Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Xác Không Đầu

Cơ thể bị chia cắt của một người đàn ông được tìm thấy Trong Kênh Saint-Martin. Gần với hiện trường, Maigret gặp chủ nhân ngầm của một quán cà phê, Aline Calas, và tự hỏi liệu cơ thể trong con kênh có phải là của chồng cô không. Như thường lệ, bản năng của Maigret là chính xác. Buộc phải điều tra thêm nhưng với thời gian trên tay khi anh đã giải quyết xong vụ án, Maigret bắt đầu đào sâu vào quá khứ của tất cả những ai quan tâm. Không giống như hầu hết các hư cấu thám tử, nơi tìm kiếm giải pháp là trọng tâm của câu chuyện, cuốn tiểu thuyết này khám phá các động cơ khác nhau có thể dẫn đến phạm tội. Đây là lý do tự thù hận đằng sau những hành động theo đó bạn có thể làm tổn thương và làm tổn thương những người thân thiết nhất với bạn. Simenon, thông qua Maigret, tuyệt vọng cố gắng để tìm ra ý nghĩa thực sự và tham vọng, tin rằng sự hiểu biết có thể dẫn đến sự tha thứ và tha thứ sẽ làm giảm ổ đĩa để phạm tội. *** Nhà văn Georges Simenon sinh ngày 13.2.1903 mất ngày 4.9.1989. Năm 16 tuổi, Simenon là chàng phóng viên trẻ viết tin vắn cho tờ La Gazette de Liège. Mỗi ngày, ông đạp xe đến các bót cảnh sát, nhà băng, sở cứu hỏa, những cuộc thi thể thao để lấy tin cho báo. Năm 1922, ông tới Paris hoa lệ. Tiểu thuyết đầu tay Trên Chiếc Cầu Vòm Cung được xuất bản tại Liège (Bỉ) với bút danh Georges Sun. Nhưng sự thành công chưa vội đến với cây bút trẻ có hàng chục bút danh khác nhau này (Jean du Perry, Gom Gut, Christian Brull...). Mười năm miệt mài viết như người lao động khổ sai giúp ông thành thạo trong “tốc độ” sáng tác. Đây chính là thế mạnh của tác giả “bậc thầy trinh thám” sau này. “Suốt thời kỳ 1928-1931, ông chỉ viết những tác phẩm về Maigret, trung bình mỗi tháng một cuốn”, ông nổi tiếng như cồn khi tiểu thuyết trinh thám Con Chó Vàng (Le chien jaune, 1931) được xuất bản, với tên thật Georges Simenon. 11 tác phẩm in năm đó thì 10 cuốn là tiểu thuyết với nhân vật sáng tạo Thanh tra Maigret. Một đời văn với hơn 300 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp đã được xuất bản, người ta không khỏi thán phục năng lực sáng tác bền bỉ và trí tưởng tượng phong phú của nhà văn Georges Simenon. Bậc thầy tiểu thuyết trình thám thật sự chinh phục hàng triệu người đọc tại nhiều nước trên thế giới. Hơn 80 tiểu thuyết Thanh tra Maigret không nằm trong thể loại truyện hình sự tầm thường. Giá trị văn học của tác phẩm đã được các nhà phê bình nhìn nhận. Sau ngày ông mất, Đại học Liège ở Bỉ đã thành lập Trung tâm nghiên cứu Georges Simenon và đã xuất bản các tác phẩm nghiên cứu về ông. Cho đến nay, chưa có nhà xuất bản nào tại Pháp in toàn bộ tác phẩm của Georges Simenon. Mới đây, các tiểu thuyết của ông được Nhà xuất bản Ommious in thành 25 tập Tất cả Simenon nhưng chưa đầy đủ. Còn ở Việt Nam mới chỉ có khoảng chục cuốn thuộc thể loại trinh thám hình sự của Georges Simenon. Không học cao, không đọc nhiều, không quan hệ rộng và cũng chẳng mấy khi đi đâu xa, thế nhưng Georges Simenon lại lập kỷ lục về số sách bán được và làm giàu nhờ những tác phẩm được chuyển thể điện ảnh. Bị một số người xem thường suốt thời gian dài, nhà văn viết nhiều và viết nhanh này lại được những đồng nghiệp danh tiếng như André Gide, Henry Miller hết mực kính trọng. Làm thế nào một người rời trường học từ lúc 15 tuổi và thừa nhận mình chưa bao giờ đọc những tác phẩm văn học cổ điển lại trở thành nhà văn viết tiếng Pháp có nhiều người đọc nhất và có tác phẩm được dịch nhiều nhất trên thế giới? Văn phong của Georges Simenon không có gì đặc biệt, không hoa mỹ và không có những hình ảnh ấn tượng. Vốn từ vựng của ông cũng rất hạn chế. Tiểu thuyết của ông không có nhiều yếu tố lịch sử hay triết học. Mọi nhân vật trong truyện đều thuộc tầng lớp trung lưu, có cuộc sống bình lặng, những thị dân tiểu tư sản, chung thủy với vợ, ít ngao du, không tham vọng, không chính kiến rõ rệt. Thế mà không khí trong tiểu thuyết của ông khiến người đọc phải nhớ mãi. Trong 60 năm cầm bút, Georges Simenon trải qua nhiều trào lưu văn nghệ; chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa Marx và Tiểu thuyết mới, nhưng không trào lưu nào ảnh hưởng nơi ông. Để hiểu được phần nào bí quyết thành công của Georges Simenon, có lẽ cần trở lại thời thơ ấu của ông. Gia đình sống quanh quẩn trong thành phố quê hương, chẳng mấy khi đi đâu xa. Để thay đổi số phận, năm 16 tuổi, Georges Simenon đến Paris. Vì sinh kế, chàng thanh niên trẻ làm đủ mọi công việc liên quan đến viết lách. Con người rất ít khi đọc sách ấy lại có một năng khiếu đặc biệt: Có thể cùng lúc là thư ký, nhà báo, nhà văn, và viết rất nhanh. Khi một nhà xuất bản yêu cầu một cuốn tiểu thuyết, câu hỏi đầu tiên của Georges Simenon luôn là: “Ông muốn có sách vào thứ sáu này hay tuần tới?” Ông viết nhiều và nhanh đến nỗi khi chưa đến 25 tuổi đã có rất nhiều bút danh. Tất cả các tác giả từng viết tiểu sử Georges Simenon đều nhận định: Để viết cuốn tiểu thuyết “Maigret” (tên vị thanh tra, nhân vật chính trong tiểu thuyết của Simenon), nhà văn chỉ cần 6 ngày và chỉ mất 9 ngày cho những tác phẩm khác mà ông gọi là “tiểu thuyết hắc” (romans durs). Cách viết nhanh như vậy giúp ông đạt được những thành công đầu tiên. Pietr le Letton (1931) là cuốn truyện mở đầu loạt truyện Maigret. Trong vòng hai năm, ông viết hơn 20 tiểu thuyết, đem lại lợi nhuận lớn lao cho nhà xuất bản Fayard. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng, Maigret et monsieur Charles (Maigret và ông Charles) được xuất bản năm 1972. Những cuộc phiêu lưu của thanh tra Maigret trải dài trên 75 tiểu thuyết (với khoảng chừng 10 năm), mà nhân vật chính không già đi, trán không gợn một nếp nhăn. Từ tác phẩm đầu tiên cho đến tác phẩm cuối cùng, thanh tra Maigret vẫn ở tuổi 50. Các nhà nghiên cứu nhận thấy tên Georges Simenon được ký trên hơn 200 cuốn tiểu thuyết và ông cũng viết ngần ấy tiểu thuyết với những bút danh khác (40 bút danh) và gần 1.000 truyện ngắn. Les fiançailles de monsieur Hire (Lễ Đính Hôn Của Ông Hire) và Le Chien Jaune (Con Chó Vàng) là những tác phẩm củng cố danh tiếng của ông. Những trí thức ở Paris không muốn nhắc đến “kẻ xa lạ” trốn tránh kinh đô Ánh sáng và xem thường những nghi thức của xã hội thượng lưu. Nhiều người phê phán Georges Simenon không có văn phong. Ngoại trừ nhà văn Pháp André Gide và nhà văn Mỹ Henry Miller, Georges Simenon không giao tiếp với ai nên bị giới văn học cho “ra rìa”. Ông cũng giữ thái độ mập mờ, không cộng tác với ai, cũng chẳng phản kháng ai. Khi nước Pháp thoát khỏi sự chiếm đóng của phát xít Đức, cũng như nhiều nhà văn khác, Georges Simenon bị buộc nhiều tội, trong đó hai tội chính: Ký hợp đồng với một nhà sản xuất phim người Đức để chuyển thể 9 cuốn tiểu thuyết của ông và Christian Simenon, em trai ông, ủng hộ phong trào chống chế độ đại nghị ở Bỉ, bị kết án tử hình vắng mặt. Năm 1945, Georges Simenon rời châu Âu sang Mỹ, lưu lại đây 10 năm. Nhưng ở nơi sống mới, “nỗi ám ảnh viết lách” không hề dịu đi. Trái lại, trí tưởng tượng của ông càng thêm phong phú nhờ những chuyến phiêu lưu khám phá kinh đô điện ảnh Hollywood. Lúc này ở châu Âu, những lời lên án ông hợp tác với phát xít Đức đã nhạt đi. Georges Simenon sang Thụy Sĩ, sống trong một dinh thự mênh mông ở Epalinges, cách Lausanne 10km. Ông đã là một ngôi sao. Người tra tranh nhau đăng tiểu thuyết của ông trên các báo và chuyển thể thành phim. Từ La nuit du carrefour (1932) đến Monsieur Hire (1989), tổng cộng 56 tiểu thuyết chuyển thể. Thêm một kỷ lục nữa: Georges Simenon trở nên giàu có nhờ số sách bán được và những bộ phim. Thoạt đầu, danh tiếng làm ông thích thú, nhưng rồi ông thấy chán ngán: “Tôi bán bản quyền và chẳng quan tâm nữa. Thậm chí tôi còn không đi xem phim”. Ở Epalinges, cuộc sống của ông rất bình lặng. Ông ít giao tiếp, dành toàn bộ thời gian để viết, đi dạo hai lần mỗi ngày, mỗi tháng gửi một bản thảo cho nhà xuất bản. Cuộc sống cứ thế trôi đi cho đến năm 1972, ông hầu như ngưng viết. Trước khi qua đời năm 1989, ông cho xuất bản 20 tác phẩm tự truyện. Sách của Georges Simenon được dịch sang 50 thứ tiếng. Trong bảng xếp hạng các sách được dịch nhiều nhất trên thế giới, sách của Georges Simenon và Agatha Christie chỉ xếp sau Kinh Thánh và các tác phẩm của Karl Marx. Cùng với việc viết lách, phụ nữ là mối quan tâm lớn của đời ông. Có nhiều lời đồn đoán về “năng lực tình ái” phi thường của Georges Simenon. Ông từng khoe đã yêu 10.000 phụ nữ. Denyse, người vợ thứ hai, cho biết lúc tuổi xế bóng, Georges Simenon vẫn chăn gối 3 lần mỗi ngày. Bà bếp tiết lộ đã dan díu với ông chủ Georges Simenon trong một thời gian dài, và trong lúc đi dạo, cha đẻ của Maigret lại tìm quên trong vòng tay của một cô gái làng chơi. Sinh hoạt tình dục sôi nổi ấy lại không để lại một dấu vết nào trong tác phẩm của Georges Simenon. Bà Maigret là một phụ nữ tiểu tư sản, mờ nhạt và lệ thuộc, luôn ngưỡng mộ chồng. Điểm này cũng là một bí ẩn của Georges Simenon. Ông kết hôn lần đầu tiên năm 19 tuổi với Tigy, có một con trai tên Marc. Marc kết hôn với nữ diễn viên nổi tiếng Mylène Demongeot, Georges Simenon cũng có quan hệ tình ái với ngôi sao nhạc kịch Joséphine Baker và suýt ly hôn với Tigy. Năm 1945, Georges Simenon gặp Denyse Ouimet, thoạt đầu là thư ký của ông, rồi trở thành người tình, người vợ, Georges Simenon và Denyse có 3 con: John, Mary và Pierre. *** Khi trời vừa rạng sáng thì Jules Naud, người anh cả của hai anh em nhà Naud, xuất hiện trên sà lan, trước hết là cái đầu, tiếp đó đến đôi vai và sau cùng là tấm thân cao lều nghều của anh. Đưa tay lên vuốt mớ tóc màu sợi lanh chưa kịp chải, anh nhìn âu thuyền có bến cảng Jemmages ở bên trái và bến cảng Valmy bên phải. Anh vừa cuốn một điếu thuốc lá và châm hút trong buổi sáng còn se lạnh thì ngọn đèn của một quán rượu ở phố Recollets bật sáng. Mặt tiền của quán rượu có màu vàng khè. Popaul, chủ quán, mặc áo không cổ, tóc chưa chải, đang đứng ngoài vỉa hè để tháo những cánh cửa lùa. Jules đi trên tấm ván bắc làm cầu lên bờ và cuốn điếu thuốc thứ hai trong khi đó thì Robert, người em, cũng cao lớn như anh, đã thức giấc và lên trên boong tàu. Anh ta thấy Jules đang tì tay lên quầy hàng đợi chủ quán rót thêm rượu vào tách cà phê của anh.  Robert đang đợi đến lượt mình. Cùng với những cử chỉ như Jules, anh ta cũng cuốn một điếu thuốc lá. Khi người anh cả rời khỏi quán hàng thì người em cũng đã lên khỏi sà lan. Hai người gặp nhau ở giữa đường. - Ta cho nổ máy đây - Jules bảo người em trai. Có những ngày hai người không nói với nhau quá một chục câu theo kiểu ấy. Con tàu của họ mang tên Hai anh em. Họ đã lấy hai chị em sinh đôi của một gia đình sống trên bờ sông. Robert cũng tì tay lên quầy hàng của ông Popaul béo lùn và đợi chủ quán rót rượu. - Hôm nay đẹp trời - Popaul gợi chuyện. Qua cửa sổ, Robert thấy trời đã chuyển sang màu hồng. Những ống khói trên các nóc nhà bắt đầu hoạt động, sương giá đọng trên các mái nhà lợp bằng đá bảng hoặc bằng ngói bắt đầu tan. Người ta nghe thấy tiếng nổ của đầu máy đi-ê-zen. Phía sau sà lan phụt ra những luồng khói đen. Robert đặt tiền lên quầy hàng, cầm lấy chiếc mũ cát-két và đi khỏi quán rượu. Người phụ trách âu thuyền trong bộ đồng phục đã xuất hiện chuẩn bị cho việc mở cửa âu. Người ta nghe thấy những bước chân ở cảng Valmy nhưng không nhìn thấy người. Tiếng trẻ con bi bô trong những khoang tàu, nơi các bà mẹ đang chuẩn bị cà phê. Jules đang cúi xuống nhìn mặt nước ở cuối sà lan. Người em thấy như có chuyện gì không ổn. Sà lan chở đá xây dựng từ Beauvais về. Chuyến này đá chở nhiều hơn thường lệ một vài tấn. Đêm qua sà lan từ bên La Vilette để đi vào kênh đào Saint-Martin. Thông thường thì tháng Ba kênh đào có nhiều nước. Năm nay ít mưa nên bùn trong các con kênh sục lên khi sà lan đi qua. Những cánh cửa âu thuyền được kéo lên. Jules ngồi bên vòng quay của bánh lái. Người em lên bờ tháo neo. Chân vịt bắt đầu quay tít, những bọt nước có bùn nổi lên. Tì người vào cây sào, Jules đẩy sà lan tránh xa bờ kênh. Bỗng nhiên chân vịt khựng lại, tiếng máy nổ rú lên và Robert thấy Jules đang cúi xuống máy. Cả hai đều không hiểu đã có chuyện gì xảy ra. Chân vịt không sát xuống đáy sông. Chắc chắn đã có vật gì mắc vào nó. Có thể là rác đã bị cuốn lên. Cầm một cây sào, Jules đến cuối sà lan và khuấy nước ở đấy lên. Chân vịt vẫn không nhúc nhích. Trong khi Jules đi tìm một chiếc móc bằng sắt thì Laurence từ khoang sà lan nhô đầu lên. - Có chuyện gì vậy? - Không biết. Cái móc bắt đầu làm việc. Vài phút sau đó thì Charles Dambois, người phụ trách âu thuyền, bước tới. Ông ta không hỏi han gì mà chỉ lặng lẽ nhồi thuốc vào tẩu để hút. Trên bờ kênh, người ta thấy nhiều y tá và hộ lý vội vã tới phố Cộng Hoà để làm việc tại bệnh viện Saint-Louis. - Anh đã thấy vật đó chưa? - Đã thấy. - Một sợi dây cáp ư? - Không biết. Jules đã móc được vật ấy lên và chân vịt lại tiếp tục quay. Chiếc móc sắt được nhấc lên khỏi mặt nước và mắc vào đấy là một gói giấy báo buộc kỹ. Giấy báo ngâm nước đã mủn ra. Đấy là một cánh tay người, từ bả vai đến bàn tay, thịt đã xám lại như con cá chết. *** Depoil, hạ sĩ cảnh sát của khu phố Ba, đã hết phiên trực đêm ở bến cảng Jemmages, đang chuẩn bị ra về thì gặp Jules chạy tới. - Tôi ở âu thuyền Recollets cùng với chiếc sà lan Hai anh em. Chân vịt đã không quay được khi chúng tôi cho sà lan chạy và chúng tôi đã gỡ từ đó ra một cánh tay người. Depoil đã làm việc ở quận Mười mười lăm năm, có phản ứng nhanh nhạy của người cảnh sát nên anh nắm ngay sự việc. - Tay của đàn ông ư? - Depoil hỏi với vẻ hoài nghi. - Phải. Cánh tay đầy lông màu hung và... Thường thì người ta vớt được xác chết ở kênh đào Saint-Martin từ chân vịt của tàu thuyền. Hầu hết là xác nguyên vẹn, đại đa số là xác đàn ông, ví dụ như xác của một ông già lang thang quá chén hoặc xác của một thanh niên bị địch thủ cho một nhát dao rồi đẩy xuống dòng kênh. Xác chết bị chặt ra từng khúc cũng không phải là không có, một năm trung bình một hai vụ, mà hầu hết là phụ nữ. Depoil có thể kể ra từng vụ một. Chín phần mười họ đều là gái bán dâm, đi lượn lờ trên bờ kênh vào ban đêm. "Tội ác do những kẻ loạn dâm gây ra" - Báo cáo của anh thường kết luận như vậy. Cảnh sát biết rõ những kẻ năng lui tới chốn này, họ có cả một danh sách những kẻ đáng nghi ngờ. Chỉ cần một vài ngày là đủ để tóm cổ được tác giả của vụ án cướp của giết người hoặc tấn công địch thủ bằng vũ khí. - Anh đã mang nó lên bờ rồi chứ? - Depoil hỏi. - Cánh tay người ư? - Anh để nó ở đâu? Mời các bạn đón đọc Xác Không Đầu của tác giả Georges Simenon & Trần Bình (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thiết Đinh Án
Thiết Đinh Án là tác phẩm thứ 11 trong bộ tiểu thuyết trinh thám quan án viết về Địch Nhân Kiệt – vị thần thám danh tiếng lẫy lừng triều Đường, dưới thời Võ Tắc Thiên trị vì: Series Địch Công kỳ án. Năm 676, Địch Công nhậm chức Thứ sử Bắc Châu tại vùng  biên giới xa xôi. Sự yên bình của Bắc Châu bị phá vỡ khi hàng loạt các vụ án bí ẩn xảy ra: một cô tiểu thư cành vàng lá ngọc bị mất tích giữa chợ đông người, một vị phu nhân bị sát hại dã man trong căn phòng khóa kín và một vị võ sư bị đầu độc một các hèn hạ. Trong khi các vụ án còn chưa phá giải được thì khắp Bắc Châu đã lan truyền một tin động trời rằng: vì Thứ sử vô cớ quật mộ một thương gia đã qua đời từ nửa năm về trước để nghiệm thi nên mới dẫn đến bao sóng gió ở trong thành. Người dân vô cùng phẫn nộ và yêu cầu Địch Công phải từ quan. Bắc Châu sắp rơi vào cảnh hỗn loạn, một trong bốn trợ thủ đặc lực của Địch Công cũng bị sát hại khiến ông như mất đi một cánh tay. Địch Công sẽ phải làm như thế nào khi kết quả khám nghiệm tử thi không có gì bất thường? Liệu ông có tìm ra chân tướng sự việc, phá giải vụ án hóc búa này, vỗ về lòng dân cũng như người trợ thủ đã hết lòng giúp đỡ cho mình?  *** Robert Van Gulik (1910-1967) là một nhà Đông phương học uyên thâm, từng học Pháp luật và Ngôn ngữ phương Đông tại Hà Lan; năm 1935 nhận học vị tiến sĩ nhờ công trình nghiên cứu về Ấn Độ, Tây Tạng (Trung Quốc) và Viễn Đông. Những năm tiếp theo, liên tục làm công việc của một quan chức ngoại giao tại Trùng Khánh, Nam Kinh (Trung Quốc), Tôkyô (Nhật Bản) và một số nước khác; cuối đời trở thành đại sứ Hà Lan tại Nhật Bản. Ông là tác giả của hàng loạt cuốn sách nổi tiếng về văn hóa phương Đông, như “Trung Quốc cổ đại cầm học”, “Kê Khang cầm phú”, “Trung Quốc hội họa giám thưởng”, “Địch công án”, “Xuân mộng tỏa ngôn”, “Bí hí đồ khảo”, Trung Quốc cổ đại phòng nội khảo”… Celebrated Cases of Judge Dee (Địch Công Án/ Những cuộc điều tra của quan Địch) gồm 16 tập. Một loại tiểu thuyết trinh thám - công án về quan án Địch Công được xây dựng dựa trên nguyên mẫu của tể tướng Địch Nhân Kiệt (630 - 700) một nhân vật có thật sống vào đời nhà Đường thế kỷ thứ VII. Sinh tại Tĩnh Châu, phủ Thái Nguyên (Sơn Tây) Địch Nhân Kiệt đã làm quan tại các địa phương dưới các chức vụ huyện lệnh, Pháp tào Tham quân, Tuần phủ,Thứ sử. Năm 47 tuổi ông về kinh đô Trường An làm Đại lý thừa Tự khanh rồi lần lượt được thăng lên Thị ngự sử, Thị lang bộ Công, thượng Thư tả thừa, hai lần làm Trung thư lệnh (tể tướng) và đô đốc dưới quyền nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên. Phẩm chất đạo đức và tài phá án của ông đã được người đời ca tụng sủng ái đến mức như huyền thoại. Không những là người có hiểu biết về pháp luật, về tâm lý con người, Địch Công còn biết cả kiếm thuật, võ thuật lẫn chữa bệnh, một quan toà cổ đại Trung Quốc mang dáng dấp của Sherlock Holmes... Cùng với bốn hộ vệ mưu trí, dũng cảm, xả thân vì chủ như Hồng Lương, Mã Tôn, Triệu Thái và Tào Can - những giang hồ hảo hán được ông giác ngộ và cho đi theo, Địch Công đã phá được rất nhiều vụ án ly kỳ. Robert Van Gulik cũng khéo léo đưa vào bộ tiểu thuyết trinh thám này những nét văn hóa, lịch sử, phong tục của Trung Quốc.  *** Địch Công kỳ án là bộ tiểu thuyết 16 tập thuộc dòng trinh thám quan án. Nội dung tác phẩm xoay quanh nhân vật Địch Nhân Kiệt và các trợ thủ thân tín, cùng những vụ kỳ án muôn màu muôn vẻ ông đã phá giải trên hành trình thăng tiến từ một Huyện lệnh lên đến chức Tể tướng. Có thể nói, tác giả đã hội tụ và đúc kết những gì tinh hoa nhất của hai dòng trinh thám phương Đông và phương Tây vào kiệt tác Địch Công kỳ án. Bộ tiểu thuyết được viết theo phong cách đậm chất duy lý, đồng thời cũng là tác phẩm trinh thám phương Tây đầu tiên đi theo mô tuýp trinh thám quan án và mang lại sức sống mới cho dòng trinh thám đậm chất phương Đông này. Nhờ vậy mà đến tận bây giờ, Địch Công kỳ án vẫn giữ vị trí độc tôn đặc biệt, là tác phẩm thành công nhất trong dòng trinh thám quan án. *** Nơi hoa viên quan nhân báo mộng Tại thư phòng Thứ sử nhận tin Nguyện dốc lòng xử án, Thiên cổ soi gương ai. Sinh tử do ta quyết, Phải cẩn trọng không sai! Đêm hôm trước, ta ngồi một mình dưới mái đình trong hoa viên hóng mát. Đêm đã khuya nên các phu nhân đều lui về phòng riêng từ lâu. Cả buổi tối, ta miệt mài làm việc trong thư phòng nên đã kêu gia nhân luôn tay lấy giúp cuốn sách từ trên kệ xuống và chép lại những đoạn ta cần đọc. Như mọi người đều biết, những lúc an nhàn, ta đều dành thời gian biên soạn một tuyển tập về các vụ kỳ án thời triều Đại Đường, đồng thời soạn thêm một phần phụ lục về tiểu sử của các thần thám trứ danh thời xa xưa. Hiện ta đang viết đến tiểu sử của Địch Nhân Kiệt, một vị quan án nổi tiếng sống cách đây bảy trăm năm. Trong nửa đầu sự nghiệp, khi vẫn còn làm huyện lệnh ở nhiều nơi, ông đã phá được rất nhiều vụ án bí ẩn, nên giờ đây người ta chủ yếu biết đến ông qua cái tên Địch thần thám - một vị quan nổi tiếng của thời quá khứ huy hoàng. Sau khi cho gia nhân đi ngủ, ta viết một lá thư dài gửi cho đại huynh của mình, huynh ấy đang giữ chức Chánh Lục sự tại Bắc Châu. Huynh ấy được bổ nhiệm từ hai năm trước, để lại căn nhà cũ ở con phố bên cạnh cho ta trông nom coi sóc. Ta viết thư cho đại huynh để kể rằng ta vừa phát hiện ra Bắc Châu là địa phương cuối cùng mà Địch Nhân Kiệt làm quan án trước khi được điều về kinh nhận chức vụ cao hơn. Vì vậy, ta đã nhờ đại huynh giúp ta tra lại sổ sách địa phương, biết đâu huynh ấy có thể tìm ra thông tin gì thú vị về những vụ án mà Địch Nhân Kiệt đã phá ở nơi đó. Ta biết đại huynh nhất định sẽ giúp đỡ hết lòng vì huynh đệ chúng ta vốn rất khăng khít. Viết thư xong, ta chợt nhận thấy trong thư phòng vô cùng oi bức. Ta bước ra hoa viên, hóng gió mát đang thổi qua hồ sen. Ta quyết định rằng trước khi đi ngủ sẽ ngồi nghỉ một lát trong mái đình nhỏ vừa xây ở góc hoa viên, bên cạnh hàng chuối. Ta cũng chẳng vội vàng muốn về phòng ngủ ngay, vì không khí trong nhà hiện đang căng thẳng từ sau khi ta cưới Tam phu nhân. Nàng quả là một mỹ nhân tài sắc vẹn toàn. Ta thật không hiểu tại sao hai vị phu nhân kia lại tỏ ra hằn học với nàng ngay từ ngày đầu gặp mặt, và lúc nào cũng trách móc việc ta ở cùng nàng hàng đêm. Thế nên đêm nay ta đành hứa sẽ đến phòng của Đại phu nhân, và phải thú thật là ta chưa muốn đi ngay. Ngồi thoải mái trên chiếc ghế tre, ta phe phẩy chiếc quạt lông ngỗng, ngắm nhìn hoa viên đang tắm mình dưới ánh trăng.???? Bỗng nhiên, ta thấy cổng sau mở ra. Ta vô cùng bất ngờ khi thấy đại huynh của mình bước vào. Cuộc gặp gỡ ở hoa viên Ta đứng bật dậy và chạy ngay đến chào đại huynh. “Huynh về có việc gì thế?” ta hỏi. “Sao huynh không báo trước cho đệ là huynh sắp xuống miền Nam?” “Có việc bất ngờ nên ta phải đi ngay,” huynh ấy đáp. “Vừa tới nơi là ta liền đến gặp đệ. Mong đệ lượng thứ vì ta đến muộn thế này.” Ta trìu mến nắm cánh tay đại huynh và dẫn huynh ấy vào mái đình. Ta nhận thấy tay áo của đại huynh lạnh toát và ẩm ướt khác thường. Sau khi đợi đại huynh an tọa, ta ngồi xuống chiếc ghế đối diện và ân cần nhìn huynh ấy. Đại huynh đã gầy đi rất nhiều, mặt trắng bệch và hốc mắt hõm sâu. “Có lẽ là do ánh trăng,” ta lo lắng nói, “nhưng trông huynh không được khỏe. Chắc là đường đi từ Bắc Châu về đây rất vất vả nhỉ?” “Quả đúng là rất gian nan,” đại huynh khẽ đáp. “Ta cứ hy vọng sẽ đến nơi từ bốn ngày trước, nhưng sương mù dày đặc quá.” Huynh ấy đưa tay phủi vết bùn khô trên vạt áo trắng rồi nói tiếp, “Thời gian gần đây, sức khỏe của ta không được tốt. Ở đây cứ liên tục đau nhói.” Huynh ấy nhẹ nhàng sờ tay lên đỉnh đầu. “Đau buốt đến tận hốc mắt, có lúc toàn thân còn run bần bật nữa.” “Khí hậu ấm áp ở quê nhà chắc sẽ khiến huynh khỏe lên,” ta an ủi đại huynh. “Ngày mai đệ sẽ mời đại phu hay khám cho gia quyến đến xem thế nào. Giờ thì huynh kể cho đệ nghe tình hình ở Bắc Châu đi.” Đại huynh kể lại ngắn gọn về công việc của mình ở đó; có vẻ như huynh ấy và Thứ sử có quan hệ rất tốt. Nhưng khi nhắc đến chuyện riêng thì huynh ấy lại có vẻ phiền muộn. Huynh ấy kể rằng Đại phu nhân gần đây cư xử khá kỳ lạ. Không hiểu sao thái độ của phu nhân với huynh ấy không còn như xưa. Có vẻ là vì việc này mà huynh ấy mới đột ngột về lại đây. Khi thấy đại huynh run lập cập, ta không hỏi gì thêm nữa vì xem ra đây là chuyện khiến huynh ấy rất phiền lòng. Để giúp đại huynh quên đi phiền muộn, ta đề cập đến Địch Nhân Kiệt và kể về lá thư ta vừa viết xong. “À phải,” đại huynh nói. “Người dân Bắc Châu hay kể về ba vụ án bí ẩn mà Địch tiền bối phá giải khi còn làm Thứ sử ở đó. Chuyện được truyền lại qua nhiều thế hệ, được kể đi kể lại ở các trà quán, nên dĩ nhiên là đã bị thổi phồng lên rất nhiều.” “Chỉ vừa mới qua nửa đêm,” ta phấn khích nói, “nếu huynh không quá mệt thì hãy kể cho đệ nghe đi.” Gương mặt hốc hác của đại huynh nhăn lại trong đau đớn. Ta vội vàng lên tiếng xin lỗi vì yêu cầu quá đáng của mình, nhưng huynh ấy đã giơ tay lên ngăn lại. “Có khi kể cho đệ nghe câu chuyện lạ lùng ấy lại có ích,” đại huynh nói với vẻ nghiêm trang. “Nếu lúc trước ta để tâm đến nó hơn thì có thể sự tình đã khác rồi…” Đại huynh không nói gì nữa, tay lại sờ nhẹ lên đỉnh đầu. Một lát sau, huynh ấy nói tiếp: “Chắc hẳn là đệ đã biết, vào thời của Địch Nhân Kiệt, sau khi đánh bại quân Thát Đát, biên giới phía Bắc của nước ta lần đầu tiên được kéo dài ra đến tận vùng đồng bằng phía bên kia Bắc Châu. Hiện tại thì Bắc Châu là một quận giàu có, dân cư đông đúc, là trung tâm giao thương của các tỉnh miền Bắc. Nhưng khi ấy thì vẫn còn là một vùng đất hẻo lánh, dân cư còn ít, mà nhiều gia đình trong số đó lại mang nửa dòng máu Thát Đát, và họ vẫn lén lút làm những trò tà thuật man rợ. Xa hơn nữa về phía Bắc là nơi Tiết độ sứ Văn La dựng trại để bảo vệ Đại Đường, phòng quân Thát Đát xâm lược.” Sau khi nói sơ về hoàn cảnh thời đó, đại huynh của ta bắt đầu kể một câu chuyện lạ lùng khó tin. Khi tiếng kẻng báo hiệu canh tư vang lên thì huynh ấy mới đứng dậy chào từ biệt. Ta ngỏ ý đưa đại huynh về nhà, vì người huynh ấy đang run bần bật và giọng nói thều thào yếu ớt đến mức ta không nghe được gì cả. Nhưng đại huynh kiên quyết từ chối, và chúng ta giã từ tại cổng hoa viên. Vẫn chưa muốn đi ngủ ngay, ta quay vào thư phòng. Ta vội vàng ghi chép lại câu chuyện kỳ lạ mà đại huynh vừa kể. Khi bình minh đến, ta mới bỏ bút xuống và ngả người lên chiếc chõng tre ngoài hiên. Lúc ta thức dậy thì đã gần đến giờ dùng cơm trưa. Ta lệnh cho gia nhân mang cơm ra mái hiên và ngồi ăn ngon lành, lần này thì ta rất mong chờ Đại phu nhân tới. Khi nàng mở lời trách móc ta vì đêm qua không đến phòng nàng, ta sẽ đắc thắng ngắt lời và đưa ra cái cớ hết sức chính đáng là sự xuất hiện bất ngờ của đại huynh. Sau khi đã giải quyết êm xuôi với nữ nhân cáu bẳn đó, ta sẽ đến tư gia của đại huynh ngồi đàm đạo. Có thể huynh ấy sẽ cho ta biết lý do chính xác khiến huynh ấy rời Bắc Châu, và ta sẽ nhờ huynh ấy làm rõ một số vấn đề mà ta còn chưa hiểu tường tận trong câu chuyện huynh ấy đã kể. Nhưng khi ta vừa bỏ đũa xuống, lão quản gia liền xuất hiện để thông báo rằng tín sứ vừa từ Bắc Châu đến. Y chuyển cho ta một lá thư của Thứ sử, báo tin buồn rằng vào bốn ngày trước, lúc nửa đêm, đại huynh của ta đã đột ngột qua đời. Trên mình khoác áo choàng lông dày, Địch Thứ sử ngồi sau chiếc bàn trong thư phòng. Dù đã đội một chiếc mũ lông trùm kín cả hai bên tai, ông vẫn cảm nhận được cơn gió lạnh lùa vào gian phòng rộng. Nhìn về phía hai trợ thủ lớn tuổi đang ngồi trước bàn, ông bảo: “Ngóc ngách nào cơn gió lạnh này cũng len vào được!” “Gió ùa về từ bình nguyên phía Bắc, thưa đại nhân,” người có chòm râu xơ xác đáp. “Lão phu sẽ sai người thêm than vào lò!” Lão đứng dậy và bước ra cửa, còn Địch Thứ sử thì chau mày nhìn người còn lại: “Cái lạnh của phương Bắc có vẻ chẳng là gì với ngươi cả, Đào Cam.” Nghe Địch Thứ sử hỏi, nam nhân gầy gò thọc tay sâu vào ống tay áo da dê đã sờn rách và cười đáp: “Tấm thân già này của thuộc hạ đã lê la khắp mọi miền, thưa đại nhân. Nóng hay lạnh, ẩm ướt hay khô ráo, với thuộc hạ đều như nhau cả. Và tấm áo của người Thát Đát thuộc hạ đang bận ấm áp hơn nhiều so với chiếc áo lông thú quý giá kia.” Nhưng Địch Thứ sử biết thực ra trợ thủ tinh ranh của mình có phần hơi bủn xỉn. Đào Cam xưa kia vốn là một kẻ lừa đảo. Cách đây chín năm, khi làm Huyện lệnh ở Hán Nguyên, ông đã cứu Đào Cam lúc nguy nan. Từ lúc đó, kẻ bịp bợm này đã cải tà quy chính và xin được phụng sự dưới trướng của Địch Thứ sử. Kiến thức sâu rộng về chốn giang hồ và sự thấu hiểu tâm lý con người của y rất có ích trong việc truy lùng những tên tội phạm nham hiểm. Mời các bạn đón đọc Địch Công Kỳ Án Tập 15: Thiết Đinh Án của tác giả Robert van Gulik.
Vết Tay Trên Trần - Phạm Cao Củng
Thám tử Kỳ Phát là bộ truyện đã làm nên danh tiếng của “Vua truyện trinh thám Việt Nam” - Phạm Cao Củng. Giống như Sherlock Holmes, Kỳ Phát luôn đề cao lý trí, lấy suy luận làm phương cách phá án. Series Thám tử Kỳ Phát gồm 5 cuốn: Đám cưới Kỳ Phát; Nhà sư thọt; Chiếc tất nhuộm bùn; Vết tay trên trần; Kỳ Phát giết người. Mặc dù học tập và ảnh hưởng từ truyện trinh thám phương Tây, nhưng Phạm Cao Củng đã sáng tạo nên những câu chuyện thấm đẫm đời sống Việt Nam, tính cách Việt Nam. Phá án theo phương pháp suy luận diễn dịch kiểu Sherlock Holmes, song nhân vật của Phạm Cao Củng mang đậm những phẩm chất được ưa chuộng ở phương Đông: trọng nghĩa khí, coi thường tiền bạc, không hành động vì thù lao, luôn tôn trọng tình cảm, đạo đức. Đám cưới Kỳ Phát: Một buổi sáng, Kỳ Phát tình cờ nhìn thấy Thanh Ngọc trên sân ga và bị hút hồn ngay bởi đôi mắt huyền của giai nhân. Theo chân nàng lên chuyến tàu định mệnh, rồi nhận lấy chiếc va ly duyên nợ, Kỳ Phát bị cuốn vào một vụ án ly kỳ và rắc rối. Liệu cuộc gặp gỡ có phải mối lương duyên tốt đẹp? Kỳ Phát sẽ có một đám cưới hạnh phúc, hay ẩn tàng sau đó là âm mưu thâm độc cùng những cạm bẫy chết người? Nhà sư thọt: Một ông già dở người bị đẩy xuống giếng, tuy giàu có ức vạn nhưng chỉ để lại chiếc két rỗng không. Một nhà sư thọt lẻn đến hiện trường đào bới lúc nửa đêm. Liệu ông ta có liên quan đến cái chết của nạn nhân và số của cải bị giấu? Kỳ Phát phải làm thế nào để tìm ra hung phạm và những uẩn khúc được giấu kín suốt nhiều năm? Chiếc tất nhuộm bùn: Ngay từ nhỏ, Kỳ Phát đã chứng tỏ được óc trinh thám và khả năng suy luận tài ba. Từ một chiếc tất nhuộm bùn, chàng đã khám phá ra việc mẹ kế tư thông với nhân tình, gói ghém nữ trang toan bỏ trốn. Song không ngờ, bà ta lại vu cho chàng tội ăn cắp, khiến chàng phải chịu tủi nhục, bị mọi người khinh ghét. Tuổi thơ xa mẹ, nếm chịu nhiều đắng cay, Kỳ Phát luôn mong muốn được biết tung tích của mẹ. Nhưng đau đớn thay, chàng lại gặp mẹ trong hoàn cảnh vô cùng trớ trêu. Và câu chuyện hai mươi năm về trước dần được hé lộ… Vết tay trên trần: Đọc được mẩu tin trên báo về một vụ giết người, Kỳ Phát lập tức đến hiện trường để tra án. Nạn nhân bị đâm chết trong buồng kín, trên trần nhà có những vết tay nhỏ. Trong khi đó, lời khai của các nhân chứng lại hoàn toàn khác nhau: con trai nạn nhân nói bị một bóng đen bóp cổ, còn lão bộc lại thoáng thấy một bóng trắng đi vào nhà. Vậy, ai là chủ nhân của những vết tay trên trần? Liệu Kỳ Phát có tìm ra hung thủ và động cơ giết người của hắn? Kỳ Phát giết người: Một hôm, nhận được thư của Cúc, Kỳ Phát vội vàng tới gặp tình cũ. Chồng Cúc mới qua đời, đứa con trai tên Hoàn lại bị bắt cóc, khiến cho nàng vô cùng hoang mang, đau đớn. Cùng lúc đó, một cậu bé tên Hoàn khác cũng mất tích. Kỳ lạ là trong cả hai vụ, hai gia đình đều bị trộm đột nhập nhưng chỉ mất mấy đôi đũa. Ai là kẻ chủ mưu đứng sau tất cả mọi chuyện? Kỳ Phát phải làm gì để tìm được con trai Cúc? Bí mật nào ẩn giấu đằng sau hai vụ bắt cóc và những đôi đũa bị đánh cắp? *** Gồm các truyện Vết tay trên trần: Một ông già bị đâm chết trong phòng kín, người con chạy đến cứu thì bị xiết cổ gần chết. Nhưng những bí ẩn không qua mắt được Kỳ Phát. Ba viên ngọc bích: Bạn của Kỳ Phát bị mất một sợi dây chuyền gắn ba viên ngọc, được Kỳ Phát khéo léo tìm lại. Con ma cây vả: (thám tử Trúc Tâm) Ông già buôn xác chết (thám tử Trúc Tâm) Buổi diễn tất niên của Người Hổ Quả báo Cái tết của người đã chết (thám tử Kỳ Phát) Bát cơm Siếu Mẫu ... Mời các bạn đón đọc Vết Tay Trên Trần của tác giả Phạm Cao Củng.
Tuyết Bỏng - Yuri Vassilievitch Bondarep
Yuri Vassilievitch Bondarep – Nhà văn, nhà hoạt động xã hội Xôviết sinh ngày 15-03-1924 tại Orenburg (Nga) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ ông sống ở Moskva. Chiến tranh nổ ra làm gián đoạn việc học hành, ông tham gia chiến tranh với cấp bậc thiếu uý, làm chỉ huy pháo binh, đã từng diệt nhiều xe tăng địch Năm 1951, ông tốt nghiệp Trường viết văn M. Gorky (Moskva) và bắt đầu cuộc đời hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp. Ông có nhiều tác phẩm nổi tiếng về chiến tranh. Những chuyện ông viết về cuộc chiến tranh vệ quộc vĩ đại đều dưới nhãn quan của của một người lính trực tiếp tham gia chiến trận. Một số tác phẩm tiêu biểu: - Các tiểu đoàn xin tiếp viện (1957) - Im lặng (1962) - Tuyết bỏng (1969) - Lựa chọn (1980) - ... *** Từ đài quan sát thấy rõ cuộc chiến đấu bằng xe tăng đang diễn ra ở gần đó nên từ trên cao nhìn xuống, trận đánh trong bóng tối dường như hết sức quái dị, náo loạn, dai dẳng vô cùng và sở dĩ như vậy vì chẳng thấy rõ người ở đâu cả. Những phát đạn đại bác bắn thẳng lóe sáng khắp rìa làng, đạn “Ca-chiu-sa” dày đặc ầm ầm nổ tung như những cơn lốc giữa các ngôi nhà; những chiếc xe tăng xông thẳng vào nhau, quyện chặt, bốc cháy trên các ngã tư; dọc bờ sông giữa đám cháy bắt đầu bùng lên, những khối thép ánh hồng, bóng nhẫy như đổ mồ hôi bò lổm ngổm, ngổn ngang, chúng nổ súng bắn thẳng ở cự ly quá ngắn, hầu như nòng súng đâm vào nhau, xích sắt của chúng chà nát nhà cửa, chúng xoáy mình ở trong các sân, bò đi rồi lại xông vào tiến công, luôn luôn ép chặt và vây hãm khu vực bàn đạp ở đầu cầu. Bọn Đức chống cự, bám chặt lấy bờ sông phía Bắc nhưng trận đánh đã lan ra tới bờ sông, đã bắt đầu có chuyển biến, trong giây phút khắc nghiệt đó, tiếng gào rú ầm ĩ của động cơ tan vụn thành những dư âm tràn ngập dòng sông, có chỗ bọn Đức đã bắt đầu rút lui về phía đầu cầu. Bét-xô-nốp bất chợt nhìn về bờ sông phía Nam chứ không phải phía Bắc, vẫn còn sợ nhầm, không vội vã rút ra kết luận. ... Mời các bạn đón đọc Tuyết Bỏng của tác giả Yuri Vassilievitch Bondarep.
Hung Họa (Bức Tranh Sát Nhân) - Chu Hạo Huy
Giữa đêm tuyết phủ trắng núi, Cảnh sát La Phi trong truyền thuyết nhận được một vụ án vô cùng hiểm hóc. Ba họa sĩ của học viện Mỹ Thuật lên núi vẽ tranh sinh vật. Nghỉ đêm tại Khô Mộc Thiện Tự, vì lòng hiếu kỳ đã mở một bức "Hung Họa" đã được niêm phong từ rất lâu, từ đó kịch biến đột phát.  Những người xem tranh hoặc rơi xuống vực, hoặc mắc bệnh hiểm, lời đồn đại về bức họa khủng khiếp "Quỷ không đầu" trong truyền thuyết bắt đầu lan truyền một cách chóng mặt.  Mỗi một manh mối đều không thể dùng lẽ thường để suy đoán, mỗi một cái chết đều mang lại nỗi hoang mang, khủng bố, rốt cuộc La Phi thân mang bệnh lạ sẽ dùng cách nào để vén lên màn sương mù dày đặc này. *** Bộ truyện La Phi hệ liệt gồm: Phần 1: Hung họa Phần 2: Quỷ vọng pha Phần 3: Nhã khố mã nguyền rủa Phần 4: Bản Thông Báo Tử Vong I: Khiêu Chiến Với Trí Tuệ Của Bạn Phần 5: Bản Thông Báo Tử Vong II: Số mệnh Phần 6: Bản Thông Báo Tử Vong III: Khúc ly biệt ... Mời các bạn đón đọc Hung Họa (Bức Tranh Sát Nhân) của tác giả Chu Hạo Huy.