Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tìm Mình Trong Thế Giới Hậu Tuổi Thơ

Tìm mình trong thế giới hậu tuổi thơ dẫn người đọc vào thế giới của người trẻ trên dưới hai mươi tuổi, lứa tuổi không còn trẻ con, nhưng cũng chưa thực sự là người lớn. Trong thế giới đó có những run rẩy của va chạm thân thể lần đầu, có lấp lánh của tình yêu, có những đêm dài, những chuyến đi xa, những hoang mang và băn khoăn hiện sinh. Nhưng bao trùm lên tất cả, như một tấm màn lớn, là nỗi đau. Nỗi đau từ sự cô đơn của đứa con vẫn được xã hội khen là “trưởng thành” và “ngoan,” từ sự trống rỗng nội tâm của đứa trẻ lớn lên trong một gia đình lạnh lẽo, từ sự tuyệt vọng của người trẻ bị giam cầm trong nhà tù mang tên tình yêu cha mẹ. Vang lên như những bài hát khi buồn đau khi dữ dội, những chân dung trong cuốn sách cùng các phân tích tâm lý học của tác giả sẽ khiến cha mẹ, thầy cô và tất cả những ai có người trẻ trong cuộc sống của mình phải thức tỉnh, phải ngồi xuống lắng nghe con em mình và suy ngẫm về bản thân, để học cách chữa lành và yêu thương đích thực. *** 1. “TÔI MUỐN MỌI NGƯỜI BIẾT RẰNG CÓ NHIỀU ĐỨA TRẺ VẪN ĐANG CHỐNG CHỌI TỪNG NGÀY ĐỂ LỚN LÊN THÀNH NGƯỜI TỬ TẾ” (Phương Anh, 20 tuổi, bỏ đại học)* Bạn đã xem Gordon Ramsay chửi như điên trong bếp, đúng không? Fuck! Fuck! Fuck! Fuck! Gordon Ramsay trong Master Chef ấy. Tôi cũng nóng tính như vậy. Hôm trước tôi rẽ qua tiệm bánh, nơi tôi làm bán thời gian kể từ khi bỏ Đại học Thương Mại để học làm bánh và quản lý nhà hàng. Tôi sẽ không kể là bố mẹ tôi phản ứng như thế nào, nhưng khi cấp Hai bạn học trường điểm và cấp Ba chuyên Chu Văn An thì bạn có thể đoán là chuyện bạn đi học nghề nó kinh khủng với bố mẹ như thế nào. Đến giờ tôi vẫn phải nói dối bạn bè của bố mẹ để giữ sĩ diện cho họ. Chỗ tiệm bánh tôi đang làm cũng có tới bảy, tám đứa bỏ đại học hoặc bảo lưu. Tôi hơi giật mình, “Có nhiều đứa giống mình vậy à?” Chưa bao giờ tôi hối hận. Từ khi học nghề tôi biết trân trọng lao động hơn. Tôi không ngại việc. Tôi chấp nhận một mức lương bèo bọt hay một công việc nặng nhọc nếu như tôi được học hỏi. Và tôi không phàn nàn khi phải đợi đồ uống lâu ở nhà hàng nữa, tôi biết là họ đang rất bận, họ đang rất cố gắng. Vậy là hôm đó tôi tới tiệm bánh, và thấy một cái bánh được làm rất cẩu thả. Tôi hỏi bọn chạy bàn, đứa nào làm bánh, rồi cầm cái đĩa lừ lừ vào bếp, đứng trước mặt nó. “Đ. con mẹ mày, làm cái đĩa bánh thế này à?” Nó giương mắt lên, “Làm sao?” “Làm sao cái con c.! Mày đéo biết nhìn à? Đ.m. mày mày xếp thế này à, mày vẽ thế này à? Mày có vấn đề gì không đấy?” Nó đổ cho đứa phục vụ làm đổ bánh khi bê ra. Tôi gọi đứa phục vụ vào, nó ngơ ngác, “Ơ không, em đi bình thường mà…” Tôi quay ra đứa làm bánh, “Bây giờ mày bỏ một trăm nghìn mày mua một cái đĩa bánh mà nhìn hình thức nó xấu, ăn vào nó đéo ra cái gì, mày có chịu được không? Không, đúng không? Mày tiếc tiền, đúng không? Mày có quay lại không? Không bao giờ!” Tôi chửi to lắm, bọn ở ngoài cũng sợ luôn. Ngoài anh sếp ra thì tôi là chủ lực ở tiệm bánh. Mỗi lần làm một loại bánh mới thì tôi sẽ đích thân mang ra giới thiệu cho khách. Hoặc khi có khách phàn nàn thì cũng lại phải tôi ra nói chuyện với họ. “Tại sao bây giờ cái bánh nó lại bé thế này?” Khách hỏi. Bọn nhân viên sẽ ú ớ. Tôi sẽ tỏ ra chuyên nghiệp, “Bọn em cắt giảm kích thước của bánh là để tăng lượng topping lên và cái size bánh sẽ phù hợp hơn, khi mà anh ăn hết cái đĩa bánh này thì bla… bla…” Khi bánh ế hoặc gần hết đát mà cần đẩy thì tôi cũng được cử ra để nói. Tôi là người hoạt ngôn. Hồi cấp Ba tôi đã hay đứng ra gánh team. Chữ này trong game ra, nghĩa là mình đứng ra cáng đáng, chèo lái cho team. Tôi học tốt văn sử địa nên trong các tiết đó tôi hay giơ tay hỏi cái này cái nọ, làm cô bận rộn, bọn còn lại làm việc riêng. Tôi vừa được học vừa giúp cho bạn ngủ. Tôi cũng hay bị cho là bướng. Hồi lớp 11 tôi bị tụt một bậc hạnh kiểm vì hay đánh son. Cô giáo nhắc liên tục, “Phương Anh xóa son đi.” Cô cho rằng do tôi mà bọn con gái trong lớp đánh son theo. Ở trường nhiều đứa ghét tôi, chúng nó bảo xinh thế mà học chuyên thì thế nào cũng chạy điểm. Tôi tự cho mình có một chút nhan sắc: da trắng, tóc dài, dáng cao ráo, chỉ có bắp chân thì hơi to, tôi không thích bắp chân to mặc dù nó rất tốt khi mình tập võ. Nhưng nhiều đứa lại quý tôi vì tôi hay lên tiếng. Hồi đầu cấp Ba, có thằng trong lớp tôi rất phá phách. Một hôm, cô giáo nói, “Anh lên đây, anh viết bản kiểm điểm cho tôi.” Nó bỗng đứng dậy, xồng xộc lao tới, giật cái ghế nhựa lên. Cả lớp cuống quýt, “Thôi, mày! Thôi, mày!” Tôi nhảy lên bục giảng, đứng trước mặt nó, quát, “Mày định làm gì thế?” Cô giáo sợ chạy ra chỗ khác. Tôi xách cổ nó, đẩy ra, “Mày về chỗ ngồi!” Tôi biết là nó sợ tôi. Trước đó, có lần ngoài sân trường nó cầm con chuột chết gí vào bọn con gái làm chúng sợ chạy chết khiếp, có đứa còn phát khóc. Đợi lúc nó không để ý tôi tới gần, giật con chuột rồi nhét vào trong áo nó. Nó hét, “Đ.m. mày làm cái gì đấy.” “Đ.m. mày không chịu được sao mày trêu những đứa kia?” Lúc đó là giờ thể dục, nó vớ cái vợt cầu lông quật. Tôi né. Hai đứa giằng co cái vợt, nó ngã xuống, tôi bẻ gãy cái vợt, nó là vợt đểu, vụt liên tiếp vào người nó. Mọi người đứng kín xung quanh cổ vũ, “Phương Anh cố lên! Phương Anh cố lên!” Sau lần đó thì tôi bắt vía được nó. Mắng đứa nhân viên kia xong, tôi tập trung vào làm một mẻ su kem. Giờ đây thì chỉ có mỗi trong chuyện làm bánh là tôi có thể dõng dạc tuyên bố mình đầy nhiệt huyết, tôi yêu nó nhất trên đời. Tôi đã thử hai mẻ, nhưng đều phải bỏ đi vì nó không được phồng. Đến lúc gần hết ca, lôi mẻ bánh ra thì tôi thở phào, người mềm nhũn ra vì mệt. Anh sếp chắp tay trước tôi như là vái sư phụ. Tôi nhớ rõ vì hôm đó anh ấy nhận được một túi nấm và một túi đá ship từ Sài Gòn ra. “Phương Anh đâu, lấy kéo ra đây,” anh ấy bảo, rồi cắt túi ra kiểm tra. Mọi người ngỡ ngàng, “Uầy, anh Thành chơi đá.” Anh ấy cầm một cây nấm, “Chúng mày… Hôm nay Phương Anh làm tốt, anh sẽ thưởng cho Phương Anh.” Giơ điện thoại raĐây là lô bánh thứ ba của tôi. Đây là thành phẩm lần nướng thứ hai. Bạn có thấy sự khác nhau? Khó nhất của việc làm bánh là cảm nhận được nhiệt độ của cái lò và thay đổi nó. Chuyển ảnh Còn cái bánh này là Saint Honore. Cái này là Eclair. Còn cái này, tôi dùng nho đen không hạt, bột than tinh tre và đường bột để tạo điểm nhấn. Tôi rời tiệm bánh thì trời đã tối. Tôi lái xe chậm chậm, những sợi tóc bay lượn sóng. Những ký ức liên quan tới con đường bắt đầu trở về, tất cả cùng một lúc. Mỗi kỷ niệm như một trang sách, vô số trang cứ chồng mãi, chồng mãi lên nhau. Tôi biết là mình say cần bởi trước đó tôi đã nhìn vào màn hình có con bướm mà anh sếp gí vào mặt tôi. “Khi nào em thấy con bướm vỗ cánh bay đi thì lúc đó em phê rồi đó.” Suy nghĩ của tôi rời con đường thẳng và bắt đầu phủ kín không gian đa chiều. Hình ảnh tôi rời quán cafe với Dũng, cảnh tôi ngồi sau xe của anh, chúng chồng chéo lên nhau. Tất cả đã qua, tôi cảm thấy thật buồn. Tôi nhớ cái lần tôi và anh ấy ăn chung một cái bánh và sững sờ. Nó ngon kiểu mộc mạc. Tôi nói với Dũng, ôi, cái vị ngọt này vừa vặn, nó chỉ dừng ở đầu lưỡi thôi, nó không bị ngọt quá, còn cái kết cấu này, tại sao lại ra được cái kết cấu này nhỉ, bình thường bánh phô mai thì phải có vị như thế này nhưng sao cái này lại có một vị khác, và tại sao sự xuất hiện của nó lại đặc biệt… Cái bánh trông bình thường đến tầm thường nhưng bên trong thì có rất nhiều bất ngờ. Hồi mới quen nhau, chúng tôi đi tàu tới Quảng Bình chơi. Không hôn, không sex, chỉ là bạn thôi, nhưng tôi có cảm giác mình có thể sống với người bạn này cả đời. Khoang ngủ của chúng tôi ở trên cùng, rất thấp, nên bọn tôi ra chỗ rửa tay của toa ngồi chơi, trêu nhau, rồi đứng ở cửa sổ vẫy tay chào người đi đường. Cả ba ngày tôi không chạm tới cái điện thoại, chúng tôi hút cần liên tục. Buổi tối tôi say rượu, Dũng đợi tôi nôn hết xong mới dìu tôi về phòng. “Em đi được, em đi được,” tôi luôn miệng nói, nhưng vấp chảy máu ngón chân cái. Xong rồi tôi lại nôn tiếp lên giường, Dũng nói, “Oh shit.” Vậy là chúng tôi ngủ cùng nhau trên giường của Dũng. Anh ấy gãi gãi vào đầu tôi để tôi ngủ. Ngày thứ ba, ngày cuối cùng, chúng tôi mặc đẹp để lượn phố biển. Dũng mặc áo sơ mi trắng và quần skinny, đi giày converse đen trắng kiểu old school. Dũng rất để ý tới ăn mặc, ra đường thì phải đẹp, không cần lồng lộn lên, nhưng phải có style gì đấy. Tôi nói, hôm nay anh muốn em mặc cái gì, rồi chúng tôi cùng nhau tìm đồ cho tôi. Cuối cùng tôi mặc cái áo phông đen của anh ý, đi cùng quần bò đen. Chúng tôi lượn biển và ngồi ở một quán cafe kiểu bảo vệ môi trường, không ống hút. Một con phố đơn giản, mọi người đang sống cuộc sống của mình, không có trung tâm thương mại, không ai cắm mặt vào điện thoại. Trông họ không giàu có, nhưng tôi yêu cuộc sống của họ, nó hiền hòa, không giống cuộc sống ở thành phố lớn khiến người ta cứ phải căng thẳng. Buổi sáng cuối cùng thì chúng tôi có hôn nhau. Bọn tôi nằm cạnh nhau, anh ấy xoa xoa đầu tôi, rồi tự nhiên môi chạm nhau. Tôi thấy vui vui, trong tôi không dâng lên cảm xúc yêu đương, nhưng tôi hơi bối rối và tự hỏi, “Ơ, như thế này là thế nào nhỉ?” Anh ấy bảo, “Cứ nên để mọi thứ tự nhiên.” Đến khi về Hà Nội thì chúng tôi làm tình. Thực ra tôi đang trong giai đoạn không thiết gì tới sex, thậm chí còn hơi sợ. Nhưng Dũng đã làm tôi thay đổi. Hôm đó chúng tôi nằm cạnh nhau trong phòng của anh ấy, nghe nhạc, hút cần. Tôi nghĩ, “Nếu bây giờ làm tình thì mình chỉ làm tình được với anh ấy thôi.” Tôi xin lỗi, tôi ăn nốt miếng bánh. Ăn bánh Tôi mất trinh năm lớp Mười một. Ở tuổi mười bảy, nhu cầu tình dục là lẽ tự nhiên. Hormone của mình nó đẩy lên, nó làm mình muốn có những hoạt động đó. Tôi và bạn trai - tôi quen nó được hơn một tháng, rất thích nó mặc dù biết sẽ không lâu dài với cậu ta - “hành sự” trong một quán cafe phim. Tôi thấy hồi hộp và hiếu kỳ. Không được hướng dẫn bao giờ, chúng tôi mất rất nhiều thời gian với cái bao cao su vì không biết mặt nào là đúng. Tôi thấy đúng là thốn. Thốn là dở khóc dở cười. Vừa buồn cười vừa xấu hổ, giống như bạn bị bóng đá vào chỗ kín ở ngay sân trường ấy. Hồi đó bạn cùng lớp của tôi đã có quan hệ tình dục hết rồi, trừ thằng Minh. Nó là nerd. Thỉnh thoảng tôi lại trêu nó, “Chén đi! Yêu đứa nào đó rồi làm chuyện đó đi. Trải nghiệm ở tuổi này thì không phải là sớm nữa, nếu để muộn quá thì ông lại thành một thằng thiếu kinh nghiệm…” Thế mà cô giáo chủ nhiệm của tôi còn dặn dò, “Các em có thích nhau thì chỉ nên dừng lại ở mức nắm tay thôi bởi vì các em còn quá nhỏ. Vấn đề tình dục nó rất là nhạy cảm và các em chưa đủ bản lĩnh để đối mặt.” Cả lớp nhìn nhau. “Thế nên là,” cô lại nói tiếp, “nếu như các bạn nữ có bị gạ gẫm thì hãy khéo léo từ chối.” Khôi hài chết mất! Khi hai người có tình cảm với nhau thì làm tình sẽ rất thăng hoa. Tôi đã từng trải qua cái thăng hoa đó và tôi rất trân trọng nó. Ngược lại, năm ngoái tôi quay lại làm tình với một bạn trai cũ, sau khi hai đứa đã chia tay nhau được một năm. Lúc đó tình cảm đã vơi đi nhiều rồi, nên rất là chán. Những va chạm rất là bản năng. Cho nên tôi không mặn mà với tình một đêm hay lên Tinder chat vu vơ để lên giường với ai đấy. Nó không xấu, nhưng nó trần tục. Tôi vẫn hay khuyến khích mọi người là hãy đến với tình dục bằng cảm xúc. Nhưng thực ra tình dục không phải là cái quan trọng nhất. Cảm giác hai người có khi ở cạnh nhau, đó mới là cái quan trọng nhất. Tôi nhớ mãi lần tôi và Dũng ngồi ở ven hồ Tây. Chúng tôi im lặng, nhìn ra hồ và hơi mỉm cười, điếu cần chuyển từ tay người này tới tay người kia. Chả có gì xảy ra cả, mà tôi thấy hạnh phúc, buồn cười thế. Ký ức đầu tiên về bố mẹ đánh nhau là khi tôi năm tuổi. Tôi đơ ra nhìn, miệng vẫn đầy cơm, không khóc, không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Hồi cấp Hai thì ban đêm tôi hay bật dậy vì nghe tiếng mẹ gọi từ phòng bên, “Phương ơi, cứu mẹ!” Mở cửa phòng, tôi thấy hoặc bố đang túm tóc mẹ, hoặc mẹ nằm dưới chân giường, bật đèn lên thì thấy người mẹ tím tái. Có lần tôi gắt, “Điên à, tại sao lại hành người ta như thế? Con mệt lắm rồi, để cho con ngủ!” Mấy năm sau thì thỉnh thoảng ban đêm hai mẹ con phải dựng nhau dậy vào bệnh viện vì bố say rượu ngã xe, phải khâu cằm vá má. Những gì tôi chứng kiến khiến tôi có thái độ… tôi nên gọi nó là gì nhỉ… Chai lì? Bình tĩnh? Bố mẹ đánh nhau - bình thường. Máu me - bình thường. Bố đấm, mẹ cào, phi đồ vào nhau, phang nhau, thụi, kẹp cổ, giữ chân các kiểu. Hồi nhỏ thì tôi để cái Linh, em gái tôi, ở tầng một, chạy lên tầng hai để can, “Thôi, thôi, thôi, thôi… Bố mẹ thôi đi.” Tôi lao vào thì bị hất ra. Đến khi bố mẹ buông nhau ra tôi mới khóc nức lên, khóc vì bất lực và tuyệt vọng. Sau này thì chỉ họa hoằn tôi mới can thiệp, còn nếu là lý do vớ vẩn thì tôi kệ. Có hôm hai người cãi nhau xem đẻ tôi ở phòng nào. “Phòng ba.” “Phòng bốn.” Một lúc sau thì, “Anh hâm à?” “Cô điên à?” Lúc sau nữa thì lao vào nhau, “Mày thích gì?” Vừa bi vừa hài. Cho nên là tôi giữ thái độ dửng dưng. Nhưng tôi có nhớ cảm giác cay đắng trong lòng lúc phải viết cái đơn nói nguyện vọng muốn ở với bố hay mẹ, khi hai người ra tòa. Sau đó thì mẹ rút đơn ly dị lại. Một tuần sau, tôi đang ở trên lớp thì mẹ gọi tới, hét ầm lên trong điện thoại. “Bố mày lấy chìa khóa xe máy của tao, rồi khóa cửa nhốt tao trong nhà. Mày về đây mà giải quyết.” Thế là tôi phải về nhà để “giải quyết”. Rồi mẹ chuyển ra nhà khác, cái Linh ở với mẹ, tôi đi lại giữa hai nhà. Mà tôi biết cách né đòn của thằng bạn cùng lớp là do bị bố mẹ đánh nhiều quá. Cũng nhờ tránh đòn nhiều mà khi bắt đầu học võ tôi tiến nhanh. Bố mẹ tôi lôi về hàng chục cái roi mây rất dẻo, cất mỗi nơi một chiếc, tiện chỗ nào lôi ra chỗ đó. Tôi phải lục lọi tìm để vứt chúng đi. Bố thì phần lớn là đánh có lý do chính đáng, tôi về muộn hay gì đó. Còn mẹ thì nhiều khi đánh vì mẹ cần chỗ xả. Mình áp bức người yếu thế để trút cơn giận. Qua mắt mẹ thì tôi nhận biết được điều đó. Sau này thì tôi phản kháng lại. Hôm trước, không nhớ to tiếng vì lý do gì, mẹ vớ cái chổi xỉa vào tôi. Tôi giật nó, ném ra chỗ khác, phản xạ rất thuần thục. Tôi cảnh báo, bây giờ mà đánh thì không biết ai đau đâu mẹ nhé. Thế là mẹ thách thức, “Mày đánh tao đi, đánh luôn đi xem nào!” Tôi bảo, “Không, con học võ không phải để làm mấy trò này, mẹ đòi đánh con xong giờ lại còn thách con đánh lại. Dở hơi!” Mẹ tôi đi lên tầng hai, nói với cái Linh, chị mày là con mất dạy, chị em mày tự đi mà bảo nhau. Tôi nói, “Để cho nó học, có gì thì xuống đây mẹ con mình giải quyết.” Mẹ gọi với xuống, “Mày thu dọn hết quần áo sách vở cút về ở với bố mày đi.” Tôi và mẹ không nói chuyện với nhau một thời gian. Nhưng mẹ mình thì làm sao mình thù mãi được. Từ nhỏ tôi đã thấy lúc nào cũng bấp bênh. Tan trường tôi vừa đạp xe về vừa tự hỏi hôm nay ở nhà có chuyện gì không đây. Giữa mùa hè mà nhà tôi lạnh như cái nhà hoang, không có một tiếng cười, “Ừ, đời mẹ thất bại rồi, đời mẹ chỉ đến thế này thôi,” mẹ nói cùn. “Con cao siêu, con giỏi, con có năng lực thì con kiếm việc, cưới chồng, rồi sống cuộc đời hạnh phúc đi.” Bố thì bảo, “Bố mẹ chu cấp cho con tiền ăn học, còn thì không thể cho con hơn được, chỉ có thế thôi…” Tôi phải chấp nhận chứ sao bây giờ? Từ nhỏ tôi đã quen với việc không có bố mẹ ở bên. Buổi sáng tỉnh dậy, móc ví bố lấy tiền ăn sáng rồi đạp xe đi học. Chiều về nhà, có hay không có ai cũng không quan trọng nữa, không buồn, không nhớ, không gì cả, tôi cứ đứng ở cửa nhìn người qua lại, ánh mắt vô hồn. Giờ đây, cảm xúc của tôi với bố mẹ là một thứ khó tả. Tôi không trách, nhưng bảo là thương thì tôi cũng không thương. Nó là một thứ dửng dưng, không sâu sắc, không lạnh nhạt. Và không âu yếm như là cái cách con cái vẫn bình thường nhìn bố mẹ. Tôi muốn tự lập, tự chu cấp để đỡ gánh nặng cho bố mẹ, thế thôi. Thực ra nhiều lúc cái căm ghét nó trỗi dậy trong đầu mình, nhưng sau đấy tôi lại nghĩ, về mặt tâm linh thì tôi đã lựa chọn bố mẹ tôi, tôi đã tự chọn khó khăn cho mình, nên là tôi sẽ phải tiếp tục giải quyết. Có lần tôi ăn cơm ở nhà thằng Minh. Mọi người nói chuyện tự nhiên lắm, cứ ăn uống, chia sẻ với nhau, cười cười nói nói bình thường. Tôi đờ người ra kinh ngạc, thấy như mình đang xem một bộ phim tình cảm gia đình, “Ừ, đã hai mươi tuổi rồi mà mình không biết cái cảm giác hạnh phúc nó như thế nào,” trên đường về, tôi hơi lo lắng, “vậy thì mình có phát triển bình thường được không nhỉ?” Không được yêu thương từ nhỏ, tôi thấy mình giống cái cây bị thiếu chất dinh dưỡng từ dưới gốc, nên lên trên nó yếu đuối, còi cọc. Lúc nào mình cũng có cảm giác phải vượt giông vượt gió để đến được với sự sống. Nó cứ bị quật ngã liên tục ấy. Lúc ở nhà Minh, tôi thấy bao nhiêu tự tin bay đi đâu hết. Tôi rụt lại bên trong, thấy mình lạc lõng, mình vui cho bạn nhưng mình cũng bị đẩy ra xa. Từ tiệm bánh về đến nhà, tôi nhìn cái Linh đang hí hoáy vẽ và thấy thương nó quá. Từ khi học võ thì tôi ít nổi giận với nó hơn, mặc dù nhiều lúc nó vẫn dở hơi. Từ hai năm nay mẹ phó mặc nó cho tôi hoàn toàn. Tuần trước, nó khóc và gọi điện cho tôi là nó đang chui trong nhà vệ sinh ở trường vì sợ bị đánh. Giữa trưa, tôi đi xuyên qua thành phố, giả vờ với bảo vệ là phải đưa chìa khóa để được vào trường nó. Tôi gọi thằng bé dọa đánh ra. Nó sợ xanh mặt. “Mày đánh cái Linh đấy à, tại sao mày đánh nó?” “Nó chửi em.” “Bây giờ thế này nhé, nó là con gái, mày là con trai. Nó chửi mày thì mày phải chửi nó chứ tại sao mày lại đánh nó. Giờ chị to hơn, chị đánh mày nhé?” Nó rúm lại. Tôi quay sang bảo cái Linh, “Em có chửi bạn không?” Nó gật đầu. Tôi bảo nó xin lỗi. Rồi tôi bảo thằng kia xin lỗi cái Linh. “Ok, xong chưa?” Nó gật đầu. “Giờ thì biến!” Nhưng có nhiều lúc cái Linh giúp lại tôi. “Chết rồi, chị lại nhớ anh Dũng rồi,” tôi thừ ra. “Nhớ nhiều không?” “Hình như hơi nhiều.” “Thôi, chị quên người ta đi, người ta không phải là người yêu chị đâu.” Nó lấy điện thoại ra khỏi tay tôi và xóa các ảnh của Dũng đi. Tôi bảo, “Ừ nhỉ, người ta không quan tâm tới mình nữa thì mình cũng không phải quan tâm tới người ta. Chị cám ơn Linh.” Ngồi không một lúc thì tôi ỉ eo, “Linh ơi, đi chơi đi, đi chơi đi, chị đang buồn.” Nó buông bút, thở dài. Nó mới lớp Chín nhưng tôi cho nó chở tôi trên xe máy chạy dọc hồ Tây, và nghe nó kể về thằng bạn trai của nó. Chúng nó mới chỉ hôn hít nhau. Hôm trước, tôi nhìn vào mặt hai đứa và dặn là những chuyện liên quan tới yêu đương, tình dục thì phải hỏi tôi, tôi sẽ tư vấn. Tôi biết là sẽ không cấm được chúng nó. “Chuyện ấy cũng không đáng ngại hay xấu hổ, nó là nhu cầu hết sức cơ bản, chỉ là mình nên chuẩn bị để đối mặt với nó tốt hơn.” Hai đứa đỏ mặt lên, “Vâng, chúng em nhớ rồi, có gì chúng em sẽ hỏi chị.” Cái Linh thả tôi xuống đi bộ, rồi phóng lên phía trước. Tôi ngồi xuống cái ghế đá chỗ tôi gặp thằng Minh cuối tuần trước. Hôm đó hai đứa ngồi tựa lưng vào nhau, hút cần. Mặt trời rọi nắng từ trên cao. Bên hông tôi là cuốn sách mới mua, Công thức nấu ăn tặng con gái. Tác giả dạy con gái nấu ăn trong những ngày tâm trạng, cô ý viết rất dịu dàng, đơn giản, đọc mà thấy buồn lắm. Tôi và Minh cùng nhắm mắt và tưởng tượng mình đang đi trên bờ biển. Bờ biển của nó có nhiều người, còn của tôi thì chỉ có cây cối và mình tôi. Tôi hiểu vì sao. Minh đầy đủ về mặt gia đình, nhà nó vui vẻ, nên nó thoải mái hòa nhập vào đám đông. Tôi thì có quá khứ không hạnh phúc, cuộc sống hiện tại xô bồ, nên tôi chọn cỏ cây cho bình an, dịu mát. Nó lớn lên trong một môi trường tốt đẹp, ở quê không khí trong lành, mọi người thân thiện. Trong môi trường của tôi thì người ta coi tiền bạc và sĩ diện là cực kỳ quan trọng. Nó đã có hạnh phúc rồi thì càng dễ có hạnh phúc trong tương lai. Còn tôi phải biến khổ đau thành hạnh phúc, ăn vào toàn cái xấu nhưng phải lọc ra cái tốt. Tôi hay nói chuyện với nó, nhưng nó cũng không thể hiểu hết được mọi thứ. Tôi chỉ có vài ba kỷ niệm đẹp. Một là ngày đầu tiên của đợt thi đại học. Tôi kéo một vài người bạn về nhà nghỉ trưa, và thấy bố mẹ đang cùng nhau nấu ăn trong bếp, đợi tôi. Trong tôi dâng lên một cảm giác ngọt ngào, sung sướng. “Hôm nay mình là nhân vật chính, mình được quan tâm.” Một lần khác, tôi kể với mẹ là mình bị mẹ của bạn trai gọi điện tới bắt hai đứa bỏ nhau, nếu không cô ấy sẽ nói với hiệu trưởng, vì cô ấy là bạn của hiệu trưởng. Mẹ im lặng mấy phút, tôi đã tưởng mẹ không quan tâm thì mẹ quay ra bảo, “Tao mà biết chuyện thì con ấy chết.” Con ấy là cô kia. Tôi cảm thấy được an ủi, được bảo vệ và hôm sau khi kể lại cho Minh thì có lén chùi một giọt nước mắt. Một lần nữa, tôi về nhà bố buổi trưa. Bố nấu cơm cho tôi ăn, nghe tôi kể về dự định đi thực tập của mình và khuyến khích tôi đi xa. Lúc tôi ra cửa thì trời vẫn mưa. Hai bố con đứng ngắm mưa, cùng lặng lẽ hút thuốc, không ai nói gì. Tôi cảm nhận được tình cảm bố dành cho mình. Nó ấm áp, nhưng là một hơi ấm muộn mằn và rất mỏng so với cái trống trải, lạnh lẽo bên trong tôi. Minh rít điếu cần và nói nhiều khi nó cảm thấy có lỗi vì nó thì quá đầy đủ về tình cảm, trong khi bạn bè xung quanh đều có cuộc sống rất phức tạp, đổ vỡ. Tôi bảo, “Đúng rồi đó, ông cảm thấy có lỗi đi.” Trên đường về, nhìn thấy một con chó chạy lũn cũn bên cạnh chủ, tôi bật khóc. Không tới mức nức nở, mà chỉ rơm rớm. Tôi vốn khó khóc. Không phải tôi chủ đích nén cảm xúc, mà là cảm xúc không chịu bật ra. Cho nên tôi rất đồng cảm với một anh người mẫu chuyển giới trong The Face Vietnam. Trong đoạn thử thách đóng phim, mọi người đều vào diễn rất ngon lành, nhưng anh ấy bảo luôn với các giám khảo Minh Hằng và Trấn Thành là, “Em không khóc được nên em không thể hoàn thành phần thi này.” Trấn Thành hỏi, “Tại sao em không thể khóc được?” Anh ấy kể về cuộc sống khó khăn của mình, từ nhỏ phải ở với bà ngoại, năm mười bốn tuổi bà mất thì anh ấy phải tự bươn chải, va vấp. Anh ấy thiếu thốn tình cảm, trở nên chai sạn, nuốt hết cảm xúc vào trong. Thật là thương cho những người như anh ấy. Đến cả cái cách giải tỏa con người nhất mình cũng không làm được. Lúc nào cũng trơ lì, lúc nào nhìn vào người ta cũng thấy mình cười nói, đi lại. Cho nên là lúc Dũng phũ với tôi khiến tôi hơi khóc một tí thì tôi nghĩ bụng, à hóa ra cũng có người đẩy được cảm xúc của mình đến mức đấy. Chỉ có một lần tôi tức tưởi, đó là khi bố và mẹ đùn đẩy nhau trả tiền học cho tôi, hai người lại không nói chuyện trực tiếp với nhau mà toàn qua tôi. Lúc đó tôi cảm thấy mình như một cục nợ bị đẩy qua đẩy lại. Đôi khi tôi thèm mình có thể khóc nức nở, khóc thật đã, để nó làm sạch những cái u uất bên trong. Nhưng giống như cái anh trong The Face, tôi không làm được vậy. Nhiều lúc phê cần, tôi buồn vô cùng, người mềm nhũn ra, đầu gục xuống bàn, nhưng mắt vẫn ráo hoảnh. Cùng lắm tôi chỉ rơm rớm như lúc này, khi thấy con chó chạy bên cạnh chú, hay khi thấy hai ông bà già nắm tay nhau đi trên đường, và sự thèm khát được yêu thương, nỗi tủi thân, trỗi dậy. Tôi lấy tay lau nước mắt. Cái sự rơm rớm này, nó không triệt để, nó làm tôi mệt và rấm rứt. Nó không giải tỏa được sự tuyệt vọng ở trong tôi. Có lần tôi hỏi Dũng, “Em nhìn nhận anh là người giao tiếp tốt, biết cách sử dụng ngôn từ để giải quyết cảm xúc của người khác. Có bao giờ anh ghét bản thân không? Có bao giờ anh khó chịu vì tiếng Việt của anh rất tốt không?” Tôi hỏi, bởi anh ấy cũng hoạt ngôn như tôi, cũng dễ thuyết phục người khác như tôi. Anh ấy bảo, “Có! Mình dễ dàng nắm bắt được tâm lý của người khác, khôn khéo điều khiển họ, vì mình đã trải qua rất nhiều thứ. Nhưng mình đọc được người ta mà người ta không hiểu được mình. Mình xoa dịu được cảm xúc của người khác, nhìn vẻ mặt mãn nguyện của họ, nhưng lòng mình trống rỗng.” Tôi cũng thấy như vậy đó. Chúng tôi đều khao khát được người khác chạm vào, nhưng lại dè chừng, cảnh giác. Tôi đã cố thủ từ bé tới lớn, tới mức tôi quên mất mình đang làm vậy, để không ai làm đau được mình. Tôi muốn mình bước ra xã hội thì hiên ngang một chút, để không có ai thương hại mình. Nhưng đến khi gặp được người mình thích thì tôi hoang mang. Mình muốn hạ áo giáp xuống, muốn được dựa vào họ, muốn được lắng nghe mà không cần họ phải khuyên bảo gì. Nhưng… họ lại có thể làm mình đau. Họ trở nên có giá trị với mình, rồi bỏ mình mà đi. Mình sẽ sống sót như thế nào với các ký ức? Tôi đã thấy quá nhiều dối trá quanh mình, nếu mình sống trong hoài nghi thì mình sẽ tuyệt vọng, nhưng nếu mình tin họ thì khi phát hiện ra họ dối trá mình lại đau khổ hơn. Giờ đây, cái đau trong tôi không phải là kiểu đau quằn quại, rên rỉ, mà là một dạng lãnh cảm. Tôi không còn lo lắng, sợ hãi nữa khi mẹ nổi giận. Tôi bình thản quá, bình thản đến mức mệt mỏi, bạn ạ. Tôi ghét cái cảm giác trơ lì này, nó làm mình trống rỗng. Ở chỗ tập Muay Thai có tới năm, sáu người thích tôi, toàn là người có vợ rồi. Tôi luyện cách đối đáp để tránh những lời trêu ghẹo, ong bướm vớ vẩn mà vẫn giữ được thái độ mềm mỏng với họ, một việc khá áp lực. Chẳng vẻ vang gì khi có nhiều người thích mình. Họ thích mình nhưng mình vẫn thấy cô đơn, bạn có hiểu cảm giác đó không, vì không ai khiến mình rung động. Tôi sợ mình bị chai sạn. Quá lâu không nảy sinh tình cảm hoặc có quan hệ quá nhiều đều có thể làm mình chai sạn. Cuộc sống sau này của tôi sẽ ra sao? Liệu tôi có tìm được bến đỗ không, hay tôi cứ lang thang mãi. Người khác thì nhẹ nhàng bước chân vào tình yêu, còn tôi thì lo sợ, mặc dù tôi không phải là một kẻ thiếu bản lĩnh. Không sợ sao được, cả một thời thơ ấu tới giờ cuộc sống đã trống rỗng, mệt mỏi, kết hôn xong lại không hạnh phúc nữa thì đúng là địa ngục. Có nhiều điều cám dỗ vẫy gọi tôi lắm, chỉ một cái gật đầu là cuộc sống của tôi đổi hướng. Dạt nhà, hút chích, trở thành chị đại đầu gấu, trộm cắp vặt, quên đi ngày mai, quên đi bản thân, không cố gắng nữa. Ôi, những lời mời mới hấp dẫn làm sao, trong khi cuộc sống của tôi thì bế tắc. “Mày sống thế mà vẫn chịu được à? Bỏ mẹ nhà đi.” “Mày qua nhà tao ở, rồi chúng mình đi đâu đấy.” Đã có những lần tôi về nhà, đóng gói sách vở. May mà những lúc đấy tôi có cô Thủy, cô giáo văn cấp Ba của tôi. Cô vừa sắp xếp hai trăm cái áo dài trong tủ quần áo của mình vừa nghe tôi kể chuyện gia đình, rồi bỗng buông một câu gì đó khiến tôi phải dừng lại và suy nghĩ. May mà tôi có thằng Minh, thỉnh thoảng nó quẳng cho tôi một cuốn sách, “Ê, bà đọc đi!” Gần nó, tôi thấy mình trở nên trong sáng, cuộc sống của tôi trở nên phong phú hơn. Và tôi lại tự nhủ, bấy giờ mình cần học, cần một công việc, cần chăm sóc bản thân, không để nó trôi tuột đi. Tôi muốn bạn hiểu là tôi đã rất, rất cố gắng để không buông trôi. Tôi muốn mọi người biết rằng có nhiều đứa trẻ vẫn đang chống chọi từng ngày để lớn lên thành người tử tế.   Im lặng rất lâu   Bạn mời tôi tới nhà làm bánh cho gia đình bạn? Tôi sẽ rất vui. Tôi cảm thấy rất ấm áp khi được chăm sóc người khác. Đến giờ tôi vẫn nhớ những lúc mắt đối phương sáng rực lên khi ăn đồ tôi nấu. Họ ăn, ăn, ăn, tôi hỏi, “Ngon không anh?” Họ im lặng và ăn cho tới hết sạch. Tôi nhìn họ ăn và thấy hạnh phúc. Chúng ta sẽ bàn với nhau về buổi đó nhé. Tôi sẽ làm cả bánh mì nữa. Làm bánh mì khó hơn bánh ngọt nhiều. Nó là đỉnh cao và khởi nguồn của rất nhiều thứ. Những lỗ khí không tròn trịa, không đều đặn, nhưng nhìn chúng mình cứ như bị hút vào. Khi cầm dao cắt một ổ bánh mì to, nó giòn và phát ra những tiếng tách tách theo từng nhát cứa của mình, khiến trong lòng mình thấy vui lắm. Căn nhà tương lai của tôi, nếu như tôi có nhà, sẽ thơm lừng mùi cà phê và mùi bánh mì nướng mỗi sáng. Với tôi, như thế là cuộc sống đấy. Mời bạn đón đọc Tìm Mình Trong Thế Giới Hậu Tuổi Thơ của tác giả Đặng Hoàng Giang.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vì Sao Chúng Ta Làm Việc
Vì Sao Chúng Ta Làm Việc đưa ta đến lời giải cho bí mật của hạnh phúc nơi làm việc. Sau tất cả, Barry Schwartz đã chứng minh cho chúng ta thấy gốc rễ của thành công trong lao động hiếm khi được khuyến khích, trong khi chúng ta lại cố gắng làm những việc chỉ đem lại kết quả xấu. Tại sao chúng ta làm việc? Tại sao mỗi sáng ta lại phải kéo lê mình ra khỏi giường thay vì sống cuộc đời ngập tràn niềm vui với hết trò này đến trò khác? Nhưng câu hỏi tưởng như thật đơn giản và ai cũng dễ dàng trả lời. Nhưng Giáo sư Barry Schwartz lại chứng minh rằng thật ra câu trả lời chi nó lại vô cùng phức tạp, đáng kinh ngạc và vô cùng khẩn cấp. Ta làm việc vì ta phải kiếm sống. Chắc chắn rồi, nhưng chỉ có vậy thôi sao? Tất nhiên là không rồi. Khi bạn hỏi những người hài lòng với công việc tại sao họ làm công việc ấy, thì gần như tiền không phải là câu trả lời. Danh sách những lý do phi-tiền-bạc rất dài và rất thú vị. Nhiều người làm việc vì họ thấy vui. Những người hài lòng với công việc lao động vì thấy có trách nhiệm. Những người khác làm việc vì đó là cơ hội để hòa nhập cộng đồng. Nhiều người làm việc vì họ cảm thấy việc mình làm thật ý nghĩa. Những nguyên nhân phong phú khiến chúng ta thỏa mãn với công việc kể trên đã dấy lên một số vấn đề rất lớn. Tại sao trên thế giới này có vô vàn người mà công việc của họ lại chẳng có nhiều hoặc hoàn toàn vắng bóng những đặc tính này? Tại sao với hầu hết chúng ta, công việc thật là đơn điệu, vô vị và mòn mỏi? Tại sao chủ nghĩa tư bản phát triển lại tạo ra một mô hình làm việc hạn chế hoặc triệt tiêu các cơ hội nuôi dưỡng sự hài lòng phi vật chất tiềm năng – mà chính nó sẽ khuyến khích người ta làm việc tốt hơn? *** Vấn đề mấu chốt Tại sao chúng ta làm việc? Tại sao mỗi sáng ta lại phải kéo lê mình ra khỏi giường thay vì sống cuộc đời ngập tràn niềm vui với hết trò này đến trò khác? Thật là câu hỏi ngớ ngẩn. Ta làm việc vì ta phải kiếm sống. Chắc chắn rồi, nhưng chỉ có vậy thôi sao? Tất nhiên là không rồi. Khi bạn hỏi những người hài lòng với công việc tại sao họ làm công việc ấy, thì gần như tiền không phải là câu trả lời. Danh sách những lý do phi-tiền-bạc rất dài và rất thú vị. Người nào hài lòng với công việc thì lao động say mê. Họ làm việc quên mình. Tất nhiên không phải lúc nào cũng thế, nhưng cũng đủ để điều đó trở thành đặc điểm nổi bật của họ. Những người này được khơi gợi tinh thần thử thách. Công việc buộc họ phát huy khả năng – bước ra ngoài vùng an toàn của mình. Những người may mắn này cho rằng làm việc thật là vui, vui như chơi trò đoán ô chữ hay Sudoku vậy. Con người làm việc còn vì lẽ gì nữa? Những người hài lòng với công việc lao động vì thấy có trách nhiệm. Công việc cho họ phương tiện để có quyền độc lập và tự quyết. Và họ sử dụng quyền ấy để nâng cao khả năng của bản thân. Họ học những điều mới mẻ, phát triển bản thân cả trong công việc lẫn đời sống. Những người này làm việc vì đó là cơ hội để hòa nhập cộng đồng. Họ làm nhiều việc với tư cách là một thành viên nhóm, và ngay cả khi làm việc một mình, trong những lúc tĩnh lặng, họ vẫn có nhiều cơ hội tương tác với bên ngoài. Cuối cùng, những người này hài lòng với công việc vì họ cảm thấy việc mình làm thật ý nghĩa. Có thể là, công việc của họ khiến thế giới thay đổi. Nó khiến cuộc sống của những người khác tốt đẹp hơn. Và thậm chí theo những cách đầy ý nghĩa. Tất nhiên, chẳng có nhiều công việc, và tôi nghi ngờ là không có công việc nào, lúc nào cũng hội tụ tất cả những đặc điểm này. Nhưng những đặc trưng nghề nghiệp như thế này chính là điều sút ta ra khỏi nhà, thúc ta cõng việc về nhà, huých ta nói về công việc của mình với những người khác, và khiến ta ngần ngừ không muốn nghỉ hưu. Ta sẽ không làm việc nếu không được trả công, nhưng đó không phải là lý do mấu chốt. Và ta hay nghĩ vật chất là một lý do làm việc chẳng đẹp đẽ gì. Thật vậy, khi nói ai đó “làm việc vì tiền”, ta không chỉ đơn thuần là giới thiệu, mà còn có ý đánh giá nữa. Những nguyên nhân phong phú khiến chúng ta thỏa mãn với công việc kể trên đã dấy lên một số vấn đề rất lớn. Tại sao trên thế giới này có vô vàn người mà công việc của họ lại chẳng có nhiều hoặc hoàn toàn vắng bóng những đặc tính này? Tại sao với hầu hết chúng ta, công việc thật là đơn điệu, vô vị và mòn mỏi? Tại sao chủ nghĩa tư bản phát triển lại tạo ra một mô hình làm việc hạn chế hoặc triệt tiêu các cơ hội nuôi dưỡng sự hài lòng phi vật chất tiềm năng – mà chính nó sẽ khuyến khích người ta làm việc tốt hơn? Những người làm kiểu công việc này – dù trong nhà máy, cửa hàng thức ăn nhanh, kho hàng bán theo yêu cầu, hay quả thực, trong những công ty luật, lớp học, phòng khám và văn phòng – là làm vì tiền. Dù có cố gắng tìm kiếm ý nghĩa, thử thách, và không gian để được tự quyết đến đâu, thì họ cũng phải đầu hàng trước điều kiện làm việc. Cách thức công việc của họ được tổ chức thực sự chẳng cho họ một lý do ý nghĩa nào ngoại trừ tiền lương. Theo một báo cáo diện rộng do Gallup, một tổ chức thăm dò ý kiến có trụ sở tại Washington, D.C xuất bản vào năm 2013, số người lao động “chống đối” trên thế giới nhiều gấp đôi so với những người lao động “gắn bó” với công việc của mình. Gallup đã đo lường sự hài lòng với công việc trên toàn cầu trong gần hai thập kỷ. Tổng cộng họ đã khảo sát 25 triệu người lao động ở 189 quốc gia khác nhau. Trong những phiên bản mới đây nhất, họ thu thập thông tin từ 230.000 người lao động làm việc toàn thời gian và bán thời gian ở 142 quốc gia. Nhìn chung, Gallup đã nhận ra chỉ có 13% số người cảm thấy gắn bó với công việc của mình. Những người này làm việc đam mê và dành trọn thời gian để thúc đẩy công ty, doanh nghiệp mình tiến lên. Phần lớn chúng ta, khoảng 63%, không cảm thấy yêu công việc. Chúng ta lờ đờ, nửa tỉnh nửa mê lê lết qua hết một ngày dài, chẳng đầu tư công sức gì lắm cho công việc. Và số người còn lại thì làm việc cực kỳ chống đối, thực sự ghét việc. Nói cách khác, công việc thường xuyên là một nguồn khó chịu hơn là nguồn vui sướng cho gần 90% người lao động trên thế giới. Hãy nghĩ đến sự lãng phí các dịch vụ xã hội, lãng phí cảm xúc và có lẽ lãng phí cả tiền bạc mà con số thể hiện. 90% người trưởng thành dành một nửa thời gian thức để làm những việc họ không muốn làm và ở những nơi mà họ không muốn ở. Những câu hỏi khảo sát của Gallup đã nắm bắt được nhiều lý do làm việc mà tôi vừa liệt kê. Những khía cạnh công việc mà bài khảo sát nói đến là: cơ hội làm việc một cách “tương xứng”, hết sức mình; cơ hội để có hứng thú học hỏi và phát triển bản thân; để cảm thấy cảm kích, vui vẻ với đồng nghiệp và quản lý; để cảm thấy được tôn trọng ý kiến; để cảm thấy công sức mình bỏ ra là cần thiết; và để có những người bạn tốt ở nơi làm việc. Và đối với phần đông áp đảo, công việc của họ thiếu – thiếu nhiều – những điều đó. Câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao? Cuốn sách này sẽ đưa ra một câu trả lời. *** Quan niệm sai lầm Hơn hai thế kỷ nay, cả xã hội và từng cá nhân chúng ta đã thấm nhuần một số quan niệm sai lầm về quan hệ của con người với công việc. Đó là một nguyên lý kinh tế học đã được chấp nhận từ lâu, được một số học thuyết tâm lý bồi thêm cho vững chắc. Nguyên lý ấy là: nếu bạn muốn có một ai đó – nhân viên, sinh viên, quan chức chính phủ hay con cái của bạn – làm một việc gì đó, thì bạn phải đền bù xứng đáng cho họ. Con người làm việc vì được thúc đẩy, vì phần thưởng, vì tiền. Bạn có thể thấy quan điểm này vận hành trong phương pháp “cà rốt và cây gậy”, một phương pháp chủ yếu trong những nỗ lực giải quyết cuộc khủng hoảng tài chính hiện thời của thế giới. Để tránh tình trạng khủng hoảng tài chính tái diễn, người ta cho rằng cần phải thay thế những động cơ làm việc “ngớ ngẩn”, thủ phạm dẫn tới tình trạng khủng hoảng đó, bằng những động cơ “thông minh hơn”. Chúng ta phải có những động cơ đúng. Những thứ khác không thực sự quan trọng. Quan niệm này đã làm sống lại quan niệm của người phát kiến ý tưởng về thị trường tự do, Adam Smith. Trong cuốn Của cải của các quốc gia (The Wealth of Nations), xuất bản năm 1776, ông viết: Con người ta vốn thích được sống sung sướng nhất có thể; và nếu tiền lương vẫn như vậy dù anh ta có làm việc chăm chỉ hay không, thì anh ta sẽ lơ là và lười biếng vì được cho phép. Nói cách khác, con người làm việc vì tiền – chẳng hơn mà cũng chẳng kém. Niềm tin của Smith vào sức mạnh thúc đẩy của đồng tiền dẫn ông tới chỗ bênh vực cho cách thức phân chia công việc thành những thao tác nhỏ, lặp lại dễ dàng, cơ bản là vô nghĩa. Miễn là được trả lương, còn lại công việc đó tạo ra sản phẩm gì thì người ta chẳng quan tâm nhiều lắm. Và bằng cách phân chia công việc thành những thao tác nhỏ, xã hội sẽ đạt được năng suất làm việc khổng lồ. Để tán dương lợi ích của chuyên môn hóa, Smith đưa ra một ví dụ nổi tiếng, miêu tả một nhà máy sản xuất đinh: Một người kéo sợi dây ra, người khác lần theo nó, người thứ ba cắt, người thứ tư chộp lấy mẩu cắt ấy, người thứ năm tán cái đầu nó ra để tạo phần mũ... Tôi đã nhìn một phân xưởng nhỏ làm việc kiểu ấy, họ chỉ thuê có 10 người... Bọn họ có thể làm ra được hơn 48.000 cái đinh một ngày... Nhưng nếu cho làm việc riêng rẽ và độc lập... thì chắc mỗi người không làm nổi được 20 cái. Như chúng ta sẽ thấy sau này, quan điểm của Smith về loài người tinh vi hơn, phức tạp hơn và giàu sắc thái hơn nội dung vừa trích dẫn. Ông ta không tin rằng “con người trong công việc” nói lên toàn bộ câu chuyện, hay thậm chí là chuyện mấu chốt nhất, về bản chất con người. Nhưng dưới bàn tay những kẻ hậu bối của Smith, quan niệm đó đã mai một đi phần lớn độ tinh vi và khía cạnh phức tạp của nó. Hơn một thế kỷ sau, các quan điểm của Smith đã dẫn đường chỉ lối cho cha đẻ của cái được gọi là phong trào “quản lý khoa học”, Frederick Winslow Taylor. Taylor nghiên cứu tỉ mỉ về thời gian và cử động để tinh giản nhà máy, như cách Smith hình dung, để biến nhân công thành một bộ phận của một bộ máy vận hành trơn tru. Và ông ta đã đặt ra những cơ chế khen thưởng để thúc đẩy nhân công làm việc chăm hơn, nhanh hơn, và chính xác hơn. Không lâu sau đó, quan điểm của Smith đã tác động đến suy nghĩ của một nhân vật tiếng tăm trong giới tâm lý học giữa thế kỷ 20, B. F. Skinner. Các nghiên cứu của Skinner trên chuột và bồ câu – qua những thí nghiệm đơn giản, lặp lại, hết lần này đến lần khác, với phần thưởng là thức ăn hoặc nước uống – đã khoác lên một cái áo mang màu sắc khoa học đúng đắn và phương pháp luận cho những cải cách môi trường làm việc do Taylor phát triển. Skinner đã chỉ ra rằng hành vi của con vật có thể bị ảnh hưởng mạnh mẽ và được kiểm soát chặt chẽ bằng cách điều khiển số lượng phần thưởng và tần số thưởng mà hành vi đó đem lại. Giống như Taylor phát hiện ra chế độ trả lương khoán theo sản phẩm (một số tiền cố định cho mỗi sản phẩm hoàn thành) đã nâng cao năng suất làm việc ở nhà máy, Skinner nhận ra rằng con chim bồ câu trong phòng thí nghiệm cũng nghe lời hơn với hình thức khoán tương tự. Bạn có thể hỏi tại sao lại có ai đó đi chọn làm việc trong xưởng đinh của Smith, tán đầu đinh hết phút này đến phút khác, giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác cơ chứ. Câu trả lời của Smith là, tất nhiên rồi, phàm là người thì chẳng ai thích làm việc trong xưởng đinh. Nhưng phàm là người thì cũng chẳng ai thích làm việc cho dù ở bất cứ đâu. Smith đang nói với chúng ta rằng lý do duy nhất cho việc người ta làm bất kỳ thể loại công việc nào chính là số tiền mà nó đem lại. Và miễn là số tiền ấy xứng đáng thì bản thân công việc ra sao lại chẳng thành vấn đề. Adam Smith đã nhầm về thái độ và động lực làm việc của chúng ta. Nhưng khi chủ nghĩa tư bản phát triển dưới ảnh hưởng của ông, bằng một bước xoay mình uyển chuyển của “lý thuyết động cơ cho vạn vật”, người ta đã cải tiến ra một mô hình làm việc bỏ qua hoặc xóa sổ tất cả những yếu tố tiềm năng khác có thể khiến con người ta hài lòng với công việc. Và dần dần, cả hành tinh này đều vận hành theo mô hình như thế, nên mỗi sáng người ta lê bước đi làm mà trong lòng đã chết đi mầm mống ý nghĩa công việc mình làm, đã nguội lạnh lòng thiết tha hay phai tàn những cảm giác hứng khởi do được thử thách khả năng. Vì chẳng có lý do gì để làm việc ngoại trừ tiền, nên họ sẽ làm việc vì tiền. Vậy là quan điểm sai lầm của Smith về lý do làm việc của con người đã trở thành đúng. Ở đây, tôi không định nói rằng trước cuộc cách mạng công nghiệp, lao động là việc vui vẻ. Không hề. Tuy nhiên, lao động của những nông dân, thợ thủ công, và người bán hàng, mặc dù có thể đã từng vất vả, nhưng người ta lại khá tự do, có quyền tự quyết và công việc cũng khá phong phú. Họ có cơ hội sử dụng tài khéo léo của mình để giải quyết các vấn đề phát sinh và tìm tòi những cách thức làm việc hiệu quả hơn. Tất cả những cơ hội này đã rớt lại phía sau khi người ta bước qua cánh cửa nhà máy. Biến những quan niệm sai thành đúng Có thể bạn đồng ý với Smith. Có thể bạn tin rằng với hầu hết mọi người, về cơ bản, công việc chỉ xoay quanh tiền lương và chẳng là gì hơn. Chỉ có “giới tinh hoa” mới muốn có công việc thử thách, ý nghĩa và sự gắn bó và chỉ có họ mới có thể trông đợi những điều đó từ công việc. Không chỉ là có phần hợm hĩnh, quan điểm này còn không đúng. Nhiều người làm những việc mà chúng ta vẫn cho là tầm thường – quản gia, công nhân nhà máy, nhân viên trực tổng đài – quan tâm đến nhiều yếu tố hơn là chuyện tiền lương. Trong khi nhiều chuyên gia lại làm việc chỉ vì tiền. Những điều mà mọi người tìm kiếm phần lớn phụ thuộc vào những gì công việc của họ có thể mang lại. Và điều kiện lao động ra đời từ cuộc cách mạng công nghiệp, được kéo dài mãi một phần nhờ vào các lý thuyết từ các ngành khoa học xã hội, đã tước đoạt một cách có hệ thống niềm hạnh phúc lao động của họ. Để làm được như thế, chúng đã cướp mất của con người một nguồn vui quan trọng – và trả về những công nhân tồi tệ. Bài học ở đây là tầm quan trọng của sự khích lệ vật chất đối với con người sẽ phụ thuộc vào cấu trúc vận hành của nơi làm việc. Và nếu chúng ta tổ chức môi trường làm việc dựa trên quan điểm sai lầm rằng con người làm việc chỉ vì tiền, thì chúng ta sẽ tạo ra một nơi làm việc khiến cho quan điểm sai lầm này trở thành đúng. Bởi vậy, chuyện “người lao động không làm việc vô tư nữa” là không đúng. Cái đúng là bạn sẽ không còn có thể nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình nữa nếu bạn chỉ giao cho người ta một kiểu công việc chán chường và tẻ nhạt. Để mọi người “hỗ trợ nhiệt tình” bạn cần giao cho họ công việc mà họ muốn làm. Và ta sẽ thấy việc người lao động làm việc hết mình, vô tư, không phải vì tiền không còn là mộng tưởng kiểu “bánh vẽ”. Viễn cảnh ấy nằm ngay trong tầm với của chúng ta. Cũng nên nói rằng nhiều năm qua, lý thuyết và thực tiễn về quản lý đã đi qua những giai đoạn công nhận – thậm chí còn ca ngợi – các động lực làm việc đa dạng của con người, và các nhà quản lý được khuyến khích tạo ra một đời sống công sở có khả năng vun đắp tình cảm gắn bó và ý nghĩa công việc, vì lợi ích của cả nhân viên lẫn của tổ chức. Nửa thế kỷ trước, “Thuyết Y” của Douglas McGregor(1) đã là một nỗ lực có tầm ảnh hưởng lớn trong dòng phát triển này, còn Stephen Barley và Gideon Kunda đã xuất bản một bài báo quan trọng liệt kê diễn biến thịnh suy theo thời gian của những quan điểm quản lý công việc này. Nhưng không hiểu sao, những quan điểm như thế này chưa bao giờ hoàn toàn tàn lụi. Phong cách làm việc thoải mái và khác người của Google cùng các công ty đang phát triển như diều gặp gió khác ở thung lũng Silicon có thể sẽ khiến người ta có ấn tượng rằng những công việc lao dịch theo dây chuyền đã lùi vào dĩ vãng. Nhưng giống như lực hút trái đất, quan niệm người ta làm việc chỉ vì tiền đã hết lần này đến lần khác kéo những hi vọng về những mục đích làm việc cao cả hơn dúi dụi trở về mặt đất. Qua nhiều thế kỷ, người ta đã nhận ra những quan niệm của Adam Smith về bản chất con người quả thật rất dai dẳng. Các quan điểm hoặc lý thuyết về bản chất con người có một vị trí độc nhất trong các ngành khoa học. Chúng ta không phải lo lắng rằng trật tự vũ trụ sẽ bị biến dạng do những giả thuyết của chúng ta về vũ trụ. Các hành tinh thực sự không quan tâm đến quan niệm hoặc lý thuyết của chúng ta về chúng. Nhưng chúng ta nên lo lắng rằng bản chất con người sẽ bị thay đổi bởi các lý thuyết chúng ta đưa ra về bản chất con người. Bốn mươi năm trước, nhà nhân chủng học lỗi lạc Clifford Geertz đã nói rằng loài người là “động vật chưa hoàn thiện”. Ý ông là bản chất con người chính là sản phẩm của xã hội xung quanh chúng ta. Rằng con người tạo ra chứ không phải phát hiện ra bản chất của mình. Chúng ta “thiết kế” bản chất con người, bằng cách thiết kế nên những tổ chức mà mình sống trong đó. Bởi vậy ta nên tự hỏi bản thân là mình muốn góp phần thiết kế nên loại bản chất nào. Nếu muốn góp phần tạo nên một kiểu con người tìm kiếm những thử thách, sự gắn bó, ý nghĩa, và sự thỏa mãn trong công việc, chúng ta phải bắt đầu từ việc xây dựng một con đường thoát khỏi cái hố sâu mà gần ba thế kỷ những hiểu lầm về động lực và bản chất chất con người đã đẩy chúng ta vào, và giúp bồi dưỡng những mảnh đất làm việc mà trong đó thử thách, sự gắn bó, ý nghĩa và sự thỏa mãn có thể đâm chồi. Mời các bạn đón đọc Vì Sao Chúng Ta Làm Việc của tác giả Barry Schwartz.
Tư Duy Tích Cực - Bạn Chính Là Những Gì Bạn Nghĩ!
Tư duy tích cực là một chủ đề rộng lớn, nên cần phải tiếp cận theo quan điểm tâm lý học nhân văn và phương pháp tâm sinh lý xã hội. Có thể góp một vài khía cạnh khái quát như sau: 1. Về mặt sinh học, tư duy cũng như tất cả các hoạt động (activities) của con người, đều tiêu hao năng lượng (energy). Đây là dạng năng lượng tâm trí (psychoenergy), nó cũng bắt nguồn từ năng lượng vật chất (calorie) nhưng lại có khả năng tái tạo ra năng lượng. Tư duy tích cực sẽ hoạt hóa các chức năng sinh lý khác như hệ nội tiết, hệ miễn dịch và nhất là hoạt hóa các chất dẫn truyền thần kinh (neurotransmitters) như serotonine, dopamine (gây hưng phấn) hoặc oxytocin (gây khoái cảm tính dục)... Đến lượt mình, các tác nhân nội tiết, thần kinh nói trên lại hoạt hóa toàn bộ các chức năng khác, kể cả các hoạt động cơ bắp và hoạt động thần kinh trung ương trong đó có hoạt động trí não. Nhờ vậy, con người trở nên vui vẻ hơn, sảng khoái hơn, yêu đời, tự tin, sáng suốt và dễ dàng thực hiện những hành vi tích cực, có lợi cho bản thân và cho mọi người. Trái lại, tư duy tiêu cực chỉ làm tiêu hao năng lượng, gây ức chế các chức năng sinh lý khác như suy giảm các chất nội tiết, suy giảm chức năng của hệ miễn dịch (dễ bị lây bệnh/ung thư), các chất dẫn truyền bị ách tắc, dẫn tới làm tê liệt đời sống cảm xúc, trí tuệ, vận động. Tư duy tiêu cực (buồn rầu, thất vọng, hụt hẫng, chán đời, mất lòng tin v.v.) thường tạo ra một cái vòng luẩn quẩn, tiêu cực nọ kéo theo tiêu cực kia, cuối cùng dẫn tới trầm cảm (tê liệt mọi dạng cảm xúc, nhất là tê liệt chức năng vận động) và có thể dẫn đến kết cục bi thảm nhất là tự hủy hoại bản thân (tự sát) và làm tổn hại người khác (cuồng sát). 2. Về mặt tâm lý, tư duy tích cực là một bộ phận (lòng tự tin) giúp cá nhân tự khám phá ra tất cả những tiềm năng (potential) vô tận vốn ẩn chứa trong sâu thẳm mỗi con người. Nhờ năng lượng được hoạt hóa, được đánh thức (arousal), vô vàn tài năng được bộc lộ và có thể tạo ra vô vàn của cải cho xã hội. Những năng lực, khả năng, tài năng đó ta thường gọi là nội lực (inner resources), là điều kiện cốt lõi (chứ không phải yếu tố khách quan - nhờ vả, ỷ lại, vay mượn, xin xỏ, cầu may...) giúp con người tự vượt lên chính mình, vượt qua mọi thử thách, tự khẳng định và trở thành một nhân cách tự chủ, độc lập. Ngược lại, tư duy tiêu cực gây ức chế, tiến tới triệt tiêu mọi ước muốn, nhu cầu, mọi tiềm năng mà phần lớn không được nhận ra, không dám khám phá, khiến con người tự đánh mất lòng tự tin, lòng tự trọng, biến thành một nhân cách đầy mặc cảm, tự ti, sợ hãi, dồn nén, dao động, không tự quyết đoán, dễ bị áp lực từ mọi phía, trở thành một nhân cách lệ thuộc, một sinh thể ký sinh, tự đánh mất những phẩm chất đích thực của một con người. 3. Về mặt xã hội, tư duy tích cực là nguồn sáng tạo trong mỗi con người, là khả năng sáng tạo của mọi cá nhân. Nói cách khác, không có sáng tạo của từng cá nhân thì xã hội sẽ không tiến hóa (une société non évoluée), không phát triển, như đã từng diễn ra ở hầu hết những xã hội có một thể chế hoặc có xu hướng không tôn trọng, thậm chí triệt tiêu những sáng kiến cá nhân. Mặt khác, trong một cộng đồng xã hội, hay trong phạm vi hẹp như gia đình, những thành viên có tư duy tích cực sẽ tạo ra một môi trường lành mạnh, một xã hội đầy tính nhân văn, giúp xã hội đó tự nó tạo ra sức mạnh đầy quyền lực và lấn át những tư duy tiêu cực, mà có thể sẽ không cần một sự can thiệp nào từ bên ngoài. Suy rộng ra, đó cũng là viễn cảnh (perspective) của cộng đồng thế giới được cả loài người mong ước trong thiên niên kỷ này. Ngược lại, những tư duy tiêu cực nếu cứ tồn tại ở đâu đó trong từng con người - từng cá nhân - không bị loại trừ hoặc hóa giải, sẽ có xu hướng phát triển thành một môi trường bệnh hoạn, làm xói mòn nhiều giá trị, làm cạn kiệt nguồn tài nguyên năng lượng của loài người. Đặc biệt, tại những nơi mà tư duy tiêu cực chiếm ưu thế và trở thành chính thống như bạo lực, khủng bố, độc tài, dối trá, phân biệt chủng tộc... thì chúng sẽ biến thành nguồn gốc gây ra biết bao thảm họa. Chẳng hạn, trong môi trường gia đình, tư duy tiêu cực sinh ra nạn gia trưởng, bạo hành mà những thành viên dễ bị tổn thương nhất là phụ nữ và trẻ em. Vì vậy, việc tư duy tích cực và thực hành tư duy tích cực là điều cần thiết cho tất cả mọi người, mang lại lợi ích cho từng cá nhân, từng gia đình và cả cộng đồng thế giới. Đó là lý do tôi trân trọng giới thiệu đến các bạn cuốn sách quý giá này. - Bác sĩ Đặng Phương Kiệt *** Vào năm 2001, khi lần đầu tiên gặp giáo sư Kiệt, tôi đã rất xúc động trước nghị lực và tình cảm mà ông dành cho cuộc đời, cho công việc giúp đỡ người Việt Nam nói chung và những người đang ở trong hoàn cảnh thử thách nói riêng. Nhiều lần, chúng tôi đã cùng nhau đi thăm các dự án của ông ở những vùng nông thôn xa xôi hẻo lánh. Tình yêu thương và mối quan tâm của ông dành cho con người ở những làng quê ấy thật dễ dàng nhận ra. Ông dành nhiều thời gian chú tâm lắng nghe những khó khăn và động viên sự nỗ lực của họ trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống. Sau lần gặp gỡ đó, giáo sư Kiệt đã nhiệt tình hỗ trợ cho những chương trình mà chúng tôi tập huấn tại Việt Nam, và ông trở thành người hướng dẫn, người cố vấn tuyệt vời cho công việc của chúng tôi. Vào cuối năm 2001, ông đã giúp chúng tôi tổ chức hội thảo lớn đầu tiên tại Việt Nam và đưa ra dự đoán rằng tất cả các quyển sách của chúng tôi sẽ được xuất bản bằng tiếng Việt để dễ dàng đến được với người dân Việt Nam. Mặc dù giáo sư Kiệt đã ra đi trước khi điều này xảy ra, nhưng tôi chắc chắn là ông sẽ hài lòng khi biết rằng những điều ông tiên đoán đã trở thành sự thật. *** Khi tìm hiểu về một chủ đề, chúng ta nên xem xét vấn đề trong ngữ cảnh của nó và đặt ra một số câu hỏi căn bản. Những câu hỏi tuy bình thường nhưng vẫn đáng để suy ngẫm. Câu hỏi đánh thức sự hứng thú, sự tò mò của chúng ta, chúng gợi mở tư duy, kích thích trí thông minh và mở cánh cửa trí tuệ để khám phá những chiều kích khác nhau của cuộc sống và của chính bản thân chúng ta. Đó là năm câu hỏi nổi tiếng bắt đầu bằng năm chữ cái "W" - Why, What, Who, When, Where (Tại sao, Cái gì, Ai, Khi nào, Ở đâu), và không quên có chữ “H” kèm theo: How (Như thế nào). Có một câu nói rất hay rằng: "Tôi thà biết vài câu hỏi còn hơn biết tất cả các câu trả lời". Vì sao vậy? Hầu hết chúng ta nghĩ rằng nếu biết tất cả những câu trả lời đúng, chúng ta sẽ thành công và hạnh phúc. Nhưng điều này chỉ đúng trong một chừng mực nào đó. Một đáp án đúng luôn có sẵn và được áp dụng cho các vấn đề toán học, nhưng với đời sống vốn phức tạp, mơ hồ, dễ đổi thay thì một câu hỏi không chỉ có một đáp án đúng - tất cả tùy thuộc vào điều mà bạn tìm kiếm. Đó là lý do vì sao chúng tôi bắt đầu cuốn sách này bằng cách xem xét quan niệm cá nhân về sự thành công: bởi câu trả lời "đúng" tùy thuộc vào điều chúng ta muốn đạt được. Và nếu bạn luôn có sáu câu hỏi này bên mình như những người bạn tốt, thì sẽ còn rất ít điều trong cuộc sống vượt ngoài sự hiểu biết của bạn. Vì vậy, chúng ta sẽ bắt đầu với "Why" (tại sao). Tại sao tư duy tích cực lại là một kỹ năng quan trọng cần phải được phát huy? Điều đó là hiển nhiên bởi bối cảnh mà tất cả chúng ta đang sống, cũng như sự hiểu biết về bộ não kỳ diệu và về những quan hệ trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Sau đó, chúng ta sẽ đặt câu hỏi "What" (cái gì). Tư duy tích cực là gì và nó hoạt động ra sao ("How")? Nó vận hành như thế nào và làm sao chúng ta có thể áp dụng tư duy tích cực trong cuộc sống của mình? Cuối cùng là ba câu hỏi còn lại trong danh sách, có tên "Who" (ai), "When" (khi nào) và "Where" (ở đâu). Những câu hỏi này khá đơn giản và không cần nhiều thời gian để giải đáp nên chúng ta sẽ trả lời ngay bây giờ. Đầu tiên: "Who?” - Ai cần học tư duy tích cực? Nó ứng dụng cho những ai? Câu trả lời quá dễ phải không? Cho tôi. Cho bạn. Ai cần học tư duy tích cực nếu không phải là tất cả chúng ta? Kế tiếp, "When" và "Where" - Tôi nên áp dụng tư duy tích cực trong bối cảnh nào và vào lúc nào trong ngày? Ồ, một lần nữa câu trả lời lại thật đơn giản: Ở đây, ngay nơi bạn đang đứng và đang sống và ngay bây giờ, vào mọi khoảnh khắc của bạn. Chẳng có lý do gì để trì hoãn một công việc đầy hứa hẹn; và với một việc tốt và có ích như thế thì thời gian là "bây giờ", địa điểm là "ở đây" và bạn chính là người để làm việc đó. Như vậy là chúng ta đã giải quyết xong một nửa các câu hỏi. Và việc này diễn ra trước khi chúng ta bắt đầu cuốn sách này. Chúng ta đang làm rất tốt! Bây giờ, hãy giới thiệu về chủ đề: Ta gọi tư duy tích cực là gì? Định nghĩa nó như thế nào? Có người đã đúc kết rằng, tư duy tích cực là khả năng suy nghĩ theo cách mà qua đó, ta có thể biến chuyển những tình huống khó khăn thành những thuận lợi. Thật ra, tư duy tích cực có tác dụng tốt hơn thế nữa, vì không những nó có thể biến những khó khăn thành thuận lợi cho bản thân chúng ta mà nó còn có tác dụng giống như vậy đối với những người xung quanh chúng ta, trong các mối quan hệ của chúng ta. Hầu hết chúng ta thường được dạy cách tư duy theo kiểu "thắng - thua": trong bất kỳ tình huống nào, hoặc là ta thắng, hoặc là ta thua. Điều này dẫn tới lối suy nghĩ rằng trong bất kỳ một mối quan hệ nào cũng có kẻ thắng và người thua. Người thắng thì vui mừng, kẻ thua thì cay đắng. Bằng cách tư duy tích cực, chúng ta hãy tư duy theo cách "cùng thắng": nếu tôi muốn đạt được điều gì có ích cho bản thân thì tôi cũng muốn điều đó xảy ra với bạn. Chúng ta sống cùng nhau và cùng san sẻ với nhau những thuận lợi. Điều này nghe có vẻ quá lý tưởng và không mấy hiện thực. Có thể là vậy, nhưng chúng ta hãy bỏ ra chút ít thời gian để xem xét ý kiến sau đây: Nếu trong mối quan hệ với tôi, bạn có cảm giác bị mất mát điều gì đó thì có thể trong tim bạn sẽ nảy sinh lòng hận thù đối với tôi, có thể bạn đang nghĩ cách trả thù. Còn tôi, đương nhiên tôi không thích sống với ý nghĩ rằng mình có những kẻ thù đang chực chờ cơ hội để đòi lại những gì bị đoạt mất. Hơn nữa, chính tôi cũng không thích mất mát. Vì vậy, tôi giả định rằng bạn cũng như tôi, và thế là toàn bộ trò chơi cuộc đời sẽ là một chuỗi những bấp bênh: nay bạn thắng, mai bạn thua. Nếu chúng ta chỉ cảm thấy tốt và hạnh phúc khi thắng thì chắc chắn hạnh phúc đó sẽ không thể vững bền. Nền tảng của thái độ "cùng thắng" là lấy những trở ngại làm những bài học cá nhân và sẵn sàng thay đổi ý kiến theo chiều hướng tích cực. Đây có thể là nền tảng cho sự phát triển của óc sáng tạo. Nó còn có thể được gọi là sự giao tiếp chân tình. Vậy, tư duy tích cực không phải là chối bỏ sự tiêu cực hay chỉ chấp nhận nhìn thấy những mặt tốt đẹp, thuận lợi, dễ chịu của cuộc sống. Vì như vậy chẳng khác nào nhắm mắt băng qua một con đường nhiều xe cộ: thật nguy hiểm cho ta và mang tính phá hoại đối với người khác. Tư duy tích cực dựa trên sự quan sát khách quan về thực tại, nhưng không ở mãi trong thực tại đó: bạn đón nhận và biến nó thành điều tốt, có lợi, hữu ích. Từ thực tại ấy, bạn tạo ra được điều gì đó, nghĩa là bạn kiến tạo một thực tại của riêng bạn. Tư duy tích cực là hưởng lấy những khoảnh khắc tốt đẹp nhất ở mức trọn vẹn và sáng tạo phù hợp với từng thử thách gặp phải, là học cách chuyển chúng thành những cơ hội. Nếu bạn có khả năng biến trở ngại thành điều hữu dụng cho cuộc sống thì bạn sẽ thoát khỏi những trở ngại và rắc rối. Nếu bạn nhìn những trở ngại, rắc rối theo góc độ những bài học do chúng mang lại, bằng một thái độ quan tâm chân thành và khiêm tốn, một tâm trí rộng mở thì chúng sẽ không còn là những trở ngại nữa mà sẽ trở thành những cơ hội lớn lao trước sự ngạc nhiên của bạn. Có thể bạn sẽ thốt lên rằng: "Tôi sẽ tìm thấy loại cơ hội nào trong hàng ngàn rắc rối mà tôi phải đối diện từng ngày trong cuộc sống của mình?". Hãy yên tâm, những vấn đề rắc rối sẽ mang đến cho bạn kinh nghiệm, chúng rèn luyện để bạn có những phẩm chất hữu ích trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống như chí kiên nhẫn, lòng quyết tâm, sự can đảm, tính bền bỉ v.v. Chúng làm bạn mạnh mẽ hơn, có ích hơn và cuối cùng là hạnh phúc hơn. Có thể nói, tư duy tích cực là một sự chuyển hướng đơn giản và có tính biến hóa từ việc xem cuộc đời như một siêu thị lớn mà bạn có thể chọn những món đồ thành việc hiểu cuộc đời giống một trường học cho sự trưởng thành của bản thân, một mảnh đất màu mỡ để bạn bộc lộ một cách sáng tạo những tài năng của riêng mình, của điều thiện ẩn chứa trong tim bạn. Có một câu hỏi khác trước khi chúng ta tiếp tục. Câu hỏi này không nằm trong danh sách những điều để tôi hỏi các bạn, nhưng tôi nghĩ đó là một câu hỏi hay: Liệu suy nghĩ một cách tích cực có khó không? Liệu có nên luôn suy nghĩ theo tư duy tích cực khi cuộc sống có quá nhiều lý do xác đáng để mà lo âu, chỉ trích, than phiền hay đổ lỗi? Thử thách thật sự hay rắc rối chính là ở chỗ bạn phải nhớ thực hiện nó. Chỉ cần nhớ suy nghĩ tích cực thì bạn sẽ có tư duy tích cực. Tôi thực lòng nghĩ rằng đây là tất cả những gì tư duy tích cực bao hàm. Nếu bạn thử, ý tôi nói là nếu bạn áp dụng nó, bạn sẽ thấy nó rất đơn giản và mang lại kết quả nhanh và như ý muốn. Nó sẽ làm bạn hài lòng một cách sâu sắc, bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn, sống hữu ích hơn và bạn cũng sẽ được đánh giá cao hơn. Ngày nay, hàng triệu người trên trái đất này - từ mọi thành phần, màu da, văn hóa; sống trong đủ mọi hoàn cảnh, từ nhà tù và bệnh viện đến các hộ gia đình; thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, người học nhiều hay học ít, giàu hay nghèo, trẻ em trong trường học, sinh viên đại học, công nhân xí nghiệp, kỹ sư hay các nhà quản lý trong văn phòng, người già ở nhà... - đều có thể áp dụng nó vì lợi ích của chính họ. Vậy thì sao bạn lại không? Nó dễ hiểu, miễn phí và giúp bạn có tất cả những gì cần để có thể thành công: chính bạn với bộ óc đáng kinh ngạc, tâm trí rộng mở đang háo hức khám phá vẻ đẹp cuộc sống, tấm lòng tốt lành và ước muốn xứng đáng được hạnh phúc của bạn. Học tư duy tích cực không rối rắm hơn học lái xe gắn máy, xe đạp hay đi bộ. Ai cũng áp dụng được, ở mọi độ tuổi. Và nếu bạn vẫn còn nghĩ "Việc này khó đấy!" thì giờ đây, hãy bỏ qua suy nghĩ đó và chuyển thành cách nghĩ "Sao lại không nhỉ?". Đúng, sao lại không nhỉ! Và khi bạn đã nghĩ được như thế thì sau đó bạn sẽ thấy rằng "Đúng thế, mình làm được. Mình học được!". Cứ mạnh dạn áp dụng cho bản thân và cho cuộc sống của bạn. Và bây giờ, các bạn có thể bắt đầu đọc quyển sách này. - Frederic Labarthe *** Lời cảm ơn Quyển sách Tư duy tích cực đã trở thành người bạn nhỏ và cũng là quà tặng của nhiều người từ nhiều năm qua, kể từ lần xuất hiện đầu tiên vào năm 2000. Trong lần xuất bản này, chúng tôi có bổ sung và sửa chữa để quyển sách được hoàn thiện hơn. Theo đó, quyển sách được tạo thành từ ý tưởng của ba tác giả: Trish Summerfield đã viết từ chương 1 đến chương 4 với sự cộng tác của Frederic Labarthe. Chương 5 và chương 6 được trích từ quyển “Sự thông tuệ qua hiểu biết tâm linh” (Wisdom Through Spirituality) của Anthony Strano với sự cho phép của ông. Với ý tưởng tạo cơ hội để mọi người trực tiếp thảo luận, chia sẻ những kinh nghiệm trong cuộc sống, và qua đó rút ra bài học cần thiết cho riêng mình, lớp học Tư duy tích cực đã ra đời và được thiết kế dựa theo nội dung quyển sách. Mặc dù xuất hiện chưa lâu, nhưng lớp học đã được đông đảo mọi người từ nhiều thành phần trong xã hội quan tâm và hưởng ứng. Sau đây là một số lời cảm nhận của những người đã từng tham gia khóa học Tư duy tích cực: “Đây thật sự là món quà vô giá mà tất cả mọi người mang đến cho tôi. Nó làm thay đổi suy nghĩ của tôi về con người. Tôi cũng mong muốn gửi tặng món quà này cho những người quanh tôi.” - Huỳnh Đắc Thông, TP. Hồ Chí Minh “Buổi đầu bước chân vào lớp chỉ là sự tò mò, nhưng khóa học ngắn này đã khơi dậy trong tôi nhiều tiềm năng. Mỗi ngày, tôi luôn tự nhắc nhở bản thân rằng tôi phải tự hoàn thiện mình để ngày càng trở nên tốt hơn.” - Minh Ngọc, giáo viên thanh nhạc TP. Hồ Chí Minh “Lớp học này đã giúp tôi nhận thức được cuộc sống, khiến tôi lạc quan, yêu đời và vững tin trong công việc. Tôi hiểu rằng, dù cho bất cứ tình huống nào xảy ra đi chăng nữa, tôi cũng có thể vươn đến thành công nếu luôn giữ vững được tâm trí.” - Nguyễn Thành Thuấn, TP. Hồ Chí Minh “Em cảm thấy thoải mái lắm! Và buổi tối đầu tiên sau khi tham dự lớp học này, em đã mơ về phần thư giãn, nó thật dễ chịu và nhẹ nhõm. Còn phần chia sẻ sau lớp học giúp em tăng thêm niềm tin vào con người.” - Mỹ Ngọc, TP. Hồ Chí Minh Mời các bạn đón đọc Tư Duy Tích Cực – Bạn Chính Là Những Gì Bạn Nghĩ! của tác giả Trish Summerfield & Frederic Labarthe & Anthony Strano.
Suy Nghĩ Vẩn Vơ Về Cái Chết
“Thôi toi rồi!” “Chết mất thôi!” “Không thể sống nổi!” Đó là những câu cửa miệng mà chúng ta vẫn thường xuyên nói mỗi khi gặp chuyện không may. Nếu bạn để ý thì sẽ thấy rằng người ta vẫn nhắc về cái chết hàng ngày, với tần suất thậm chí còn nhiều và đều đặn hơn cả việc hắt xì hơi hay… đi vệ sinh. Thế nhưng liệu bạn thật sự có hiểu về cái chết? Sinh lão bệnh tử - đó là những thứ mà đời người ai cũng phải trải qua. Một cuốn sách nói về “cái chết” chắc hẳn sẽ rất nặng nề và ảo não. Nhưng không, dưới ngòi bút hài hước của tác giả Bunpei Yorifuji thì cái chết lại là một cuộc dạo chơi nhẹ tênh sang một thế giới mới. Không hề khiến bạn phải nhăn mặt hay thở dài ngao ngán, ngược lại SUY NGHĨ VẨN VƠ VỀ CÁI CHẾT sẽ nhiều lúc khiến bạn phải bật cười trước những so sánh đầy lý thú và những hình minh họa siêu đáng yêu. Nếu từ trước đến giờ bạn vẫn quen dùng những câu cảm thán nặng nề, sóng sánh khổ đau để nói tới cái chết, thì sau khi gấp lại cuốn sách này, chắc chắn bạn sẽ có suy nghĩ khác đi nhiều đấy. Mã hàng 9786047749362 Tên Nhà Cung Cấp Skybooks Tác giả Bunpei Yorifuji Người Dịch Hương Giang NXB NXB Thế Giới Năm XB 2018 Trọng lượng (gr) 180 Kích Thước Bao Bì 14 x 17 Số trang 164 Hình thức Bìa Mềm Sản phẩm bán chạy nhất Top 100 sản phẩm Kỹ năng sống bán chạy của tháng Giá sản phẩm trên Fahasa.com đã bao gồm thuế theo luật hiện hành. Bên cạnh đó, tuỳ vào loại sản phẩm, hình thức và địa chỉ giao hàng mà có thể phát sinh thêm chi phí khác như Phụ phí đóng gói, phí vận chuyển, phụ phí hàng cồng kềnh,... Suy Nghĩ Vẩn Vơ Về Cái Chết “Thôi toi rồi!” “Chết mất thôi!” “Không thể sống nổi!” Đó là những câu cửa miệng mà chúng ta vẫn thường xuyên nói mỗi khi gặp chuyện không may. Nếu bạn để ý thì sẽ thấy rằng người ta vẫn nhắc về cái chết hàng ngày, với tần suất thậm chí còn nhiều và đều đặn hơn cả việc hắt xì hơi hay… đi vệ sinh. Thế nhưng liệu bạn thật sự có hiểu về cái chết? Sinh lão bệnh tử - đó là những thứ mà đời người ai cũng phải trải qua. Một cuốn sách nói về “cái chết” chắc hẳn sẽ rất nặng nề và ảo não. Nhưng không, dưới ngòi bút hài hước của tác giả Bunpei Yorifuji thì cái chết lại là một cuộc dạo chơi nhẹ tênh sang một thế giới mới. Không hề khiến bạn phải nhăn mặt hay thở dài ngao ngán, ngược lại SUY NGHĨ VẨN VƠ VỀ CÁI CHẾT sẽ nhiều lúc khiến bạn phải bật cười trước những so sánh đầy lý thú và những hình minh họa siêu đáng yêu. Nếu từ trước đến giờ bạn vẫn quen dùng những câu cảm thán nặng nề, sóng sánh khổ đau để nói tới cái chết, thì sau khi gấp lại cuốn sách này, chắc chắn bạn sẽ có suy nghĩ khác đi nhiều đấy. *** [Review Sách] “Suy Nghĩ Vẩn Vơ Về Cái Chết": Hành Trình Tìm Hiểu Cái Chết Độc Nhất Vô Nhị “Cái chết" - một từ thật nặng nề và tiêu cực. Dẫu chúng ta biết rằng đó là một phần của cuộc sống nhưng việc nghĩ về nó thôi đã rất đáng sợ, dần dần việc suy nghĩ về cái chết trở thành một điều “nên tránh" trong cuộc sống hiện đại. Nhưng đối với Bunpei Yorifuji, ông đã luôn suy nghĩ về cái chết từ ngày còn là cậu bé và thậm chí ông còn muốn đối mặt với nó. Cho đến khi trưởng thành, những tò mò về cái chết đã thôi thúc ông tìm hiểu chính những suy nghĩ của mình. Suy nghĩ vẩn vơ về cái chết đã ra đời như một hành trình khám phá cái chết và để hiểu chính bản thân của Bunpei Yorifuji. Đáng yêu, hài hước và sáng tạo - cuốn sách sẽ cung cấp cho bạn những số liệu và sự thật về cái chết theo cách “nhẹ tênh" và rất thú vị. Sau khi đọc, có thể bạn sẽ có cái nhìn khác về cái chết. Có lẽ ba mẹ tôi là người ngoài hành tinh. Thời tiểu học, đã có dạo tôi nghi ngờ như vậy. Tôi đồ rằng họ chỉ đội lốt người lúc mình nhìn họ và sẽ hiện nguyên hình là người ngoài hành tinh khi mình rời mắt. Sẽ thế nào nếu tôi bất ngờ quay lại và thấy họ đang dõi theo tôi trong bộ dạng đó? Những lúc nghĩ như thế, tôi thường sợ hãi hét lên: “Này!” rồi nhìn về phía họ.  Kết quả là ngay cả đứa bạn thân nhất cũng trợn trắng mắt nhìn tôi. Để kiểm tra, tôi đã thử không gọi họ mà cứ thế quay ngoắt lại, nhanh hết mức có thể. Tất nhiên, ba mẹ tôi vẫn là người. Tôi cũng từng thử mở cửa bất thình lình. Chẳng có gì thay đổi cả. Nhưng điều đó chưa khiến tôi hài lòng. Rất có thể người ngoài hành tinh phản ứng cực nhanh, hoặc họ đọc được suy nghĩ của người khác chẳng hạn. Mối nghi ngờ trong lòng tôi vì vậy cứ lớn dần. Không hiểu sao khi nghĩ về cái chết, tôi lại nhớ tới ngày ấy. Rốt cuộc chết là gì? Khi cố gắng đi tìm câu trả lời, tôi thấy mình ngược trở về cái thời còn nghi ngờ ba mẹ là người ngoài hành tinh. Cái thời thử xoay người thật nhanh, thử mở cửa đột ngột, thử tìm UFO. Cuốn sách này được viết bởi chính thằng tôi ấy, với mong muốn hiểu được dẫu chỉ chút ít về cái chết. 1. Liệu thế giới bên kia có tồn tại? Sự tò mò về cái chết đã thúc đẩy Bunpei Yorifuji tìm hiểu mọi tính chất của một phần tất yếu của cuộc sống này. May mắn thay, có cả một kho dữ liệu về nó để Bunpei Yorifuji thoả sức khám phá và càng nhiều thông tin, ông càng thấy phấn khích. Khởi đầu của hành trình khám phá những suy nghĩ vu vơ của ông chính là xác định Hình dáng của cái chết qua các nền văn hoá và tôn giáo khác nhau.  Ngày nhỏ, “chết” đồng nghĩa với đi xa, hoặc trở thành một ngôi sao, hoặc trong vài trường hợp, la chuyển nhà sang khu phố bên cạnh. Cấp I, “chết” là lên Thiên Đường hoặc xuống Địa Ngục. Cấp 2, “chết” là yên nghỉ trong tim ai đó, là những hồn ma không siêu thoát, là bị phân huỷ thành đạm. Lên cấp 3, “chết" có thể là bất cứ thứ gì chúng ta nghĩ ra. Hình dáng của cái chết - nghe thật trừu tượng phải không? Nhưng đối với tài năng vẽ của Bunpei Yorifuji, mọi thứ trở nên không chỉ rõ ràng mà còn rất thú vị. Bạn chắc chắn sẽ có một hình dung rõ nét không ngờ về cái chết, thế giới bên kia và rất nhiều niềm tin khác nhau về sinh tử.  Mình biết không ai muốn nghĩ về cái chết tuy rằng đó là một phần tất yếu của một vòng đời nhưng nếu thử nghĩ về nó, bạn sẽ hình dung nó như thế nào? Đối với Bunpei, ông tin rằng “người chết hoá ra ma" và xung quanh ông luôn có những linh hồn khiến cho Bunpei tự cảm thấy xấu hổ mỗi khi ông làm trò “con bò” một mình. Nếu tìm hiểu về niềm tin khác nhau về cái chết, bạn sẽ nhận ra những người đi trước nghĩ về cái chết nhiều hơn chúng ta tưởng, họ có một thế giới bên kia riêng cho cộng đồng của mình. Không chỉ vậy, chính những hình ảnh này một phần ảnh hưởng đến lối sống của cộng đồng đó. Sự thật đó là dù bạn nghĩ về cái chết như thế nào thì chắc chắn suy nghĩ ấy sẽ ảnh hưởng đến cái nhìn của bạn về cuộc sống và khó khăn.  Bất cứ ai có thể nghĩ về cái chết với tâm thế thoải mái đều sẽ sống vui vẻ hơn. Và mặc dù có rất nhiều quan niệm về cái chết, song không một đất nước nào tin rằng thế giới sau khi chết chỉ toàn một màu đau khổ. Có Địa Ngục, nhưng cũng có Thiên Đường làm đối trọng cân bằng. Những quan niệm về cái chết đôi khi là lời răn đe, đôi khi là sự khích lệ, có khi lại là công cụ giúp những người đang sống sẵn sàng đối mặt với cái chết. Trong quá trình đi tìm những quan niệm ấy, chẳng phải chúng ta đã định hình nên quan niệm của hiện tại? Có thể bạn không thực lòng tin, nhưng tôi cho rằng quan niệm của mỗi người về cái chết chính là nút thắt của đất nước và dân tộc. Phần lớn chúng ta đều tin vào sự tồn tại vào thế giới bên kia nhưng thế giới này lại luôn biến đổi trong những nền văn hoá và niềm tin khác nhau. Ví dụ như theo tư tưởng Ngũ hành của người Nhật cổ đại, thế giới bên giới kia là một thế giới sâu trong lòng đất có tên là Hoàng Tuyền (Yomi) và nơi này được thông với thế giới thực qua con dốc mang tên “Yomotsu Hirasaka". Còn thổ dân Úc thì tin rằng mặt trời là nơi sinh sống của người chết… Vô vàn niềm tin khác nhau về thế giới của người chết đem lại rất nhiều hình thù khác nhau cho cái chết. Những thông tin này không chỉ cung cấp cho chúng ta những cái nhìn thú vị về cuộc sống bên kia mà còn cho thấy sự đa dạng của các nền văn hoá nữa. Quả là một khởi đầu đầy cuốn hút! Tan rã (tứ đại phân ly)  [Phật Giáo] Theo quan điểm của đạo Phật, sắc thân con người là sự gắn kết bởi “duyên" của bốn yếu tố: [Đất = xương và móng tay, móng chân], [Nước = máu và bạch huyết], [Lửa = thân nhiệt] và [Gió = hoạt động của tim/chân tay]. Chết là khi “duyên” tan, bốn yếu tố trên phân ly. Giống như ta trở về với bản lai chứ không phải sang thế giới bên kia. Đi tới hòn đảo kế bên [Quần đảo Trobriand - Papua New Guinea] Thổ dân trên đảo Kiriwina tin rằng khi chết đi, học sẽ tới một hòn đảo có thực ở gần kề. Tại đó, họ vẫn kết hôn và làm việc bình thường, đến khi già sẽ lột xác ngoài biển. Sau đó, họ trở lại là trẻ sơ sinh, được bao bọc giữa những tàu lá dừa và trôi về hòn đảo mẹ rồi tái sinh, bắt đầu sự sống mới. Chết như vậy thì đầm ấm quá rồi. Nhưng trừ côn trùng và bò sát ra, tôi nghĩ những loài còn lại không nên lột xác đâu.  2. Thời gian, địa điểm và nguyên nhân của cái chết: Càng suy nghĩ về cái chết, Bunpei Yorifuji càng muốn biết về thời khắc cánh cửa đến thế giới bên kia sẽ mở ra hay nói cách khác tuổi thọ trung bình của mình sẽ dài như thế nào. Ông bắt đầu đi nghiên cứu về tuổi thọ trung bình của các nước nhưng chắc chắn rằng những nghiên cứu của ông sẽ không nhàm chán và chứa đầy số liệu như những bản nghiên cứu thông thường. Chỉ cần lướt sang trang sách kế bên, bạn sẽ phải mỉm cười vì hình minh hoạ hết sức đáng yêu và sáng tạo, đủ để xoá tan sự nặng nề mà chủ đề này đem lại.  Hiện nay, tin tức thường đề cập đến tình trạng già hoá dân số như một vấn đề nổi cộm, nhưng tôi nghĩ vấn đề không nằm ở sự già hoá dân số, mà ở việc cơ thể con người và xã hội không theo kịp với điều đó.  “Nguyện vọng vs Tuổi thọ" “Nguyện vọng sống", và “Tuổi thọ kéo dài". Vốn dĩ đây đều là những điều tốt đẹp. Nhưng trên thực tế, chúng dường như đang đối chọi gay gắt. Nếu nói về thời gian, chúng ta không thể không bàn luận về địa điểm xảy ra của cái chết. Châu Á là lục địa có số người chết hằng năm nhiều nhất: hơn 31 triệu người. Còn tại Nhật, nguyên nguyên hàng đầu dẫn tới cái chết ngoài trời là tai nạn giao thông còn 14582 người đã tử vong vì tai nạn trong nhà. Bạn có thể thấy một chút choáng ngợp trước một bầu trời số liệu nhưng Bunpei - người đã bỏ ngang Đại học Mỹ thuật Musashino - đã biến những trang sách thành những infographic rất dễ hiểu và ngắn gọn với hình vẽ vừa đáng yêu, hài hước chỉ mang duy nhất hai màu: trắng và vàng.  Tôi vốn nghĩ cái chết có thể xảy ra ở rất nhiều nơi, với muôn hình vạn trạng. Nhưng trên thực tế, những nơi đó đang dần được quy về một mối, so với ngày xưa, tỷ lệ người chết trong bệnh viện đã tăng lên rất nhiều. Tuy nhiên gần đây, ngày càng có nhiều người lựa chọn các phương pháp “Chăm sóc giảm nhẹ nỗi đau", hay còn được gọi là Chăm sóc giai đoạn cuối (terminal care), như Nhà an dưỡng cuối đời hay Chăm sóc tại nhà... Có vô vàn nguyên nhân dẫn đến cái chết, con số ấy có thể lên đến 8200 loại! Nhưng quan trọng hơn, chúng ta cần phải hiểu “Nguyên nhân cái chết không phải cái chết, mà là chuyện trước lúc chết" hay những cảm xúc diễn ra trước khi cái chết ập đến. Để minh hoạ cho 8200 nguyên nhân, Bunpei đã vẽ một cái cây “nguyên nhân của cái chết" và điều mình thấy bất ngờ nhất đó là ung thư và các bệnh liên quan đến cơ thể là hai nguyên nhân hàng đầu dẫn đến cái chết. Nếu suy nghĩ sâu hơn, thông tin này không chỉ đơn thuần là một con số thống kê mà nó là một kiến thức xã hội. Và chính những con số này làm mình giật mình: vậy không phải việc chăm sóc sức khỏe bản thân tốt rất quan trọng sao? Ở Nhật, u ác tính (ung thư) là nguyên nhân chiếm đến 28,6% và đó cũng là một trong 3 loại căn bệnh gây chết người nhiều nhất. Tuy vậy, lời dẫn chuyện tích cực và hài hước của tác giả chắc chắn là một điểm cộng lớn làm cho Suy nghĩ vẩn vơ về cái chết là một cuốn sách khiến bạn không thể bỏ dở giữa chừng dù phải đối mặt với một sự thật đáng buồn này. Dù là nhồi máu cơ tim hay tai nạn giao thông, thì người chết cũng đã chết rồi, chẳng thể thay đổi được. Nhưng chúng ta vẫn hỏi, một phần vì muốn hoàn toàn chấp nhận điều đó, phần còn lại, có lẽ là do hiếu kỳ. Khi tìm hiểu về cái chết, tôi thấy rất nhiều sách nói về nguyên nhân chết, nhưng theo tôi, bản thân cái chết và nguyên nhân gây ra nó không liên quan tới nhau. “ Nguyên nhân cái chết không phải cái chết, mà là chuyện trước lúc chết3. Những cái chết huyền thoại:  Lội ngược dòng lịch sử, độc giả sẽ được đọc về những cái chết nổi tiếng của các diễn viên, chính trị gia,... ở cả Nhật Bản và trên khắp thế giới. Không chỉ vậy ông cũng không quên những cái chết biểu tượng của các nhân vật trong phim và truyện. Bố cục của chương này được sắp xếp rất tài tình: mỗi bức vẽ là tóm tắt cuộc đời của từng nhân vật nhưng một trang sách, tuy nhỏ, có thể có đến miêu tả của hai nhân vật. Đối với mình đây là phần thú vị nhất và cũng thật may Bunpei Yorifuji đã cung cấp thật nhiều các ví dụ. Tuy chỉ là những tóm tắt ngắn và kèm với hình vẽ minh hoạ nhưng thực chất đây cũng là những kiến thức lịch và văn hoá rất ấn tượng đó chứ!  Nửa đêm, tôi vô tình xem được một nhà sư đang thuyết giảng trên kênh giáo dục NHK. “Cái chết không phải điều gì quá xa xôi mà gần ngay bên ta.”  Chẳng cần nói đến cái chết thì nó vẫn luôn kề cận bên ta mọi lúc. Không ngày nào không có tin tức về chuyện chết chóc. Truyện tranh, phim điện ảnh, phim truyền hình, trò chơi,... đâu đâu cái chết cũng hiện diện. Chúng ta bỏ tiền ra thưởng thức, vui vẻ và hào hứng với nó. Cũng có nhiều câu chuyện mượn sức hấp dẫn của cái chết để đưa chúng ta qua cảm giác xúc động hay phấn kích. “Cái chết = không phải là một câu chuyện" Đặt cái chết vào những câu chuyện sẵn có, tuy vui đấy, nhưng thật hoang đường. Nếu bây giờ tôi chết đi, cái chết của tôi sẽ thế nào? Có lẽ đó sẽ là một câu chuyện hoàn toàn khác. Vậy khi thực sự phải đón nhận cái chết, con người sẽ trải qua những giai đoạn nào? Có thể có rất ít người nghĩ về điều này nhưng đối với Bunpei, đó là điều ông chắc chắn phải dành thời gian suy nghĩ. Trên lý thuyết, con người sẽ dần trải qua: sốc, sự phủ nhận, sự tức giận, sự chấp nhận và cuối cùng sự đón nhận. Đối với mặt với cái chết, chúng ta cũng sẽ trở thành một trong những kiểu người sau: người sợ hãi, người trốn chạy, người chết vì kẻ khác,… có rất nhiều thái độ khác nhau khi mọi người nghe tin cái chết ập đến. Trước kia mình chưa từng nghĩ sẽ có nhiều loại phản ứng với cái chết như vậy vì mình đã tin hầu hết mọi người sẽ thấy sợ hãi. Chỉ khi đọc Suy nghĩ vẩn vơ về cái chết, mình mới nhận ra có thể có nhiều thái độ khác nhau đến vậy. Và điều thú vị hơn cả đó là Bunpei luôn khao khát được dùng hình vẽ để “thí nghiệm" những tìm hiểu của mình.  [Người từ bỏ] Là những người chấp nhận cái chết một cách tiêu cực. Họ coi cái chết là số phận, được định đoạt bởi một thế lực vô hình, và dễ dàng từ bỏ cuộc sống khi phải đối diện với cái chết. Có lẽ nhiều người Nhật nằm trong nhóm này. [Người sợ hãi] Phàm là con người, sợ chết là điều hết sức bình thường. Nhưng những người thuộc nhóm này lại sợ chết quá mức cần thiết, họ hoặc không dám nghĩ tới cái chết bản thân, hoặc mơ được chết thật nhanh chóng. [Người trốn chạy] Là những người không bao giờ nghĩ về cái chết và luôn tin rằng mình có thể sống mãi. Họ chìm đắm trong công việc và những thú vui trước mắt, nên khi đối diện với cái chết, họ phải chịu cú sốc nặng nề. Nhưng sau tất cả những ghi chép và nghiên cứu, Bunpei luôn tự hỏi chính bản thân mình sẽ cảm thấy như thế nào khi thần chết tìm đến. Cũng giống như bao người, vị tác giả người Nhật này nghĩ rằng chắc chắn mình sẽ bị “nghiền nát" nếu nó đột ngột ập đến. Nhưng với một tâm thế lạc quan, ông quyết định sẽ sống một cuộc đời đơn giản, chấp nhận điều sẽ xảy đến với mình cho dù đó là cái chết. Bunpei sống với suy nghĩ rằng cuộc sống phải đồng hành với cái chết và con đường mà ông đang bước đi sẽ luôn có đích là cánh cửa dẫn đến thế giới bên kia. Hay nói cách khác hãy cứ thế mà bước thẳng đến cánh cửa đó và chuẩn bị cho cái chết bằng cách sống hết mình. Điều tôi làm được lúc này, có lẽ là đơn giản hóa những sự kiện xảy ra trong cuộc đời, kết nối chúng lại với nhau rồi gấp lại theo cách riêng của mình, như cái cách tôi nấu một nồi cà-ri thơm ngon, hay thành công ngày hôm nay là nhờ trải qua thất bại ngày hôm trước.  “Mỗi ngày gấp một chút thôi" Sau đó, thi thoảng tôi sẽ thử nhìn lại bản thân từ phía cái chết. Tôi sẽ gấp gọn cuộc sống của mình mỗi ngày, hướng thẳng hết mức có thể về phía cái chết, để ngay cả khi phải đối diện với nó, tôi cũng không bị nghiền nát bởi chính cuộc đời mình. Tuy chỉ là hành động nhỏ bé thôi, nhưng sống và suy nghĩ như vậy là cách đồng hành cùng cái chết mà tôi có thể làm được vào lúc này. Suy nghĩ vẩn vơ về cái chết chắc chắn là một cuốn infographic thú vị về xã hội học, khoa học và cả văn hoá nhân loại nữa. Cuốn sách đáng yêu viết về chủ đề dường như là “cấm kỵ" với nhiều người này sẽ là một hành trình khám phá khác lạ về những mặt khác nhau của cái chết.   Tác giả: Diệp Anh Mời các bạn đón đọc Suy Nghĩ Vẩn Vơ Về Cái Chết của tác giả Bunpei Yorifuji & Hương Giang (dịch).
Não Bộ Kể Gì Về Bạn
Não bộ – cơ quan quan trọng nhất trong cơ thể người - bộ sưu tập tế bào phức tạp nhất trong vũ trụ – khối chất như gel nặng 1,2kg được bảo vệ cẩn thận trong hộp sọ vững chắc – chính là thứ quyết định việc loài người thống trị thế giới tự nhiên. Nhưng bạn biết gì về khối chất tuyệt diệu này? Và nó kể gì về chính bạn? Cuốn sách khoa học thường thức của David Eagleman sẽ giải đáp tất cả. David Eagleman (sinh năm 1971) là nhà khoa học thần kinh tại Đại học Stanford. Nghiên cứu của Eagleman được công bố trên các tập san Science và Nature, ông cũng là tác giả của những cuốn sách bán chạy như Sum và Incognito. Cuốn sách này được viết dựa trên loạt phim tài liệu cùng tên của BBC do chính ông viết kịch bản và dẫn chương trình. Não bộ kể gì về bạn? đặt những nghiên cứu, giả định về “khoa học não” dưới ánh sáng soi chiếu và dẫn dắt bạn trong một cuộc khám phá thú vị, đầy khiêu khích. Eagleman tường tận mô tả sự phát triển của não bộ trong cuộc đời con người, mô tả cách ký ức được hình thành, mô tả cách não bộ nhận thức và ra quyết định, mô tả tương lai của khoa học thần kinh – bằng văn phong hóm hỉnh và hàng trăm thí nghiệm khoa học, so sánh liên tưởng, ví dụ thực tiễn kèm hình minh họa. Tác giả đề cập đến những thành phần mấu chốt của não bộ như vùng não nhỏ (hồi hải mã) – vùng quan trọng cho trí nhớ, và đặc biệt là bộ nhớ không gian. Tác giả cũng đặt ra những vấn đề khoa học thách thức hơn: Có thể sao chép được ký ức không? Có thể đóng băng và lưu trữ thông tin trong não bộ bằng công nghệ? Có thể trẻ hóa tế bào não, kéo dài tuổi thọ người ? Điều đặc biệt nhất, cuốn sách gần như xóa bỏ khoảng cách giữa tài liệu học thuật và cuộc sống. Nó dễ hiểu, sinh động, và trực quan như bạn đang xem một bộ phim tài liệu kỳ thú mà không bị ngắt tập. Như chính Eagleman chia sẻ, cuốn sách không dành riêng cho nhóm độc giả nào, không bao hàm bất kỳ kiến thức chuyên môn nào, mà chỉ có sự tò mò và khát khao tự khám phá. Não bộ con người - một hệ thống điện toán kỳ lạ giúp ta nhận thức, nơi mà theo đó chúng ta định hướng thế giới, cũng từ đó mà các quyết định được đưa ra và trí tưởng tượng được khởi lập. Ước mơ của chúng ta, đời sống tỉnh thức của chúng ta hình thành từ hàng tỉ tế bào đang hoạt động. Những hiểu biết sâu sắc hơn về não bộ sẽ làm sáng tỏ những gì làm nên chúng ta và trả lời được chuỗi câu hỏi quan trọng trong cuộc đời mỗi người: Tôi thực sự là ai? Thực tại là gì? Ai đang điều khiển? Tại sao tôi cần bạn? Chúng ta ra quyết định thế nào? Chúng ta sẽ là trở nên như thế nào? Trong mạng lưới vi xung điện của não bộ, lịch sử và tương lai loài người được tạc dựng. Vì vậy, hãy chắc yên cương cho chuyến hành trình khám phá vũ trụ nội tại. Giữa mênh mông hàng tỉ tế bào não hỗn độn, dày đặc và hàng nghìn kết nối giữa chúng, có thể bạn tìm ra thứ mà đã không mong đợi trước. Chính là bạn. +ĐÁNH GIÁ CỦA CHUYÊN GIA : “Dẫn nhập lý tưởng về cách sinh học tạo ra tâm trí với những câu hỏi quan trọng và bao quát. Và những câu trả lời của Eagleman luôn rõ ràng, hấp dẫn và kích thích tư duy.”– Nature. “Cuốn sách giúp chúng ta dễ dàng hiểu được bộ sưu tập tế bào phức tạp nhất trong vũ trụ – bộ não của chúng ta. Nếu khoa học thần kinh có một huyền thoại sống thì đó hẳn sẽ là David Eagleman.”– Ruby Wax *** Là một cuốn sách hay ho về não bộ mà bất kỳ ai cũng "thấy mình trong đó". Tác giả là David Eagleman, nhà khoa học thần kinh kiêm tác giả của nhiều cuốn sách bán chạy, đã truyền đạt và làm mê hoặc công chúng với những thử nghiệm khoa học phổ thông tài tình về não bộ con người. Một số nhận định về sách: - Một cuốn sách khoa học thường thức tuyệt vời. Dễ đọc, khai sáng và hấp dẫn. - Hình ảnh minh họa cho nội dung một cách xuất sắc. - Rất nhiều sự thật thú vị dàn trải khắp cuốn sách. “Có khoảng hai triệu kết nối mới, hay synapse, được hình thành mỗi giây trong não của một đứa trẻ sơ sinh. Khi lên hai, đứa trẻ có hơn một trăm nghìn tỉ synapse, gấp đôi số lượng mà người trưởng thành có.” - Bao gồm những ví dụ sinh động như vụ xả súng giết người hàng loạt ở trường học do Charles Whitman gây ra. - Miêu tả rất tốt về bộ não của thanh thiếu niên. “Ngoài sự lúng túng xã hội và cảm giác quá mẫn, bộ não thanh thiếu niên được thiết lập để đón nhận những trò mạo hiểm.” - Đề cập đến những thành phần mấu chốt của não bộ. “Các nhà khoa học đặc biệt quan tâm đến một vùng não nhỏ gọi là hồi hải mã (hippocampus) – vùng quan trọng cho trí nhớ, và đặc biệt là bộ nhớ không gian.” - Miêu tả cách ký ức được hình thành. Quá khứ của chúng ta không phải là một bản ghi nhớ trung thành. Thay vào đó nó là một sự phục dựng, và đôi khi nó có thể tiếp giáp với huyền thoại. Khi nhớ lại những kỷ niệm cuộc đời, chúng ta nên nhận thức rằng không phải mọi chi tiết đều chính xác.” - Xem xét những câu hỏi quan trọng mang tính triết học. Liệu bằng chứng khoa học thần kinh hòa hợp thế nào với quan niệm về linh hồn phi vật chất? Hãy tìm hiểu. - Miêu tả thực tại. “Tất cả mọi thứ bạn trải nghiệm – mỗi hình ảnh, âm thanh, mùi – thay vì là một trải nghiệm trực tiếp, lại chỉ là một sự dịch chuyển điện hóa trong một rạp hát tối đen.”“Lát cắt thực tại mà chúng ta có thể thấy bị đặc tính sinh học của chúng ta giới hạn.” - Miêu tả ý thức. “... ý thức của bạn là phần nhỏ nhất trong hoạt động của não bộ. Hành động, niềm tin và những thành kiến của bạn đều được các mạng lưới trong não bộ dẫn dắt mà bạn không thể can thiệp một cách có ý thức.” “Tôi coi ý thức như CEO của một tập đoàn lớn, với hàng ngàn chi nhánh và phòng ban đều đang cộng tác, tương tác và cạnh tranh bằng nhiều cách khác nhau.” - Miêu tả cách não bộ ra quyết định. “Thật dễ dàng để nghĩ rằng não bộ chỉ huy cơ thể từ trên cao – nhưng trên thực tế não bộ lại là tập hợp của chuỗi các phản hồi liên tục với cơ thể.” - Một góc nhìn thú vị về sức mạnh ý chí. “Sức mạnh ý chí không phải là thứ mà chúng ta cần rèn giũa – đó là thứ làm chúng ta suy kiệt.” - Một góc nhìn về khoa học thần kinh xã hội. “Kỹ năng xã hội của chúng ta bắt nguồn từ hệ thống mạng lưới thần kinh của chúng ta – và sự hiểu biết về hệ thống này là nền tảng của một lĩnh vực nghiên cứu non trẻ được gọi là khoa học thần kinh xã hội.” - Một góc nhìn lý thú về Hội chứng E và hậu quả của nó. “Hội chứng E được đặc trưng bằng một phản ứng cảm xúc thoái hóa, cho phép việc lặp đi lặp lại của hành động bạo lực.” “Nạn diệt chủng chỉ có thể xảy ra khi sự phi nhân tính hóa diễn ra trên quy mô lớn, và công cụ hoàn hảo cho việc này chính là tuyên truyền." - Mô tả tương lai của khoa học thần kinh. “Bí quyết để hiểu được thành công – và cơ hội tương lai của chúng ta – là khả năng điều chỉnh to lớn của não bộ, được gọi là tính dẻo của não.” - Có thể sao chép được ý thức không? Hãy tìm hiểu. Sách dày 292 trang (bản tiếng anh), gồm 6 chương: 1. Tôi là ai? 2. Thực tại là gì? 3. Ai đang điều khiển? 4. Chúng ta quyết định như thế nào? 5. Tôi có cần bạn không? 6. Chúng ta sẽ là ai? ***   LỜI GIỚI THIỆU Khoa học não bộ là một lĩnh vực dịch chuyển nhanh, nhanh đến mức mà rất hiếm khi bạn lùi lại để bao quát hết những lớp lang của miền đất này, để đánh giá hết những gì có ý nghĩa mà các nghiên cứu về não mang lại cho cuộc sống của chúng ta, để thảo luận một cách rõ ràng và đơn giản về ý nghĩa của một sinh thể. Cuốn sách này được viết ra nhằm mục đích đó. Các vấn đề về khoa học não bộ. Thứ vật liệu điện toán kỳ lạ - cơ quan nhận thức trong hộp sọ chúng ta, nơi mà theo đó chúng ta định hướng thế giới, cũng từ đó mà các quyết định được đưa ra và trí tưởng tượng được khởi lập. Ước mơ của chúng ta, đời sống tỉnh thức của chúng ta hình thành từ hàng tỉ tế bào đang hoạt động. Những hiểu biết sâu sắc hơn về não bộ sẽ làm sáng tỏ những gì làm nên chúng ta trong các mối quan hệ cá nhân và những gì chúng ta cần trong khế ước xã hội như: chúng ta chiến đấu như thế nào, tại sao chúng ta yếu, chúng ta chấp nhận điều gì như là sự thật, chúng ta nên giáo dục như thế nào, làm thế nào chúng ta có được một khế ước xã hội tốt hơn và cách thiết kế cơ thể chúng ta trong nhiều thế kỷ tới. Trong mạng lưới vi xung điện của não bộ, lịch sử và tương lai loài người được tạc dựng. Đặt não bộ vào trung tâm cuộc sống chúng ta, tôi tự hỏi tại sao xã hội của chúng ta hiếm khi nói về nó, thay vào đó là những câu chuyện nhiễu tạp với những tin đồn về người nổi tiếng và chương trình thực tế. Tôi nghĩ rằng sự thiếu quan tâm đến não bộ không chỉ là một thiếu sót nữa, mà nó thực sự là một vấn đề: chúng ta bị mắc kẹt bên trong thực tế là rất khó để nhận ra bản thân đang bị mắc kẹt trong điều gì đó. Nhìn qua, có vẻ như không có gì đáng để nói đến. Tất nhiên màu sắc luôn hiển hiện trong thế giới bên ngoài. Tất nhiên trí nhớ của tôi giống như một máy quay video. Tất nhiên tôi biết lý do thực sự cho những niềm tin của tôi. Những trang viết trong cuốn sách này sẽ đặt mọi giả định của chúng ta dưới ánh sáng soi chiếu. Bằng cách viết nó ra, tôi muốn thoát khỏi mô hình sách giáo khoa để làm sáng tỏ những truy vấn ở mức độ sâu hơn: chúng ta quyết định như thế nào, chúng ta nhận thức được thực tế như thế nào, chúng ta là ai, cuộc sống của chúng ta được điều khiển như thế nào, tại sao chúng ta cần người khác, chúng ta đang hướng tới đâu trong vai trò một loài mới chỉ bắt đầu nắm được dây cương đời mình. Dự án này cố gắng bắc cây cầu qua khoảng ngăn cách giữa các tài liệu học thuật và cuộc sống mà chúng ta dẫn dắt trong vai trò là người chủ sở hữu não bộ. Cách tiếp cận tôi đưa ra ở đây khác với các bài báo khoa học tôi viết, và thậm chí khác các sách khoa học thần kinh khác của tôi. Dự án này dành cho đối tượng độc giả khác. Nó không bao hàm bất kỳ kiến thức chuyên môn nào, chỉ có sự tò mò và khát khao tự khám phá. Vì vậy, hãy chắc yên cương cho chuyến hành trình vào vũ trụ nội tại. Giữa mênh mông hàng tỉ tế bào não hỗn độn, dày đặc và hàng nghìn kết nối giữa chúng, tôi hi vọng bạn có thể nheo mắt và tìm ra điều mà bạn hẳn không mong đợi sẽ thấy ở đó. Chính là bạn.   Mời các bạn đón đọc Não Bộ Kể Gì Về Bạn của tác giả David Eagleman & Trần Tuấn Hiệp (dịch).