Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hòn Tuyết Lăn: Cuộc Đời Và Sự Nghiệp Của Warren Buffett - Tập 2 (Alice Schroeder)

Giờ đây, cái tên Warren Buffett không còn mấy xa lạ với mọi người ở khắp các châu lục, bởi vì con người này có một tầm ảnh hưởng vô cùng rộng lớn và luôn có mặt trong danh sách những người giàu nhất thế giới suốt hai thập kỷ vừa qua.

Song, ít ai biết rằng, vị tỷ phú 80 tuổi đáng kính ấy, “nhà hiền triết vùng Omaha” của Hoa Kỳ thuở thiếu thời lại là một cậu học sinh thường bị điểm kém, từng bỏ nhà đi hoang, nhiều lần tham gia đánh cắp những món đồ thể thao từ cửa hiệu Sears, điều hành một lộ trình giao báo năm 13 tuổi, mua một trang trại 40 mẫu Anh vào năm học lớp 10, bị trường Harvard từ chối, có một cuộc tình “đầy sóng gió” với Hoa hậu Nebraska 1949 Vanita Mae Brown, từng là một “tín đồ” trung thành có thâm niên hàng chục năm của Pepsi trước khi chuyển sang uống Cherry Coke của Coca-cola từ năm 1987, kết thân và xem vợ chồng tỷ phú số 1 thế giới 2009 Bill Gates và Melinda Gates gần như con ruột nhưng không bao giờ đầu tư một đồng vào “đế chế” Microsoft hùng mạnh, cùng vô số những thương vụ đầy táo bạo mang đến cho ông những thành công tột bậc (và một vài thất bại “nho nhỏ”) dọc theo chiều dài sự nghiệp của ông... cho đến khi đọc The Snowball - Hòn Tuyết Lăn, quyển tự truyện về cuộc đời và sự nghiệp của Warren Buffett do Alice Shroeder chấp bút theo đề nghị của chính ông.***

Đó là mùa đông thứ chín trong cuộc đời của Warren. Cậu đang nghịch tuyết ngoài sân cùng Bertie, cô em gái nhỏ của mình.

Warren đưa tay đón từng bông tuyết trắng tinh đang rơi xuống từ trên tận trời cao rồi đặt vào lòng bàn tay kia cho đến khi cậu có một nắm bông tuyết đầy ắp. Cậu ém chặt và vo nó lại thành một viên bi rồi đặt xuống đất. Viên bi bắt đầu lăn chầm chậm sau mỗi cú hích của cậu và ngày càng to ra vì tích thêm nhiều tuyết trên đường lăn của nó. Cậu lăn nó xuyên qua thảm cỏ nhà mình, lúc này đã phủ tuyết trắng xóa, chẳng mấy chốc cậu đã chạm đến mí vườn. Một thoáng ngập ngừng, cậu quyết định tiến lên và lăn viên bi sang thảm cỏ của những nhà kế cận.

Và kể từ đó, Warren tiếp tục lăn quả bóng tuyết của mình đi khắp trên thế giới... Tìm mua: Hòn Tuyết Lăn: Cuộc Đời Và Sự Nghiệp Của Warren Buffett - Tập 2 TiKi Lazada Shopee

***

Omaha, 1980 - 1986

Năm trăm con người giàu có và lịch lãm trong những chiếc áo tô-ga thắt nơ đen lần lượt bước lên tấm thảm đỏ tiến vào Đại Khán phòng Metropolitan sang trọng vào hàng bậc nhất New York để dự buổi tiệc mừng sinh nhật lần thứ 50 của Warren Buffett. Với mỗi cổ phiếu Berkshire Hathaway đang được giao dịch ở mức 375 đô la, tài sản gia đình Buffett giờ đây đã tăng lên gấp đôi so với một năm rưỡi trước đó và họ không chút đắn đo khi chọn địa điểm này để tổ chức mừng sinh nhật ông. [1] Thấp thoáng giữa các thành viên của Nhóm Buffett là các ngôi sao chớm nổi tiếng như chị gái của nam diễn viên Cary Cooper. Susie đã đặt một chiếc bánh kem sáu tầng có hình dáng như những thùng Pepsi-Cola thân yêu của Buffett. Ông đã đề nghị người bạn thời kinh doanh máy trò chơi pinball trong các tiệm hớt tóc, Dan Danly, mang theo cho ông bảng cân đối kế toán của công ty sản xuất các loại máy vận hành bằng tiền xu (Coin-Operated Machine Company) [2] của Ngài Wilson. Buffett bắt đầu thu thập tài liệu về các công ty từ thuở ông vừa bước chân vào kinh doanh ở tuổi niên thiếu. Ông xem các vật này như những vật thiêng và thường mang ra khoe với mọi người bằng một ánh mắt ánh lên vẻ phục thù. Chúng trông như những bằng chứng có thể sờ mó được, những món đồ tạo tác, về chính con người ông.

Susie mang theo ban nhạc của bà đến từ San Francisco. Họ chiếm lấy sân khấu trung tâm và mở màn bằng bài hát cải biên có tựa đề đặt lại là “Shuffle Off to Buffalo” để chúc mừng Buffett:

Warren đã ngán kẹo tới cổ

Nhưng tem thưởng thì không thuận tay…

Bài hát tiếp tục hết đoạn này đến đoạn khác nhắm vào việc làm kỳ quặc mới nhất của Buffett: gói ghém hành lý và vội vàng đi Buffalo để mua lại một tờ báo được bán dưới giá gốc.

Giọng hát của Susie lúc này đã chuyển sang một khuynh hướng mới, nghe ủy mị nhưng ngọt ngào. Các thành viên trong gia đình Buffett và bạn bè bắt đầu lên sân khấu để kể ra - trước sự chứng kiến của ông - danh sách các công ty và các thương vụ mà ông đã sưu tầm được như những hạt ngọc trong một chuỗi ngọc quý. Với đôi chân mày xoăn tít như đám dây thường xuân nhô lên khỏi cặp kính, trông ông lúc này đã bớt vụng về hơn trong bộ vét-tông kiểu cách thắt nơ đen. Một Berkshire Hathaway hiện đại giờ đây đều đặn sản xuất ra rất nhiều hạt ngọc mới cho gia đình ông. Cuộc săn lùng thâu tóm các công ty khác giờ đã trở thành một tham vọng mãnh liệt hơn vì không còn những mẩu xì-gà béo bở hay những vụ kiện tụng bó buộc chân tay như trong thập niên trước đó. Qui luật lãi suất kép miệt mài phát huy tác dụng như một tên đầy tớ chăm chỉ phụng sự ông chủ của nó trong sự kinh ngạc của mọi người. Phương pháp đầu tư của ông vẫn vậy: đánh giá giá trị thực chất của từng vụ đầu tư, tối thiểu hóa các rủi ro, mua vào theo biên an toàn, duy trì sự tập trung, luôn giữ mức thu nhập dồi dào và để quả bóng tuyết tự do lăn tới trước trong khi lãi suất kép phát huy tác dụng. Bất kỳ ai cũng có thể hiểu được những ý tưởng đơn giản này nhưng chỉ có một vài người biết cách áp dụng. Mặc dù Buffett cố gắng giải thích sao cho mọi người thấy qui trình này không mất nhiều công sức, nhưng kỳ thực bản thân ông và các nhân viên của ông phải làm việc cật lực với một khối lượng công việc và thông tin cực lớn. Toàn bộ đế chế kinh doanh của ông giờ đây đã mở rộng từ bờ Đông sang bờ Tây nước Mỹ, từ bờ Hồ Erie phía Bắc dọc xuống các khu ngoại ô Los Angeles, nơi có tòa nhà Kiewit Plaza đứng sừng sững ngay giữa trung tâm thành phố - một tòa nhà thương mại yên tĩnh nhưng bận rộn không dứt được trang trí nội thất bằng những bộ bàn ghế có khung sắt thường bị người ta kéo tới kéo lui xoàn xoạt trên sàn nhà được lót bằng vải sơn. Cứ thêm một thương vụ mới thì họ lại có thêm nhiều việc hơn để làm, nhưng số lượng nhân viên trong văn phòng không hề tăng lên. Buffett vẫn cố thủ trong phòng cách ly, được chốt chặn bởi cô thư ký Gladys. Bill Scott giàu sụ lúc này chỉ còn làm việc bán thời gian và dành phần còn lại trong ngày đi nhảy Polka với nhóm bạn bè của mình. Một quản lý mới tên là Mike Goldberg vừa gia nhập góp phần làm tăng tổng số nhân viên của công ty. Verne McKenzie chịu trách nhiệm quản lý tài chính. Các nhân viên hiếm khi rời chỗ làm việc chật chội của mình trừ phi phải tham dự một buổi họp kín nào đó trong phòng họp công ty, vốn chỉ đủ chỗ cho bốn người. Không một cuộc tán gẫu nào diễn ra quanh bàn nước. Nói về giai đoạn thoải mái này sau những cuộc tranh chấp tại tòa báo Buffalo Evening News, McKenzie phát biểu: “Chưa bao giờ có quãng thời gian nào giống như thế!” [3] Những người đã từng thử Luật Nhiệt động lực học của Rickershauser nhận ra rằng thật ra “mặt trời” rất dịu dàng và nồng ấm, nhưng Buffett là người rất tập trung và nhanh nhạy đến mức những cuộc đàm luận mở rộng với ông có thể làm họ bị “bỏng nắng”. “Đầu óc tôi quá mệt mỏi!” một người nói. “Tôi cần nghỉ ngơi để hồi phục sau khi gặp ông ấy!” Một người khác. “Đầu tôi như vừa hứng những cú đấm thẳng choáng váng!” Một nhân viên cũ của ông nói nh ư thế.

Buffett có nguồn năng lượng và bầu nhiệt huyết của một cậu thiếu niên hiếu động. Dường như ông nhớ tất cả các con số hay dữ kiện mà ông đã đọc qua. Ông khuyến dụ mọi người tình nguyện nhận những công việc khó để sau đó tuyên bố rằng họ vừa tạo ra một phép màu. Ông sẵn sàng chịu đựng búa rìu dư luận, miễn là điều đó giúp ông tiết kiệm được tiền bạc. Ông hết sức quan tâm đến hiệu quả công việc, ông nắm rõ kỹ năng của từng nhân viên cho nên bất kể họ hoàn thành công việc với kết quả xa gần thế nào so với kỳ vọng của ông, ông luôn đánh giá thấp khối lượng công việc của họ. Buffett, mặt trời mà mọi người đều phải quay quanh, cứ trơ trơ trước sức tác động của Luật Nhiệt động lực học của Rickershauser.

“ Mọi người bảo rằng tôi đặt áp lực lên họ. Tôi không bao giờ có ý đó. Một số người thích gây áp lực với nhân viên, nhưng tôi thì không bao giờ. Thực ra đó chỉ là biện pháp cuối cùng mà thôi. Tôi nghĩ tôi không bao giờ làm như vậy, nhưng khi có quá nhiều người nói như thế thì có lẽ chuyện đó cũng có phần đúng.”

Các nhà quản lý chịu trách nhiệm điều hành các công ty nằm sâu trong lục địa mà Berkshire Hathaway và Blue Chip sở hữu lại khá may mắn vì Buffett hầu như để họ tự do một mình. Bí quyết quản trị của ông là chọn những người có óc cầu toàn đến mức ám ảnh, như chính ông, kiểu người chỉ biết làm việc không ngơi nghỉ. Sau đó, ông cứ để mặc họ, ngoại trừ thỉnh thoảng ông lại “Carnegizing” [4] họ - tức tỏ ra ân cần, thán phục và sử dụng những bí quyết “đắc nhân tâm” khác đối với họ. Hầu như không ai có thể làm khác đi các kỳ vọng mà ông đã đặt vào họ.

Quyết định của Buffett về việc mua vào ồ ạt các loại cổ phiếu trong thập niên 1970 là những vụ đặt cược đầy thách thức trước sự bi quan của thị trường các nhà đầu tư giá xuống, lại bị gây khó khăn bởi nạn thất nghiệp lan tràn và sự gia tăng giá cả sinh hoạt tới mức không thể chịu đựng nổi: 15% một năm. Giờ đây, phán đoán của ông đã được đền bù, một phần nhờ Tổng thống Jimmy Carter trong cơn tuyệt vọng đã bổ nhiệm Chủ tịch Quỹ Dự trữ Liên bang mới, Paul Volcker, vào năm 1979. Volcker nâng tỉ lệ chiết khấu cho ngân hàng trung ương lên 14% để kiểm soát lạm phát. Năm 1981, Tổng thống mới đắc cử Ronald Reagan bắt đầu mạnh tay cắt giảm thuế và tiến hành bãi bỏ các qui định cản trở kinh doanh đồng thời ủng hộ Volcker bất chấp những tiếng thét gào của dân chúng vì phải chịu đựng chính sách kinh tế hà khắc của ông. Nền kinh tế và thị trường trải qua một thời kỳ đen tối trong khoảng hai năm rưỡi. Vào cuối năm 1982, thị trường chứng khoán cho các nhà đầu tư giá lên bắt đầu biến động khi giá cả cổ phiếu bắt đầu bắt kịp tốc độ tăng tỉ suất lợi nhuận của các công ty. [5]

Những khoản tiền mà Buffett đã sử dụng để thực hiện những vụ đầu tư lớn ở những năm cuối thập niên 1970 đến từ nguồn trôi nổi qua các công ty bảo hiểm và từ những con tem thưởng. Trong khi National Indemnity làm ăn phát đạt thì tại Blue Chip, việc kinh doanh tem thưởng tiếp tục thu hẹp và các khoản đầu tư từ nguồn float đang dần dần co lại từ các khoản tiền tem vốn được trả trước một cách hào phóng. [6]

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hòn Tuyết Lăn: Cuộc Đời Và Sự Nghiệp Của Warren Buffett - Tập 2 PDF của tác giả Alice Schroeder nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Đánh Thức Năng Lực Vô Hạn - Anthony Robbins
Khi thấy một ai đó thành đạt ta thường tự hỏi “làm thế nào để anh ta có được thành quả ấy?”, mặc dù xét về xuất phát điểm có thể họ không đủ tư chất bằng ta, thế nhưng sao họ lại sớm đạt được sự thành công như ý... Sự khác biệt này thường đơn giản là vì bạn luôn có những nỗi sợ hãi tiềm ẩn trong tư tưởng, nhận thức của mình - Nó được tích lũy và phát triển, đôi lúc lại dâng cao để tự bảo vệ, ngăn chặn những rủi ro có thể xảy đến, dần dần biến thành một lớp vỏ bọc - đó chính là trở lực của thành công. Vận dụng được nguồn năng lực vô hạn, không những loại bỏ được sự sợ hãi mà còn cho ta một thái độ sống tích cực, tự tin, dám nghĩ dám làm. Đó là nguồn nhiên liệu không bao giờ cạn kiệt đang chờ sự khởi động đúng lúc, nhịp nhàng để mọi người có thể đạt đến đỉnh điểm của thành công. Con người chỉ có thể chuyển đổi cuộc sống của mình một cách ngoạn mục, thần kỳ khi biết tìm cách khai thông, giải phóng nguồn năng lực tiềm ẩn đó. Nội dung sách sẽ là hồi chuông Đánh thức nguồn năng lực vô hạn trong mỗi chúng ta. *** Nếu bạn chưa bao giờ mơ tưởng mình sẽ có được cuộc sống tốt hơn, Đánh Thức Năng Lực Vô Hạn (Unlimited Power) sẽ chỉ cho bạn cách để có cuộc sống như ý muốn và xứng đáng thụ hưởng, thông qua một lĩnh vực khoa học mới giúp phát huy thành tựu xuất sắc của cá nhân. Tác giả sẽ giúp bạn: - Nhận ra bạn thật sự mong muốn điều gì - Khám phá 7 giả phỏng về thành công - Tái lập trình cho trí não để vượt qua nỗi sợ và nỗi ám ảnh - Tạo ra sự hòa hợp ngay tức thì với những người lần đầu tiên gặp gỡ - Sở hữu 5 chìa khóa mang lại hạnh phúc và thịnh vượng Đánh Thức Năng Lực Vô Hạn (Unlimited Power) là một quyển sách mang tính “cách mạng” dành cho trí não, từng bước hướng dẫn bạn phát huy tối đa năng lực của bản thân trong khi vẫn cảm thấy thoải mái và an tâm về tài chính, rèn khả năng lãnh đạo và nuôi dưỡng lòng tự tin, đắc nhân tâm và có được sự hợp tác của mọi người. Mời các bạn đón đọc Đánh Thức Năng Lực Vô Hạn của tác giả Anthony Robbins.
Thay Đổi Tư Duy - Nghệ Thuật Và Khoa Học Thay Đổi Tư Duy Của Bản Thân Và Những Người Khác
CẦN LÀM GÌ ĐỂ THAY ĐỔI TƯ DUY? Hãy nhớ lại lần gần nhất bạn muốn thay đổi tư duy của người nào đó về vấn đề quan trọng, như: niềm tin chính trị của một cử tri; nhãn hàng yêu thích của một khách hàng; sở thích trang trí của người bạn đời; thái độ học tập của một trẻ vị thành niên. Khả năng nhiều là bạn không thể thay đổi niềm tin của người đó một cách đáng kể. Chúng ta hay cố thay đổi tư duy nhưng vẫn thường thất bại, tại sao hiện tượng này lại bí ẩn đến vậy? Tư duy được thiết lập như thế nào? Và chính xác là cái gì có thể thay đổi cách suy nghĩ đó? Cuốn sách đột phá của nhà tâm lý học nổi tiếng thế giới từ Đại học Harvard Howard Gardner đã đưa ra những quan điểm sâu sắc về vấn đề nan giải nhưng thú vị này. Qua đó thay đổi cách mọi người tác động lẫn nhau trong công việc, gia đình và mọi lĩnh vực cuộc sống. Với công trình nghiên cứu mang tính cách mạng về trí thông minh, sáng tạo và lãnh đạo hơn 30 năm qua, Gardner cho rằng tư tưởng truyền thống xem thay đổi tư duy là một "hiện tượng" đột ngột xảy ra hoàn toàn sai lầm. Thay vào đó, Gardner chỉ rõ tư duy của chúng ta thay đổi dần dần dưới một số tác động tích cực và mạnh mẽ. Trên cơ sở nghiên cứu về nhận thức hàng thập kỷ, Gardner xác định có 7 yếu tố đòn bẩy hỗ trợ hoặc cản trở quá trình thay đổi tư duy, trong đó có: lý luận, nghiên cứu, các sự kiện trong hoàn cảnh thực tế, và sự chống đối. Thông qua các câu chuyện minh họa về những "đối tượng thay đổi" nổi tiếng hay đời thường trong lĩnh vực chính trị, kinh doanh, nghệ thuật, cũng như trong cuộc sống hàng ngày, cuốn Thay đổi tư duy đưa ra một quy chuẩn vận dụng những yếu tố đòn bẩy để tạo ra sự thay đổi to lớn trong quan điểm và hành động. Dù là việc tái định hướng nước Anh của bà Margaret Thatcher hay là việc chuyển hóa BP của Ngài John Browne, hay cuộc cách mạng về tiến hóa của Charles Darwi, dù là quá trình tác động lẫn nhau giữa vợ chồng, bạn bè, hay những quyết định thay đổi tư duy bản thân, ở đó Garner vẫn khám phá ra những nét tương đồng đáng ngạc nhiên bên cạnh những nét khác biệt cần học hỏi của các yếu tố tác động đến quá trình thay đổi tư duy trong những hoàn cảnh khác nhau.  Giải mã hiện tượng đã ăn sâu vào tâm lý hành xử của con người, Thay đổi tư duy chia sẻ một số ý kiến sâu sắc, qua đó mở rộng tầm hiểu biết và làm cho cuộc sống của chúng ta trở nên tốt đẹp hơn. *** Thông qua “Thay đổi tư duy”, Gardner mô tả bảy nhân tố, hoặc bảy mức độ, có thể được một cá nhân sử dụng để thay đổi tư duy thành công: •    Lý luận. Một sự tiếp cận dựa trên lý trí bao gồm nhận biết các yếu tố có liên quan, cân nhắc từng yếu tố và đi đến đánh giá toàn diện. Lý do có thể bao gồm tính logic tuyệt đối, việc vận dụng phép loại suy hay sự sáng tạo của các nguyên tắc phân loại. •    Nghiên cứu. Bổ sung cho vai trò của lý luận là thu thập những dữ liệu có liên quan. Tuy vậy, việc nghiên cứu không phải lúc nào cũng mang tính chất chính quy; mà chỉ cần xác định những trường hợp có liên quan và đánh giá xem chúng có tác động đến việc thay đổi tư duy hay không. •    Sự cộng hưởng. Một quan điểm, một ý tưởng, hay một cách nhìn phải tạo sự cộng hưởng khiến người ta cảm thấy nó đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh hiện tại, và thuyết phục người đó không cần phải xem xét gì thêm. Gardner cũng chỉ ra rằng thuật hùng biện là phương tiện cốt yếu cho sự thay đổi tư duy. Ông giải thích rằng thuật hùng biện có hiệu quả nhất khi chứa đựng logic chặt chẽ, rút ra từ những nghiên cứu có liên quan, và có tác động cộng hưởng với người nghe. •    Tiếp cận ý tưởng theo nhiều cách khác nhau (hay còn gọi là Tái diễn giải). Sự thay đổi tư duy trở nên thuyết phục hơn khi nó được thể hiện ở những hình thức khác nhau, bổ sung lẫn nhau. Từ cái nhìn tâm lý học, việc cung cấp nguồn hậu thuẫn là một trường hợp tăng cường mang tính tích cực. Tuy nhiên, rốt cuộc nếu cách suy nghĩ mới không phù hợp với những tiêu chí khác – như lý luận, nghiên cứu, sự cộng hưởng – thì nó sẽ không thể tồn tại khi không còn nguồn hậu thuẫn. •    Những biến cố trên thế giới. Đôi khi, một sự kiện lớn diễn ra trong xã hội có ảnh hưởng đến nhiều người, không chỉ những cá nhân muốn thay đổi tư duy. Những sự kiện này bao gồm chiến tranh, bão tố, khủng bố, hay sự suy thoái kinh tế. •    Những sự phản kháng. Không phải mọi yếu tố đều giúp thay đổi tư duy. Muốn tìm hiểu về thay đổi tư duy phải xét đến sức mạnh của những ý nghĩ phản kháng khác nhau.   Mời các bạn đón đọc Thay Đổi Tư Duy Nghệ thuật và Khoa học thay đổi tư duy của bản thân và những người khác của tác giả Howard Gardner.
Tư Duy Như Một Hệ Thống - David Bohm
Cuốn sách Tư duy như một hệ thống được tập hợp từ những trao đổi của David Bohm trong seminar ba ngày từ 31.11.1990 đến 2.12.1990 tại Ojai, California. Trong ba ngày trò chuyện với năm mươi người tham gia seminar, David Bohm đã đưa ra một cách nhìn triệt để về những nguồn gốc tiềm ẩn bên trong những xung đột giữa người với người, và tìm hiểu những khả năng cho sự thay đổi của cá nhân và tập thể. Ông đã đưa ra chủ đề về vai trò của tư duy và tri thức ở mọi cấp độ của đời sống con người, từ những suy nghĩ riêng tư về căn tính của cá nhân đến những nỗ lực tập thể nhằm vươn tới một nền văn minh tốt đẹp hơn. Bằng việc nghiên cứu sâu những nguyên tắc về mối quan hệ giữa tâm trí và vật chất, được nêu ra lần đầu tiên trong cuốn Wholeness and Implicate Order (Cái toàn thể và Trật tự ẩn), David Bohm đã bác bỏ quan niệm cho rằng các quá trình tư duy của chúng ta chỉ thông báo một cách trung tính những gì xảy ra "ngoài kia" trong một thế giới khách quan. Ông khảo sát cách thức tư duy tham gia tích cực vào sự hình thành tri giác, cảm nhận của chúng ta về ý nghĩa và những hành động thường ngày của mình. Ông gợi ý rằng những tư duy và tri thức tập thể đã trở thành tự động đến nỗi phần lớn chúng ta bị chúng điều khiển, hậu quả là mất đi tính xác thực, tự do và trật tự. Cùng với Cái toàn thể và Trật tự ẩn, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tới quý độc giả những tư tưởng đặc sắc của David Bohm qua bản dịch Tư duy như một hệ thống với một văn phong tiếng Việt sáng rõ và khoa học của các dịch giả Tiết Hùng Thái, Chu Trung Can. *** David Joseph Bohm sinh ngày 20.12.1917 tại Wilkes-Barre, Pennsylvania, trong một gia đình Do Thái. Tuổi thơ của ông trôi qua không êm đềm. Nhận được ít sự chia sẻ từ cha mẹ, ông đã tìm cảm hứng trong thế giới của riêng mình, và ngay từ những năm đầu đời ông đã bộc lộ tính cách của một người thiết tha kiếm tìm chân lí. Là một nhân vật hàng đầu trong thế giới vật lí lượng tử, và là giáo sư Vật lí lí thuyết tại Trường Birkbeck, Đại học London các năm 1961-1983, từ khi bắt đầu sự nghiệp khoa học của mình, Bohm đã đặt niềm tin vào trực giác nhiều hơn là vào con đường toán học thông thường. Ông tin rằng bằng cách chú ý đến cảm xúc và trực giác của mình, ông có thể đi đến một sự hiểu biết sâu sắc hơn về bản chất của vũ trụ mà con người là một phần trong đó. Tốt nghiệp Đại học Pennsylvania năm 1939, và hoàn thành xuất sắc luận án tiến sĩ tại Berkeley dưới sự hương dẫn của Robert Oppenheimer, công việc của ông ban đầu liên quan tới sự tán xạ neutron-proton và các vấn đề nguyên lí thiết kế của máy gia tốc hạt. Ông chuyển tới Phòng thí nghiệm Bức xạ nơi ông làm việc trong Dự án Manhattan. Từ đây ông đã phát triển công cụ lí thuyết mới để mô tả dao động plasma và trở nên nổi tiếng với vai trò một nhà vật lí lí thuyết. Năm 1947, Bohm chuyển đến Đại học Princeton. Ở đây ông đã áp dụng những ý tưởng của mình về plasma để nghiên cứu hành vi của các electron trong kim loại. Những nghiên cứu này của ông cùng các cộng sự đã được quốc tế công nhận. Cũng tại Princeton, mối quan tâm đặc biệt của Bohm về những nền tảng của cơ học lượng tử đã bén rễ. Để hiểu hơn về chủ đề này, ông đã quyết định viết một cuốn sách giáo khoa, Quantum Theory (Lí thuyết lượng tử - 1951‖. Cuốn sách được đón nhận rộng rãi, và đến nay đã trở thành một trong những tác phẩm kinh điển của vật lí lượng tử. Nhưng sau khi hoàn thành Quantum Theory, Bohm cho rằng cuốn sách này chưa thật thỏa đáng. Và ngay sau đó, ông đã đăng hai bài báo cho thấy một cách tiếp cận khả dĩ khác, và cách tiếp cận này dường như đã hiện thực hóa những điều mà quan điểm chính thống coi là không thể. Sau những hiểu nhầm và rắc rối về chính trị, Bohm chuyển đến Brazil và Israel, rồi tới Đại học Bristol năm 1957. Tại đây, cùng với Yakir Aharanov, ông đã đăng một bài báo quan trọng vạch rõ những hệ quả quan sát đáng ngạc nhiên về vector trường thế. Lúc đầu, ý tưởng của họ không được đó nhận, nhưng nó đã sớm được xác nhận qua thí nghiệm. Ý tưởng này được John Maddox, biên tập viên của tạp chí Nature uy tín, gợi ý đến một giải Nobel. Trong những năm 1970-1980, Bohm lần lượt gặp Krishnamurti và Đức Đạt Lai Lạt Ma. Và hai con người này đã mở cho Bohm những cánh cửa khác nhau nhìn vào vũ trụ tự nhiên và tâm linh. Bohm mất tại London ngày 27.10.1992. Cuốn sách Tư duy như một hệ thống được tập hợp từ những trao đổi của David Bohm trong seminar ba ngày từ 31.11.1990 đến 2.12.1990 tại Ojai, California. Trong ba ngày trò chuyện với năm mươi người tham gia, David Bohm đã đưa ra một cách nhìn triệt để về những nguồn gốc tiềm ẩn bên trong những xung đột giữa người với người, và tìm hiểu những khả năng cho sự thay đổi của cá nhân và tập thể. Ông đã đưa ra chủ đề về vai trò của tư duy và tri thức ở mọi cấp độ của đời sống con người, từ những suy nghĩ riêng tư về căn tính của cá nhân đến những nỗ lực tập thể nhằm vươn tới một nền văn minh tốt đẹp hơn. Bằng việc nghiên cứu sâu những nguyên tắc về mối quan hệ giữa tâm trí và vật chất, được nêu ra lần đầu tiên trong cuốn Wholeness and Implicate Order ― Cái toàn thể và Trật tự ẩn, David Bohm đã bác bỏ quan niệm cho rằng các quá trình tư duy của chúng ta chỉ thông báo một cách trung tính những gì xảy ra "ngoài kia" trong một thế giới khách quan. Ông khảo sát cách thức tư duy tham gia tích cực vào sự hình thành tri giác, cảm nhận của chúng ta về ý nghĩa và những hành động thường ngày của mình. Ông gợi ý rằng những tư duy và tri thức tập thể đã trở thành tự động đến nỗi phần lớn chúng ta bị chúng điều khiển, hấu quả là mất đi tính xác thực, tự do và trật tự. Là một ứng viên hoàn toàn xứng đáng cho giải Nobel Vật lí nhưng ông không bao giờ có được giải thưởng này. Luôn khiêm nhường, Bohm cho rằng công việc của mình không "quan trọng đến thế". Ông nhận được sự ủng hộ và tình bạn từ một nhà vật lí vĩ đại khác là Albert Einstein, người luôn tin tưởng ông với vai trò một nhà khoa học, và một con người. Cùng với Cái toàn thể và Trật tự ẩn, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tới quý độc giả những tư tưởng đặc sắc của David Bohm qua bản dịch Tư duy như một hệ thống với một văn phong tiếng Việt sáng rõ và khoa học của các dịch giả Tiết Hùng Thái, Chu Trung Can. *** Joseph David Bohm là một nhà vật lí lượng tử người Anh. Ông nguyên là giáo sư danh dự Đại học Birkbeck thuộc Đại học Tổng hợp London. Ông là tác giả nhiều cuốn sách và bài báo, trong đó có Thuyết nhân quả và Ngẫu nhiên trong Vật lý hiện đại, Cái toàn thể và Trật tự ẩn, Vũ trụ không phân chia (viết cùng với Basil Hiley). David Bohm là một trong những người có nhiều ảnh hưởng tới mô hình lí thuyết hiện đại. Sự thách thức của Bohm với những hiểu biết thông thường về lí thuyết lượng tử đã khiến các nhà khoa học suy nghĩ lại về những việc họ đang làm, đặt câu hỏi về bản chất của lí thuyết mà họ đang theo đuổi và xác định phương pháp luận khoa học của họ. Là một ứng viên hoàn toàn xứng đáng cho giải Nobel Vật lý nhưng ông không bao giờ có được giải thưởng này. Luôn khiêm nhường, Bohm cho rằng công việc của mình không "quan trọng đến thế". Ông nhận được sự ủng hộ và tình bạn từ một nhà vật lý vĩ đại khác là Albert Einstein, người luôn tin tưởng ông với vai trò một nhà khoa học, và một con người. Mời các bạn đón Tư Duy Như Một Hệ Thống của tác giả David Bohm.
Sức Mạnh Của Sự Mơ Hồ Và Bí Ẩn - Jamies Holmes
“MỘT CÁI NHÌN SÂU SẮC, SOI THẤU KHÍA CẠNH ĐẦY NGẠC NHIÊN CỦA SỰ MƠ  HỒ VÀ BÍ ẨN. MỘT CUỐN SÁCH CÓ THỂ TRUYỀN CẢM HỨNG CHO VIỆC HỌC TẬP, SÁNG TẠO VÀ THẬM CHÍ LÀ CẢ SỰ ĐỒNG CẢM.” Như Jamie Holmes chỉ ra trong cuốn sách này, sự mơ hồ và bí ẩn, sự nhập nhằng,… khiến chúng ta không thoải mái, do đó chúng ta có xu hướng trốn tránh nó và thường bám riết lấy phương án giải quyết an toàn (nhưng không phải lúc nào cũng là tốt nhất), đặc biệt là trong những tình huống nguy hiểm. Nhưng cũng chính vì thế, chúng ta tước đi của chính mình cơ hội quan trọng để tìm hiểu cách giải quyết vấn đề theo hướng mới hoặc quan sát thế giới từ một góc độ khác. Bằng những hiểu biết về tâm lý học xã hội và khoa học nhận thức của tác giả và thông qua những câu chuyện thú vị - từ trò chơi gián điệp và các giáo phái ngày tận thế cho chiến dịch quảng cáo của Absolut Vodka hay sự sáng tạo của Mad Libs – cuốn sách của Jamie Holmes hứa hẹn sẽ làm thay đổi cách chúng ta tiến hành kinh doanh, giáo dục và đưa ra quyết định. Mọi khía cạnh tích cực của “sự mơ hồ và bí ẩn” và cách tận dụng nó đều nằm trong cuốn sách này! *** N ăm 1996, Đại học City & Islington ở London tổ chức một khóa học tiếng Pháp cấp tốc cho những người mới học và sinh viên dưới trung bình. Paula, một cô bé thiếu niên nghiêm chỉnh đeo một cặp kính gọng mảnh, chưa bao giờ nói được một từ tiếng Pháp nào. Darminder, người có một bộ râu dê và đeo khuyên tai, không chỉ mới học tiếng Pháp mà còn thất bại trong kỳ thi chứng chỉ tiếng Tây Ban Nha tổng quát của bậc giáo dục trung học (GCSE). Abdul đã rớt kỳ thi GCSE tiếng Đức. Satvinder và Maria đều rớt kỳ thi GCSE tiếng Pháp và giáo viên tiếng Pháp của Emily khuyên cô nên bỏ ý định học thứ tiếng này. Tuy nhiên, thay vì từ bỏ tất cả hy vọng, những học viên này đã đăng ký tham gia một khóa học độc nhất vô nhị. Trong năm ngày học toàn thời gian, họ sẽ áp dụng phương pháp kỳ lạ của một nhà ngôn ngữ học tên là Michel Thomas. Trong chiếc áo khoác màu xanh và với mái tóc muối tiêu, trông Thomas toát lên vẻ nhã nhặn. Ông nói với những học viên mới rằng: “Tôi rất mong chờ buổi dạy ngày hôm nay nhưng dưới những điều kiện tốt hơn, vì tôi không nghĩ rằng các em đang ngồi thoải mái. Tôi muốn các em cảm thấy thoải mái, do đó chúng ta sẽ sắp xếp lại mọi thứ.” Trong một chiếc xe tải ở bên ngoài, Thomas đã chuẩn bị sẵn một số vật dụng thay thế không ai ngờ tới cho một lớp học tiêu chuẩn: ghế bành, gối, bàn cà phê, cây cối, thảm, một cái quạt và thậm chí là những tấm đệm gấp làm bằng liễu gai. Chỉ với chút ít thời gian và công sức, các học viên đã hoàn tất việc thay đổi căn phòng. Những chiếc ghế bành lưng cao bọc vải nhung xếp thành một nửa hình ô van, những chiếc rèm xanh được kéo lại, chỉ để lọt ánh sáng mờ trong căn phòng, và những tấm đệm liễu gai bao quanh những chiếc ghế bành mang lại một cảm giác ấm áp và thân mật hơn. Không có những bàn học, bảng đen, giấy, bút hay chì. Thomas không muốn các học viên viết hay đọc bất kỳ thứ gì. Ông không muốn họ nhớ bất cứ điều gì được học, kể cả việc xem lại chúng vào cuối ngày. Nếu trong thời gian học, các sinh viên không nhớ được điều gì đó, ông nói rằng đó không phải vấn đề của họ. Đó là vấn đề của ông. Emily tỏ vẻ hoài nghi. Darminder và Abdul thậm chí còn không giấu được nụ cười tinh quái. Nhưng không ai trong số những sinh viên này có thể ngăn nổi sự tò mò thực sự về người đàn ông đứng tuổi đang đứng trước mặt mình. Ông ta có nghiêm túc không? Không cố gắng nhớ những gì được dạy trên lớp ư? “Tôi muốn các em thoải mái.” Cảnh tượng này, phương pháp của Thomas và các kết quả sau năm ngày học xuất hiện trong một bộ phim phóng sự của đài BBC mang tên Chuyên gia Ngôn ngữ. Margaret Thompson, Trưởng khoa tiếng Pháp của trường được giao nhiệm vụ đánh giá kết quả của Thomas. Vào cuối tuần, bà theo dõi các sinh viên – trong đó rất nhiều người chưa từng nói được một từ tiếng Pháp nào trước đây – đã dịch được những câu hoàn chỉnh sử dụng các dạng ngữ pháp nâng cao. Emily đã có thể dịch được một cụm từ vốn thường mất nhiều tháng để giải quyết: “Tôi muốn biết liệu anh có muốn đến gặp tôi tối nay hay không?” Paula ca ngợi cách Thomas nhấn mạnh sự bình tĩnh và kiên nhẫn. Các sinh viên nói rằng họ cảm thấy như thể đã học được năm năm tiếng Pháp chỉ trong năm ngày. Khá kinh ngạc với kết quả, Thompson rụt rè chấp nhận đánh giá của những học viên này. Michel Thomas biết rằng việc khám phá một ngôn ngữ mới quả thực rất đáng sợ. Các học viên phải đối mặt với cách phát âm mới cho những từ ngữ quen thuộc, các từ vựng mang ý nghĩa kỳ lạ, những phần thiếu của lời nói hay những cấu trúc ngữ pháp lạ lẫm. Đó là lý do vì sao những sinh viên của Đại học City & Islington dù được học trong một môi trường thoải mái vẫn thể hiện sự bối rối: cười lớn căng thẳng, cười nhẹ ngượng ngùng, xin lỗi thầm, nói lắp, lưỡng lự và những cái liếc mắt lúng túng. Học một ngôn ngữ mới đòi hỏi bạn phải đi vào một vùng đất xa lạ. Thomas mô tả ngôn ngữ mới “là thứ xa lạ nhất” mà một người có thể học. Để bảo vệ bản thân trước sự xâm lấn “xa lạ” này, tâm trí sẽ dựng lên những rào cản theo bản năng, vì vậy thách thức đầu tiên và cũng là khó khăn nhất với giáo viên là giúp các học viên kéo đổ những rào cản này. Thomas đã thay đổi môi trường giảng dạy ở Đại học City & Islington từ đáng sợ, đầy căng thẳng thành tò mò, đầy bình tĩnh. Bằng cách nào đó, ông đã khiến tâm trí của các học viên cởi mở hơn. Các học viên vốn có thói quen gạt bỏ những gì chưa hiểu đột nhiên sẵn sàng dấn thân vào những lãnh thổ xa lạ hơn. Vào thời điểm BBC quay phóng sự này (sau đó được phát sóng năm 1997), Thomas đã là một huyền thoại. Ông thành thạo 11 ngôn ngữ, mở ra những trung tâm gia sư ở Los Angeles, New York và xây dựng một thứ gì đó như một “tôn giáo” nhờ vào một danh sách khách hàng bao gồm Grace Kelly, Bob Dylan, Alfred Hitchcock, Coca-Cola, Procter & Gamble và American Express. Nigel Levy, người đã tham gia lớp học của Thomas trước khi sản xuất ra bộ phim phóng sự của BBC, mô tả những bài học của ông là rất “đáng kinh ngạc”. Emma Thompson mô tả thời gian làm việc với ông là “một trải nghiệm học tập đặc biệt nhất trong đời”. Cựu đại sứ Israel ở Liên Hợp Quốc gọi ông là “người lao động thần kỳ”. Và Herbert Morris, cựu Trưởng khoa Nhân văn của UCLA, tiết lộ rằng ông đã học được cả năm tiếng Tây Ban Nha chỉ trong vài ngày học cùng Thomas và vẫn còn nhớ những kiến thức đó mãi tới chín tháng sau. Thomas cho rằng “điều quan trọng nhất là loại bỏ mọi căng thẳng và áp lực”. Ông đặc biệt quan tâm đến trạng thái tâm lý, thậm chí quan tâm đến cực độ. Ví dụ, ông thường bắt đầu dạy tiếng Pháp bằng cách nói với các học viên rằng tiếng Pháp và tiếng Anh có chung hàng nghìn từ vựng, chỉ là chúng nghe có hơi khác nhau một chút. Ông từng nói đùa: “Tiếng Anh chính là tiếng Pháp được phát âm sai.” Ông giải thích rằng những từ ngữ kết thúc với -ible như possible và -able như table đều có nguồn gốc từ tiếng Pháp. Nhờ việc biến những điều xa lạ thành thân quen, ngay từ đầu Thomas đã trao cho các sinh viên những nền tảng vững chắc. Các sinh viên ghép kiến thức mới vào kiến thức hiện hữu từng chút một, thể hiện tư duy riêng và không bao giờ lặp lại những cụm từ theo lối học vẹt. Thomas dạy họ cách tự học và hiếm khi phải uốn nắn các học viên một cách trực tiếp. Đến năm 2004, những đĩa CD, băng dạy tiếng Pháp, Đức, Ý và Tây Ban Nha của Thomas – ghi lại quá trình Thomas dạy từng loại ngôn ngữ cho các nhóm hai học viên – là những khóa học bán chạy nhất ở Anh. Nhưng Michel Thomas không đơn thuần là một nhà ngôn ngữ học. Ông cũng là một anh hùng thời chiến. Cùng năm đó, ông được vinh danh ở Lễ Tưởng niệm Thế chiến II tại Washington D.C, nơi ông nhận được Huy chương Sao Bạc. Ông mất năm 2005 ở New York, là một công dân Hoa Kỳ nhưng sinh ra ở thành phố công nghiệp Lodz, Ba Lan với tên gọi Moniek Kroskof. Ông sống sót qua những trại tập trung, trở thành chỉ huy quân đội, điệp viên và chuyên gia thẩm vấn của phe Đồng Minh. Sau cuộc chiến, ông đã bắt hơn 2.000 tội phạm chiến tranh Đảng Quốc Xã. “Michel Thomas” là nhân dạng giả thứ năm và cũng là bí danh của ông. Kinh nghiệm tuyên truyền chuyên chế và sự nghiệp nằm vùng sau chiến tranh không phải là những điểm đáng chú ý trong lý lịch của Thomas. Những khám phá của ông về cách tâm trí đóng sập cánh cửa hay mở khóa trước sự mơ hồ – trọng tâm chính của cuốn sách này – xuất phát từ những trải nghiệm của ông ở Đức. Ông đã chứng kiến việc Đảng Quốc Xã đã nuôi dưỡng một cách tiếp cận thô bạo, thậm chí khinh bỉ trước sự bất định và phức tạp về đạo đức trong những đảng viên nồng nhiệt nhất như thế nào. Và sau đó ông dành ra nhiều thập kỷ phát triển các phương pháp để nuôi dưỡng một thái độ đối lập tuyệt đối ở những người học ngôn ngữ. Trên thực tế, 50 năm trước khi bộ phim phóng sự của BBC được ghi hình, Thomas đã kiểm tra các ý tưởng đầu tiên của mình trong một phiên bản hoàn toàn đối lập với buổi trình diễn sư phạm của mình ở Đại học City & Islington. Mời các bạn đón đọc Sức Mạnh Của Sự Mơ Hồ Và Bí Ẩn của tác giả Jamies Holmes.