Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kho Đựng Nỗi Đau

“Chỉ cần có thể truy ngược dòng dõi lên được bốn đời, ít gia đình nào không cho rằng mình có các quyền đối với một tước hiệu mơ ngủ nào đó, hoặc đối với lâu đài hay khu đất nào đó, những quyền chắc hẳn khó lòng đứng vững trước một phiên tòa nhưng chúng ve vuốt trí tưởng tượng và làm ngắn lại các giờ khắc vô công rồi nghề. Các quyền của một con người đối với quá khứ chính anh ta còn chập chờn hơn nhiều.”   R. L. Stevenson, Một chương về những giấc mơ *** Patrick Modiano là Nhà văn Pháp với hơn 30 tác phẩm bao gồm tiểu thuyết, kịch bản phim,... các tác phẩm của ông đã được dịch 36 thứ tiếng trên thế giới, đạt nhiều giải thưởng danh tiếng, phải kể đến giải Nobel Văn học năm 2014. "Lối viết văn của Modiano rất dễ đọc. Các tác phẩm của ông trông có vẻ đơn giản bởi vì nó tinh tế, thẳng thắn, đơn giản và rõ ràng. Bạn mở sách đọc một trang, và sẽ nhận ra ngay là sách của ông ta, rất thẳng thắn, câu văn ngắn gọn, không cầu kỳ - nhưng nó rất là tinh vi trong cách đơn giản của nó."_ Bí thư thường trực của học viện Nobel Peter Englund Để từ đó người đọc có thể thấy được văn chương của Patick Modiano là văn chương của ký ức, bất định tương lai. *** Kho đựng nỗi đau (tựa gốc: Remise de peine, viết năm 1988), Hoa của phế tích (tựa gốc: Fleurs de ruine, 1991), Con chó mùa xuân (tựa gốc: Chien de printemps, 1993) được nhà văn Patrick Modiano (giải Nobel Văn học, 2014) hoàn thành trong ba mốc thời gian khác nhau, nhưng mang đầy đủ những nét đặc thù của không khí, phong cách văn chương ông. Kho đựng nỗi đau lần đầu tiên bức chân dung thời thơ ấu của chú bé Patrick cùng em trai sống trong căn hộ của những diễn viên xiếc ở vùng ngoại vi Paris. Hoa của phế tích là cuộc lần theo manh mối về một vụ tự sát với lý do bí hiểm của đôi vợ chồng kỹ sư trẻ tuổi vào một ngày tháng 3 năm 1933. Còn Con chó mùa xuân là cuộc dò tìm của một người viết tiểu thuyết trẻ tuổi với nỗ lực phục dựng bản tiểu sử của Jasen - một nhiếp ảnh gia sống và ghi chép về Paris nhưng căn cước cá nhân lại nhiều điểm mù bởi dư chấn của thời Đức tạm chiếm… Ba cuốn tiểu thuyết này là dẫn chứng xuất sắc, thuyết phục cho điều mà Patrick Modiano viết trong diễn từ nhận giải Nobel Văn học vào năm 2014: “Người ta có thể lạc lối hoặc biến mất trong một đô thị. Người ta thậm chí có thể thay đổi căn cước và sống một đời khác. Người ta có thể lao mình vào một cuộc điều tra rất dài lâu để tìm lại những dấu vết của một ai đó, và lúc khởi đầu chỉ có một hoặc hai địa chỉ trong một khu phố đã mất biệt. Chỉ dấu ngắn ngủi đôi khi hiện lên trên những phiếu tra cứu luôn luôn tìm được một âm hưởng trong tôi: Nơi cư trú cuối cùng được biết.” Trong lần ấn hành ba tiểu thuyết này, Phanbook cũng phát hành hộp giấy đựng sách Patrick Modiano với thiết kế đẹp, trang nhã dành cho độc giả sưu tầm đủ ba tác phẩm. *** VỀ NHÀ VĂN PATRICK MODIANO Patrick Modiano là nhà văn người Pháp, sinh năm 1945. Ông đạt giải Nobel văn học năm 2014. Nhiều tác phẩm của Modiano đã được in tại Việt Nam. Ba tác phẩm của Patrick Modiano do Phanbook ấn hành: Kho đựng nỗi đau, Hoa của phế tích, Con chó mùa xuân, đều do Hoàng Lam Vân dịch. *** LỜI GIỚI THIỆU Tôi chưa hai mươi khi đọc Remise de peine lần đầu. Việc đọc này cũng ít nhiều xảy ra cùng thời điểm của phần đầu câu chuyện kết nối tôi với những cuốn sách của Modiano. Tôi không nhớ cuốn đầu tiên là cuốn nào. Có thể là Voyage de noces, Quartier Perdu, Fleurs de ruines, Les boulevards de Ceinture. Tôi không nhớ nữa. Nhưng tôi nhớ đó là một trong mấy cuốn này. Và cũng nhớ anh tôi, người đã mua một cuốn sách bỏ túi gần như tình cờ, một buổi sáng, trong quán Hachette của nhà ga Juvisy, vì anh đã quên ở nhà cái cuốn mà anh định đọc trong lúc ngồi tàu đến trường Đại học Paris, nơi anh theo ngành Luật. Tôi nhớ là anh đã ào vào phòng tôi, tôi nhớ những bức tường màu vàng nhạt treo một tấm poster mà hình dung lại tôi thấy đẫm chất Modiano đến kỳ lạ, mặt tiền bí hiểm bị các bụi gai cào xước và các dây thường xuân bám chặt của một biệt thự trùng với những gì người ta thường tưởng tượng về các biệt thự ngoại ô Paris với một cửa sổ sáng đèn, cổng cao và thấp thoáng một khu vườn, những bóng người đây đó, những dấu vết, những mảnh đời bí hiểm, một hình ảnh như vừa bước thẳng từ chính cuốn sách đó, nơi mà sự phân bố địa lý ít chất của một Paris bấp bênh rất đặc trưng cho tác giả, nhưng nhiều chất của những ngoại ô xa, “chưa phải là ngoại ô như bây giờ”, những thị trấn nhỏ yên tĩnh và giàu có lạc lõng sát cạnh nông thôn mà tôi thoáng thấy vào những dịp đi thi dương cầm ở rìa hạt Essonne. Tôi nhớ anh tôi chia cho tôi cuốn sách và nói “Đọc cái này đi, em sẽ thích đấy” và tôi nghe lời, để ngay lập tức bị hút vào đó và tiếp theo chỉ còn biết thán phục. Đương nhiên, tất cả những gì của Modiano đều có hết ở đây: các tên phố, danh bạ, địa tầng thời gian chồng chất, những hình bóng mờ ám, những vụ mất tích, quá khứ xấu xa, gợi nhớ thời hợp tác và phố Lauriston, những cuộc điều tra mà tưởng như đi lang thang, những mối giao du khả nghi, nỗi cô đơn, sự bỏ bê, một ông bố lâu lâu xuất hiện sau các hoạt động và các chuyến công tác đáng ngờ, người mẹ diễn viên thấp thoáng đâu đó sau các buổi diễn, sự thiếu vắng của phả hệ, cách viết kín đáo và thanh lịch, nỗi sợ và niềm đau giữ lại trong lòng, những vùng chưa tỏ và những hố đen, tóm lại là tất cả cái huyền thoại quý báu và duy nhất đó, trong một văn phong có âm điệu đặc sắc, buồn bã và dịu nhẹ, nhưng lại giản dị, không mang tính cách rõ ràng, không gây ấn tượng, không có vẻ phong phú. Những ngày tiếp theo, tôi đến thư viện và ngấu nghiến tất cả tiểu thuyết ghi tên Modiano. Rồi mùa hạ giá trong khu Saint-Michel và tiền tiết kiệm có được từ nhiều tháng nhịn ăn đã cho phép tôi bổ sung và bằng cách ấy mà tự cập nhật: ngồi rình những đầu sách mới, hầu như hàng năm, những dịp mà từ đấy tôi không bao giờ để lỡ, không bao giờ khiến tôi thất vọng, ngược lại, còn khiến tôi có cảm giác là cứ cuốn sách này ra thì nỗi bồn chồn đợi cuốn tiếp theo còn tăng hơn nữa, giống như khao khát nhấc lên tấm màn tưởng đã nhấc được ở từng cuốn, nhưng cuối cùng để lộ ra những tấm màn khác, và lại phải lao vào nhấc lên mà không chắc mọi sự có rõ ra hay lớp sương mù kia còn dày thêm. Tôi nhớ những tháng ngày đọc sách đó như một thời kỳ của kinh ngạc, như thể được ban phép màu. Đó là quãng thời gian đầu tiên của tôi ở Paris, tôi học không xa rừng Boulogne, thường lai vãng các hiệu sách, các rạp chiếu phim nghệ thuật và thử nghiệm trong khu La-tinh và Saint-Germain-des-Pres, thỉnh thoảng cũng đến nhà bạn nằm trong những con phố yên tĩnh của ngoại ô có nhiều biệt thự và sang trọng hơn khu phố có căn nhà của gia đình tôi mà cứ cuối tuần tôi lại ngồi tàu D để trở về. Tôi lớn lên cùng với những cuốn sách đó, tôi bước đi trong bối cảnh của chúng, tôi là một trong những nhân vật của chúng, hoặc ít ra cũng là một người anh em hay cháu chắt của các nhân vật. Tất cả trộn với nhau, xuyên vào nhau, cuộc đời của chính tôi và những cuốn sách bao trùm nó, tái tạo nó, uốn cong nó, trong một kiểu lẫn lộn giữa thực và ảo. Tất cả đều hòa hợp: nơi chốn, cảm giác đang sống cùng một lúc hai cuộc đời, những chuyến đi dạo bên dưới những tòa nhà cao tầng có cửa sổ sáng đèn, những cái tên ghi trong sảnh chính, tất cả được chiếu bởi một thứ ánh sáng rất đặc biệt, của một hiện tại đầy ứ quá khứ và bị đẩy vào tương lai, của một hiện diện bấp bênh, mờ ảo. Sự phân chia địa lý trong tâm tư tôi vận động, biến đổi, chồng chất lên nhau những lãnh thổ gốc, hoàn toàn ngoại biên, nằm ở ngoại ô, và những lãnh thổ nơi con người tôi lớn lên, những lãnh thổ được các tiểu thuyết của Modiano vẽ lại, chỉnh sửa và sáng tác thêm. Tôi rình rập khắp nơi cái dáng thanh cao của ông, tôi - kẻ chỉ chú ý đến tác phẩm chứ không đến tác giả, tôi - kẻ thường không quan tâm đến những ai đứng đằng sau hay bên trong những cuốn sách mà tôi yêu, ở nơi nào tôi cũng tưởng tượng ông sẽ hiện ra, quanh vườn Luxembourg, trên đại lộ Victor Hugo, dọc theo những hồ nước của rừng Boulogne, nhưng điều ấy không bao giờ xảy ra, chỉ mới cách đây vài hôm, khi vừa bắt đầu viết những dòng này, tôi bắt gặp ông giữa những kệ sách của cửa hàng Bon Marché, vừa rõ ràng, vừa xa xôi, mặc áo mưa màu be, giống như một cái nháy mắt, một sự ra hiệu, một trùng hợp kỳ lạ, “kỳ cục”, có lẽ ông sẽ nói như thế. Đương nhiên tôi không lại gần ông, không dám. Nhưng dù tôi có dám hay không thì huyễn tưởng cũng cho tôi biết đủ về tầm quan trọng của ông trong mắt tôi, sự hâm mộ mà tôi dành cho ông và tôn ông ngang hàng với những huyền thoại của cá nhân tôi. Lùi lại một chút, tôi ước tính bao nhiêu những kỷ niệm có thật về thời kỳ đầu ở Paris đã bị thế chỗ bởi những cuốn sách mà tôi ngấu nghiến lúc đó, hai “câu chuyện” đó, một thì xa xôi nhưng thuộc về tôi trọn vẹn, một thì nằm trong những trang sách mà tôi không phải là tác giả và chẳng thực sự kể gì về tôi, cả hai từ lâu đã lẫn lộn với nhau. Đó chính là sức mạnh của những tác phẩm đã luồn lách vào bên trong bạn. Chúng quyện lấy đời bạn đến mức không sao gỡ ra nổi. Những ngày này đọc lại Remise de peine, hiện ra trước mắt tôi tất cả những thứ đã rèn nên tính cách con người tôi, và từ đó tác động đến cả quang cảnh, nội dung, chất liệu của những gì tôi viết, dù rằng điều này chỉ hiển nhiên với tôi, dù rằng những dấu vết về sự ảnh hưởng đó hầu như là vô hình, hoặc ngầm đến mức không ai nhìn thấy. Ấy thế mà nó mang tính nền tảng, và bên cạnh Annie Arnaux, Raymond Carver hay Henri Calet (vì những lý do và dưới những biểu hiện khác) các cuốn sách của Modiano được xếp một vị trí đặc biệt, giữa những tác phẩm có tầm quan trọng với tôi: các tác giả đã làm tôi chao đảo, chỉnh sửa tôi, chuyển biến tôi vừa trong tư cách nhà văn lẫn con người. Đọc lại Remise de peine hai mươi năm sau ngày phát hiện ra nó, thế là bởi mối bận tâm phải đuổi kịp sự chậm trễ không tài nào đuổi kịp (ai?, cái gì?, để chống lại cảm giác nào về sự bịp bợm?, ấn tượng gì về tính bất hợp pháp?) tôi không bao giờ mất thời gian đọc lại những tác phẩm và những tác giả đã tạo nên tôi, dù ký ức tôi ngắn ngủi và lỗ chỗ, đến độ mà tôi thường xuyên có cảm giác rằng nó càng xóa đi những gì đã có trước đó thì tôi càng tiến về phía trước mà vẫn không ngừng bị ám ảnh bởi những gì đã mất, cái hố đen vĩnh viễn đó cứ sâu thêm mãi, tác động tới tôi, bao nhiêu dấu vết mà cuốn sách này từng để lại, những dấu vết vừa rõ ràng vừa mờ ảo, như nó phải thế mỗi khi người ta nhắc tới Modiano: ngôi nhà nơi mà ông và em trai bị cha mẹ bỏ mặc, mặt tiền phủ đầy dây thường xuân, và cả những con phố cạnh đó, những người phụ nữ đi đi về về, băng bạn cùng trường, lâu đài bỏ hoang của hầu tước Caussade, gánh xiếc và tai nạn đu bay, một chiếc xe hơi của Mỹ và một áo vét kiểu cao bồi, tên của một hộp đêm, những lần ông bố xuất hiện, những xưởng chữa xe ở Paris, đám người lớn mà cuộc sống và hoạt động chỉ được nhìn thấy qua những thông số, những giấy tờ rời rạc, những dấu hiệu không đầy đủ và thường không thể nào đoán được. Nhưng trên hết, tất cả cảm giác bơ vơ sờ sợ, nỗi bồn chồn âm ỉ, thậm chí không thực, mà tôi cho là đồng nghĩa với thời thơ ấu như tôi cảm nhận, được xây trên cát, thường xuyên tuột qua các kẽ tay, không rõ ràng, không có đường viền và trọng tâm, bề mặt bấp bênh, người ta bước đi như bị mù, chỉ giữ được những mảnh vụn, trong sự lẫn lộn giữa có và không, để mặc bạn bước ra tuổi thiếu niên trong sự chông chênh lơ mơ, không căn cước chẳng cội nguồn, như con chó lạc mà không có vòng đeo cổ. Cảm giác này còn được Modiano xác định trong một tác phẩm khác nữa và có vẻ hoàn toàn thích hợp với Remise de peine, tạo cho nó phạm vi và quá trình “Những sự kiện mà tôi sẽ gợi lại cho đến năm hai mươi mốt tuổi, tôi đã sống một cách không che đậy, cách thức này bao gồm việc cho di chuyển các bối cảnh nền, còn các diễn viên đứng im trên sân khấu trường quay. Tôi muốn giải thích cái cảm giác mà nhiều người khác từng có trước tôi: mọi thứ nối tiếp nhau chuyển động không che đậy và tôi chưa thể sống đời mình”. Cũng chính dưới ánh sáng của những tác phẩm tiếp theo, đặc biệt là Un pedigree (đang mời chúng ta làm sáng tỏ), mà Remise de peine lại mang một sắc vẻ đặc biệt giữa các tác phẩm của Modiano, một gam màu độc nhất vô nhị. Đầu tiên bởi vì đó là một trong những tiểu thuyết hiếm hoi đã thẳng thừng tự nhận là tự truyện, hay cho ảo tưởng như thế, Modiano có vẻ tự đặt mình lên sân khấu với tên thật, (mỗi khi có dịp lại biến thành “Patoche” cho thân mật, gần gũi hơn), để vẽ lại một cách vừa chính xác vừa đáng ngờ, rất đặc trưng cho hình thức kỷ niệm, một giai đoạn thơ ấu mà chúng ta đã biết là của ông, di chuyển giữa ký túc xá và ngôi nhà ở nhờ, trong những thời gian biểu kỳ bí và một dĩ vãng mờ ám, bà mẹ diễn viên và ông bố có các hoạt động, quá khứ và các mối giao du tất cả đều dính dáng tới vũng bùn thời Đức chiếm đóng, chờ đợi được các vị phụ huynh liên lạc và đón về nhà vài ngày, vài tuần hay vài tháng để rồi lại gửi đến chỗ khác, cho những người khác. Tóm lại, tất cả những chuyện này có xác thực hay không, điều gây xúc động ở đây chính là hiệu quả của việc chiếu sáng, câu chuyện đã được tháo chốt, lột trần, đập ngay vào mắt, đã khiến ta rung động. Và cùng một lúc với mạch tự truyện vẫn được dệt lên bởi một sự lộn xộn kinh hoàng, biết bao ngờ vực và các câu hỏi. Như để đào sâu hơn điều bí mật mà tác giả đang ra vẻ giải tỏa. Như thể là, tận sâu trong cuộc tìm kiếm của mình, Modiano cho thấy sự vắng bóng của một chuyển đổi mang tính hư cấu, hoặc vẻ ngoài của nó, sự trung thành, thật hay bịa, không là bằng chứng cho một cái gì cả, không bảo đảm một sự thật rõ ràng hay một lời giải cho những điều ngờ vực, nhập nhằng nước đôi. Sau đó chính nhờ bám chặt tuổi thơ cùng những cảm nhận và sự hoảng loạn đeo dính mà Modiano có vẻ đã thuật lại những kỷ niệm này. Những mảnh vụn: vừa là những mảnh vụn của một ký ức rách mướp, không đầy đủ, vừa là những mảnh vụn của thời thơ ấu giữa đám người lớn, nghe được ở khe cửa, khoảng cách giữa các tầng nơi mỗi phòng mở ra rồi đóng lại, chỉ cho phép cảm nhận sự việc qua những tiếng vọng đinh tai, những tiếng vỡ biến dạng, những tiếng nói chuyện thì thào và những tiếng động của thìa dĩa, những tiếng vang của xe hơi đang rời ra tít xa. Những mảnh vụn cuộc sống của đám người lớn chỉ được nhìn thấy qua vẻ ngoài những bí mật và những được thua, như là chúng ở trong một bộ phim vô tuyến bị mất tiếng và ta chỉ có thể đoán động tác của các nhân vật, mà không biết hoàn cảnh, đầu đuôi, và cả căn cước chính xác của họ. Trong trò chơi domino, thuyền buồm thú vị mà văn chương Modiano mời ta tham gia này, tôi luôn bám vào Un pedigree (Một phả hệ) ngay từ khi tác phẩm ra đời, để tiếp sức cho tác giả trong cuộc điều tra của chính ông, lồng giọng của tôi vào đó. Như kiểu điều tra một cuộc điều tra. Điều mà mỗi độc giả đều làm một cách bí mật thông qua những cuốn sách và trong nhiều năm trời, tôi tin là thế. Thời kỳ từng được nhắc đến ở Remise de peine chiếm khoảng một trang trong tiểu thuyết này. “Giữa Jouyuen Josas và Paris, bí ẩn của một vùng ngoại ô mà lúc đó chưa là ngoại ô. Lâu đài tàn phế, và trước mắt anh, đồng cỏ mọc cao nơi chúng tôi từng thả diều ngày nào. Rừng Metz. Và bánh xe khổng lồ của máy chuyển nước thị trấn Marly quay đều trong âm thanh và sự tươi mát như thác.” “Những di chuyển đi về của những người đàn bà kỳ lạ (…) trong số đó có Zina Rachewsky, Suzanne Baulé, hay còn gọi là Frede, giám đốc của Carroll’s, một hộp đêm phố Ponthieu, và một Rose-Marie Krawell nào đó, chủ một khách sạn phố Vieux-Colombier, và thường lái xe hơi Mỹ. Họ mặc áo vét và đi giày đàn ông, và Frede, còn đeo cả cà-vạt (…) Một tối (…) cha tôi (…) hỏi tôi sau này muốn làm nghề gì. Tôi không biết trả lời thế nào.” Sự nghiệp văn chương của Modiano là một work in progess vô cùng lôi cuốn đang tiến hành ngoài trời. Mỗi cuốn sách đều lấy được từ đó một nghĩa đúp. Mời ta ngắm nhìn nó trong sự tự chủ của một tác phẩm đã hoàn thiện, đã khép lại ở trang cuối, nhưng cùng lúc, giống như một phần mới của một puzzle mà không cái gì bị đóng lại hoàn toàn, một vài chỗ còn để “trống” trong khi những chỗ khác cũng dần dần xác định được phạm vi. Tương tự y như thế về nhân vật ông bố, nhân vật kỳ thú trong văn chương Modiano, mà ta tìm lại trong tác phẩm này một sự hiện diện mờ ảo và những tiếng vọng gián tiếp, qua việc tác giả nhắc lại “phố Lauriston”. Ngược lại, Rudy, em trai tác giả, có vẻ là một phái giữa vắng mặt, một sự im lặng hãi hùng. Thế nhưng, ở trang 44 của Một phả hệ, ta có thể đọc được đoạn này, mà Modiano sẽ không còn nhắc lại trong phần sau của cuốn sách: “Tháng Hai năm 1957, tôi mất em trai.(…) Ngoài em Rudy, cái chết của em, tôi tin là chẳng điều gì mà tôi sẽ thuật lại ở đây có liên quan sâu sắc đến tôi”. Nhưng điều khiến xúc động nghẹn ngào hơn nữa trong Remise de peine, điều khiến tim ta se lại khi đọc những dòng chữ này, chính là sự gợi nhắc, vừa thoáng qua lại vừa đều khắp, vừa kín đáo lại vừa tinh tế hé mở, không nói rõ, không bình luận, thận trọng, nhưng vì hiếm mà trở nên nổi bật, về cậu em út của “Patoche”. Ở phương diện này, Remise de peine còn khiến chao đảo hơn, tôi không có ý tán vớ vẩn về Modiano đâu, nhưng tôi có cảm giác tác phẩm này được viết ra vì cái đích ngầm sau đây: khắc lên trang sách những giây phút hai anh em bên nhau, những ký ức về một thời gian mà người ta còn có thể nhớ khi phát âm mấy từ “tôi và em trai tôi”. OLIVER ADAM *** Đó là thời các cuộc lưu diễn kịch nghệ không chỉ dọc ngang nước Pháp, Thụy Sĩ và Bỉ, mà cả Bắc Phi nữa. Tôi lên mười. Mẹ tôi đã lên đường lưu diễn một vở kịch và chúng tôi, em trai tôi và tôi, ở nhà những người bạn gái của bà, tại một ngôi làng ven Paris. Một ngôi nhà hai tầng, mặt tiền phủ dây thường xuân. Một trong số các cửa sổ lồi mà người Anh gọi là bow-window kéo phòng khách dài thêm ra. Đằng sau nhà, có một khu vườn giật nhiều cấp. Ở cuối tầng đầu tiên của vườn, núp dưới đám cây ông tiên, là mộ của bác sĩ Guillotin. Ông từng sống tại ngôi nhà này? Tại đó ông đã hoàn chỉnh cỗ máy chém đầu của mình? Tít trên cao khu vườn có hai cây táo cùng một cây lê. Những miếng nhỏ tráng men treo trên dây xích bạc thòng vào các lọ đựng rượu, trong phòng khách, mang những cái tên: Izarra, Sherry, Curaçao. Cây kim ngân xâm chiếm thành giếng, chính giữa cái sân ngay trước vườn. Máy điện thoại để trên một cái bàn guéridon, gần sát một trong những cửa sổ phòng khách. Rào lưới được chăng để bảo vệ mặt tiền nhà, hơi thụt vào so với phố Docteur-Dordaine. Một hôm, người ta đã sơn lại rào sau khi phủ lớp chống gỉ. Có phải đó là sơn chống gỉ, cái chất lỏng sệt màu cam vẫn còn hết sức sống động trong kỷ niệm của tôi? Phố Docteur-Dordaine có dáng dấp làng mạc, nhất là về cuối: một tòa nhà cho các xơ, rồi một trang trại nơi người ta đến để mua sữa và, xa hơn, lâu đài. Nếu đi xuôi phố, trên vỉa hè bên phải, ta sẽ đi qua trước bưu điện; cũng đoạn ấy, phía bên trái, ta nhìn thấy, sau một rào sắt, các nhà kính của ông chủ hàng hoa mà con trai là bạn ngồi cạnh tôi tại lớp học. Xa thêm một chút, cùng phía với bưu điện, là bức tường của trường Jeanne-d’Arc, vùi mình dưới những tán tiêu huyền. Đối diện nhà, một đại lộ dốc thoải. Bên lề của nó, phía tay phải, là nhà thờ Tin Lành và một khoảnh rừng nhỏ, giữa đám bụi cây ở đó chúng tôi từng tìm được một cái mũ sắt của lính Đức; bên trái, một ngôi nhà dài và sơn trắng nơi vòm tường nhô ra, với khu vườn lớn cùng một cây liễu rủ. Thấp hơn, chung tường với khu vườn ấy, là quán trọ Robin Lục lâm. Ở cuối dốc, và cắt vuông góc với nó, là đường bộ. Bên phải, quảng trường nhà ga, lúc nào cũng hoang vắng, trên đó chúng tôi đã tập đi xe đạp. Theo hướng ngược lại, ta đi dọc theo công viên. Trên vỉa hè bên trái, một tòa nhà với dãy hành lang làm bằng bê tông nơi nối tiếp nhau hiệu bán báo, rạp chiếu phim và hiệu thuốc. Con trai ông dược sĩ là bạn cùng lớp với tôi và, một đêm nọ, bố cậu ta đã tự sát bằng cách treo cổ lên một sợi dây buộc vào hiên của hành lang. Dường như người ta hay tự treo cổ vào mùa hè. Các mùa khác, họ thích tự sát bằng cách trầm mình xuống sông hơn. Chính ông thị trưởng của làng là người nói điều đó với ông chủ hiệu bán báo. Sau đó, đến một khu đất hoang được dùng làm chợ, thứ Sáu hằng tuần. Thảng hoặc ở đó dựng lên cái lều một gánh xiếc lưu động cùng đám nhà lán của một phiên chợ. Ta tới trước tòa thị chính và lối đi trên cao. Sau khi vượt qua đó, ta đi theo đường lớn của làng, nó lên cao mãi cho đến quảng trường nhà thờ và đài tưởng niệm liệt sĩ. Một dịp lễ mixa Giáng sinh, chúng tôi, em trai tôi và tôi, được hát trong dàn đồng ca tại nhà thờ ấy. Mời các bạn đón đọc Kho Đựng Nỗi Đau của tác giả Patrick Modiano & Hoàng Lam Vân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vinh Quang Và Quyền Năng - Graham Greene
Graham Greene, nhà văn Anh nổi tiếng được công chúng Việt Nam biết đến với tiểu thuyết The quiet American (Người Mỹ trầm lặng) đã được dựng phim hai lần, ông được coi là người viết về chiến tranh Việt Nam ấn tượng nhất. Là người sống cuộc đời đầy phiêu lưu và mạo hiểm nên, Greene thích đưa các nhân vật người Anh dè dặt của mình vào những tình huống khắc nghiệt, ở những nơi chốn khác lạ. Trong thế kỷ 20, không nhà văn nào có được những nhìn nhận tinh tế hơn Graham Greene khi đưa ra sự so sánh giữa con người với con người. Khi mà ngày càng có ít các nhà văn cố gắng phân tích những đức tính tốt đẹp của con người rơi vào sự sa ngã, thì Greene là bậc thầy trong sự phân minh đầy tính phức tạp này. Nhân vật của ông tồn tại trong hệ thống phẩm hạnh được xác định rõ ràng… Với thành công đó, nhà văn nào cũng thèm muốn có được sức tưởng tượng chứa đầy sự đột phá vô cùng hấp dẫn như Greene - người không bao giờ thiếu chuyện để viết mà ngược lại, luôn ngập trong những áng văn không ngừng tuôn chảy trong mình. Greene từng nói rằng, thời niên thiếu không hạnh phúc là sự cân bằng vô cùng bổ ích cho ông. Tuổi thơ của ông là sự khổ cực ở trường học, những cuộc vật lộn với thầy hiệu trưởng lại là chính người cha của mình; tìm cách tự vẫn ở tuổi vị thành niên và rồi lại si tình đến mê muội người vợ của chuyên gia tâm thần học chữa bệnh cho mình; không đam mê thể thao và thường bỏ học để dành thời giờ đọc tiểu thuyết phiêu lưu của các nhà văn như Rider Haggard và R. M. Ballantyne… Chính những câu chuyện đó đã có ảnh hưởng sâu đậm tới Greene và giúp ông tạo được phong cách văn chương của mình. Graham Greene là người trầm lặng, kín đáo nhưng cuộc sống riêng tư của ông lại rối như tơ vò. Ông tự nhận mình là “một người chồng tồi và người yêu không kiên định” bởi có quan hệ với nhiều phụ nữ, chưa kể thú đam mê rượu đến mức trở thành huyền thoại. Năm 1925, khi mới 21 tuổi, Graham Greene phải lòng Vivienne Dayrell-Browning – một cô gái xinh đẹp theo đạo Công giáo. Nhà văn tương lai mất hai năm ròng với hàng trăm lá thư tình mùi mẫn mới chinh phục được người đẹp. Chưa hết, trước khi được Vivienne mở lời nói câu đồng ý trước bàn thờ Chúa, Greene còn phải cải đạo để vừa lòng ý trung nhân. Hai người kết hôn năm 1927. Họ đã có một thời gian khá mặn nồng, nhưng càng ngày, bất đồng giữa hai người càng lớn. Vivienne khá khắt khe và có cái nhìn cao đạo với vấn đề tình dục. Trong khi chồng cô lại là một người rất trần tục và luôn thẳng thắn thể hiện các nhu cầu bản năng. Họ có hai người con Lucy Caroline và Francis. Cuộc hôn nhân tan vỡ từ năm 1939 nhưng đến năm 1947, hai người mới chính thức chia tay. Cuốn “Vinh quang và quyền năng” có lẽ là một lời biện hộ muộn màng cho hôn nhân tan vỡ của mình. *** Là tài năng hiếm có trong thế giới văn chương ngày càng mang tính bản địa, một người theo chủ nghĩa quốc tế tài năng có nhận thức chính trị sắc bén, nhưng Graham Greene lại từ chối nhìn nhận mình là một nhà văn chính trị. Nhân kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của ông, Thư viện Anh tổ chức một cuộc triển lãm các kỷ vật của Green; còn tại thành phố Berkhamstead quê bương ông thuộc Tây Bắc London diễn ra hội nghị kéo dài một tuần, trong đó bàn đến những đóng góp của Greene cho nền điện ảnh, món nợ văn chương của ông với Joseph Conrad và mối quan hệ với Vua hề Charlie Chaplin... Nếu còn sống, chắc chắn Graham Greene sẽ là người phản đối quyết liệt cuộc chiến của Mỹ ở Iraq, bởi ông từng lớn tiếng lên án cuộc chiến tranh của Mỹ ở VN: "Đây không chỉ là việc làm xấu xa mà là cuộc chiến xuẩn ngốc nhất...", Greene nói như vậy trong một cuộc phỏng vấn năm 1967. Ông còn chỉ trích về chính sách đối ngoại của Tổng thống Mỹ Ronald Reagan. Greene từng nói rằng, nhiệm vụ của ông là mô tả "nỗi cam go của sự việc theo tâm lý, và đôi khi theo quan điểm chính trị". Đọc sách , độc giả nhận thấy phần lớn trong hơn hai chục tiểu thuyết của ông bộc lộ sự xung đột giữa lòng trung thành và khát vọng, sự giao thoa đầy khó khăn giữa chính trị và đạo đức. *** Tác phẩm của một tiểu thuyết gia công giáo người Anh, một người Anh giáo trở lại, như cuốn “Vinh Quang và Quyền Năng” trước hết mang lại cho tôi cảm giác bỡ ngỡ. Chắc chắn là tôi tìm được trong đó môi trường tâm linh quen thuộc, chính trong sâu thẳm của màu nhiệm quen thuộc mà Graham Greene đã đưa tôi vào. Nhưng mọi việc diễn ra cứ như thể tôi đi vào một khu nhà cổ qua một cánh cửa bị che khuất sau những dây leo, cành cây, mà tôi không biết, và bỗng chốc tôi nhận ra cái lối đi lớn trong vườn nơi ngày xưa tôi thường nô đùa, và tôi nhẩm đọc những chữ viết tắt mà tôi đã khắc lên thân cây sồi trong những kỳ nghỉ hè năm nào. Một người công giáo Pháp chỉ đi vào giáo hội qua cổng chính; họ bị chi phối bởi lịch sử chính thức của giáo hội Pháp; họ dự phần vào những cuộc tranh luận đã từng phân hoá giáo hội Pháp trong nhiều thế kỷ, người ta khám phá ra người nào đó thuộc phe Port Royal hay Dòng tên, họ về phe Bossuet chống lại Fenelon hay họ về phe với Lamenais và Lacordaire hay với Louis Veuillot. Không thể không liên tưởng đến tác phẩm của Bernanos khi đọc “Vinh quang và Quyền năng”. Những tranh luận của giới công giáo trong suốt bốn thế kỷ qua như được phác hoạ lại nơi đây. Sau cha xứ Donissan trong “Dưới ánh mặt trời của Satan” xuất hiện cha sở xứ Ars. Những vị thánh của Bernanos, những linh mục có khuynh hướng tự do, những giáo dân ngoan đạo mà ông mô tả với giọng điệu cay cú nói ngược lại sự tôn kính và sự gớm ghiếc của ông. Phần mình, Graham Greene đã lén lút đi vào vương quốc bí nhiệm, trong vương quốc của thiên nhiên và ân sủng. Không có thiên kiến nào làm vẩn đục cái nhìn của ông. Không có luồng tư tưởng nào làm ông rời xa phát hiện của ông, cái bí quyết mà ông đã đột nhiên tìm thấy. Ông không có một định kiến nào về cái mà chúng ta gọi là “linh mục tội lỗi”. Có thể nói rằng, ông không có trong đầu óc một mô hình đạo đức nào cả. Có bản tính tự nhiên hay hư nát và có Ân sủng quyền năng; có con người khốn khổ, không đáng giá gì sất, ngay cả để làm điều tội lỗi và cái tình yêu nhiệm màu bao trùm con người trong cái khốn nạn cũng như trong cái hổ nhục để biến họ thành thánh, một vị tử đạo. Vinh quang và quyền năng của Chúa Cha toả rạng nơi bản thân một linh mục Mexico nghiện rượu và đã có con với một nữ giáo dân của mình. Mô típ lố bịch, tầm thường và tội trọng của ông chỉ làm cho người ta cười nhạo hay nhún vai và ông linh mục tội lỗi nhận biết điều đó. Cái mà cuốn sách này muốn chứng minh cho chúng ta là, nếu tôi nói không quá, là việc thánh hoá tội lỗi nhờ ân sủng. Vị linh mục phản động, bị chính quyền kết án tử hình, đầu ông bị treo giá (cuốn truyện mượn khung cảnh một nước Mexico bị thao túng bởi những người cầm đầu chống đạo) đã tìm cách đi trốn, như những linh mục khác đã làm, ngay cả những vị thánh thiện nhất. Ông chạy trốn, đã vượt được qua biên giới, nhưng lại quay về khi có người hấp hối cần đến ông hay cả khi ông biết sự hiện diện của ông không mang lại gì hay cả khi ông biết đó là một cái bẫy, rằng người đến kêu cứu ông là người chỉ điểm. Vị linh mục nghiện rượu, tội lỗi, run sợ trước cái chết, đã hiến dâng mạng sống mình nhưng không bao giờ quên cái cảm giác hèn hạ, nhục nhã của mình. Ông ta sẽ cho là chuyện tiếu lâm nếu ai đó nói ông là Thánh. Ông được bảo vệ cách lạ lùng chống lại thói kiêu ngạo, sự tự mãn. Ông đi tử đạo nhưng luôn mang trong mình ý thức về sự sa đoạ, phạm thánh của một linh mục đang trong tình trạng tội trọng, đến nỗi ông hy sinh thân mình nhưng qui chiếu tất cả cho Thiên Chúa, cho quyền lực và vinh quang của Ngài nơi con người khốn nạn nhất trong những con người: chính bản thân ông ta. Và càng đi đến hồi kết, chúng ta càng thấy con người tội lỗi tầm thường này càng hoá thân nên giống Chúa Kitô để nên giống Ngài, nhưng chưa đủ: đến mức đồng hoá mình với Chúa của mình. Mầu nhiệm Thương khó tái hiện nơi tội nhân này, tội nhân được lựa chọn trong cặn bã của nhân loại và đã lặp lại điều Đức Kitô đã làm, không phải ở trên bàn thờ dưới hình bánh hình rượu và mình thì chẳng mất gì, nhưng là hiến tế chính máu và thịt mình trên Thánh giá. Ở nơi con người vị “linh mục tội lỗi” này, không phải là những nhân đức đã tỏ rạng để đối lập với tội lỗi, nhưng chính là đức tin - đức tin vào cái dấu ấn vô hình ông đã lãnh nhận ngày thụ phong, vào cái kho tàng mà chỉ có mình ông (bởi vì những linh mục khác đã bỏ trốn hay đã bị sát hại) còn mang trên đôi tay bất xứng nhưng đã được Thánh hiến. Vị linh mục cuối cùng còn lại trong vùng, ông không thể tin được rằng sau ông sẽ còn linh mục để cử hành thánh lễ, để giải tội, để giúp kẻ liệt trước ngưỡng cửa đời sống vĩnh cửu. Và dù sao đức tin của ông đã không lay chuyển dù ông không biết rằng, ngay khi ông vừa gục ngã dưới làn đạn, một linh mục khác đã đột ngột xuất hiện. Qua đó, chúng ta cảm nhận sự hiện diện bí ẩn của Thiên Chúa trong một xã hội vô thần, cái giòng chảy ngầm của ân sủng đã làm Graham Greene choáng ngợp hơn là cái mặt tiền hoành tráng mà giáo hội trần thế trình ra trước mặt các dân tộc. Nếu có một ki tô hữu nào đó mà sự sụp đổ của giáo hội hữu hình không làm cho xao xuyến, chính là Graham Greene mà tôi nghe nói ở Bruxelles, trước mặt hàng ngàn tín hữu và sứ thần toà thánh, đã gợi lên hình ảnh vị giáo hoàng cuối cùng trong một Âu châu hoàn toàn mất đức tin, đứng xếp hàng trước quầy vé, mặc chiếc quần tây xoàng xĩnh, cầm trên tay, còn lấp lánh chiếc nhẫn của “người đánh cá”, cái cặp giấy carton. Có thể nói rằng, cuốn sách này là một thông điệp gởi đến thế hệ trong đó mọi cái đều bị xem là phi lý. Những người trẻ thời đại Jean Paul Sartre, Camus, những con mồi tuyệt vọng của cái tự do phù phiếm. Graham Greene hé lộ rằng, có thể, sự phi lý này thực ra chỉ là một tình yêu không bờ bến. Ông cũng gởi thông điệp cho những người ngoan đạo, những người chưa bao giờ nghi ngờ về những giá trị của chính mình và luôn mang trong đầu những mô thức thánh thiện, với những phương thế chuyên biệt để đạt được những mức độ đạo đức khác nhau. Ông đặc biệt nhắm tới những kitô hữu, linh mục và giáo dân, các tiểu thuyết gia đang rao giảng con đường thập giá nhưng phải nói là họ chưa chịu “đóng đinh” đủ. Bài học lớn cho những người bị ám ảnh bởi sự toàn thiện, những con người khốn khổ săm soi những khiếm khuyết của mình mà quên rằng ngày phán xét sau cùng, theo thánh Gioan Thánh giá, chính tiêu chuẩn tình yêu là tiêu chí phán xét. Cái đất nước ông mô tả truy lùng các linh mục và giết hại các ngài, đúng là cái đất nước mà chúng ta đang thấy hình thành trước mắt. Đây là giờ của “hoàng tử thế gian”, nhưng ông mô tả họ không chút hận thù: ngay với tên đao phủ, ông cảnh sát trưởng đều mang dấu ấn của lòng thương xót. Họ tìm kiếm chân lý; họ tin đã tìm thấy chân lý và đang phục vụ chân lý, cái chân lý đòi phải hy sinh một số đồng loại. Bóng tối bao trùm vùng đất mà ông mô tả, nhưng có một tia sáng nào đó đang xuyên qua. Dù gì đi nữa, chúng ta không nên sợ hãi, tác giả đã nhắc cho chúng ta rằng điều bí ẩn sẽ được nhận biết, cũng còn những giá trị cho thế giới phi lý này. Cái tự do mà Sartre đề nghị cho con người có những giới hạn: chúng ta biết rằng, những tạo vật được yêu thương như chúng ta không có tự do nào khác ngoài cái tự do từ chối tình yêu đó… Francois Mauriac. Mời các bạn đón đọc Vinh Quang Và Quyền Năng của tác giả Graham Greene.
Bước Khẽ Tới Người Thương - Nhã Ca
H iền lại phạm thêm một lỗi lầm nữa, và ăn năn. Ai mượn Hiền leo lên chiếc xe xích lô đạpđã chớ. Khi vội, sao không gọi chiếc tắc xi. Nhưng Hiền tự chống chế: Mưa mù mịt thấy gì đâu.Xe cộ nào chạy đâu? Có chiếc xích lô, thà leo lên đại. Hiền muốn giục ông xích lô đạp nhanh chút nữa. Nhưng ngồi kín bít bung như thế này, có hét, ông cũng chẳng nghe ra đâu. Người ta đôi khi chậm một chút mà hỏng cả một đời đấy chứ. Ví dụ như Hiền tới không kịp. An chết trước vài phút, thì sẽ ra sao nhỉ? Hiền sẽ sốnh với ám ảnh ghê gớm lắm. Mưa gió thế này. An lại yếu như ngọn đèn sắp tắt. Thê thảm quá. Nghĩ tới An, nằm thoi thóp trong bệnh viện, phấn đấu với thần chết từng giây phút để chờ Hiền. Hiền muốn ứa nước mắt. Anh An Hiền đã đến với anh đây, đến để gật đầu cho anh thấy. Không phải vì nhân đạo, vì lương tâm hay cứu người gì hết, mà vì Hiền yêu An. Yêu thật. Yêu nặng. Ví dụ, lúc Hiền tới, cả nhà đang đông đủ ngồi bên An. Hiền cũng vào như thường. Tưởng tượng An nằm trên giường mặt trắng như sáp, và hơi thở mong manh. An chờ đợi ,An nuối Hiền. Và cả nhà khóc ơi là khóc. Hiền đẩy cửa đi vào. Hiền đẩy cửa thật nhẹ, và bước thật khẽ. Rồi Hiền tới bên giường An. Cả nhà thấy Hiền lại òa lên khóc. Họ phải biết An chờ Hiền chứ. Ðến phút này thì còn đấu diếm gì ai nữa. Hiền còn cần thẹng thùng xấu hổ gì nữa. Hiền dám công khai. Hiền cúi xuống gọi chớ sợgì:- Anh An ,An còn nghe được không? Chắc còn thở thì còn nghe được. Và An nhướng mắt lên. An trông thây Hiền rồi. Trong đôi mắt đang dại dần , ánh lên những tia sáng mừng vui. Miệng An mấp máy. Phải mấp máy chứ, vì An còn ngậm mãi câu hỏi trong miệng:- Hiền yêu An không? Hiền sẽ cầm tay An, và Hiền khóc. Hiền gật đầu, trả lời câu hỏi của An chỉ có Hiền hiểu:- An Hiền có, có thương An. Thương? Hẳn An chưa hài lòng câu trả lời đó. Và mặt An tái đi,An ho. Máu bắn ra dữ quá. Maú bắn lên cả áo Hiền nữa. Hiền gật đầu rối rít:- Anh An ,Hiền yêu anh. Ðó, Hiền trông rõ nụ cười của An. Nụ cười, chao ơi, suốt đời Hiền sẽ ghi nhớ. Và An khẽ đưa tay ra, khẽ cầm chặt tay Hiền úp lên ngực. Và với nụ cười cứ mơ hồ phảng phất trên môi, An đi rất nhẹ nhàng. Mọi người chung quanh sẽ khóc ghê lắm. Còn Hiền ,Hiền chỉ ngồi bên An, tay còn đặt lên trái tim đang lạnh dần của An, và nhỏ nước mắt. Mưa đã khóc dùm Hiền biết bao nhiêu lệ rồi. Hiền sẽ yêu cầu tắt hết điện, để chỉ thắp trong phòng An một ngọn nến. Rồi sau đó, Hiền trả cái xác của An cho gia đình chàng. Hiền với linh hồn An ra đi,trong mưa. Ði đâu nhỉ? Có lẽ phải trở lạinhà Huyên,và nói với Huyên: - Huyên ơi. Thế là hết. Không, phải tìm một câu nào cho thật văn hoa, để Huyên phải ứa nước mắt , phải khóc cho cuộc tình quá đẹp, lại quá mong manh, và tan vỡ. Có lẽ Hiền sẽ nói thế này: - Huyên ơi, tụi này đã mất nhau trong đời. *** Nhã Ca, tên thật là Trần Thị Thu Vân (sinh 1939), là một nữ văn sĩ người Việt với nhiều tác phẩm viết thời Việt Nam Cộng hoà, hiện định cư ở Hoa Kỳ. Nhã Ca sinh trưởng tại Huế đến năm 1960 thì vào Sài Gòn nơi bà bắt đầu viết văn. Trong thời gian 1960 - 1975, 36 tác phẩm của bà được xuất bản gồm nhiều thể loại như thơ, bút ký và tiểu thuyết. Một số tác phẩm của bà lấy xứ Huế làm trọng điểm. Theo lời kể của ông Nguyễn Đắc Xuân (nhà văn) thì bà vốn là một nữ sinh Huế (cùng thế hệ với Nguyễn Đắc Xuân), bỏ học Trung học vào Sài Gòn đi theo Trần Dạ Từ - một người Bắc di cư. Trần Dạ Từ viết báo chống các Phong trào tranh đấu chống Mỹ, hai vợ chồng Trần Dạ Từ và Nhã Ca là hai cây viết tâm lý chiến của Đài Tự do của Mỹ (Đài có nhiệm vụ tuyên truyền chiêu hồi và viết bài tấn công về tư tưởng đối với binh lính đối phương) Cũng vì nội dung trong những tác phẩm của bà, sau năm 1975, Nhã Ca bị chính quyền giam hai năm vì tội "biệt kích văn hóa" (có cuốn sách mang tên là ‘Biệt Kích Văn Hoá’ do các học giả, nhà văn ủng hộ Mặt trận giải phóng như Trần Văn Giàu, Lữ Phương, Vũ Hạnh... viết về 10 tác giả miền Nam. Trong sách này, ngoài bà có Hồ Hữu Tường, Nguyễn Mạnh Côn, Nhất Hạnh, Doãn Quốc Sỹ, Võ Phiến...). Trong tù, bà bị biệt giam và chính quyền tiến hành chính sách "khoan hồng, nhân đạo của Đảng" nhằm hạ gục uy tín của bà. Chính cuốn Giải khăn sô cho Huế bị liệt vào hạng tối kỵ, trưng bày trong "Nhà Triển Lãm Tội Ác Mỹ Ngụy" là chứng tích kết tội bà. Chồng bà, nhà văn Trần Dạ Từ, thì bị giam 12 năm. Do sự can thiệp của hội Văn Bút Quốc tế phối hợp với hội Ân xá Quốc tế và thủ tướng Thuỵ Điển Ingvar Carlsson, bà được sang Thuỵ Điển tỵ nạn. Năm 1992 bà cùng gia đình sang California định cư và lập hệ thống Việt Báo Daily News tại Quận Cam. Theo nhà văn Nguyễn Đắc Xuân thì cặp vợ chồng Trần Dạ Từ - Nhã Ca còn từng phụ trách nguyên cả một chương trình của đài Á Châu Tự do (RFA) của Mỹ. Tác phẩm: Nhã Ca mới (1965) Đêm nghe tiếng đại bác (1966) Bóng tối thời con gái (1967) Khi bước xưống (1967) Người tình ngoài mặt trận (1967) Sống một ngày (1967) Xuân thì (1967) Những giọt nắng vàng (1968) Đoàn nữ binh mùa thu (1969) Giải khăn sô cho Huế (1969) đoạt Giải Văn chương Quốc gia Việt Nam Cộng hòa năm 1970[4] (tái bản ở Hoa Kỳ năm 2008) Một mai khi hòa bình (1969) Mưa trên cây sầu đông (1969) Phượng hoàng (1969) Tình ca cho Huế đổ nát (1969) Dạ khúc bên kia phố (1970) Tình ca trong lửa đỏ (1970) Đời ca hát (1971) Lặn về phía mặt trời (1971) Trưa áo trắng (1972) Tòa bin-đing bỏ không (1973) Bước khẽ tới người thương (1974) v.v... Phim Đất khổ do Hà Thúc Cần sản xuất và hoàn tất năm 1973, đã một phần dựa theo cuốn Giải khăn sô cho Huế và Đêm nghe tiếng đại bác, do Nhã Ca viết đối thoại. Tại hải ngoại, bà tiếp tục sáng tác, như: Hồi ký một người mất ngày tháng Đường Tự Do Sài Gòn (2006). Mời các bạn đón đọc Bước Khẽ Tới Người Thương của tác giả Nhã Ca.
Giai Điệu Của Annie - Catherine Anderson
Annie - một cô gái bị tất thảy mọi người coi là loạn trí sau một trận ốm lúc nhỏ. Cô lớn lên xinh đẹp như một bông hoa rừng nhưng bị mọi người xa lánh, cha mẹ coi như nỗi hổ thẹn của gia đình. Bất hạnh hơn nữa cô bị một gã trai nhà giàu vô tích sự cưỡng bức. Và kết quả là người anh trai gã phải lĩnh trách nhiệm lấy cô về để đảm bảo cho cháu mình sẽ không bị cho vào trại mồ côi. Cứ nghĩ câu chuyện sẽ đầy những dằn vặt, đau khổ, những đôi mắt đau đáu, những tội lỗi không gột rửa được, và đến hết truyện, cho dù tác giả có bảo hạnh phúc gì đó, vẫn gợn nỗi đau. Ấy thế mà không, với khả năng kể chuyện tài tình của tác giả khiến cho độc giả hoàn toàn bất ngờ. Khi Alex buồn bã mang Annie về như một gánh nặng, anh không ngờ mình mang về một kho báu, mà càng ngày, kho báu ấy càng cho thấy sự vô giá của nó. Khi Annie nghe Alex nói cô là vợ anh, cô đau khổ không hiểu sao mình làm đám cưới mà chẳng có quà, để rồi biết anh là món quà tuyệt vời nhất trong đời. Bạn sẽ chăm chú xem Alex vén dần bức màn bí mật quanh cô gái Annie như thế nào. Bạn sẽ bật cười khi được nhìn từ cái nhìn đầy ngây ngô của Annie với thế giới xung quanh. Bạn sẽ dõi theo sự lúng túng của Alex khi phải kiểm soát những cảm xúc đang dâng lên của mình với Annie - người vợ để đương đầu với Annie - đứa trẻ. Bạn sẽ thấy thú vị với bà quản gia thông thái và ông bác sĩ giàu lòng trắc ẩn, những nhân vật góp phần quan trọng để hai người tìm đến với nhau. *** Catherine Anderson sinh ngày 22 tháng 12 năm 1948 tại Hoa Kỳ, là một trong những nữ nhà văn ăn khách nhất trong thể loại truyện lãng mạn. Một số tác phẩm của bà: Điệu Waltz dưới ánh trăng, Gió mùa hè,... *** Ánh nắng tràn qua cửa sổ phòng ăn, tạo một quầng sáng vàng óng quanh Annie, cô đang ngồi bên bàn, đầu cúi xuống, ánh mắt chăm chú vào thứ gì đó trong lòng mình. Dù lấy nhau đã gần ba năm nhưng Alex chưa bao giờ hết biết ơn Chúa vì đã ban cho cuộc đời anh một người con gái yêu kiều, anh ngập ngừng ngay ngoài cửa ra vào để ngắm nhìn cô một lúc. Nhìn vào đĩa thức ăn của cô, thấy rằng cô đã bỏ bữa sáng suốt ba ngày nay rồi. Không khỏi lo âu, Alex sải bước vào phòng. Gabby, con chó lông xù trắng mà Alex đã tặng cô hai năm trước, chắc đã cảm nhận được bước chân của cậu chủ rung trên sàn, vì nó nhổm lên từ giấc ngủ rồi bắt đầu nhảy nhót quanh ghế Annie, sủa inh tai suốt cả lúc ấy. Nhận thấy âm thanh đó, Annie nhìn lên từ thứ mà giờ Alex mới thấy được đó là một mảnh khăn thêu. “Chào buổi sáng”, cô nói cùng nụ cười ấm áp. “Chào buổi sáng.” Mặt mũi nhăn nhó như đau đớn, Alex liếc xuống con chó om sòm. Vì tiếng sủa chói tai của loài động vật này là một trong số ít những âm thanh mà vợ mình nghe được, nên anh cố nén không phàn nàn. Dù khá vô dụng nhưng chú chó xù này vẫn đáng giá ngàn vàng khi luôn biết sủa lớn để báo cho Annie biết rằng bé Bart khóc. Gabby, cái tên rất phù hợp với nó, còn sủa để Annie biết nếu có ai đó gọi cô hay gõ cửa, giúp cô kịp phản ứng với các âm thanh khác mà cô có thể bỏ lỡ. Cười nhỏ nhẹ, Annie đặt mảnh khăn thêu sang một bên rồi cúi xuống chụp tay lên mõm con Gabby. “Đủ rồi”, cô nhẹ nhàng nói với nó. ... Mời các bạn đón đọc Giai Điệu Của Annie của tác giả Catherine Anderson.
Chai Thời Gian - Praphatsorn Seiwikun
Tác phẩm yêu thích nhất của thanh thiếu niên Thái Lan "Nếu cất được thời gian trong chai Điều đầu tiên tôi mong được làm Là chắt chiu dành dụm từng ngày Cho tới khi vĩnh hằng trôi qua Chỉ để dành trọn chúng bên em..." Chai thời gian, ca khúc xưa cũ đã cùng Fatso đi qua tuổi niên thiếu bỗng êm ả vang lên trong một quán cóc nhỏ, gọi về những kỷ niệm... Kỷ niệm mang bóng hình một mối tình đơn phương lặng lẽ, với con đường nhỏ rợp bóng cây kèn hồng còn vương tiếng cười của đám bạn sau giờ tan lớp. Fatso, em gái, những người bạn thân, đã tiến tới ngưỡng cửa trưởng thành trong niềm vui niên thiếu, với cú sốc đầu đời khi gia đình tan vỡ, với cả cần sa, với bao lựa chọn khó khăn, khi vô tình bị cuốn vào những biến cố xã hội. Để rồi khi nhìn lại, chợt thấy tuổi trẻ như một bức tranh ghép với những mảng sáng tối, gợi những nỗi niềm man mác... Chai thời gian, cuốn tiểu thuyết bestseller nổi bật với thế hệ học sinh sinh viên Thái thập niên 1970, khám phá khoảng cách thế hệ giữa cha mẹ và con cái trong một gia đình Bangkok trung lưu, những nhức nhối của hành trình trưởng thành, những giằng xé giữa tình bạn tình yêu trong trái tim tuổi mới lớn. Được khắc họa qua những khúc hồi tưởng đặc biệt ấn tượng và gần gũi, thế giới xúc cảm đó vừa thân thuộc vừa tươi mới, mang thời thanh xuân trở lại ngập tràn tâm hồn người đọc. "Tôi vẫn hay tự hỏi mình câu hỏi cũ ấy, rằng nếu tôi có thể giữ thời gian đứng yên, liệu tôi có thể có được tất cả những gì mình mong ước... Tôi vẫn còn nhớ những ngày chúng tôi đi bộ trên con đường rợp bóng cây kèn hồng; những ngày nắm tay nhau làm thành một đoạn xích để một đứa với ra rìa đầm lầy hái đài sen rồi chia nhau ăn; những ngày túm cặp của nhau không cho đứa nào lên xe buýt trước; và tất cả những ngày Jom cùng tôi sánh bước, khoác trên vai hộp đàn đến quán cóc, nơi mà chúng tôi sẽ nhét hàng đống xu vào máy hát nghe Chai thời gian hết lần này đến lần khác." *** Ca khúc “Chai thời gian” của Jim Croce phát ra từ chiếc máy hát tự động của một quán cà phê nhỏ ven đường khiến tôi dừng bước. Từ lâu, rất lâu rồi, tôi đã không nghe lại bài hát này, như thể nó đã biến mất khỏi kí ức của mọi người và bị ém nhẹm vào một xó xỉnh tối tăm nào đó. “Này Béo, đừng về vội.” Một giọng nói trong trẻo vang lên từ góc phòng. Tôi ngẩng đầu khỏi hộp đàn vĩ cầm, ngạc nhiên quay về phía người nói. “Chị chưa muốn về nhà.” Chủ nhân của giọng nói xách hộp đàn vĩ cầm đi về phía tôi. “Muốn đi loanh quanh một chút.” “Vậy đi cà phê đâu đó nhé?” tôi gợi ý, đoạn đưa tay gạt một lọn tóc dính trên trán. Chị gật đầu thay câu trả lời. “Tóc cậu lại dài ra rồi đấy.” Chị nhìn tôi. “Tốt nhất là đi tỉa đi.” “Vội gì,” tôi vừa đáp vừa chìa tay đỡ lấy hộp đàn của chị. “Để em cầm.” “Cảm ơn,” chị lầm bầm gỡ cặp khỏi vai tôi. “Bọn mình bỏ đám này vào ô tô đi, đỡ phải vác theo.” “Chị nói cứ như mấy thứ này nặng bằng cả trái đất ấy.” Tôi bật cười bước đi, hai tay duỗi thẳng, mỗi tay xách một hộp đàn vĩ cầm, chị đi đằng sau ôm cặp sách của tôi. “Chú Maen!” chị gọi người lái xe đang ngồi đợi trên ghế băng trước cửa phòng nhạc. “Chú cho cặp sách và hai cái đàn này vào xe đi.” “Vậy còn cô thì sao ạ, thưa cô?” Chú Maen đỡ lấy đàn và cặp, nhìn chị dò hỏi. ... Mời các bạn đón đọc Chai Thời Gian của tác giả Praphatsorn Seiwikun.