Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kinh Doanh Trong Thời Đại 4.0

Nguyên tắc chung để "lột xác" doanh nghiệp "Gián đoạn” hay “chuyển đổi” đang là những chủ đề nóng trong giới kinh doanh, và quả đúng như vậy. Công nghệ kỹ thuật số đã mang lại thay đổi lớn, làm gián đoạn toàn bộ nhiều ngành công nghiệp đồng thời tạo thời cơ cho các công ty như Facebook hay Amazon tăng trưởng kỷ lục. Ai cũng thấy rằng các tập đoàn lâu đời đang phải chật vật, trong khi các công ty mới, nhỏ và linh hoạt hơn vì áp dụng những mô hình kinh doanh mới. Nhưng giữa những thay đổi này, còn một điều cần phải chỉ ra: dù thời đại kỹ thuật số đang và sẽ tiếp tục là thách thức với các ông lớn trong các ngành truyền thống, nhưng cơ hội dành cho họ vẫn rộng mở. Công ty dự báo thời tiết The Weather Company là một ví dụ điển hình. Người dùng đã chuyển từ TV sang di động, nhưng họ không dùng điện thoại đủ lâu để việc quảng cáo trên đó có lợi nhuận. Các lãnh đạo công ty này đã chuyển hướng và tạo ra dịch vụ WeatherFX, dùng dữ liệu giúp các nhà bán lẻ dự đoán thời tiết sẽ ảnh hưởng tới hành vi mua sắm như thế nào. Nhiều công ty khác cũng đang tìm ra giải pháp riêng. Đối mặt với lượng người đọc báo in cùng với doanh thu quảng cáo suy giảm, tờ báo New York Times đã xây dựng mô hình đọc báo trả tiền khá thành công với 2,5 triệu người đăng ký, và tờ nhật báo này dự kiến sẽ thu được 800 triệu đô-la doanh thu từ mảng trực tuyến vào năm 2020. Các công ty xe hơi như Cadillac đang thử nghiệm dịch vụ cho thuê xe hạng sang, còn Sephora và các nhà bán lẻ khác đang tạo ra ứng dụng để cải thiện trải nghiệm mua sắm trong cửa hàng. Ngân hàng đầu tư Goldman Sachs cũng tạo ra một nền tảng trực tuyến (và còn mời các đối thủ cạnh tranh cùng tham gia). Là một lãnh đạo doanh nghiệp, chắc bạn đã nghĩ về “kỹ thuật số” từ lâu, và chắc bạn đã thử các dự án để “số hóa” hoạt động kinh doanh của mình. Một số dự án có thể đã đơm hoa kết trái. Giống như các giám đốc mà tôi đã tiếp xúc, có lẽ bạn đang muốn chuyển đổi mạnh mẽ hơn nữa. Nhưng làm cách nào? Nếu công ty của bạn thiếu đi tố chất kỹ thuật số và sự linh hoạt vốn là lợi thế của các công ty khởi nghiệp, làm thế nào để bạn tận dụng tất cả những cơ hội của thời đại số? Trong hơn 10 năm, là một giáo sư ở Trường Kinh doanh Harvard, tôi đã nghiên cứu chiến lược kỹ thuật số và tư vấn hàng tá các công ty đang thực hiện chuyển đổi kỹ thuật số (digital transformation). Nhờ đó, tôi đã tận mắt chứng kiến những thành công và thất bại, và tôi nhận ra những lãnh đạo chuyển đổi thành công đã dồn toàn lực vào quyết tâm số hóa. Nói cách khác, họ không tách biệt chiến lược kỹ thuật trong chiến lược tổng quát, mà biến kỹ thuật số thành ưu tiên hàng đầu và làm sao để công nghệ số chạm đến mọi ngóc ngách của doanh nghiệp. Chuyển đổi kỹ thuật số yêu cầu gia cố nền móng nhưng đồng thời xây dựng những cấu trúc mới. Cuốn sách này, qua hàng loạt ví dụ, sẽ dẫn đường cho bạn. Trong sách có các nghiên cứu trường hợp (case study) và những phương pháp tốt nhất (best practices) từ những doanh nghiệp đã hoàn toàn “lột xác”, cùng với các nguyên tắc chung sẽ giúp bạn vạch ra chiến lược số bao trùm và dẫn dắt doanh nghiệp qua quá trình chuyển đổi. CÁC THỬ NGHIỆM SAI LẦM Để tránh khỏi làn sóng gián đoạn của thời đại kỹ thuật số, đồng thời tìm kiếm cơ hội mới, các công ty thường đi theo 3 chiến lược: tạo ra các đơn vị nhỏ, độc lập hoặc các công ty khởi nghiệp trong lòng doanh nghiệp lớn; tiến hành một loạt các thử nghiệm ứng dụng kỹ thuật số; và cuối cùng là áp dụng công nghệ để giảm giá thành và tăng tính hiệu quả. Tuy nhiên, các nỗ lực đó chỉ đạt kết quả hạn chế. Hầu hết các tập đoàn lớn đã mở các đơn vị kỹ thuật số độc lập hoặc có văn phòng ở Silicon Valley, gửi gắm hi vọng đổi mới sáng tạo vào các doanh nhân trẻ. Chẳng hạn, gã khổng lồ viễn thông của Tây Bay Nha Telefónica thành lập đơn vị độc lập như vậy vào tháng 9 năm 2011, mang tên Telefónica Digital. Với trụ sở công ty mẹ đặt ở Madrid, đơn vị kỹ thuật số mới đặt ở London với giám đốc điều hành (CEO) riêng và ngân sách độc lập. Giống phần lớn các công ty viễn thông, Telefónica đã không hưởng lợi từ cuộc cách mạng di động. Thay vào đó, những đối thủ mới như Skype và WhatsApp đang thách thức mọi dịch vụ của họ. Lãnh đạo Telefónica hi vọng đơn vị số này sẽ sáng tạo những ý tưởng mới cho sản phẩm và dịch vụ tương lai của công ty. Với sự mệnh đầy tham vọng, quyền tự do hoạt động độc lập và ngân sách dồi dào, Telefónica Digital bắt đầu sáng tạo. Họ đưa ra nhiều ý tưởng khá mới mẻ đối với một công ty viễn thông thời bấy giờ. Sau khi phát triển thử nghiệm, nhóm này gửi các ý tưởng triển vọng về trụ sở ở Madrid để thực hiện toàn cầu. Tuy nhiên, có nhiều sự phản đối từ lãnh đạo công ty con ở các nước, những người không cảm thấy thuyết phục và cũng không có nguồn lực để thực hiện ý tưởng. Sau 3 năm, Telefónica đóng cửa đơn vị kỹ thuật số ở London và chuyển nó về Madrid. Tạo ra đơn vị độc lập giống như dùng xuồng cao tốc để chuyển hướng con tàu lớn. Thường thì xuồng cao tốc vẫn sẽ chạy, nhưng không có mấy tác động tới con tàu mẹ. Chiến lược thứ hai là khi các công ty làm nhiều thí nghiệm nhỏ hơn – điều khá hợp lý trong bối cảnh kinh doanh thay đổi liên tục và bất trắc. Hành trình này thường bắt đầu với một vài thử nghiệm mang tính ngắn hạn, thường ở phòng marketing, nơi các nhân viên thường xuyên dùng thử các giải pháp mới trên mạng xã hội hoặc di động. Khi sự phấn khởi về kỹ thuật số lan rộng, các dự án nở rộ khắp nơi trong doanh nghiệp. Năm 2012, Kasper Rorsted, CEO của tập đoàn Henkel (Đức) thời đó, nhận ra điều này khi ông yêu cầu một nhóm lãnh đạo cao cấp lập danh sách các dự án kỹ thuật số. Ông khá bất ngờ khi có hơn 150 dự án số riêng rẽ trong tập đoàn. Nhiều dự án bắt đầu là các thí nghiệm nhỏ để giải quyết một bài toán cụ thể trong một phòng ban hay một công ty con. Chẳng lâu sau, có thêm nhiều dự án số mới mọc lên ở khắp nơi trong tập đoàn, mà Rorsted gọi là “hàng trăm bông hoa”.1 Nhận ra các dự án như vậy không tạo ra sự hiệp lực (synergy), các công ty bắt đầu hợp nhất chúng lại. Một nhóm lãnh đạo lên danh sách các dự án số ở các phòng ban, nhãn hàng, đơn vị và khu vực khác nhau, và tìm cách phân chia, hợp nhất. Thông thường, một hội đồng quản lý được lập ra để xét duyệt các dự án số trong tương lai. Ở giai đoạn này, các dự án trước đó chỉ trong khu vực giờ trở thành toàn cầu, và các dự án dành cho một nhãn hàng sẽ phục vụ nhiều thương hiệu. Mỗi giai đoạn trong hành trình này đều có ích, thậm chí rất quan trọng, vào thời điểm đó. Các thử nghiệm giúp công ty khẳng định các ý tưởng mới và khám phá các xu hướng tương lai. Sự nở rộ các ý tưởng, dự án ở các đơn vị kinh doanh là chỉ dấu cho sự hào hứng cùng nhau xây dựng. Sự hợp nhất các dự án cũng cần thiết để phân phối nguồn lực một cách hiệu quả. Tuy nhiên, làm nhiều thí nghiệm mà không có chiến lược và phương hướng sẽ tạo ảo tưởng thành công trong ngắn hạn mà không tạo được thay đổi lâu dài. Các ý tưởng nở rộ nhưng không được hiện thực hóa trên quy mô lớn sẽ gây lãng phí thời gian và nguồn lực. Quan trọng hơn, cách tiếp cận từ dưới lên (bottom-up) như vậy thường mang tính tình thế, ngắn hạn, và không phải là câu trả lời căn bản cho chiến lược mà các doanh nghiệp nên bàn luận. Cách tiếp cận thứ 3 là tận dụng công nghệ để cắt giảm chi phí và tăng tính hiệu quả trong hoạt động. Ví dụ, các ngân hàng đóng cửa phòng giao dịch khi càng nhiều khách hàng dùng dịch vụ trực tuyến và di động. Các cửa hàng bán lẻ giảm diện tích và đóng cửa những địa điểm vắng khách. Các quy trình được số hóa và điều chỉnh để giảm chồng chéo, tăng hiệu quả. Nhiều tác vụ được thiết kế lại để khách hàng tự phục vụ (self-serve), giúp giảm chi phí nhân công. Tăng năng suất và giảm chi phí nên là các mục tiêu trong mọi doanh nghiệp. Nhưng nếu bạn chỉ hướng tới mục tiêu đó, bạn đang chấp nhận sẽ không để công nghệ thay đổi tận gốc doanh nghiệp của mình. Chẳng hạn, nếu chấp nhận như vậy thì các ngân hàng vẫn nên hoạt động như cũ và sẽ không bị ảnh hưởng nhiều từ các công ty công nghệ tài chính (fintech). (Tuy nhiên, thực tế lại không phải vậy. Chẳng hạn, quỹ đầu từ Yu’e Bao do Alibaba sở hữu mới hoạt động 4 năm, là quỹ gom tiền thừa trong tài khoản của khách hàng. Đây đã trở thành quỹ thị trường tiền tệ (money-market fund) lớn nhất thế giới, với 165,6 tỷ đô-la, vượt qua quỹ thị trường tiền tệ 150 tỷ đô-la của JPMorgan). Tóm lại, những cách để hướng tới công nghệ số như trên chỉ mang tính chắp vá, chứ không giải quyết các vấn đề ẩn sâu bên trong. Để thành công, bạn không thể chỉ tạo một đơn vị kỹ thuật số riêng, hoặc tiến hành các thử nghiệm, hoặc chỉ dự định dùng công nghệ để tăng năng suất. Thay vào đó, bạn phải biến kỹ thuật số thành chiến lược cốt lõi. Thay vì coi chiến lược số là nỗ lực riêng biệt, bạn phải để nó bao trùm lên mọi hoạt động, mọi bước đi trong doanh nghiệp của mình. TẦM NHÌN CHIẾN LƯỢC: NGUYÊN TẮC CHUNG ĐỂ ĐỔI MỚI DOANH NGHIỆP Dùng nhiều ví dụ ở nhiều ngành, cuốn sách này sẽ cho bạn các nguyên tắc chung để đổi mới doanh nghiệp, tận dụng các lợi thế sẵn có và nhìn ra những nguồn lực cần phải phát triển. Có 4 nguyên tắc căn bản: 1. Tái tư duy hướng kinh doanh 2. Tái đánh giá chuỗi giá trị 3. Tái kết nối với khách hàng 4. Tái cấu trúc doanh nghiệp Trong cuốn sách này, tôi sẽ bàn chi tiết các nguyên tắc trên. Bạn sẽ phải đối diện với chúng. Để thành công, bạn không thể bỏ qua nguyên tắc nào. Nhưng bạn sẽ nhận ra từ các nghiên cứu trường hợp rằng có nhiều hướng đi linh hoạt và rộng mở để chuyển đổi doanh nghiệp của mình. Vì biết rằng không có cây đũa thần duy nhất, cuốn sách này sẽ cố gắng đưa ra cách tiếp cận mang tính hệ thống cho việc chuyển đổi kỹ thuật số. Tái tư duy hướng kinh doanh Với những thay đổi chóng mặt của kỷ nguyên kỹ thuật số, bạn cần ngồi lại và suy ngẫm về bản chất của doanh nghiệp mình, tìm hiểu 3 yếu tố: phạm vi, mô hình kinh doanh và môi trường kinh doanh. Khi nghĩ về phạm vi, bạn sẽ phải tự hỏi: “Chúng ta sẽ hoạt động trong lĩnh vực nào?” Như Amazon, khởi đầu là một trang web bán hàng, nhưng giờ không giới hạn ở lĩnh vực bán lẻ. Năm 2017, Amazon dự kiến sẽ kiếm được 3,5 tỷ đô-la tiền quảng cáo, và đồ điện tử như Echo cũng đang tranh giành thị phần. Google cũng đang đầu tư vào xe tự lái, còn Apple, sau hàng thập kỷ là một công ty phần cứng, đang đầu tư mạnh mẽ vào mảng nội dung. Vậy bạn nên đầu tư vào đâu? Trong thời đại kỹ thuật số, các công ty thường rẽ ngang để cạnh tranh, và xác định lại phạm vi kinh doanh là chìa khóa của thành công. Cần phải cân bằng và thận trọng, vừa giữ vị trí sẵn có vừa mở rộng phạm vi kinh doanh. Chương 1 sẽ bàn về phạm vi kinh doanh và cho bạn thấy các quy luật của cuộc chơi đã thay đổi, và phải làm sao để tiếp tục cạnh tranh. Thay đổi công nghệ đòi hỏi xác định lại mô hình kinh doanh, cách bạn tạo ra giá trị và chiếm được vị trí trong chuỗi giá trị. Chẳng hạn, khi iTunes làm nghiêng ngả ngành công nghiệp đĩa hát, khiến doanh thu suy giảm, ngành này đã phải chuyển trọng tâm sang biểu diễn sân khấu làm nguồn thu chính. Ngành xuất bản và báo in, với doanh thu quảng cáo suy giảm, cũng buộc phải xem lại liệu có nên trông chờ một tương lai dựa vào quảng cáo hay không. Chương 2 bàn về các đổi mới sáng tạo mô hình kinh doanh và cách công ty của bạn có thể học hỏi. Khi các mô hình kinh doanh đều thay đổi và cạnh tranh càng gay gắt, có thể bạn sẽ nhận ra khó có thể thành công một mình. Có thể bạn sẽ phải biến thành một nền tảng (platform) nơi bạn phải hợp tác với một môi trường kinh doanh mới – cả đối tác lẫn đối thủ (frenemies). Nhiều công ty đã tạo ra các nền tảng và buộc phải thay đổi cách nhìn về cạnh tranh. Khi ngân hàng đầu tư Goldman Sachs khai trương mảng buôn bán trái phiếu cấu trúc (structured notes), còn có tên SIMON, họ đã làm mọi người kinh ngạc khi mời các đối thủ cùng lên nền tảng đó và bán sản phẩm. Chiến lược này đã khiến Goldman Sachs trở thành nhà phát hành trái phiếu cấu trúc lớn thứ 2 thế giới chỉ sau vài năm. Việc chuyển hướng từ bán sản phẩm sang quản lý một nền tảng cần chiến lược và suy nghĩ rất khác, như sẽ đề cập trong Chương 3. Đánh giá lại chuỗi giá trị Công nghệ kỹ thuật số có thể tăng hiệu quả và năng suất trong chuỗi giá trị của bạn, nhất là khi nhiều mô hình Nghiên cứu & Phát triển (R&D) và đổi mới được ứng dụng. Các công ty như GE, P&G và Siemens đã tận dụng khái niệm “sáng tạo mở” để tiếp cận R&D. Chương 4 sẽ phân tích tại sao và khi nào sáng tạo mở phát huy tác dụng, bạn nên thiết kế mô hình sáng tạo mở trong doanh nghiệp như thế nào, và làm sao để tránh các sai lầm. Công nghệ số đã mở ra kỷ nguyên Công nghiệp 4.0. Các đổi mới như sản xuất vận dụng kỹ thuật số, thực tế ảo và thực tế ảo tăng cường (virtual & augmented reality), công nghệ in 3-D, và chuỗi cung ứng kỹ thuật số đang tăng năng suất doanh nghiệp. Chương 5 sẽ bàn về cách các doanh nghiệp toàn thế giới đang vận dụng công nghệ để tạo lợi thế cạnh tranh. Những công ty mới đang áp dụng công nghệ số để làm gián đoạn chuỗi giá trị sẵn có, đặc biệt là mảng phân phối. Trong làn sóng Internet thời đầu, các công ty mới đã làm chao đảo nhiều lĩnh vực, chẳng hạn như các đại lý du lịch. Quá trình này vẫn tiếp tục, và giờ đến lượt các đại lý xe hơi và nhà bán lẻ chịu sức ép, khi các nhà sản xuất tự mở các kênh phân phối trực tuyến của riêng mình. Thách thức với các nhà sản xuất là làm sao để phối hợp cả 2 kênh phân phối truyền thống lẫn trực tuyến, làm sao để tạo sức mạnh cộng hưởng, như Chương 6 sẽ đề cập. Tái kết nối với khách hàng Công nghệ số cũng thay đổi cách tìm mua hàng, và tạo điều kiện để thu thập thông tin về toàn bộ quá trình chọn mua hàng, mở ra hàng loạt các hướng tìm kiếm khách hàng mới. Trước khi mua xe, khách hàng sẽ tìm kiếm thông tin trên Google, và đó là cơ hội để các nhà sản xuất xe hơi tìm hiểu thị hiếu đồng thời tác động đến quyết định của họ. Các cảm biến gắn vào máy giặt có thể giúp hãng máy giặt Whirlpool ghi lại cách thức sử dụng của khách hàng, và thậm chí có thể cung cấp thông tin về loại bột giặt cho hãng P&G. Vì người tiêu dùng ngày càng dựa vào đánh giá từ bạn bè trên mạng, bạn có thể theo dõi mạng xã hội xem có thể biến ai thành “người ảnh hưởng” (brand advocates) có khả năng thuyết phục người khác. Chương 7 sẽ thảo luận cách công nghệ số mở ra nhiều hướng tìm kiếm khách hàng mới. Dù marketing kỹ thuật số đã qua nhiều năm phát triển, tỷ lệ người dùng nhấn chuột vào quảng cáo trực tuyến chỉ dưới 1%. Nhãn hàng nào cũng muốn lôi cuốn người tiêu dùng, nhưng người tiêu dùng sẽ không tự nhiên mà tìm hiểu về một bánh xà phòng, một lon nước ngọt hay một chai bia. Giữa vô số thông tin ồn ào trên mạng, làm thế nào để bạn được họ chú ý? Chương 8 sẽ cho thấy câu trả lời không chỉ nằm ở công nghệ và dữ liệu, mà nằm ở việc đưa ra các giá trị độc nhất vô nhị cho khách hàng, như các ví dụ mà Tesco đã làm ở Hàn Quốc, Unilever ở Ấn Độ, và MasterCard ở Singapore. Công nghệ số lẽ ra phải khiến việc đánh giá chiến dịch quảng cáo dễ dàng hơn. Nhưng việc đó vẫn khó khăn do nhiều thách thức, như việc phân bổ kết quả của chiến dịch marketing (attribution). Làm sao để bạn phân tích và tối ưu hóa chi phí tiếp thị? Chương 9 sẽ nói về các nghiên cứu giúp các công ty trong công đoạn quan trọng này. Tái cấu trúc doanh nghiệp Đưa doanh nghiệp qua chặng đường chuyển đổi kỹ thuật số không phải chuyện nhỏ. Khi vừa củng cố thế mạnh hiện tại, vừa xây dựng cho tương lai, bạn sẽ phải quản lý đồng thời 2 doanh nghiệp. Vì vậy, doanh thu và lợi nhuận sẽ giảm trong giai đoạn chuyển đổi, trước khi có thể tăng lên, và điều đó có thể làm một CEO tự tin nhất phải nao núng. Chương 10 sẽ bàn về thách thức khi chuyển đổi kỹ thuật số và nêu những ví dụ các công ty như Adobe đã trải qua quá trình này thành công. Nếu vậy, làm sao để chuẩn bị doanh nghiệp của bạn cho việc đổi mới sáng tạo? Như tôi đã nói trong phần trước, tạo ra một nhóm khởi nghiệp riêng biệt bên trong một doanh nghiệp truyền thống giống như dùng xuồng cao tốc để chuyển hướng con tàu mẹ. Do vậy thay vì dùng xuồng cao tốc, bạn hãy tạo ra một nơi neo đậu cho các dự án mới mà chúng ta đang gọi là xuồng cao tốc này, để rồi tận dụng sức mạnh của con tàu mẹ mà dần dần lái nó theo hướng khác. Chương 11 sẽ giải thích thêm. Dữ liệu, trí tuệ nhân tạo, và máy học (machine learning) đã tự động hóa nhiều việc làm, thay đổi hoàn toàn các kỹ năng mà nhân lực của doanh nghiệp cần có. Công nghệ đã khiến việc quản lý nhân lực bớt tính chủ quan và phụ thuộc nhiều hơn vào dữ liệu. Các phương pháp mới để tuyển dụng, quản lý người tài đang được áp dụng. Chương 12 nói về các chủ đề này và mô tả cách mà Knack, một công ty ở San Francisco, Mỹ, dùng trò chơi trên di động để tuyển nhân tài. Mỗi trò chơi 10 phút cho Knack hàng ngàn kiểu dữ liệu về cách các ứng viên xử lý thông tin, đối phó với thử thách và học hỏi từ sai lầm. Sự sáng tạo này đã giúp Knack có được nhiều người ủng hộ và nhiều khách hàng lớn như AXA, BCG, Nestlé và Citigroup. Sau đây cuốn sách sẽ bàn về 4 nguyên tắc lớn của chuyển đổi kỹ thuật số được minh họa trong hình 1-1. Mỗi chương sẽ đi sâu vào 3 chủ đề nhỏ, nêu ra các cách thức tối ưu, và giải đáp những câu hỏi đặt ra ở trên. *** Phạm vi kinh doanh Năm 1960, Theodore Levitt, giáo sư Trường Kinh doanh Harvard, đăng bài viết gây tranh cãi trên Harvard Business Review, trong đó ông tranh luận rằng các công ty quá chú trọng vào sản phẩm mà không phải vào nhu cầu của khách hàng. Để giúp các nhà quản lý tránh điều này, ông đặt câu hỏi “Các bạn thực sự đang trong ngành kinh doanh nào?”1 Năm thập kỷ sau, câu hỏi căn bản đó càng trở nên quan trọng, khi các công ty chuyển từ sản phẩm sang nền tảng và ranh giới giữa các lĩnh vực ngày càng mờ nhạt. Nhưng ngay cả khi đa số doanh nghiệp đang cố gắng lấy khách hàng làm gốc, vẫn có nhiều giám đốc cao cấp từ các tập đoàn như General Motors hay Walmart chỉ nhìn vào sản phẩm để xác định mục tiêu hay lĩnh vực kinh doanh. Hãy cùng tìm hiểu xem Amazon đã vận dụng lời khuyên của Levitt như thế nào. AMAZON KINH DOANH TRONG LĨNH VỰC NÀO? Khi Amazon mới khai trương website, vào tháng 7 năm 1995, nhà sáng lập Jeff Bezos muốn dùng Internet để bán sách với giá rẻ. Ông lập ra một hiệu sách ảo, với chi phí cố định thấp và nhiều đầu sách hơn so với một cửa hàng truyền thống. Khái niệm đó trở nên phổ biến, và Bezos nhận ra khách mua những mặt hàng khác cũng sẽ thích hình thức này. Ông bán thêm đĩa nhạc, đồ điện tử, đồ chơi, phần mềm, đồ gia dụng và nhiều mặt hàng khác. Giá cạnh tranh, chủng loại đa dạng và sự tiện dụng của Amazon thách thức các nhà bán lẻ truyền thống như Best Buy, Toys “R” Us, và Walmart. Năm năm sau, Amazon mở cửa trang web và mời các bên thứ 3 lên bán hàng, với điều kiện họ trả Amazon khoản phí nhỏ. Đôi bên cùng có lợi: hàng hóa trở nên đa dạng hơn mà Amazon không tốn một xu, còn các bên thứ 3 hưởng lợi từ lượng khách sẵn có trên Amazon. Việc mở cửa cho các bên thứ 3 biến Amazon từ nhà bán lẻ trực tuyến thành một nền tảng trực tuyến, buộc Amazon phải xây dựng những cái mới đồng thời phải mời gọi, hướng dẫn và quản trị mạng lưới người bán sao cho trải nghiệm của khách hàng vẫn được đảm bảo. Và phải cạnh tranh với một loạt đối thủ mới bao gồm eBay, Craigslist và các công ty khác. Các nhà bán lẻ trực tuyến khác, như Flipkart ở Ấn Độ, cũng đang chuyển đổi tương tự và nhận ra rằng chuyển từ mô hình bán lẻ sang mô hình chợ điện tử đòi hỏi thay đổi lớn về hoạt động cũng như nguồn lực.2 Sự ra đời của dịch vụ iTunes vào năm 2001 cho phép người dùng tải về nhạc kỹ thuật số thay vì mua đĩa CD từ cửa hàng. Nhận ra xu hướng này, Amazon ra mắt dịch vụ video theo yêu cầu, ban đầu với tên Unbox sau đổi thành Amazon Instant Video, gần một năm trước dịch vụ xem phim trực tuyến của Netflix. Amazon đã theo sát nhu cầu của người dùng và chuyển từ kinh doanh đĩa CD, DVD sang xem phim trực tuyến, và phải phát triển nguồn lực mới, cạnh tranh với các đối thủ mới như Apple hay Netflix. Năm 2011, hợp tác với công ty Warner Brothers, Amazon thành lập Amazon Studios chuyên sản xuất phim, và bỗng nhiên trở thành đối thủ của Hollywood. Vì lý do gì mà Amazon, ban đầu là nhà bán lẻ, lại đi theo hướng này? Bởi vì nội dung phim giúp Amazon biến người xem thành người mua hàng. Năm 2016 tại một hội thảo công nghệ gần Los Angeles, Jeff Bezos nói: “Nếu chúng tôi đạt giải Quả cầu vàng, chúng tôi sẽ bán được nhiều giày hơn”.3 Theo như Bezos, phim của Amazon Studios cũng khiến nhiều người đăng ký gói Prime gia hạn dịch vụ hơn, và “tỷ lệ dùng thử rồi đăng ký hẳn gói Prime cũng cao hơn ở những khách hàng có xem phim trực tuyến”.4 Ra mắt năm 2015, Prime miễn phí giao hàng trong vòng 2 ngày, với chi phí của gói ban đầu là 79 đô-la/năm sau tăng lên 99 đô-la/năm. Tới năm 2017, Amazon đã có gần 75 triệu người dùng Prime trên toàn thế giới.5 Phí đăng ký không chỉ mang về cho Amazon 7,5 tỷ đô-la mỗi năm, mà người dùng Prime còn là những người mua sắm nhiều gấp đôi.6 Các phim của Amazon vừa khiến người dùng trung thành hơn với Prime, vừa lôi cuốn khách hàng mới. Năm 2015, Giám đốc tài chính (CFO) của Amazon, Tom Szkutak, khen ngợi khoản đầu tư 1,3 tỷ đô-la của Amazon vào làm phim đã góp phần quan trọng trong việc thu hút khách hàng mới đến với dịch vụ của Amazon, bao gồm Prime.7 Năm 2017, Amazon chi 4,5 tỷ đô-la để làm phim mang thương hiệu riêng.8 Nhưng phạm vi kinh doanh của Amazon không dừng lại ở bán lẻ và làm phim. Năm 2007, Amazon tung ra thiết bị đọc sách Kindle, gần 3 năm trước iPad. Đến lúc này, Amazon, khởi đầu nhờ bán lẻ, đã xâm nhập lĩnh vực sản xuất thiết bị. Kindle được thiết kế để giúp bán sách điện tử (ebook) khi mà người đọc chuyển từ sách giấy sang sách kỹ thuật số. Phải nói rằng, chiến lược của Amazon cho Kindle khác so với chiến lược của Apple cho iPad. Apple nhận doanh thu hầu hết từ thiết bị, còn Amazon coi Kindle như “dao cạo”, bán với giá thấp (thậm chí không lãi) để kiếm nhiều tiền hơn nhờ bán sách điện tử, tức “lưỡi dao” (mô hình kinh doanh còn được gọi là “lưỡi và dao cạo”). Khi người dùng ngày càng dành nhiều thời gian trước màn hình di động, Amazon tung ra điện thoại Fire vào tháng 7 năm 2014. Fire không được ưa chuộng, nhưng liệu bước đi vào thị trường này có phải sai lầm? Cũng có thể. Nhưng kịch bản thành công nếu xảy ra sẽ đem lại lợi nhuận khổng lồ. Gần đây hơn, Amazon tung ra các thiết bị khác như nút bấm Amazon Dash, cho phép người dùng mua hàng từ hơn một trăm thương hiệu, và Echo, trợ lý ảo nhận biết giọng nói, có thể chơi nhạc trực tuyến, tìm kiếm thông tin, và tất nhiên đặt hàng từ trên Amazon một cách thuận tiện.9 Echo được tung ra vào tháng 11 năm 2014, và trong 2 năm đã bán được gần 11 triệu chiếc ở Mỹ, còn các lập trình viên đã tạo ra hơn 12.000 ứng dụng hay còn gọi là “kỹ năng” cho thiết bị này. Giọng nói ngày càng trở thành phương thức giao tiếp với thiết bị, và về mặt này, Amazon đã ở vị thế chắc chắn nhờ vào Echo. Amazon cũng thành lập mảng kinh doanh quảng cáo, cạnh tranh trực tiếp với Google. Với số lượng người dùng khổng lồ, Amazon biết thói quen tìm kiếm và mua hàng của họ, và dùng kho tàng dữ liệu phong phú đó để đặt quảng cáo có tác động nhiều nhất với người dùng. Trong khi Google chỉ biết người dùng có ý định mua hàng, Amazon biết được người đó có thực sự mua hay không, một thông tin hữu ích cho nhà sản xuất, những người đang chi ngày càng nhiều ngân sách quảng cáo trực tuyến trên Amazon. Sự thay đổi đó đã mang lại cho Amazon 3,5 tỷ đô-la doanh thu quảng cáo trong năm 2017.10Nhưng một mục tiêu lớn hơn với Amazon là thay thế Google làm cỗ máy tìm kiếm sản phẩm, sao cho người mua hàng sẽ bắt đầu tìm kiếm trên Amazon, chứ không phải trên Google. Như vậy, Amazon sẽ phải chi ít tiền hơn cho quảng cáo trên Google, và Amazon cũng sẽ kiểm soát thị trường nhiều hơn. Tháng 10 năm 2015, thăm dò 2.000 người tiêu dùng Mỹ cho thấy 44% trong số họ tìm trực tiếp trên Amazon, so với 34% dùng các trang tìm kiếm như Google hay Yahoo.11 Eric Schmidt, chủ tịch điều hành của Google, thừa nhận xu hướng này. “Mọi người không nghĩ Amazon là cỗ máy tìm kiếm”, Schmidt nói, “nhưng khi tìm mua thứ gì đó, thường là bạn lên tìm trên Amazon”.12 Có lẽ gây tranh cãi hơn cả là quyết định của Jeff Bezos tiến vào thị trường điện toán đám mây, với dịch vụ Amazon Web Services (AWS). Bỗng nhiên Amazon có hàng loạt đối thủ cạnh tranh khác, như IBM. Một nhà bán lẻ đang làm gì trong mảng điện toán đám mây? AWS giúp Amazon dễ dàng tăng quy mô hoạt động để đáp ứng tăng trưởng sau này, cho phép Amazon học hỏi từ các công ty thương mại điện tử khác cũng trên nền tảng AWS. Nó cũng cho phép Amazon biến các máy chủ web nhàn rỗi thành doanh thu. Như vậy , AWS vừa là cách để Amazon xây dựng tiềm lực công nghệ để trở thành gã khổng lồ trên Internet, đồng thời kiếm lời từ tiềm lực này.   Mời các bạn đón đọc Kinh Doanh Trong Thời Đại 4.0 của tác giả Sunil Gupta.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Larry Page Và Google - Sắp Xếp Lại Hệ Thống Thông Tin Toàn Cầu - Nguyễn Ngọc Hoàn
Bộ sách  mà bạn đọc  đang cầm trên  tay là kết quả của  dự  án  nghiên  cứu  mang tên  Đi tìm Đạo  Kinh doanh của Việt Nam và Thế  giới do Tổ hợp Giáo dục PACE thực hiện trong suốt 14 tháng vừa qua.   Chúng tôi đặt  tên  cho bộ sách   này  là Đạo  Kinh doanh Việt Nam và  Thế giới  với  mong muốn được chia sẻ cùng bạn đọc, đặc biệt là bạn  đọc  doanh nhân và bạn đọc quan tâm đến kinh doanh, những kiến giải về hàng  loạt các câu hỏi như: “Kinh doanh là  gì?”, “Doanh  nhân là  ai?”, “Đâu  là ‘đạo’   của  nghề kinh doanh?” và “Tại  sao kinh doanh là một  nghề cao quý và xứng  đáng  được  xã hội tôn vinh?”...   Đội ngũ chuyên  gia của PACE cùng  các cộng  sự đã nghiên cứu cuộc  đời và sự nghiệp của 25 doanh nhân huyền thoại,  đến  từ 25 tập đoàn kinh doanh dẫn đầu trong những bảng xếp hạng doanh nghiệp trên  toàn thế giới, nhằm tìm kiếm  “cái đạo”, cái triết  lý cốt lõi trong kinh doanh của họ. Mục đích  là để lý giải  xem vì sao họ là những người kiếm tiền nhanh nhất, kiếm tiền nhiều nhất  và kiếm  tiền bền vững nhất thế giới, đồng thời  họ lại được  xã hội  đặc  biệt kính trọng?   Phân tích  từng chặng đường,  từng mốc sự nghiệp, từng bước thăng trầm... của những huyền thoại doanh nhân này, chúng tôi đã đúc kết được  những  nét chung nhất, nói chính  xác hơn, là những yếu tố khiến họ trở nên vĩ đại, trở thành  những  doanh nhân huyền thoại. Đó  là sự khao khát,  là niềm đam mê một cách mãnh liệt để sáng tạo, để đem đến thật nhiều giá trị mới cho cuộc  sống và cho xã hội. Họ đã thực  hiện   được  điều đó bằng  việc cống hiến cả cuộc  đời  mình lẫn việc truyền đạt, dẫn đường cho hậu thế.   Trong lời đầu  này của bộ sách, chúng tôi cũng muốn kể lại với quý  vị một  vài câu chuyện và một  vài so sánh mà PACE luôn tự hào khi tìm  thấy  nó trong hành trình  Khát vọng Doanh trí của mình  trong suốt những năm vừa qua: Bà chủ một tiệm  tạp hóa suốt  ngày  không vui vì buôn bán ế ẩm.  Nhưng sau những ngày tháng nhìn vào “mắt” khách hàng, bà chợt nghĩ: “Sao tôi không là người giải quyết  vấn đề nhu yếu phẩm cho cả xóm?”. Và mọi  chuyện thay đổi.  Từ đó, nhiều gia đình chưa khá giả trong khu phố  có thể mua một, hai gói mì tôm (mà không cần phải mua cả thùng   mì),  một tép bột ngọt (mà không cần phải mua cả gói bột ngọt).   Bà có thể mở cửa lúc mờ sáng  hay nửa đêm, khi chẳng  còn nơi nào bán hàng nữa để đáp ứng nhu cầu “hết chanh đột xuất”  hoặc “nhà  không còn nước mắm”. Hay hơn nữa, mọi người chỉ “xẹt” một hai bước chân là có ngay những  vật phẩm cần thiết nhất cho gia đình.  Lại thêm chuyện giá  cả  của  bà  so với  chợ  và  siêu  thị  cũng chẳng chênh lệch là bao. Ai cũng đoán ra kết quả: cửa tiệm suốt ngày người ra kẻ vào,  bà thì  bán  hàng  luôn tay và cười nói luôn miệng. Không chỉ tiền lãi thu được tăng cao, mà bà còn  có “lợi nhuận” lớn nhất  là sự quý mến của mọi người  dành  cho một người  biết  kinh doanh như bà.   Câu chuyện   thứ hai về một cơ sở sản  xuất   tủ sắt. Người ta thường mua tủ của  cơ sở này  về để đựng hồ sơ. Một cơ sở  bé  xíu  rất đỗi  bình   thường   thì  liệu  có mang trong người “sứ mệnh  xã hội”?  Trong một thời gian dài, cơ sở hoạt   động   cầm chừng, cho đến  một ngày ông chủ  của  nó thay đổi cách nghĩ:  tôi không “bán tủ sắt” nữa,  mà  sẽ “bán giải pháp lưu trữ hồ sơ văn phòng”. Từ đó, ông và đồng sự tiến   hành   nghiên cứu để tạo ra những cái tủ sao cho có thể chống được mối, mọt, chống  thấm,  ngăn tủ này  thì  có khóa   kiên cố để đựng hồ sơ quan trọng, ngăn tủ khác   thì  không cần khóa để dễ kéo ra kéo vào... Ông cũng chịu  khó đi đến các văn phòng để nghiên cứu màu sơn,  thay đổi kích cỡ,  kiểu dáng... Thế là sản  phẩm của ông còn thêm tính năng làm đẹp cho cả văn phòng  của các công ty. Chỉ sau một thời gian ngắn, cơ sở của  ông đã lột xác và phát  triển rất nhanh.   Như vậy, doanh nghiệp lớn hay nhỏ tùy thuộc  vào vấn đề xã hội mà họ giải  quyết được. Bà chủ tạp hóa của khu phố nọ cùng  Sam Walton (ông chủ tập đoàn bán  lẻ lớn nhất thế giới Wal-Mart) đều giải quyết vấn đề mua sắm của  xã hội thông qua việc  mở cửa hàng bán  lẻ. Họ chỉ  khác  nhau về phạm vi: xã hội  của  bà chủ tiệm  tạp hóa là một  khu phố,  còn xã hội của Sam mang tầm cỡ  thế  giới.   Điều xã hội  quan tâm không phải  là doanh nghiệp đó kiếm được bao nhiêu mà  là họ đã mang lại gì cho cộng đồng.  Chẳng  hạn, trong khi tỉ phú Nhật,  Toyoda (“cha đẻ” của Toyota), với tinh thần ái quốc được người Nhật  xem như anh hùng  dân  tộc thì  tỉ  phú  Nga, Khodorkovsky (ông chủ của Yukos), ông ta là ai trong mắt dân Nga thì chỉ người Nga mới thấu  rõ. Sự khác nhau này   có lẽ do cách thức kiếm  tiền của họ.   Nghề kinh doanh, xưa nay vẫn  thường bị hiểu chỉ như là nghề “kiếm tiền”. Nhưng thực chất, không hề có  nghề kiếm tiền, bởi nghề nào thì cũng kiếm  tiền cả. Chẳng   hạn,  luật  sư kiếm tiền bằng  việc  hành nghề luật, bác sĩ kiếm  tiền bằng cách chữa bệnh cứu người... Và doanh nhân, người hành nghề kinh doanh, cũng kiếm tiền bằng cách lãnh đạo một doanh nghiệp và thông qua doanh nghiệp đó để giải quyết  vấn đề hay đáp ứng nhu cầu nào đó của xã hội. Nhưng điều khác  biệt  của nghề kinh doanh là  trong quá trình hành nghề của mình  doanh nhân không hành động một cách đơn lẻ mà biết  kiến  tạo ra các chuỗi giá trị. Cụ  thể hơn, họ nắm  lấy  một  doanh nghiệp và  tập hợp bên mình nhiều thành viên để cùng cộng hưởng lại nhằm  hình  thành  một sức mạnh  tổng  lực,  từ đó tạo ra nhiều giá trị hơn cho xã hội. Đó cũng  chính là lý  do mà nghề kinh doanh thường kiếm  được nhiều tiền hơn so với những  nghề khác và vẫn  được cộng đồng xã hội  ủng  hộ.   Nghiên cứu 25 huyền thoại doanh nhân thế giới cho thấy,   dù có quá  nhiều sự khác  biệt  nhưng họ đều có chung một tư tưởng chủ đạo: “Kinh doanh là phụng sự xã hội”.  Hay nói một cách đầy  đủ hơn, “Kinh doanh là kiếm tiền bằng cách phụng sự xã hội,  bằng cách dùng sản  phẩm hay dịch  vụ như là  phương tiện để giải quyết những vấn đề của xã hội và làm  cho cuộc sống trở nên tốt đẹp  hơn”.   Cái “đạo”  kinh doanh này  đã được  họ quán triệt ngay từ buổi  đầu  khởi nghiệp đầy gian khó cho tới lúc thành công. Và sự thật này cũng chính  là  lý do giúp họ kiếm  tiền nhanh nhất, nhiều nhất, bền nhất,  còn bản thân họ thì  được  xã hội tôn vinh, nể trọng,  và rồi họ đi vào lịch sử kinh doanh thế giới như những huyền thoại, doanh nghiệp của họ cũng  vĩ đại và trường tồn. Như vậy, với một tâm thế luôn hướng về cộng đồng, luôn khát khao làm cho xã hội quanh mình (có thể nhỏ gọn trong một ngôi làng  hoặc  rộng  lớn bằng  cả một hệ mặt trời) tốt đẹp hơn, chính họ, những doanh nhân (dù lớn hay nhỏ, dù “Tây” hay “Ta”, dù “cổ” hay “kim”) luôn được  xã hội  tôn vinh không phải   vì  số của  cải khổng lồ họ kiếm  được, mà vì những  đóng góp vô giá của họ vào  sự đổi  thay của thế  giới này.   Song song với những  doanh nhân lẫy lừng của thế giới, điều khác biệt ở bộ sách   này  là chúng tôi đã khởi sự hành  trình tìm kiếm những “huyền thoại doanh nhân Việt Nam” để, như một  cố gắng, “định vị” xem ông cha ta ngày xưa đã khởi  sự kinh doanh như thế nào. Và thật bất ngờ, trong lịch  sử Việt  Nam đã từng có những Lương Văn Can, Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà, Trịnh Văn Bô...  với những  tư tưởng kinh doanh có thể gây ngạc nhiên  cho đến  tận bây giờ.   Nhìn “Tây” sẽ thấy  “Đông”, soi “cổ” mà ngẫm   tới “kim”, đó là điều mà chúng  tôi, những người thực hiện bộ sách,  mong muốn được chia sẻ. Bộ sách này cũng là một  câu chuyện, một phác thảo cho bức tranh toàn cảnh sinh động  và đầy màu  sắc về doanh nhân thế giới - những doanh nhân làm thay đổi  thế  giới, và về một thế hệ doanh nhân tiền bối của Việt  Nam cách đây gần một trăm năm lịch  sử - một thế hệ doanh nhân mà đến  ngày nay chúng ta vẫn  có thể tự hào.  Từ đó, những  nỗ lực này sẽ góp  phần hình thành văn hóa doanh nhân Việt,  một bộ phận  quan trọng trong văn hóa Việt Nam.   Chúng tôi xin được  gửi lời tri ân trân trọng nhất đến những đồng nghiệp đã hỗ trợ tinh thần cho chúng tôi, đến  các cá nhân và đơn vị đã sẵn lòng hỗ trợ thông tin, tư liệu trong quá trình  nghiên cứu. Đặc biệt, chúng tôi muốn  gửi lời cám ơn chân thành  đến  các tập đoàn hàng đầu thế  giới do các  doanh nhân huyền thoại sáng lập, cám ơn gia tộc họ Lương, gia tộc họ Bạch,... - hậu duệ  của cụ Lương Văn Can, cụ Bạch Thái Bưởi... đã nhiệt  tâm giúp đỡ chúng  tôi trong suốt quá trình “đi tìm Đạo Kinh doanh của Việt  Nam và Thế giới”. Việc triển khai dự án này  từ khâu nghiên cứu đến thể hiện thành sách trong một thời gian không dài, cùng những  khó khăn trong quá trình  đi tìm tư liệu lịch sử  về các  nhân vật,  chắc  hẳn  bộ sách   sẽ khó tránh khỏi những sai sót nhất định.  Do vậy, chúng tôi rất mong nhận  được  sự thông cảm cũng như những góp   ý chia sẻ của bạn đọc gần  xa về bộ sách  để lần tái bản tiếp  theo được hoàn thiện  hơn.   Chúng tôi, PACE và Nhà xuất  bản Trẻ, xin trân trọng giới thiệu  cùng bạn đọc bộ sách đầy  tâm huyết  này. Và chúng  tôi cũng tin rằng, qua bộ sách  này, bạn đọc sẽ có thêm kiến giải về “đạo kinh doanh”, để từ đó, tự mình đưa ra một định nghĩa  cho nghề kinh doanh và tự mình  khẳng định  rằng, kinh doanh là kiếm tiền hay phụng sự xã hội!   Thay mặt Nhóm   tác giả của bộ sách Giản Tư Trung - Người  Sáng lập PACE Sài Gòn,  Xuân Đinh Hợi, 2007 *** Bạn  có còn  tin trong cuộc  sống vẫn có  những huyền thoại?   Tôi mời  bạn  đọc  lá thư này  của  một  bé trai ở TP.HCM – một nơi cách xa nhân vật chính  trong cuốn  sách này hơn nửa  vòng  trái  đất.  Bé trai 16 tuổi,  gửi cho người   mẹ mà cậu  gọi là “người dẫn đường  vĩ đại”  của mình.   Con sẽ sống,   mẹ ơi!   Sinh ra, con đã mang trong người chứng bệnh hiểm nghèo. Khi cầm kết  quả chẩn đoán của bác sĩ với hội chứng   “xương thủy tinh”, tí nữa mẹ đã ngất xỉu.   Con chưa hiểu hết được cuộc chiến   đấu dữ dội của  mẹ để cho con được hòa nhập  cuộc sống, được đi học, được  vui chơi với mọi  người.  Với một  đứa  trẻ mang căn bệnh như con thì giữ được mạng sống đã là khó,  vậy  mà mẹ vẫn tin là  con còn  làm  nên  được  nhiều điều tốt  đẹp nữa,  dẫu   có lúc niềm tin của mẹ đã bị ông trời “phá đám”. Như năm trước (2005), chỉ  còn ba tháng nữa là  con thi tốt nghiệp  cấp II, vậy mà chỉ sau một  cú sượt  chân, tất  cả đã hóa  thành ác mộng:   xương đùi  con vỡ vụn  và bác  sĩ  đã nói: “Kiểu này thì  chỉ  bó cho liền chứ không còn cơ may đi lại nữa”.   Có  lẽ niềm tin của mẹ cuối cùng rồi cũng được đền đáp. Trong một lần lướt web, con đã  tình cờ phát  hiện   một loại biệt  dược  có thể giúp tình trạng  bệnh của  con khá  hơn. Tin  này  làm “chấn động” cả nhà  mình, giống như tìm thấy ánh sáng cuối đường  hầm. Cả nhà  tưng bừng hẳn lên...   Con thật  sự rất  lo lắng  về khoản chi phí điều trị tiếp theo và số nợ của  gia đình  nữa, nhưng mẹ đã truyền cho con một niềm tin rằng con sẽ sống,  sống  để trả  ơn ba mẹ, hòa nhập   cộng đồng   và để cảm ơn cuộc  đời vì cuộc  đời đã cho gia đình mình niềm tin, nghị lực  lạ kỳ...   Đỗ Minh Hội   Đó  là lá thư tràn ngập tình yêu và sự kỳ diệu  của cuộc  sống mà Đỗ Minh Hội, 16 tuổi, ở  quận Hóc Môn, TP Hồ Chí Minh, gửi đăng trên  báo Tuổi  Trẻ   15.09.2006. Hôm sau, bạn đọc  khắp nơi tìm đến chia sẻ  với Hội.   Còn đây là thư của Hội viết cho chúng tôi, những người  làm ra cuốn sách này, về điều kỳ diệu  của câu chuyện:   Em dùng Google vì thấy trên ti-vi nói về những điều kỳ diệu   từ trang web này. Em thử nhập  từ   khóa  “xương thủy  tinh” và tìm  ra thuốc biệt dược. Trong một thế  giới rộng lớn như Internet thì  có một người  dẫn   đường   là  cần  thiết lắm. Google đã  dẫn đường  giúp em xác  định mình cần  những  gì và tìm  kiếm  ở  đâu.   Và em cũng xin cám ơn một người  dẫn đường vĩ  đại:  Đó  là mẹ em. Mẹ đã giúp  em biết phân biệt   cái  gì  tốt  và  không tốt  để em không bị “nhiễm” khi vào Internet.   Minh Hội   Điều kỳ diệu  vẫn  còn đó trong cuộc đời này. Còn đây là kết  quả  của cuộc  khảo  sát do bệnh   viện Princess Alexandra ở  Brisbane, bên nước Úc: Google tỏ  ra khá hiệu  quả vì có thể chỉ ra đúng   58% các ca bệnh  khó. Một trong các  tác  giả của cuộc  khảo  sát này  là bác sĩ Hangwi Tang cho biết các bác sĩ tìm đến  Google vì họ không thể nhớ hết các triệu  chứng  của các căn bệnh trong khi chúng lại nằm  đâu đó trên  Internet. Theo kết quả được công bố vào  tháng   11.2006 thì   có 60% bác  sĩ dùng Google để tham khảo chẩn  bệnh.  Dĩ nhiên các nhà khảo sát cũng khẳng định  rằng không gì, kể cả  Google, có  thể thay thế được   các bác sĩ. Chắc chắn chúng  ta sẽ đồng ý  như vậy nhưng rõ ràng Google có giá trị  tham khảo  rất lớn trong nhiều lĩnh vực,  bao gồm  cả những  lĩnh vực  rất chuyên  khoa như y tế.   Nếu bạn là người làm ra cái máy tìm  kiếm  Google đó, bạn  có vui không với những  gì mà mình  giúp ích cho người bạn nhỏ “xương thủy tinh”? Và đột nhiên  bạn trở thành  người  giàu có của hành  tinh từ cái máy  chỉ  giúp  người  đó, bạn nghĩ gì?   Cuốn sách này đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi  như vậy,  nhằm   cố gắng làm  rõ một  huyền thoại  của đầu  kỷ nguyên của chúng ta: Larry Page, một thanh niên  người  Mỹ – linh hồn  của Google. Larry Page – người  đã đưa ra ý tưởng để rồi khởi đầu cho Google – chưa bao giờ gặp bạn nhỏ Minh Hội, chắc chắn vậy rồi.  Nhưng có lẽ họ đã gặp  đâu đó  trong một  kiểu quan hệ  mà chúng  ta gọi   là trách nhiệm  với người khác. Thoạt đầu,  chúng tôi muốn kể các bạn nghe về một  kỳ quan trong thế giới kinh doanh nhưng rồi các nguồn  tài liệu  đưa chúng tôi đi xa khỏi dự định  đó. Chỉ với góc nhìn kinh doanh, thật khó để chỉ ra một ranh giới   rõ ràng trong con người  của tỷ phú Larry Page. Có  lẽ người  thanh niên  chưa bao giờ  qua trường  lớp kinh doanh này  chỉ  bắt đầu kinh doanh khi nhận ra trách nhiệm  làm doanh nhân của mình. Trách nhiệm xuất hiện  khi Page nhận thấy người khác đang tin cậy mình  trong chính  trò chơi mà mình bày ra. Trách  nhiệm   với người khác đối với Page bắt đầu đơn giản thôi. Chỉ  có điều, trách nhiệm đó đôi khi thật mơ hồ vì người này cách người kia cả một địa  cầu.  Sự mơ hồ đó, thường  chỉ trở nên  rõ ràng khi nó trở thành  trách nhiệm   với tha nhân. Điều thú  vị  là Page đã xuất  phát  từ quan điểm nào và đã làm thế  nào để triển khai trách nhiệm đó trên quy mô toàn cầu,  với bàn tay trắng và với con đường chưa có dấu  chân người đi trước?   Và một  thanh niên  phải nhìn đời  như thế nào mới cắm được  một  cột mốc  quan trọng bậc nhất trong suốt lịch  sử truyền thông và chia sẻ  tri thức  của con người, kể từ ngày  con người biết lưu lại  tri thức của mình  trên vách hang động hàng vạn năm trước.   Tỷ phú  Larry Page khi về thăm trường   cũ, Đại học  Michigan đã  nói  với  sinh viên  đàn em: “Tôi muốn  nói với các kỹ sư Michigan rằng hãy cứu lấy thế  giới của bạn bằng việc  xây dựng  ước mơ của bạn”. Vấn đề là  xây dựng  ước mơ chứ không chỉ là bản  thân ước mơ đó.   Hồ  sơ bản  quyền Google có  mã   U.S. Patent 6.285.999, do Đại  học  Stanford đăng ký,  và  ghi tên  Lawrence Page là nhà  phát  minh. Larrry Page chính là cha đẻ của huyền thoại Google theo nghĩa phát  kiến đó. Cũng  chính Page trong quá  trình cùng hoàn thiện  thuật toán với Brin đã sáng tạo ra hàng  loạt  giải pháp  rất có giá trị  sử dụng,  giá trị xã hội  cho phát minh.   Bây giờ,  bạn  có thể bắt  đầu đọc  cuốn  sách  và nếu bạn muốn, hãy google để bổ sung cho những gì bạn muốn   biết thêm.  Và  biết đâu bạn   sẽ  bắt đầu  một ước mơ riêng nào đó của mình.  Bởi vì với ước mơ cho thế  giới và nỗ lực 110% sức lực, một người  trẻ tên là Larry Page ở  châu Mỹ đã nối được Text Box: P thông điệp hữu ích đến một bé trai ở Việt Nam bên kia bán cầu  trong mối quan hệ tha nhân. Nguyễn Ngọc Hoàng Mời các bạn đón đọc Larry Page Và Google - Sắp Xếp Lại Hệ Thống Thông Tin Toàn Cầu của tác giả Albatross.
Henry Ford và Ford - Đặt Thế Giới Lên Bốn Bánh Xe - Lê Minh Toàn
Đặt thế giới lên bốn bánh xe là cuốn sách do Tổ hợp Giáo dục PACE biên soạn tóm gọn những nét cơ bản về cuộc đời của Henry Ford – ông chủ hãng xe Ford lừng danh thế giới. Cuốn sách được chia làm bốn phần, trong đó: Phần 1 phác họa cho người đọc về cuộc sống của Henry Ford khi đã là một tỉ phú – một cuộc sống giản dị trong sinh hoạt, hăng say trong lao động sáng tạo. Phần 2 là những quyết định góp phần thay đổi thế giới của Henry Ford. Đó là tư duy trong công việc, không ngừng tư duy, không ngừng sáng tạo và cải tiến. Ông đã sáng tạo ra học thuyết Ford – tạo ra dây chuyền sản xuất đầu tiên trên thế giới. Phần 3 là quá trình học tập, rèn luyện của Henry Ford. Ông đã cho mọi người thấy tầm quan trọng của việc học tập – không chỉ từ sách vở mà còn từ kinh nghiệm đời sống, trải nghiệm lao động và từ những người thợ lành nghề, những người có kinh nghiệm… Phần 4 là di sản của Henry Ford, nói đến những bạn bè thân tín của ông cũng như những đối thủ lừng danh ông đối đầu, và người kế vị ông. Đồng thời cũng thể hiện mục tiêu của ông, đó là phụng sự xã hội chứ không chỉ là kiếm tiền. *** Cả thế giới đang di chuyển trên những chiếc xe bốn bánh có gắn động cơ. Không chỉ Mỹ hay Châu Âu - cái nôi của những sáng chế đầu tiên về xe hơi, mà ngay cả rất nhiều nước Châu Á, ôtô- đã trở thành một vật dụng quen thuộc của các gia đình. Có nhận định rằng, ôtô đã làm thay đổi rất lớn lối sống của người Mỹ tới mức kh1o có thể tưởng tượng rằng họ có thể sống mà không có nó. Ôtô cũng không phải là giấc mơ xa với với những người có thu nhập trung bình nữa. Nếu chúng ta đi ngược về quá khứ, vào những năm đầu thế kỷ XX, buổi đầu của nền công nghiệp xe hơi thì sẽ thấy một sự tương phản rất lớn. Thời đó, những chiếc xe hơi là cả một gia tài lớn đối với một người trung lưu ở Mỹ và Châu Âu. Xe hơi như một thứ đồ chơi của giới thượng lưu, một biểu tượng của sự xa hoa dành riêng cho giới quý tộc. Những hãng sản xuất xe hơi đã hốt bạc một cách “nhẹ nhàng” trên các sản phẩm dành cho nhà giàu. Chẳng ai dại dột phổ biến công nghệ hay tìm cách làm cho các sản phẩm phong phú hơn, vì như vậy họ sẽ phải bỏ ra nhiều công sưc hơn để làm ra một sản phẩm bằng cách lắm tiền là phương châm kinh doanh của các hãng xe hơi thời đó. Một cá nhân vĩ đại là người biết đặt lên vai mình một sứ mệnh đối với xã hội mà anh ta đang sống. Henry Ford đã đặt lên vai mình một sứ mênh cao cả: góp phần làm đại chúng hoá xe hơi trên toànthế giới. Đó không phải là giấc mơ xa xăm, mà nó đã được hiện thực hoá ngay sau khi Ford Motor ra đời trên thị trường chưa đầy 20 năm. Quả thực đó là một bước tiến kỳ diệu. Henry Ford, vị thánh ấy đã làm gì và đã làm như thế nào? Cuốn sách nhỏ bé này sẽ hé lộ về Ford, không phải là chân dung về ông, mà về những gì ông đã làm để giúp cho chiếc xeương tiện của đại chúng.   Mời các bạn đón đọc Henry Ford và Ford - Đặt Thế Giới Lên Bốn Bánh Xe của tác giả Lê Minh Toàn.
Bạch Thái Bưởi - Khẳng Định Doanh Tài Nước Việt - Lê Minh Quốc
Bộ sách  mà bạn đọc  đang cầm trên  tay là kết quả của  dự  án nghiên  cứu  mang tên  Đi tìm  Đạo Kinh doanh của Việt Nam và Thế  giới do Tổ hợp Giáo dục PACE thực hiện trong suốt 14 tháng vừa qua.   Chúng tôi đặt  tên  cho bộ sách  này  là Đạo  Kinh doanh Việt Nam và  Thế giới  với  mong muốn được chia sẻ cùng  bạn  đọc,  đặc biệt   là bạn  đọc  doanh nhân và bạn đọc quan tâm đến kinh doanh, những kiến giải về hàng  loạt các câu hỏi như: “Kinh doanh là  gì?”, “Doanh nhân là  ai?”, “Đâu  là ‘đạo’   của  nghề kinh doanh?” và “Tại  sao kinh doanh là một  nghề cao quý và xứng  đáng  được  xã hội tôn vinh?”...   Đội ngũ chuyên  gia của PACE cùng  các cộng  sự đã nghiên cứu cuộc  đời và sự nghiệp của 25 doanh nhân huyền thoại,  đến  từ 25 tập đoàn kinh doanh dẫn đầu trong những bảng xếp hạng doanh nghiệp trên toàn thế giới, nhằm  tìm kiếm  “cái đạo”,  cái triết  lý cốt lõi trong kinh doanh của họ. Mục đích  là để lý giải  xem vì sao họ  là những người kiếm tiền nhanh nhất, kiếm tiền nhiều nhất  và kiếm tiền bền vững nhất thế giới, đồng thời họ lại được  xã hội đặc biệt kính trọng?   Phân tích  từng chặng đường,  từng mốc sự nghiệp, từng bước thăng trầm... của những  huyền thoại doanh nhân này, chúng tôi đã đúc kết được  những  nét chung nhất, nói chính  xác hơn, là những yếu tố khiến họ trở nên vĩ đại, trở thành  những  doanh nhân huyền thoại. Đó  là sự khao khát,  là niềm đam mê một cách mãnh liệt để sáng tạo, để đem đến thật nhiều giá trị mới cho cuộc  sống  và cho xã hội.  Họ đã thực hiện được điều đó bằng việc  cống hiến  cả cuộc đời mình  lẫn việc truyền đạt, dẫn đường cho hậu thế.   Trong lời đầu  này của bộ sách, chúng tôi cũng muốn kể lại với quý  vị một  vài câu chuyện và một  vài so sánh mà PACE luôn tự hào khi tìm  thấy nó trong hành trình Khát vọng Doanh trí của mình  trong suốt những năm vừa qua:   Bà chủ một tiệm  tạp hóa suốt  ngày  không vui vì buôn bán ế ẩm.  Nhưng sau những ngày tháng nhìn vào “mắt” khách hàng, bà chợt nghĩ: “Sao tôi không là người giải quyết  vấn đề nhu yếu phẩm cho cả xóm?”. Và mọi  chuyện thay đổi.  Từ đó, nhiều gia đình chưa khá giả trong khu phố  có thể mua một, hai gói mì tôm (mà không cần phải mua cả thùng   mì),  một tép bột ngọt (mà không cần phải mua cả gói bột ngọt).   Bà có thể mở cửa lúc mờ sáng  hay nửa đêm, khi chẳng còn nơi nào bán hàng nữa để đáp ứng nhu cầu “hết chanh đột xuất”  hoặc “nhà  không còn nước mắm”.  Hay hơn nữa, mọi người chỉ “xẹt” một hai bước chân là có ngay những  vật phẩm cần thiết nhất cho gia đình.  Lại thêm chuyện giá  cả của  bà  so với  chợ  và  siêu  thị cũng chẳng chênh  lệch   là bao. Ai cũng đoán ra kết quả: cửa tiệm suốt ngày người ra kẻ vào,  bà thì bán hàng luôn tay và cười nói luôn miệng. Không chỉ tiền lãi thu được tăng cao, mà bà còn  có “lợi nhuận” lớn nhất   là sự quý mến   của mọi người  dành  cho một người biết kinh doanh như bà.  *** Có lẽ, Bạch  Thái  Bưởi  chưa phải  là nhà  tư sản giàu nhất trong lịch  sử Việt Nam. Nhưng ông lại chính là nhà  buôn nổi danh nhất  và được  nhiều người kính  trọng, ngưỡng  mộ lẫn công kích nhất.   Người ta chẳng truyền tụng nhiều về gia sản của ông, sử sách  cũng  chỉ  ghi chép  khá tản mạn  về những công ty, nhà xưởng  và công việc  của ông. Nhưng cho đến mãi tận ngày  nay, người ta vẫn tôn vinh Bạch Thái Bưởi vì ông chính là người đầu tiên khẳng định  vị thế của doanh nhân Việt, người làm kinh doanh với khát vọng to lớn  là cải tạo  xã hội,  mà  cụ thể là ước  vọng   có thể xây dựng một Hà Nội lung linh hoa lệ như Paris…   Khẳng  định doanh tài  nước   Việt từ  bàn   tay trắng, trong một thời kỳ đen tối của đất nước.  Quả thật,  đó là việc  đáng  tôn vinh.   Đó là một  thời  kỳ Việt   Nam sống trong chế  độ thuộc   địa  Pháp.  Đó cũng  là một  thời  kỳ đặc biệt, khi cánh  cửa mở ra, người Việt lần đầu tiên  đón nhận những tri thức mới, kinh nghiệm làm ăn mới của thế  giới. Một bộ phận  trí thức đã ý  thức được nhiệm   vụ tiên  phong của  họ là phất  lên  ngọn  cờ khai trí, kêu  gọi đồng  bào đổi mới để nỗ lực đưa dân tộc phát triển sánh ngang với các cường  quốc phương Tây.   Đó  là thời  kỳ mà  nghề buôn lần đầu tiên  trong lịch  sử được  xem trọng, được cổ súy nhiệt  liệt. Một phong trào thực nghiệp  rầm rộ cả nước.   Chính trong buổi đầu phát triển ngành kinh doanh tại Việt Nam đã xuất hiện  một lớp doanh nhân mới ưu tú – những doanh nhân kinh doanh thành đạt nhờ giải  quyết tốt những  nhu cầu   xã hội  và có một tinh thần  vì cộng đồng  rất cao.   Khi nói  tới lớp  doanh nhân ưu tú này,  cái  tên Bạch Thái Bưởi luôn được người đương thời   và cả hậu thế  nhắc đến  với niềm kính  trọng  lẫn  tự hào. Bạch  Thái  Bưởi  là ai? Xung quanh nhân vật này có rất nhiều huyền thoại. Khó ai có thể hình dung một người Việt Nam tay trắng  có thể làm nên một sự nghiệp  lẫy lừng dưới thời thuộc địa.   Từ một công chức làm trong một hãng thầu công chánh  của Pháp,  một ngày nọ Bạch  Thái  Bưởi  đã quyết chí mạo hiểm làm giàu. Chàng  trai ấy  đã từng xuất dương để học tập kinh nghiệm, để tiếp cận  với tri thức  thế  giới nhằm  có một  nền tảng vững  chắc trong kinh doanh.   Chính từ khát  vọng  làm  giàu  và những   kinh nghiệm từ sách vở, Bạch  Thái Bưởi đã thành  công trên  thương trường. Chỉ sau một thời gian ngắn Bạch Thái công ty đã vươn ra rất nhiều lĩnh vực, từ  nghề buôn gỗ, thầu  thuế  chợ đến kinh doanh thuyền bè trên sông nước, khai mỏ…   Dưới thời thuộc  địa, các nhà buôn của ta bước ra thương trường  cũng là bước  vào  một  cuộc  cạnh tranh với tư bản các nước  như tư bản Hoa kiều, Pháp kiều… Bạch Thái Bưởi đã thành  công không chỉ  nhờ sự nhạy  bén trong kinh doanh mà chính là từ quan niệm  của ông về việc kinh thương: kinh doanh là cách  để giải quyết  những nhu cầu trong xã hội,  để khẳng định  hình  ảnh của người Việt trên thương trường.   Nhà văn Lê Minh Quốc,  tác giả của tập sách này kể với chúng  tôi: “Một trong những khó khăn cần phải vượt qua là đánh   giá  như thế nào  về con người Bạch Thái Bưởi? Thực chất ông là người như thế  nào?  Có tư liệu cho rằng, trong đời thường ông là người keo kiệt,  bủn xỉn, làm giàu bằng nhiều thủ đoạn;  ngược  lại có tài liệu  ghi nhận ông như một nhà cách  mạng.  Cả hai thái độ đánh  giá như thế đều có gì đó  chưa xác đáng.  Không biết  dựa vào nguồn tư liệu nào,  có khá  nhiều bài  viết đề cập đến chi tiết “có lần lên  tiếng bênh vực cho quyền lợi của người  dân bị trị, trong Hội nghị kinh tế  lý tài, ông bị Toàn  quyền Robin đe dọa: “Nơi nào  có Robin thì không có Bạch Thái Bưởi”,  ông đáp  lại: “Nước   này còn Bạch  Thái  Bưởi  thì  không còn Robin”. Do không tìm được, không tìm thấy trong tư liệu  gốc đề cập đến chuyện “giật gân” này nên tôi dứt khoát không sử dụng.  Hơn nữa Bạch Thái Bưởi qua các tư liệu  đã thu thập  và chọn lọc thì tôi ngờ rằng,  không bao giờ ông buột miệng  nói những câu “dại dột” như vậy.  Đó không phải là tính  cách của một người lão luyện,  bản lĩnh, nhiều kinh nghiệm trên  thương trường... như Bạch Thái Bưởi”.   Bạn đọc đang cầm trên tay tập sách viết về hành trình  đặc biệt của một con người kinh doanh vì xã hội, một hành trình  đầy ắp  gian nan, vất vả. Ông đã  để lại một  kinh nghiệm   sống còn trong kinh doanh, một  bài học quý báu cho đời sau là  cách xác lập mục  tiêu  làm giàu. Nếu chỉ bo bo thu vén để giàu nứt nố đổ vách,  thu vén cho riêng cá nhân mình như biết bao nhà tư sản khác, thì ngày nay không mấy ai buồn nhắc đến  tên tuổi của ông nữa, bởi cái giàu ấy nghĩ  cho cùng  cũng  chỉ  là “giàu như Thạch Sùng” mà thôi.   Hơn một trăm năm trôi qua, ngồi  ngẫm  lại để thấy người xưa đã thật  sự giong buồm ra biển lớn một  cách  tự tin, đàng  hoàng  và còn nguyên  vẹn những  bài học về thuật  xử thế,  phép  kinh thương cũng như một tấm lòng toàn vẹn với đồng  bào. ... Mời các bạn đón đọc Bạch Thái Bưởi - Khẳng Định Doanh Tài Nước Việt của tác giả Lê Minh Quốc.
Akio Morita và Sony Kiến Tạo Nền Giải Trí Tương Lai - Lê Nguyễn
Cùng bạn đọc: Kiếm tiền hay phụng sự xã hội? Bộ sách mà bạn đọc đang cầm trên tay là kết quả của dự án nghiên cứu mang tên “Đi tìm Đạo Kinh doanh của Việt Nam và Thế giới” do Tổ Hợp Giáo Dục PACE thực hiện trong suốt 14 tháng vừa qua. Chúng tôi đặt tên cho bộ sách này là “Đạo Kinh doanh Việt Nam và Thế giới” với mong muốn được chia sẻ cùng bạn đọc, đặc biệt là bạn đọc doanh nhân và bạn đọc quan tâm đến kinh doanh, những kiến giải về hàng loạt các câu hỏi như: “Kinh doanh là gì?”, “Doanh nhân là ai?”, “Đâu là “đạo” của nghề kinh doanh?” và “Tại sao kinh doanh là một nghề cao quý và xứng đáng được xã hội tôn vinh?”... Từ câu chuyện của những huyền thoại doanh nhân thế giới *** Tôi gọi ông là một huyền thoại – một huyền thoại đã dành trọn cuộc đời mình, trọn sự nghiệp của mình để phục vụ nhân “Khi sinh ra, bạn khóc còn mọi người đều cười. Sống sao cho khi bạn qua đời, mọi người đều khóc trong khi mỗi mình bạn cười” – có một câu thành ngữ mà dẫu nhiều năm qua rồi, nhiều người dân Nhật vẫn thỉnh thoảng nhớ lại khi nhìn thấy một cái ti-vi mang nhãn hiệu Sony. Họ, những con người hết sức bình thường ấy, hầu hết chưa một lần gặp gỡ người cha của tập đoàn Sony Akio Morita. Nhưng với họ, ông chiếm một vị trí quan trọng, thật quan trọng trong lòng họ. Đơn giản, ông đã làm thay đổi cuộc sống của họ, làm thay đổi môi trường sống xung quanh họ bằng tài năng xuất chúng và tinh thần xã hội rộng lớn của mình. Một trong những người bạn của tôi, chị Miki Amorato, đang làm việc tại Thành phố Hồ Chí Minh đã kể cho tôi về những giọt nước mắt của bà nội mình khi nghe tin Akio Morita qua đời. Miki không khóc, nhưng giọng chị nghe nghèn nghẹn lúc nhớ lại khoảnh khắc chị theo dõi đám tang của ông cách đây đã nhiều năm... * * * Ngày 4.10.1999, một ngày thu ảm đạm ở đảo quốc mặt trời mọc, thanh âm những nhạc phẩm của Giacomo Puccini vang vọng khắp nơi. Những giai điệu opera đẫm chất Ý này lại chính là giai điệu đưa tang một huyền thoại của nước Nhật: Akio Morita – người sáng lập tập đoàn Sony. Đơn giản, vì đây là những giai điệu mà ông thích nhất khi còn sống. Ngày hôm ấy, nước Nhật khóc khi giã từ một người công dân tuyệt diệu của mình. Akio Morita ra đi ở tuổi 78 sau khi đã cống hiến cho nước Nhật và thế giới những giá trị vô cùng to lớn. Hơn 3.000 người, gồm nhiều chính khách và nhà ngoại giao, trong đó có các cựu Thủ tướng, các lãnh đạo những tập đoàn lớn tại Nhật Bản đã tập trung trước khách sạn Tokyo để tiễn đưa Morita về nơi an nghỉ cuối cùng. Mọi người đứng yên và cúi đầu trước chân dung của Morita trên màn hình khổ lớn cao 3m trong nhạc phẩm Ave Maria của nhà soạn nhạc Đức, Schubert do dàn nhạc Tokyo Philharmonic biểu diễn. Những thước phim video phát lại hình ảnh Morita khi còn trẻ đang bày tỏ niềm mong muốn làm chiếc cầu nối giữa Nhật Bản và phần còn lại của thế giới, những hình ảnh về chiếc ti-vi đầu tiên xuất hiện trên thị trường, niềm vui của lô hàng xuất khẩu đầu tiên... Khi chiếc xe chở quan tài Morita chạy ngang trụ sở của Sony, khoảng 3.000 công nhân viên của tập đoàn đã đứng sẵn hai bên đường, kính cẩn từ biệt người lãnh đạo, người thầy, người bạn lớn của họ, người  đã gắn bó cuộc đời mình với thương hiệu Totsuko và Sony suốt hơn 50 năm. 50 năm ấy, Akio Morita đã làm thay đổi xã hội Nhật Bản bằng những ý tưởng của mình. Hơn thế nữa, ông đã làm thay đổi cả cách nhìn của thế giới về đất nước bị bại trận trong chiến tranh với tàn tích của hai quả bom nguyên tử. Tôi gọi ông là một huyền thoại – một huyền thoại đã dành trọn cuộc đời mình, trọn sự nghiệp của mình để phục vụ nhân loại.   Mời các bạn đón đọc Akio Morita và Sony Kiến Tạo Nền Giải Trí Tương Lai của tác giả Lê Nguyễn.