí của lực lượng an ninh Cu-Ba,tinh thần cảnh giác cách mạng cao của nhân dân đập tan các âm mưu phá hoại nhiều mặt của đế quốc Mỹ và bọn phản động quốc tế,bảo vệ vững chắc Nhà nước Xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên lục địa Châu Mỹ. ***   Chiếc đồng hồ treo tường trong phòng tác chiến Phân cục Tình báo trung ương Mỹ ở Mai-a-mi thong thả điểm sáu tiếng. Đã chạng vạng tối. Mai-cơ, người chỉ đạo trực tiếp chiến dịch sắp được mở màn sau mười lăm phút nữa, giơ tay ấn nút chuông điện và cất cao giọng Tây Ban Nha khá sõi:         - Mời vào!         Một gã đàn ông cao lớn, to khoẻ nước da màu đồng hun hiện ra trước ngưỡng cửa. Bộ âu phục ghi sẫm, lịch sự đã tôn thêm dáng vẻ gã lên. Giơ tay nhấc nhẹ chiếc mũ phớt mốt nhất trên đầu và thong thả gỡ cặp kính đen khỏi mắt, gã nói nhỏ nhẹ:         - Chào ngài.         - Ngồi xuống đây, Rô-béc-tô,- Mai-cơ nói với người vừa vào phòng.         - Cám ơn ngài.         - Anh đã hiểu rõ nhiệm vụ của anh có ý nghĩa lớn thế nào chứ?         - Vâng, tôi hiểu rõ cả.         - Thời gian gần đây công việc của chúng ta không được trôi chảy cho lắm. Phần lớn những người của ta tung sang Cuba, bằng cách này hay cách khác đều bị cơ quan an ninh Cuba lần lượt cho vào tròng hết. Hoặc người của ta vừa mới hành động đã bị chúng bắt ngay, hoặc cũng có kẻ tự ra đầu thú với bọn an ninh Cuba.         Vừa nghe Mai-cơ nói, Rô-béc-tô vừa thong thả hút xì gà và ngắm nhìn những vòng tròn khói thuốc đang loang toả lên cao.         - Anh cần hỏi thêm điều gì nữa không? – Mai-cơ hỏi.         - Có ạ, tôi chỉ muốn hỏi một câu nữa thôi. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ tôi sẽ trở về bằng cách nào?         Thay vì câu trả lời, Mai-cơ nhếch mép.         - Chỉ có mình Đ-45 là biết rõ nhiệm vụ cụ thể của anh ở Cuba. Ngay khi đến nơi anh cần gọi ngay số điện thoại này báo cho Đ-45 hay tin. - Rô-béc-tô liếc nhìn mảnh giấy Mai-cơ vừa chìa ra trước mặt và dễ dàng nhớ ngay các con số, sau đấy Mai-cơ đốt luôn mảnh giấy nhỏ.         - Như vậy là rất tốt, - Rô-béc-tô nói – nhưng ngài vẫn chưa trả lời thẳng vào câu hỏi của tôi.         Nheo đôi mắt vẻ không hài lòng, Mai-cơ đáp:         - Đ-45 sẽ chịu trách nhiệm đưa anh rời khỏi đất Cuba, nhưng anh cần phải nhớ một điều quan trọng: Sau khi gọi dây nói báo cáo cho ông ta biết anh đã đến Cuba an toàn thì phải quên ngay ông ta ta đi. Đó chính là sự đảm bảo cho anh hoàn thành nhiệm vụ thắng lợi và mặt khác, đấy cũng chính là đảm bảo cho việc anh trở về nữa.         Mai-cơ giơ tay xem đồng hồ.         - Anh còn ý kiến gì nữa không?         - Hết rồi ạ.         Mai-cơ bước lại gần bàn giấy và bắt chặt tay con người đang đứng trước mặt mình. Nhìn thẳng vào mắt Rô-béc-tô, ông ta nói khẽ:         - Từ giờ phút này trở đi, anh sẽ lấy bí số là Đ-54. Đêm nay anh sẽ trở về đất Cuba. Chúc anh hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao!         - Cám ơn ngài!         Rô-béc-tô cúi đầu và bước ra khỏi phòng.         Đến cổng, gã lặng lẽ ngồi vào chiếc xe đã chờ sẵn và đưa mắt nhìn bãi trống đằng trước, hút tiếp điếu xì gà, nghĩ thầm:         - Giờ định mệnh đã đến!         Trong lúc đó từ cửa sổ phòng mình, Mai-cơ quan sát từng cử chỉ của Rô-béc-tô. Khi chiếc xe vừa rú ga lao đi, ông ta liền ấn nút máy bộ đàm, hạ lệnh:         - Hãy theo dõi hắn.         Suốt nửa giờ liên, Mai-cơ chăm chú xem xét tập tài liệu đặt trên bàn. Ông ta đặc biệt chú ý đến tập hồ sơ riêng của con người vừa mới rời khỏi phòng. Một hồi chuông điện thoại bất ngờ đổ dồn.         - Tôi nghe đây. Vâng, chính Mai-cơ đây… Được. Hẹn gặp lại nhé.         Cuộc nói chuyện trong điện thoại chỉ diễn ra gần một phút nhưng cũng đủ làm cho Mai-cơ xúc động mạnh. Đặt ống nghe xuống, ông ta đứng dậy và im lặng hồi lâu nhìn vào khoảng không xa xăm, mờ ảo. Bên tai Mai-cơ hình như vẫn còn vẳng lại giọng báo cáo của điện báo viên: “”Những bông hoa Ngài đặt sẵn sẽ được gửi theo địa chỉ số 24””. Điều đo có nghĩa là đêm nay điệp viên F-1 sẽ đổ bộ lên Cuba.         Ngả lưng xuống chiếc ghế bành, Mai-cơ quay số điện thoại:         - Trực ban hả?         - Vâng.         - Cho tôi nói chuyện với tiến sĩ.         - Ngài là ai đấy ạ?         - Mai-cơ đây.         - Xin ngài vui lòng chờ một phút.         Mới vài giây trôi qua, Mai-cơ đã cảm thấy nóng ruột. Cuối cùng trong ống nghe vang lên:         - Mọi việc tốt đẹp cả chứ, ông Mai-cơ?         - Hoàn hảo cả, thưa sếp. Một ngày nữa tôi sẽ chuẩn bị bay đi…         - Còn một vấn đề này, ông Mai-cơ ạ. Không có gì khó khăn phiền nhiễu với mấy tấm hộ chiếu ấy chứ?         - Không đâu ạ, thưa sếp.         - Thôi được rồi, vậy hãy hành động đi.         - Tôi sẽ gửi về biếu ngài chai rượu rum “ca nhây”. Xin chào ngài.         Mai-cơ đặt ống nghe xuống.         Ông ta xếp cẩn thận các tập tài liệu vào tủ sắt, mà mỗi ngăn đều có khoá riêng và dấu niêm phong đặc biệt. Sau khi đã kiểm tra lần cuối và đánh dấu riêng cho từng loại, Mai-cơ tắt đèn, bước ra khỏi phòng.         Trên đường ra xe, Mai-cơ thầm nghĩ: “Mọi việc đều đúng với dự tính. Cứ thể xem vận may của chuyến du lịch đang đợi ta ở Cuba sẽ ra sao. Đây không phải là lần đầu và ta cảm thấy cũng chưa phải là lần cuối”.         Thấy Tiến sĩ để nhẹ máy điện thoại lên bàn, người hầu phòng bước lại bàn và hỏi:         - Ngài dùng rượu trước khi về?         - Đúng đấy, anh Ha-xin-tô. Rót ra ly đi!... Khoan đã, loại Rum “Ca-nhây” uống ngon lắm hả?         Ha-xin-tô chăm chú nhìn Tiến sĩ rồi chậm rãi đáp:         - Lúc tôi rời Cuba, thưa ngài, tôi thường uống “Bác-ca-di” nhưng tôi được biết bọn cộng sản dự định đổi tên rượu “Bác-ca-di”. Hiên nay “Ca-nhây” có hai loại nhãn – vàng và trắng. Người ta nói nó cũng khá lắm.         - Cám ơn Ha-xin-tô. Một người bạn định mang về cho tôi chai “ca-nhây”, bởi thế tôi mới phải anh thêm vấn đề này.         Cùng thời gian đó tại một điểm đối diện với cảng La Ha-ba-na cách bờ hai mươi hải lý trên một chiếc tàu thuỷ đã tắt động cơ, lần lượt có hai người nhảy sang chiếc xuồng máy có tốc độ nhanh mang ký hiệu “U-20” bên mạn thành.         Một thanh niên trạc ba nhăm tuổi, dáng cao, nhưng tóc đã điểm bạc ngồi ở đầu mũi. Gã mặc chiếc quần bò, áo sơ mi kẻ sọc, ngoài khoác thêm chiếc Blu-dông đen, đôi mắt nhíu lại chăm chú nhìn dải bờ xa xa đang tiến dần lại. Bóng tối và sự yên tĩnh bao phủ xung quanh. Chiếc xuồng máy tắt động cơ và giờ đây chỉ còn nghe tiếng sóng oàm oạp vỗ nhẹ vào hai bên mạn.         Người thanh niên nhìn đồng hồ. Mười hai giờ kém mười lăm. Máy nổ lại từ từ vang lên, chiếc xuồng máy lao lên và khoảng năm phút sau đã trườn đến phần bắc hòn đảo nhỏ.         Nhảy nhẹ lên bờ, tay lăm lăm khẩu súng ngắn nhỏ, gã ẩn mình sau những tảng đá lởn chởm, nhấp nhô bên bờ biển. Nghe ngóng động tĩnh vài phút, gã băng mình chạy đến gần con đường lớn cách đấy không xa. Đến đó, gã dừng lại, thõng chân xuống hố cát cố làm ra vẻ bình tĩnh ngồi hút thuốc. Đằng xa kia có ánh đèn pha ô tô buýt nhấp nháy, và khi chiếc xe vừa dừng lại, gã nhanh chóng nhảy phóc lên xe. Thế là điệp viên F-1 đã thực hiện được phần đầu kế hoạch xâm nhập vào Cuba của mình.         Cũng lúc ấy, phòng trực ban của cơ quan An ninh Cuba nhận được một bức điện báo: “Điệp viên “Thần thông” sẽ đến thăm các anh. H-23”.   Mời các bạn đón đọc Người Thay Thế H23 của tác giả D. L. I-ba-nhec.
Miền Đất Lạ
Bộ truyện tình báo của Nguyễn Sơn Tùng - Nhà xuất bản Lao Động phát hành năm 1987, 4 tập gồm: Hoa hồng trắng Miền đất lạ Viên đạn ngược chiều Một mình trên đất khách. ***           Sương sớm còn lởn vởn, trải tấm màn mờ đục lên những cánh rừng trùng điệp của Việt Bắc. Mặt trời đã mọc nhưng còn bị che khuất bởi những ngọn núi cao ngất. Chim chóc gọi nhau ríu rít bay đi kiếm mồi. Suối chảy rì rào hòa lẫn tiếng muông thú trong rừng sâu, vọng lên những âm thanh vừa êm đềm vừa huyền bí.   Dưới những lùm cây rậm rạp, một khu nhà lá kiến trúc theo kiểu mới, rất đẹp mắt, mỗi căn chia làm nhiều phòng, mỗi phòng nhiều cửa sổ, cao ráo, sạch sẽ. Từ trong khu nhà vang lên những tiếng nói cười, tiếng máy chữ rào rào, người ra vào tấp nập. Đó là doanh trại của Bộ tư lệnh X.   Trong một căn phòng nhiều ánh sáng, sau chiếc bàn gỗ thô sơ, đồng chí chỉ huy trưởng đang cúi gập người xuống chiếc bản đồ quân sự, tay cầm bút chì xanh đỏ, đánh dấu từng cứ điểm. Cánh cửa liếp hé mở, một vệ binh bước vào:   - Báo cáo tư lệnh! Có tham mưu trưởng xin vào gặp.   - Mời đồng chí ấy vào đây!   Chỉ huy trưởng gập tấm bản đồ rồi ngồi xuống ghế chăm chú nhìn ra cửa.  Một người cao lớn bước vào, anh phải cúi mới khỏi bị cộc vào khuôn cửa, đập gót giày đứng nghiêm giơ tay chào:    - Báo cáo anh, tôi đã có mặt.   Chỉ huy trưởng mừng rỡ đứng dậy, bước ra khỏi bàn, chìa tay:     - Chào đồng chí, hay lắm! Có việc cần phải bàn với đồng chí, ngồi xuống đây!- Sau khi lấy thuốc lá mời tham mưu trưởng, chỉ huy trưởng trở về chỗ cũ, rút cuốn sổ tay rồi hỏi:   - Sức khỏe của các đồng chí ra sao?   - Cảm ơn anh, rất tốt ạ.   - Có tin gì mới không?   - Dạ, đang lập báo cáo, sắp gửi lên đây. Đó là sự tập trung quân của địch trong chiến địch “Ca-mi-gu”(1).   Chỉ huy trưởng gật đầu:     - Cần phải xác minh lại thật chính xác những tin tức nhận được và đã đến lúc chúng ta phải bắn một viên đạn vào buồng tim của địch!- Tham mưu trưởng tán thành:   - Tôi cũng nghĩ như vậy. Đã đến lúc phải nắm lấy thời cơ. Tôi đang dự định đề nghị Bộ tư lệnh cho tiến hành.   - Đồng chí hãy báo cáo cho tội rõ tình hình chuẩn bị đến đâu rồi?   - Báo cáo anh. Theo tin tức của B.50 gửi về thì mọi việc đã chuẩn bị chu đáo. Hiện nay, trong cơ quan tham mưu Pháp ở miền Bắc, tên đại tá Ô-buy vẫn giữ chức vụ quan trọng, có uy tín lớn trong quân đội viễn chinh. Đó có thể là một điểm tựa thuận lợi cho đồng chí của ta hoạt động, ngoài ra những “nhân” của ta đều có những cơ sở vững chắc, có thể tin cậy được.   Chỉ huy trưởng đổi nét mặt, nghiêm nghị:   - Đồng chí Tần! Thời cơ đã đến, chúng ta phải hành động thật đúng lúc và khôn khéo. Lần này các đồng chí sẽ phải đương đầu với kẻ địch mạnh hơn, già dặn kinh nghiệm hơn! Hiện nay trong phòng nhì của quân đội Pháp còn có bọn CIA, cơ quan tình báo của Hoa Kỳ với danh nghĩa là cố vấn nhưng trên thực tế chúng đã thọc tay vào nắm mọi quyền hành lũng đoạn cả cơ quan tham mưu của Pháp.   Trong giai đoạn này, thực dân Pháp phải trông cậy vào bọn can thiệp Mỹ, chúng hy vọng có những khoản viện trợ quân sự hòng đè bẹp cuộc kháng chiến của chúng ta. Bề ngoài xem như bọn chúng cấu kết với nhau rất chặt chẽ, nhưng thật ra chúng không thể giấu nổi những mâu thuẫn đang ngấm ngầm phát triển trong nội bộ chúng. Bọn Mỹ đang có mưu đồ hất cẳng Pháp ở Đông Dương để thiết lập một chế độ thuộc địa kiểu mới, khống chế nhân dân châu Á. Chúng đã và đang đào tạo những con bài dự trữ để sau này có thể thay thế bọn bù nhìn của Pháp ở đây. Bọn này đang được Tòa Bạch ốc nuôi dưỡng chờ đợi thời cơ. Một tên đang lên tiếng công kích Bảo Đại để gây ảnh hưởng. Hiện nay bọn chỉ huy quân sự Hoa Kỳ đang âm mưu xây dựng một kế hoạch mới ở Đông Dương mà tình báo của chúng ta mới phát hiện. Đó là kế hoạch Z.F.I.   - Kế hoạch Z.F.I. phải chăng là những tài liệu mà quân báo của mặt trận chúng ta đang thu thập gửi về?   Chỉ huy trưởng khẽ mỉm cười:   - Những tin tức của quân báo mặt trận ta không có liên quan gì đến nó cả. Chỉ có tình báo trung ương của ta mới nắm được rõ thôi. Kế hoạch Z.F.I. là tên gọi tắt của “khu vực biên giới Đông Dương”. Bộ quốc phòng Hoa Kỳ đã chỉ thị cho tướng Ca-ben phụ trách cơ quan F.B.I chỉ đạo thực hiện. Tất nhiên nó có tầm quan trọng về chiến lược có ảnh hưởng đến sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ ở Đông Dương trong tương lai, vì vậy cấp trên đã chỉ thị cho chúng ta phải phối hợp phá vỡ kế hoạch đó vì chúng ta sẵn có người có khả năng. Chúng ta sẽ chạm trán với bọn gián điệp Mỹ, mạnh mẽ và xảo quyệt hơn bọn phòng nhì Pháp! Vì vậy, muốn hoạt động có kết quả phải làm thật chu đáo công tác chuẩn bị. Đồng chí hiểu ý tôi chứ?   - Dạ, tôi đã rõ.   - Người của ta đã sẵn sàng chưa? Sức khỏe đồng chí ấy ra sao?     - Báo cáo anh hiện nay đồng chi ấy rất khỏe, vừa dự chỉnh huấn xong, rất hăng hái và sẵn sàng nhận nhiệm vu.   - Rất tốt! Chiều nay đồng chí bảo đồng chí ấy lên đây gặp tôi, khoảng 3 giờ có mặt.   - Rö!   - Và từ bây giờ, tôi ủy nhiệm cho đồng chí trực tiếp chỉ đạo công tác này, trước hết thẩm tra lại các cơ sở ở nội thành xem có thật vững vàng không, rồi tìm những biện pháp ngăn ngừa khả năng bất lợi đến với đồng chí mình, tạo điều kiện để dễ dàng hoạt động giành thắng lợi. Đồng chí rõ chưa?   - Tôi đã rõ, xin hứa với anh: Bảo đảm làm tròn nhiệm vụ! - Tôi tin các đồng chí. “Đạn đã lên nòng”, hãy bắn và bắn cho trúng đích!   - Dạ, chỉ huy trưởng cứ yên tâm. Chúng tôi sẽ cố gắng hoàn thành nhiệm vụ thật tốt!   Tham mưu trưởng nói xong đứng dậy định lùi ra thì chỉ huy trưởng ra hiệu:     - Khoan, cho tôi gửi cái này đã.   Chỉ huy trưởng với tay lên giá sách, lấy xuống một gói nhỏ:   - Đồng chí cầm về cho Sơn, quà của chính ủy gửi tặng hai người đấy!   Tham mưu trưởng thắc mắc hỏi lại:   - Sao lại tặng hai người ạ?     Chỉ huy trưởng giải thích:   - Cho đồng chí Sơn và người thân của cậu ấy: cô Tuyết Trinh.   Hiểu ý, tham mưu trưởng cười:     - Các anh chu đáo quá!   Chỉ huy trưởng cũng cười:     - Đấy mới là quà riêng của chính ủy, còn của tôi nữa, nhưng chớ nói với cậu ta vội, tôi sẽ gửi cho cậu ta một cách bất ngờ.     Hai người vui vẻ bắt tay nhau. Chỉ huy trưởng tiễn chân tham mưu trưởng ra tận cửa phòng.     Mấy tiếng kẻng bỗng vang lên. Khu rừng rộn ràng một lúc, rồi lại trở lại êm đềm huyền bí như cũ.   (1). Pháp mở chiến dịch “Ca-mi-gu” đánh chiếm Vĩnh Phúc, 8-8-1949.   Mời các bạn đón đọc Miền Đất Lạ của tác giả Nguyễn Sơn Tùng.