Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Nhân Chứng Cuối Cùng

VIẾT VỀ MỘT KHO CẤT GIỮ NỖI ĐAU CÒN TINH KHÔI Những nhân chứng cuối cùng (ấn bản lần đầu năm 1985) là quyển thứ hai trong loạt năm quyển sách Những giọng nói không tưởng (cùng với Chiến tranh không mang gương mặt phụ nữ -1983, Những cậu bé kẽm - 1991/ Lời nguyện cầu từ Chernobyl - 1997 và Thời second hand - 2013) đã mang đến cho nhà văn Belarus Svetlana Alexievich giải Nobel văn chương 2015. Trong một lần trả lời phỏng vấn báo chí Ba Lan năm 2013, nữ nhà văn cho biết ý tưởng viết quyển sách thứ hai này xuất phát từ những chuyến đi thực tế cho quyển sách đầu tiên Chiến tranh không mang gương mặt phụ nữ. Cuộc chiến cướp mất hàng chục triệu con người Liên Xô đã khiến nhiều ngôi làng Xô viết sau chiến tranh không còn bóng dáng đàn ông, và tại những ngôi nhà góa bụa đó, bà thường nghe được hai câu chuyện: một của người mẹ và một của đứa con. Nhờ đó, bà phát hiện: “còn một kho cất giữ nỗi đau hoàn toàn chưa được động tới, tinh khôi”: ký ức trẻ thơ. Người ta đã quen nghe nói về chiến tranh từ người lớn, nhưng chỉ những chuyện kể từ miệng trẻ em mới có thể bộc lộ hết sự điên rồ của chiến tranh, sự hung bạo phi nhân tính không gì có thể biện bạch. Trung thành với thể loại văn xuôi tư liệu của loạt Những giọng nói không tưởng, Svetlana Alexievich kể, trong Những nhân chứng cuối cùng bà ghi lại lời những “nhân vật trẻ em” khi họ đã trưởng thành. Đây là một công việc hết sức khó khăn. “Một giáo sư sử học thì nói những điều rất khác, rất ‘người lớn’ về chiến tranh. Nên cần nhiều thời gian, bốn hay năm giờ đồng hồ để lộ ra được diện mạo một cậu bé có mẹ bị quân Đức lôi ra khỏi nhà đem bắn. Để cậu bé có thể nhìn tận mắt mình: ‘Tại sao họ bắn mẹ. Mẹ đẹp như thế…’ Cần phải đạt tới được những chi tiết chân thực, tinh khôi, trẻ thơ đó. Vấn đề là gột sạch cái người lớn từ những chuyện kể này”. Và tác giả đã làm như thế với cả trăm câu chuyện trẻ thơ, được kể lại bởi những người mà khi Chiến tranh Vệ quốc nổ ra, họ mới từ 4, 5 đến 12 tuổi. Hơn 100 câu chuyện của những đứa bé sống ở Belarus - nằm sát Ba Lan, là nước đầu tiên trong Liên Xô bị phát xít Đức bất ngờ tấn công ngày 22-6-1941, đã đạt được mục đích mà Alexievich đặt ra: Nước mắt trẻ thơ, dẫu chỉ một giọt thôi, cũng nặng hơn vô vàn lý lẽ chiến tranh nào. Với lời nhắc nhở đó, trong một dịp đi Saint Petersburg năm 2017, tôi đã tìm đến Con đường Sống mà một số nhân vật trẻ em trong Những nhân chứng cuối cùng dã đi qua. Đây là tuyến đường vận chuyển duy nhất kéo dài từ đường vành đai Saint Petersburg tới hồ Ladoga, con đường huyết mạch nối thành phố khi đó còn mang tên Leningrad - với phần còn lại của nước Nga trong 900 ngày đêm bị phát xít Đức bao vây. Tuyến đường rất xanh, chạy qua những rừng bạch dương, rừng thông… nhưng mỗi ngọn cây lá cỏ đều nhắc tôi rằng hơn 70 năm trước, lá non cỏ tươi ở Leningrad từng không mọc nổi vì nạn đói, cả vỏ cây non cũng bị tước đi… Mỗi cây số ở hai bên đường đều được đánh dấu bằng cột mốc, ở cây số 12 có tượng đài nhắc nhở: “1,5 triệu tấn hàng hóa được chuyển qua cung đường này, 1,2 triệu người dân theo Con đường Sống này ra khỏi Leningard bị bao vây”. Ở cây số 40 là hiểu tượng vòng vây phong tỏa bị cắt đứt. Ở cây số 45 là bảo tàng Con đường Sống, nằm tại ngọn hải đăng Osinovets. Trong khuôn viên hảo tàng, có đặt một tảng đá to hướng ra hiển, trên đó ghi: “Tại dây sẽ xây dựng tượng đài kỷ niệm những anh hùng của Con đường Sống. Đối diện bảo tàng, bên kia đường là những cây bạch dương non được cột ruy băng đỏ, giữa khu rừng nhỏ đó cũng đặt một tảng đá có khắc hàng chữ: “Nơi đây sẽ đặt tượng đài kỷ niệm những người đã bỏ mình trong lòng hồ Ladoga”. Người Nga không quên những năm tháng nặng nề với số phận dân tộc mình. 72 năm sau khi chiến tranh hết thúc, những tượng đài vẫn được tiếp tục lưu dấu. Bởi những người cựu binh của cuộc Chiến tranh Vệ quốc đã già lắm rồi, họ đến dự cuộc duyệt binh chiến thắng mỗi năm một thưa dần. Con cháu họ cũng đã lớn, và ký ức của các nhân chứng ngày càng ít đi này đang dần phôi phai. Ở thế giới vẫn còn chiến tranh của chúng ta, những câu chuyện của các “nhân chứng cuối cùng” này, được gia cố thêm bằng những tượng đài kia, là một nỗ lực nhắc nhớ. Sau giải Nobel văn chương 2015, loạt sách Những giọng nói không tưởng đã được tái bản, có sửa chữa. Bản dịch này dựa trên quyển sách Những nhân chứng cuối cùng được tác giả hiệu đính và nhà xuất bản Vremya phát hành năm 2016. Xin trân trọng gửi tới độc giả bản dịch cùng lời cảm ơn chân thành đến chị Irina Anatolyevna Letiagina, cựu biên tập viên Nhà xuất bản Cầu vồng và Tiến bộ (Liên Xô cũ), đã giúp đỡ để chúng tôi hoàn thành bản dịch này. Phan Xuân Loan (11-2017) *** Seri Những Giọng Nói Không Tưởng, bao gồm: Chiến tranh không mang gương mặt phụ nữ, Những Nhân Chứng Cuối Cùng, Những cậu bé kẽm, Lời nguyện cầu Chernobyl Thời second hand *** Svetlana Alexievich (31/5/1948) là một nhà báo điều tra và nhà văn thể loại văn xuôi hiện thực. Bà là người Belarus nhưng viết báo, viết văn bằng tiếng Nga. Năm 2015, bà được trao giải Nobel Văn học vì “lối viết phức điệu, một tượng đài tưởng niệm sự thống khổ và lòng dũng cảm trong thời đại chúng ta”.  Ngoài Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ, Svetlana Alexievich còn viết nhiều sách về đề tài chiến tranh như Những nhân chứng cuối cùng (1985), Quan tài kẽm (1989), Tiếng vọng từ Chernobyl (1997)... Ngoài Nobel Văn chương, Svetlana Alexievich nhận nhiều giải thưởng khác như giải Leninsky Komsomol ở Nga, PEN Award, Peace Prize of the German Book Trade, Giải Médicis Essai (Pháp), giải National Book Critics Circle (Mỹ)… *** Tháng Sáu năm bốn mốt. Tôi nhớ lúc đó mình còn nhỏ lắm, nhưng tôi vẫn nhớ hết. Điều cuối cùng tôi nhớ từ cuộc sống hòa bình là câu chuyện cổ tích mẹ vẫn đọc hằng đêm. Câu chuyện yêu thích của tôi - Con cá vàng. Tôi luôn xin cá vàng điều gì đó: “Cá vàng ơi, cá vàng dễ thương ơi…” Và em gái tôi cũng vậy. Em nguyện cầu theo kiểu của mình: “Cá nhỏ, cá ngoan. Làm theo lời chị…” Chúng tôi xin nghỉ hè được về quê bà, với ba đi cùng. Ông vui như thế… Buổi sáng tôi thức giấc vì sợ. Bởi những tiếng động lạ nào đó… Mẹ và ba ngỡ chị em tôi còn say giấc, còn tôi nằm cạnh em gái và giả vờ ngủ. Tôi thấy ba hôn mẹ rất lâu, hôn lên mặt, lên tay, và tôi ngạc nhiên, trước đây ông chẳng bao giờ hôn mẹ như thế. Họ nắm tay nhau bước ra sân, tôi nhảy lại chỗ cửa sổ: Mẹ ôm lấy cổ ba, không muốn rời ông. Ông đẩy bà ra và chạy, còn bà đuổi theo và hét lên gì đó. Khi đó tôi cũng hét lên: “Ba! Ba!” Em gái và em trai Vasya thức giấc, em gái thấy tôi khóc, nó cũng la lên: “Ba ơi!” Tất cả chúng tôi lao ra ngoài hiên. “Ba ơi!” Ba nhìn chúng tôi, và tận bây giờ tôi vẫn nhớ, ông lấy tay che đầu và bước đi, thậm chí là bỏ chạy. Ông sợ ngoái đầu nhìn lại… Mặt trời soi chiếu gương mặt tôi. Ấm như thế. Và đến giờ tôi vẫn không tin là sáng hôm ấy ba tôi bước vào cuộc chiến. Tôi còn quá nhỏ, nhưng dường như vẫn nhận thức được đây là lần cuối tôi được nhìn thấy ông. Không bao giờ gặp lại. Tôi còn rất, rất nhỏ. Và như thế gắn liền với ký ức của tôi, chiến tranh - đó là khi không còn ba. Rồi về sau tôi còn nhớ: bầu trời tối om và máy bay đen sì. Cạnh con đường nhựa mẹ tôi nằm xoải tay. Chúng tôi đánh thức bà dậy, nhưng bà không buồn nhấc người lên. Những người lính quấn mẹ tôi vào tấm bạt và chôn bà trong cát, ngay chính ở chỗ đó. Chúng tôi la hét cầu xin: “Đừng chôn mẹ cháu trong cái hố đó. Mẹ cháu sẽ thức dậy và chúng cháu sẽ đi tiếp”. Những con bọ kềnh càng từ dưới cát bò lên… Tôi không thể nào tưởng tượng nổi mẹ sẽ sống cùng chúng dưới lòng đất. Sau này chị em tôi biết tìm bà thế nào, chúng tôi sẽ gặp lại nhau ra sao? Ai sẽ viết thư cho ba chúng tôi? Ai đó trong những người lính trẻ hỏi tôi: “Bé con, em tên gì?” Nhưng tôi quên rồi. “Cô bé, vậy họ em là gì? Mẹ em tên gì?” Tôi cũng không nhớ… Chị em tôi ngồi cạnh nấm mộ nhỏ của mẹ tới tận đêm, cho đến khi người ta kéo chúng tôi lên xe ngựa. Một chiếc xe ngựa thồ toàn trẻ em. Đưa chúng tôi đi là một ông già nào đó, ông gom lũ trẻ chúng tôi khắp dọc đường. Chúng tôi dừng lại ở một ngôi làng, và những người lạ mặt dẫn chúng tôi vào các nhà dân. Rồi tôi không nói chuyện với ai một thời gian dài. Tôi chỉ nhìn thôi. Sau đó, tôi nhớ, vào mùa hè. Mùa hè rực rỡ. Một người đàn bà lạ xoa đầu tôi. Tôi bắt đầu khóc. Và bắt đầu mở miệng. Tôi kể về mẹ và ba. Rằng ba đã chạy trốn chúng tôi, thậm chí ông còn không ngoái đầu lại. Và mẹ nằm sõng soài như thế nào. Và những con bọ cánh cứng đã bò trên cát ra sao. Người đàn bà xoa đầu tôi. Giây phút đó tôi chợt hiểu ra: Bà giống mẹ tôi. Mời các bạn đón đọc Những Nhân Chứng Cuối Cùng của tác giả Svetlana Alexievich.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chung Vô Diệm - Tô Chẩn
Sách Nói Chung Vô Diệm Chung Vô Diệm là Vương hậu của Tề Tuyên vương, quân chủ nước Tề thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Bà nổi tiếng là người đàn bà có tài, trí tuệ vô song, giúp chồng là Tề Tuyên vương quản lý rất tốt nước Tề. Tuy nhiên dung mạo của bà tương truyền là cực kì xấu xí, được mệnh danh là một trong Ngũ xú Trung Hoa. *** Một hôm, Tuyên Vương đang uống rượu giữa bầy cung nga xinh đẹp, vui chơi ở Tiệm Đài. Chung vô Diệm xin vào yết kiến, tự xưng là người con gái không lấy được chồng của nước Tề, nghe nói Tề Vương là người hiền minh, xin vào hậu cung lo việc quét tước cho vua. Các cung nữ nghe xong bụm miệng cười, Tuyên Vương nghe tâu cũng tức cười nhưng vì lòng hiếu kỳ, ra lệnh cho vào yết kiến. Tuyên Vương hỏi: "Xú phụ! Ngươi sao không chịu ở yên nơi quê hương mà tự tiến tới vua phải chăng ngươi có tài nghệ cao kì?". Vô Diệm đáp: "Không dám nói kì tài cao nghệ, chỉ học được thuật ẩn hình, xin vì đại vương hiến chút nghề mọn để giúp vui". Nói xong liền ẩn mình, không ai thấy nữa. Hôm sau Triệu Vương lại triệu đến làm trò. Vô Diệm không nói, chỉ trừng mắt, cắn răng, giơ tay, vỗ gối... làm 4 động tác và kêu liên tiếp 4 tiếng "hiểm". Tuyên Vương hỏi ý nghĩa ra sao? Vô Diệm nói rằng: "Nay nước Tề có sự uy hiếp của Tần ở phía Tây, Sở phía Nam, đó là nguy hiểm thứ nhất. Đại vương làm nhọc sức dân, hao tốn tiền của, lập Tiệm đài hoa lệ, đó là điều nguy hiểm thứ hai. Trong triều thì biếm người hiền, dùng kẻ nịnh, đó là điều nguy hiểm thứ ba. Đấng quân vương đam mê tửu sắc, không sửa sang chính trị trong nước, đó là điều nguy hiểm thứ tư. Thiếp trừng mắt vì đại vương xét cái biến phong hoả, cắn răng là thay đại vương trừng trị cái miệng chống can gián, giơ tay là vì đại vương đuổi kẻ bề tôi xàm nịnh, vỗ gối là xin đại vương dẹp bỏ cái đài ăn chơi." Tề Tuyên Vương nhận lời can gián, từ đó bỏ yến nhạc, phá Tiệm đài, trừ tôi nịnh, làm cho binh mã mạnh, kho lẫm đầy... lập Chung Vô Diệm làm Vương hậu, và với sự phụ tá của bà, nước Tề trở nên cường thịnh. *** Khi Chung hậu đã lên tới trên núi rồi, thấy binh nước Ngô, nước Hàn trùng trùng điệp điệp, thế chẳng khác như cọp như beo, còn binh mình thì ít ắt khó bề chống đương, bèn sanh ra một kế, lấy giấy cắt ra năm tấm hình nhân, thảy đều cưỡi ngựa cầm đao thương, chẳng khác như thiên thần ác sát. Làm xong tức thì niệm tiên chú, rồi thổi lên trên không, thấy nổi lên một trận cuồng phong, hoá ra nhân mã thiên thiên vạn vạn, thảy đều đi theo Chung hậu, đặng thỉnh lịnh giao phong. Đây nói về Trương Xa và Thần Lôi nguyên soái, bị Xuân vương trá bại, dẫn lên trên núi Lai Vô, theo đuổi đã cùng đường mà không thấy tăm thấy dạng, hai người còn đang bàn soạn, kế thấy quân kỳ bài báo rằng: - Phía nam có một toán quân, có hai cây cờ long phụng. Đạo Tông nói: - Bữa hôm qua Điền Nguyên đã bại trận, nay còn có binh nào ở đây? Hay cùng nó giao phong trừ cho xong mối hoạ. Trương Xa vâng lời, đốc quân hiệu tập đi thẳng tới phía Nam. Lúc ấy đạo binh Tề vừa đi đến, Chung hậu ngồi trên lưng ngựa ngó thấy tướng Ngô, mặt xanh tợ chàm, hai chòm lông mày đỏ lói, đầu đội mão con rái, mình mặc áo hồng bào, thời đã biết Thần Lôi nguyên soái bên nước Ngô, liền chỉ mặt nói rằng: - Đạo Tông! Như ngươi muốn sống thì phải trở về núi cho mau, kẻo uổng công tu luyện bấy chầy, nay xuống hồng trần mà bỏ hết. ... Mời các bạn đón đọc Chung Vô Diệm của tác giả Tô Chẩn.
Chỉ Còn Lại Tình Yêu - George Sand
Chỉ còn lại tình yêu là tác phẩm hay nhất của George sand, cùng thời Chỉ còn lại tình yêu là tác phẩm hay nhất của George Sand, cũng đồng thời là một trong những cuốn truyện hay nhất của văn học Pháp George Sand trước hết là một con người nổi loạn. Xuất thân quý tộc, học trường dòng, lấy chồng cũng thuộc tầng lớp quý tộc. Nhưng bà đã dứt khoát chối bỏ cái thế giới nhỏ hẹp, tù đọng của mình để dấn thân vào dòng đời ào ạt của tình yêu và sáng tạo. Bà đẹp. Một sắc đẹp "chết người". Đó cũng là một trong những lý do dẫn đến việc bà có rất nhiều người yêu. Năm 1822, cô gái Amantine - Aurore - Lucile Dupin - tên thật của George Sand, kết hôn với bá tước Casimir Dudevent, một địa chủ quý tộc vùng Nohant. Năm đó bà 18 tuổi. Năm sau sinh con đầu lòng. Và năm sau nữa, "cô gái một con" đã làm xiêu lòng viên quan tòa trẻ tuổi hòa hoa phong nhã Aurélien de Sèze trong một chuyến đi chơi vùng núi Pyrénées. Từ đó cho đến năm 1866, bà lên Paris, sống ly thân với chồng, và trải qua hơn hai chục mối tình khác. Người tình của bà, hầu hết là những nhân vật lừng danh trong giới tri thức: Prosper Mérimée, Alfred de Musset, cả hai đều là nhà văn lớn của nước Pháp; Dranz Lisze, nhà soạn nhạc nổi tiếng Hungary; Frédérich Chopin, nhạc sĩ thiên tài người Pháp gốc Ba Lan v.v... Theo nhiều nhà nghiên cứu, không phải tình yêu, tình bạn và sự giúp đỡ hào hiệp của bà không có một ảnh hưởng nhất định đối với tài năng sáng tạo của những người đó. Và ngược lại, họ cũng góp phần không nhỏ vào sự nghiệp của bà. Bà viết nhiều, từ năm 1827 đến 1876 là năm bà mất, tính ra đã có tới 54 tác phẩm ra đời. Không giống với phần lớn các tác giả đương thời, văn chương của bà giản dị, trong sáng, đầy vẻ đẹp thuần phác của con người hòa quyện trong vẻ đẹp thiên nhiên. Với những tác phẩm như Ao ma, Cô bé Fadette bà có thể được xếp vào những người đi đầu của nền văn học hiện thực mang tính chất xã hội sâu sắc của Pháp. Chỉ còn lại tình yêu là tác phẩm hay nhất của George Sand, cũng đồng thời là một trong những cuốn truyện hay nhất của văn học Pháp. Bà viết cuốn này năm 1832, lúc mới 28 tuổi, đang yêu say đắm Jules Sandeau, chủ nhiệm một tờ tạp chí lớn ở Paris. Bút hiệu George Sand chính thức ra đời từ cuốn này và là một kỷ niệm của mối tình với Jules Sandeau. Một chuyện tình. Hay nói cho thật đúng là cuốn truyện viết về chung thủy, trung hậu và sự lừa lọc, phản bội trong tình yêu. Indiana, nhận vật chính là một cô gái xinh đẹp, ngây thơ trong trắng như đóa hoa huệ mới nở buổi sớm mai. Nàng khao khát tình yêu và đã rơi vào bàn tay một tên sở khanh độc ác. Nếu cuối cùng nàng thoát khỏi sự sa đọa và lấy lại được niềm vui sống là nhờ có tình yêu chân chính của một chàng trai vốn đã yêu nàng, sẵn sàng vì nàng mà hy sinh hạnh phúc của mình. Từ khi tác phẩm ra đời cho đến nay, hơn một thế kỷ đã trôi qua. Tuy vậy, ta vẫn gặp trong Chỉ còn lại tình yêu những nhân vật, những tình huống, những trạng thái tâm lý hết sức gần gũi. Điều đó chứng tỏ sức sống bền chắc trong tư tưởng, tình cảm, và bút pháp của George Sand. Nhưng đồng thời cũng cho ta thấy rằng tình yêu, vẫn là cái gì muôn thưở, không bao giờ cũ đối với con người. NHÀ XUẤT BẢN PHỤ NỮ *** George Sand, tên thật là Amantine Aurore Lucile Dupin, sinh ngày 1/7/1804, mất ngày 8/6/1876. Bà là tiểu thuyết gia nổi tiếng người Pháp. Trong hơn bảy mươi năm cuộc đời mình, nữ văn sĩ thiên tài đã sống một cuộc sống mãnh liệt, hết sức phóng túng nhưng cũng đầy sáng tạo. Bà là một ngoại lệ của văn học Pháp thế kỉ 19, một cá tính hấp dẫn khiến ngưới ta khó lòng cưỡng nổi. Cha của George Sand, Maurice Dupin là một người thuộc dòng dõi quý tộc, còn mẹ của bà, Sophie-Victoire Delaborde xuất thân từ tầng lớp bình dân. Cha mất sớm, George Sand sống với bà, rồi sau đó vào tu viện. Năm 1821, ở tuổi 17, bà kết hôn với Nam tước Casimir Dudevant và có hai con là Maurice (1823–1889) và Solange (1828–1899). Năm 1835, cuộc hôn nhân này tan vỡ và George Sand có nhiều mối tình khác với không ít các nhân vật nổi tiếng, trong đó có Alfred de Musset, nhà thơ lớn của Pháp và Frédéric Chopin, nhạc sĩ thiên tài Ba Lan. Bà cũng là bạn thân của nhà văn Gustave Flaubert. Tác giả của Bà Bovary từng nhận xét: "Phải quen nàng như ta đã từng quen mới biết được hết thảy những gì là nữ tính trong trái tim con người vĩ đại này." George Sand mất tại Nohant ngày 8 tháng 6 năm 1876. Tưởng nhớ đến bà, Victor Hugo viết: Ta khóc thương một người phụ nữ mất đi, ta suy tôn một nữ thánh bất tử. *** Gửi J. Nero Tháng Giêng năm ngoái, vào một ngày ấm áp và nắng đẹp, tôi đi Saint Paul để lang thang trong những khu rừng hoang vắng trên đảo Bourbon và mơ mộng. Ở đây, tôi nghĩ đến bạn, bạn của tôi ạ. Những khu rừng nguyên thủy ấy vẫn giữ cho tôi kỷ niệm về những chuyến đi và những công trình nghiên cứu của bạn; đất vẫn lưu giữ dấu chân bạn. Tôi lại tìm thấy ở khắp nơi những kỳ quan mà tôi đã đọc trong những chuyện kể thần diệu của bạn và xưa kia đã làm tôi say mê, và để cùng nhau chiêm ngưỡng những kỳ quan đó, tôi lại kêu gọi bạn ở châu Âu già lão, nơi bạn sống mai danh ẩn tích một cách nhũn nhặn và êm đềm. Một con người hạnh phúc, không một người bạn quỷ quyệt nào sẽ phơi bày trước thế giới trí tuệ và tài năng củ bạn. Tôi đến một chỗ hoang vắng ở khu vực cao nhất đảo, được gọi là Mũi Khét của Saint Paul. ... Mời các bạn đón đọc Chỉ Còn Lại Tình Yêu của tác giả George Sand.
Mang Xuống Tuyền Đài - John Grisham
Nguyên tác: The Chamber Tác giả: John Grisham Dịch giả: Hoàng Hải Thủy Làng Văn, Canada, xuất bản 1998 Truyện The Chamber – Mang Xuống Tuyền Ðài – làm tôi cảm động. Truyện tả tình gia đình, tình ông cháu, tình cô cháu. Truyện xẩy ra trong một tỉnh miền Nam Hoa Kỳ, nơi trước năm 1960 có nạn kỳ thị Ðen Trắng rất nặng. Ông già Cayhall bị giam trong tù, bị xử án tử hình vì tội đặt bom làm chết người, án tử sắp được thi hành. Adam, một luật sư trẻ tuổi vừa ra trường, cháu nội của ông già Cayhall, về tỉnh này để cứu ông nội khỏi bị người ta giết. Ông bố của Adam tự tử chết, bà mẹ của Adam đi lấy chồng khác, Adam có bà cô ruột là cô Lee ở thành phố có nhà tù giam ông già Cayhall. Cô Lee Cayhall sống ly thân với ông chồng chủ ngân hàng, vợ chồng cô có anh con trai nhưng anh này là dân Gay, tiếng Sài Gòn xưa gọi là Pê Ðê, anh sang Hà-lan làm bồi nhà hàng và sống như vợ chồng với một gã đàn ông. John Grisham không tả rõ, tôi đọc và dịch The Chamber, tôi thấy và tôi cảm động vì mối tình của Cô Cháu Lee- Adam. Cô Lee muốn có anh con đàng hoàng như Luật sư Adam, Adam cô đơn ao ước có bà mẹ đẹp, hiền như cô Lee. Mời quí vị đọc đoạn truyện tả khi Adam còn nhỏ, ông bố Adam tự tử, cô Lee đến dự tang lễ và thăm chị dâu và hai cháu: Adam cháu trai, Carmen cháu gái. *** Sau hai mươi ba năm, Adam Hall trở lại nơi ra đời. Chàng không thấy xúc động mà cũng chẳng cảm thấy được hân hoan chào đón hay bị xua đuổi. Tuy không có gì để ngán sợ nhưng Adam vẫn lái xe với tốc độ hết sức khiêm tốn, để cho tất cả những xe chạy sau qua mặt. Con đường chàng đi dài như vô tận giữa những cánh đồng mênh mông của vùng đồng bằng sông Mississippi. Trên một quãng đường dài 5 cây số, xe chàng chạy cùng chiều với một con dê lướt mình trên đồng cỏ mượt, qua ấp Walls, thị trấn thứ nhất đáng gọi là thị trấn trên xa lộ 61. Qua nghiên cứu, chàng biết con đường này là một trong những trục lộ chính mà hàng trăm ngàn người da đen nghèo khổ đã đi từ miền Nam lên miền Bắc, đến những thành phố Memphis, St. Louis, Chicago, Detroit…, những nơi họ có thể tìm được việc làm và nơi cư ngụ. Chính ở những dãy nhà tồi tàn, lụp xụp, những tiệm rượu đầy màu sắc dọc theo xa lộ này mà nhạc Blues đã ra đời và phát triển lên miền Bắc. Tại đây nó hoà đồng với nhạc Thánh ca và nhạc Đồng quê để rồi cả ba kết hợp và sản sinh ra nhạc Rock and Roll. Vừa lái xe, Adam vừa nghe băng nhạc của ban nhạc Muddy Waters khi xe chàng chạy ngang quận Tunica, một quận lị có tiếng nghèo nhất nước. Âm nhạc không làm chàng dễ chịu hơn được bao nhiêu. Sáng nay ở nhà cô Lee, chàng không ăn sáng, nói rằng không đói nhưng thực ra gan ruột chàng như thắt lại, không thể ăn được. Càng đến gần nhà tù Parchman, gan ruột chàng càng thắt chặt hơn. Rồi cuối cùng Adam cũng đến nơi phải đến. Trông bên ngoài không có vẻ gì là nhà tù. Không thấy có những bức tường cao, những hàng rào thép gai, vọng gác, lính canh, không có những đám tù nhân hung ác hộc lên, hú lên khi có người lạ đi ngoài hàng rào. Chỉ có hàng chữ xi-măng đắp trên vòm cổng: “Khám đường bang Mississippi”. ... Mời các bạn đón đọc Mang Xuống Tuyền Đài của tác giả John Grisham.
Vết Chân Tự Ngã Trên Đường Về Không - Nhụy Nguyên
Cõi nhân gian âu là sự phóng chiếu của tâm thức nghiệp báo, song cũng là sự hiện tướng trong màn hình chân như. Khoa học hiện đại thật sự ngạc nhiên khi nhìn thấy lỗ hổng thời gian và đang dần hoài nghi về không gian, như chính thời-không từng xuất hiện và biến mất trong giấc mơ qua sự thể nghiệm ở mỗi chúng ta. Trần ai huyễn mộng - chân lý này phải bậc triệt ngộ mới thể nhập thông qua thiền-tuệ, ngoài ra không cách gì chứng biết dẫu khoa học có phát triển đến ngưỡng như những nền văn minhtrước trái đất từng hoại diệt chăng nữa. Con người sinh ra hữu ý hay vô tình đều đã nương vào ánh sáng mặt trời mà lớn lên như chính niềm ân sủng vô biên của Phật pháp. Đức Phật là bậc thấu triệt quy luật vận hành của vũ trụ nhân sinh và thuyết lại y nguyên không chút sáng tạo. Mà trước hết Kinh điển luôn dạy những căn cốt của triết lý nhân sinh. Ấy là nhân quả báo ứng tơ hào không sai, luân hồi lục đạo xoay vần theo nghiệp báo; ai nỗ lực hành pháp đúng theo lộ trình Giới - Định - Tuệ, dẫu họ ở địa vị thấp hèn nhất vẫn đồng cơ hội chạm đến chiếc chìa khóa mở Kho tàng Phước-Trí vốn sẵn nơi Tâm; xem như bảo vệ thành công Luận án kiếp người. Trong nỗ lực bước đầu chập chững hành theo Kinh điển, vẫn biết những gì chia sẻ ra trong cuốn sách nhỏ này, xét riêng về bản thân là tự chướng ngại và đang tiếp tục làm tổn thương người khác. Với lòng chân thành hết mực, cúi mong quý bạn đọc thứ tha cho những dấu vết tự ngã sâu nặng của tác giả ẩn hiện trong từng dòng chữ lẽ ra im lặng vẫn hơn. *** Nhà văn Nhụy Nguyên tên thật là Trần Nguyên Sỹ Quê quán: Phù Lưu - Lộc Hà - Hà Tĩnh Hiện công tác tại Tạp chí Sông Hương Tác giả từng viết đều ở các thể loại: thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, tùy bút, tiểu luận. *** Thời mạt quá trọng nghi lễ, khiến cho việc hành chuyên môn giảm xuống. Không ai muốn phủ nhận việc thi hành một số lễ trước lúc người quá cố về chín suối. Người có đạo lực, họ có thể hướng dẫn linh hồn vững tin bước vào con đường sáng ở kiếp sau. Việc tụng kinh sẽ động viên hương linh thêm phần chính niệm. Đến là bậc chứng Thành nếu siêu độ thì người được nhận cũng chỉ sinh lên cõi trời Đao Lợi là cùng. Như tôi chưa hề soi thấu kiếp mình, việc tụng kinh sám hối giùm ai với tâm vọng động ngã chấp không chừng lại khiến linh hồn thêm phần hoang mang lầm lạc. Suốt đời tâm hiểm, lúc chết đâu dễ “nhờ ai” có thể giải nghiệp! Có chăng ở phút hấp hối, nếu họ nhận diện lỗi lầm, hướng nương theo Hương bát nhã, tịnh tâm niệm Phật và được nhiều người cùng hộ niệm may ra Phật lực hút khỏi Ta bà. Ở Tây Tạng hiện vẫn tồn tại tục điểu táng, có khi họ chặt khúc người chết cho chim ăn; ở sông Hằng có tục thủy táng (để người tu thấy được sự vô thường của xác thân). Ngay trong nước, cùng sự chết song ở một số nơi thuộc miền Bắc thường đưa đám trong vòng ba ngày kể cả ngày mất, còn ở phía Nam có nơi người chết để vài tuần, thối rữa… trên mặt đất! Phật giáo khai thị chí lý điều này: chỉ cần thật yên tĩnh trước, trong và sau lúc mất ít nhất 8 tiếng, sau đó mới đụng chạm đến người quá cố; tốt hơn thì trước lúc mất khuyên họ đừng tơ vương cõi trần quyến thuộc mà trụ tâm niệm Phật cầu vãng sinh Cực lạc. Làm trọn điều này còn lo chi đến ngày giờ tốt xấu. Sao khổ chủ đợi cho kỳ được ngày giờ tốt nhất mới táng người quá cố thân yêu, trong lúc người dương hoàn toàn có thể giúp bằng cách làm thật nhiều việc thiện hồi hướng cho người âm. Đó là điều có ích nhất mà họ sẽ nhận được từ chúng ta. Trong xã hội phong kiến Ấn Độ, nguyên thủy Phật không đề xướng đi cúng mà chỉ đến giảng pháp, thụ trai tại gia nếu được mời. Phát sinh việc này cũng chưa hẳn sai.  ... Mời các bạn đón đọc Vết Chân Tự Ngã Trên Đường Về Không của tác giả Nhụy Nguyên.