Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ta Thuộc Về Nhau

Ta thuộc về nhau là câu chuyện tự thuật của Alan & Irene Brogan. Alan Brogan sinh năm 1952 tại vùng East End, Sunderland, nước Anh trong một gia đình có bốn người con trai. Năm Alan lên bốn, mẹ ông qua đời. Chính quyền đại phương cho rằng người cha không thể nuôi nổi bốn người con nên bốn anh em ông bị đưa vào trại trẻ. Cũng chính từ đấy cuộc đời ông thay đổi. Irene Brogan sinh năm 1950 tại Deptford, Sunderland, nước Anh. Bà là con út trong một gia đình có bốn người con gái. Khi Irene hai tuổi, mẹ bà qua đời do căn bệnh lao. Quá đau lòng vì cái chết của người vợ, cha bà chìm đắm trong men rượu nên phải gửi chị em bà đến nhà họ hàng. Nhưng rồi nhanh chóng sau đó Irene cũng bị đưa đến trại trẻ Rennie Road. Tại đấy bà đã gặp Alan. Irene đã viết: “Ngay lúc đó, tôi quyết định mình sẽ không bao giờ hẹn hò với ai khác nữa. Phải là Alan hoặc không ai cả. Nếu tôi không tìm thấy cậu ấy, ít nhất tôi vẫn còn có gia đình. Nhưng nếu tôi muốn gắn bó với ai đó thì tôi biết người đó phải là Alan”. Còn với Alan thì: “Được, tôi sẽ chờ. Tôi sẽ chờ dù cho có mất bao lâu đi chăng nữa. Và nếu tôi gặp cô ấy một lần, lần sau tôi có thể sẽ gặp lại cô ấy. Tôi chỉ cầu nguyện cho lần sau mau đến và khi đó tôi sẽ không để mất cô ấy như năm năm trước.” *** Chân thực, xúc động, mạnh mẽ, cuốn hồi ký về câu chuyện có thật của Irene và Alan Brogan đã chứng minh sự tồn tại vĩnh hằng của tình yêu. Alan và Irene sinh ra và lớn lên tại Anh quốc, sau Thế chiến thứ hai. Hai đứa bé mồ côi mẹ tình cờ gặp gỡ ở trại trẻ mồ côi Rennie, khi đó, cậu bảy tuổi và nàng lên chín. Ngay từ lần đầu tiên chạm mặt, chúng đã dành cho nhau những xúc cảm kỳ lạ và sự tin tưởng tuyệt đối. Alan và Irene mau chóng thân thiết. Chúng cùng nắm tay nhau vượt qua những tháng ngày thiếu thốn khó khăn, những kìm kẹp cả về thể xác và tâm hồn. Cuộc sống khắc nghiệt trong trại trẻ mồ côi bỗng chốc trở nên dịu dàng và yên bình biết mấy. Alan Brogan đã miêu tả về những hồi ức đẹp đẽ ấy: “Trên đường đi bộ quay về Rennie Road, chúng tôi nhìn qua những ô cửa sổ các ngôi nhà trên phố, thấy những ngọn lửa ấm áp, những tấm thiệp sinh nhật trên mặt lò sưởi, và chứng kiến lũ trẻ nô đùa. Chúng tôi thấy những bà mẹ của chúng trao cho chúng những cái ôm, những nụ hôn và những nụ cười. Chúng tôi tự hỏi mình: “Tại sao chúng tôi không được như thế?” Mặc dù vậy, chúng tôi vẫn có nhau. Một hôm, đang ngồi trên ngọn đồi ngắm những người nhảy dù, tôi nói với Irene rằng khi chúng tôi lớn lên, tôi sẽ cưới nàng. Nàng suy nghĩ một lúc rồi trả lời rằng nàng cũng muốn cưới tôi. Chúng tôi cùng bắt tay nhau thay cho lời nguyện ước.” Tuy nhiên, quy định ở đây không cho phép con trai và con gái chơi chung, vậy nên Alan và Irene chỉ có thể lén lút nắm tay nhau trên đoạn đường giữa trại trẻ và trường học. Nhưng rồi một người làm việc tại đó đã nhìn thấy Alan và Irene trêu đùa nhau. Bí mật bị phanh phui, Alan bị đuổi đi ngay lập tức. Cậu không kịp chào từ biệt Irene, để lại trong cô nỗi nhớ khôn nguôi: “Ghế chỗ Alan ngồi trống không, lũ trẻ chỉ nhìn về phía đó một thoáng rồi lập tức quay phắt đi, như thể nếu chúng nhìn vào nơi ấy quá lâu, sẽ có chuyện chẳng lành xảy ra với chúng... Người tôi cứ hết nóng, lạnh rồi lại ốm, lúc nào cũng thế. Alan đã đi rồi.” Cô luôn tự nhắc nhở bản thân về việc kiếm tình người tri kỷ của mình: “Tôi tự hứa với lòng rằng vào mùa hè sang năm, nếu chúng tôi được đưa về Whitby để nghỉ hè, tô sẽ đi tìm anh ấy. Cái ý tưởng đó ăn sâu bén rễ và là điều duy nhất khiến tôi tiếp tục sống. Tôi sẽ đi tìm Alan, và cùng nhau chúng tôi sẽ cùng chạy ra bãi biển, cảm nhận ánh mặt trời mơn man trên mặt chúng tôi. Và chúng tôi sẽ lại được hạnh phúc bên nhau.” Với Alan, nỗi đau khi mất đi người thân duy nhất cũng ám ảnh cậu hằng đêm: “Đêm ấy, tôi nằm trên chiếc giường ngủ mới và nỗi đau chợt đến. Tôi đã nghĩ đến Irene. Tôi sẽ lại đi tìm cô ấy. Tôi phải tìm cô ấy." Và họ đã thật sự bước vào cuộc hành trình tìm kiếm đối phương, không ai ngờ rằng nó sẽ kéo dài diễn ra suốt gần 50 năm. Quãng thời gian ấy là tháng ngày dài nối tiếp trong sự cô độc và tổn thương, những nỗi đau tâm hồn không thể bù đắp được. Nhưng số phận vẫn chưa dừng trò chơi của mình lại ở đó, khi gần cuối đời, Alan và Irene lại được gặp nhau trong một hoàn cảnh trớ trêu. Khi ấy, Irene vừa trải qua một cuộc hôn nhân không hạnh phúc, bà li dị chồng dù đã có hai đứa con. Alan cũng đã chia tay người vợ cũ nhưng đang ở trong một mối quan hệ mới. Cuộc gặp họ đã chờ đợi suốt gần năm mươi năm lại khiến cả hai trở nên bế tắc. Giữa những bộn bề giằng xé, cuối cùng, Alan lại một lần nữa quyết định ra đi, để lại cho Irene bao câu hỏi không lời giải đáp. Sau cùng, khi nhận ra mình không thể sống thiếu Irene, Alan quyết định quay trở về. Việc tìm lại Irene vẫn chẳng hề đơn giản, nhưng lần này, trái tim cả hai người đều chủ động đợi chờ đối phương. Số phận cuối cùng đã mỉm cười với cả hai. Họ đã nhận ra nhau tại một ngã tư đường phố đông người, từ đó, Alan và Irene quyết định mãi mãi không rời xa nhau một phút giây nào nữa. Ta thuộc về nhau (tên gốc: Not without you) không đơn thuần là câu chuyện về tình yêu đôi lứa. Đó còn là bản tình ca xúc động về tình thân, là tiếng hát của sự đồng điệu giữa những tâm hồn. Tất cả được tái hiện giữa khung cảnh khốc liệt của một đất nước vừa bước ra từ chiến tranh. Tất cả tạo nên bức tranh cuộc sống chân thực với những gam màu trầm day dứt và ám ảnh. Ở đó, tình yêu là nguồn sáng duy nhất xoa dịu mọi nỗi đau, cứu rỗi tâm hồn con người. *** Đó là một ngày trời lạnh và xám xịt. Tôi ngồi trên bậu cửa sổ trong phòng sinh hoạt chung, nhìn ra bên ngoài. Con đường vắng tanh và những cánh đồng ở phía xa. Tôi bảy tuổi, mồ côi mẹ, không biết bố và các anh trai mình ở đâu, hay liệu tôi có thể gặp lại họ hay không. Tôi đã bị mắc kẹt ở nơi này, nơi có vô số những luật lệ phải tuân theo và chẳng có ai tỏ ra thân thiện. Vừa lúc đó, một chiếc xe hơi lớn màu đen rẽ vào khúc quanh và dừng lại trước cửa ngôi nhà. Một người đàn ông bước ra, và sau đó là một cô bé. Cô ấy nhỏ hơn tôi, mái tóc đỏ cắt ngắn vuông vắn, mặc một chiếc áo không tay màu xám đám con gái vẫn mặc, đi đôi giày cao cổ nhỏ màu đen. Tôi nhìn cô ấy đi theo người đàn ông bước đến cửa trước. Chợt có gì đó vụt lên trong lòng tôi. Tôi biết cô ấy! Tôi không rõ ở đâu hay như thế nào. Chúng tôi chưa bao giờ gặp nhau, nhưng tôi biết cô ấy. Như thể mọi thứ bừng sáng và tôi cảm tưởng mình có thể chạy hàng dặm cùng cô mà không bao giờ mỏi mệt. Khoảnh khắc ấy tôi hiểu rằng mình sẽ không còn cô đơn nữa. Tôi rời bậu cửa sổ và chạy tới mở cửa… *** Có một ngày khi đi ngang qua cửa hàng du lịch, chúng tôi nhìn thấy thông báo quảng cáo một chuyến du lịch tới Tunisia trong vòng 7 ngày. Giá cả khá hợp lý. Vì vậy chúng tôi dùng số tiền đã tiết kiệm được khi không mua nhà mới mà ở nhà Irene để đăng kí tham gia chuyến đi. Đó là một kì nghỉ hoàn hảo. Khách sạn rất đáng yêu và phòng chúng tôi cũng vậy. Trong phòng có cửa dẫn ra mái hiên nằm ngay trên một vườn cam và chà là. Con đường qua vườn sẽ đi qua hồ bơi, cuối đường là những đụn cát dẫn tới một bãi biển cát sáng lấp lánh. Chúng tôi đã có một tuần vui thú, ngằm cảnh và đắm mình trong không khí ấm áp thân thiện. Trong lúc đó tôi cũng lên kế hoạch. Tôi biết chính xác mình muốn làm gì, và tôi chắc chắn tất cả các bạn mới của chúng tôi ở khách sạn cũng biết, chỉ có Irene là không. Bình mình ló rạng, và ngày cuối cùng của kì nghỉ đã đến. Tôi biết phải là bây giờ, hoặc là không bao giờ. Tôi rủ Irene đi dạo biển lần cuối, và chúng tôi đi qua những đụn cát xuống bãi biển lấp lánh. Ánh nắng chiếu trên mặt biển khiến chúng lôi bị lóa mắt. Trong suốt thời gian ở đây, ngày nào chúng tôi cũng đi dạo trên bãi biển, nhặt những mảnh gốm màu xanh nhạt đã được sóng biển rửa sạch. Chúng tôi định mang chúng về nhà cùng với đám vỏ ốc mút, để Irene làm thành một ốc đảo Tunisian của riêng chúng tôi. Irene muốn chơi chèo thuyền. Cô ấy chạy xuống nước, đứng trong mực nước ngập cỡ đến đầu gối, vùng vẫy đập nước tung tóe và cười vang. Cô ấy bắt tôi phải chơi cùng. Nhưng trong đầu tôi còn suy nghĩ những chuyện khác. Tôi quay lại bờ biển, đợi cô ấy lên và tôi hơi lo lắng một chút. Chính là khi ấy: thời khắc của tôi đã đến. Cả hai chúng tôi đều biết chúng tôi muốn ở bên nhau, nhưng tôi vẫn có rất lo lắng khi chuẩn bị cầu hôn. Có lẽ những người sắp trở thành chú rể đều như vậy. Cô ấy chạy lên khỏi mặt nước, hướng về bãi biển, và chúng tôi cùng đi bộ, tay trong tay. Khi đã đi cách xa mép nước một đoạn, tôi quay sang cô ấy, sau đó quỳ một chân xuống, “Irene, anh yêu em. Em có đồng ý cưới anh không?” Cô ấy ngạc nhiên đến nỗi trong một thoáng đã đứng sững. Sau đó cô ấy trả lời, “Có chứ, có, đương nhiên em sẽ đồng ý”. Tôi đứng dậy, đeo vào tay cô ấy một chiến nhẫn đính hôn đơn giản bằng vàng mà tôi đã chọn, rồi chúng tôi ôm và hôn nhau, cả hai đều cười tới suýt chảy nước mắt. Sau đó, thật đúng lúc, chàng trai bồi bàn thân thiện ở khách sạn - người tôi đã giới thiệu ngắn gọn phía trên - xuất hiện trên bãi cát với một chiếc máy ảnh, chụp lại khoảng khắc đó. Chúng tôi về lại khách sạn, và khi chúng tôi về tới bể bơi, đám đông những người khách đã đang chờ chúng tôi. Mọi người đã rỉ tai nhau và đều đã biết chuyện đó, tất cả đều muốn tham gia vào bữa tiệc chúc mừng. “Cô ấy đồng ý chứ?” - một trong số họ hét lên. Tôi đã định trêu họ và giả vờ như cô ấy đã nói “Không”, nhưng tôi đã không thể làm được. Tôi không thể che giấu nụ cười rạng ngời trên mặt mình. Irene cười và trả lời “Cô ấy đồng ý!” và những nút sâm panh bật mở, hoa xuất hiện và tất cả mọi người chúng mừng chúng tôi. Tôi cảm thấy vô cùng nhẹ nhõm và hạnh phúc. Mọi thứ đã đúng như tôi mong muốn. Có sắp đặt một chút - nhưng đó là một kết cục đáng nhớ, vui vẻ và cảm động ở một kì nghỉ tuyệt vời. Hôm sau chúng tôi về nhà trong tư cách đã kết hôn và ngập sàn vui sướng. Irene Khi bạn tôi - Dawn - đăng ký cho tôi tham gia vào một cuộc thi Cô dâu của năm do đài phát thanh địa phương tổ chức, tôi đã nói với cô ấy rằng cô ấy bị điên rồi. Nhưng cô ấy nói cô ấy nghĩ câu chuyện của chúng tôi là câu chuyện lãng mạn nhất cô ấy từng được nghe, và rằng những người khác cũng sẽ nghĩ thế. Tôi chỉ cười và nói cô ấy cứ làm nếu cô muốn, nhưng tôi chẳng bao giờ nghĩ mình sẽ giành chiến thắng. Vì thế tôi rất bất ngờ khi khoảng một, hai tuần sau đó, đài phát thanh gọi tới nói tôi đã chiến thắng. Giải thưởng là một chiếc váy cưới, hoa, bánh ngọt, xe hơi và cả váy phù dâu, và còn có một kì nghỉ trăng mật ở nước ngoài. Đó là lần đầu tiên tôi giành được chiến thắng gì đó! Alan và tôi run lên vì sung sướng, và tôi đã gửi hoa và sô-cô-la tới cho Dawn để cảm ơn cô ấy. Việc chiến thắng ở cuộc thi khiến chúng tôi có thể có khả năng tổ chức một lễ cưới lớn hơn dự tính ban đầu. Tôi đề nghị Joanne làm phù dâu chính cho tôi và cháu gái tôi - Faye và Dawn sẽ làm phù dâu. Tôi đã chọn một chiếc váy quây màu trắng xinh đẹp đi kèm với cả voan đội đầu. Và tới lúc chọn màu váy phù dâu, tôi đã biết chính xác màu mình muốn: Nó phải là một sắc xanh đặc biệt - màu xanh của hoa chuông. Buồn là tôi không còn liên lạc với con trai tôi - Michael nữa, vì thế chúng tôi không thể mời thằng bé. Alan đã đề nghị được chồng Joane sẽ là phù rể và cháu trai tôi - Lion sẽ là người đi cùng tôi vào nhà thờ. Chuyện đó khiến tôi rất tự hào vì tất cả những thành viên trong gia đình tôi đều đã chấp nhận Alan là người trong gia đình tôi và chính Alan cũng cảm thấy như thế. Alan Tính đến ngày tổ chức lễ cưới, tôi và Irene đã ở bên nhau được 3 năm - và đó là 3 năm ngập tràn hạnh phúc thiên đường. Chúng tôi đều sung sướng khi được ở cùng nhau, và tận hưởng từng khoảnh khắc. Chúng tôi hầu như chưa từng bất đồng về bất cứ điều gì, và nếu chúng tôi có những ý kiến khác nhau về chuyện gì đó, cuối cùng chúng tôi sẽ chỉ thấy thật buồn cười. Sau tất cả những gì đã trải qua, chúng tôi đều biết mình chẳng bao giờ muốn buồn bã dù chỉ một ngày. Và có quá nhiều thứ phải cảm tạ trời đất, đến nỗi ngày nào với chúng tôi cũng như một ngày cần chúc mừng. Chiến thắng trong cuộc thi thực sự là phần thưởng hấp dẫn theo đúng nghĩa đen. Điều đó có nghĩa là chúng tôi có thể mời nhiều người tới dự lễ cưới hơn, và cuối cùng danh sách khách mời của chúng tôi đã gần chạm tới con số 100. Chúng tôi đã tìm thấy nhau vào ngày mùng 10 tháng 5, và chúng tôi muốn cưới đúng ngày đó. Chúng tôi đã đi hỏi toàn bộ địa điểm có thể, nhưng không nơi nào còn trống lịch vào ngày đó, do vậy cuối cùng chúng tôi quyết định tổ chức ngày 12 tháng 5 năm 2007, ở Mobray Sui nằm trong trung tâm hành chính Sunderland. Đám cưới của chúng tôi là kết quả của tình yêu chúng tôi đã luôn dành cho nhau và đó là ngày đặc biệt nhất trong đời tôi và Irene. Dường như niềm hạnh phúc của chúng tôi như có sức lan tỏa. Từ khi Irene chiến thắng trong cuộc thi đó, tất cả các tờ báo địa phương đều quan tâm và câu chuyện của chúng tôi lan rộng. Vì thế khi Irene đến lễ cưới trong một chiếc xe cổ màu trắng rất đẹp, gần như một đám đông đã tụ tập ở đó sẵn. Trong lúc đó tôi đang hồi hộp chờ đợi trong căn phòng chật kín những vị khách. Irene bước vào trong tiếng nhạc bài hát chúng tôi đã cùng chọn “At last” của Norah Jones. Không bài hát nào khác có thể đúng với chúng tôi đến thế. Irene của tôi trông thật xinh đẹp. Tôi nín thở, và khoảnh khắc đó cả thế giới như đứng lại và tôi như nghe thấy người con gái tóc đỏ của tôi nói “Có” trên đồi Bunny năm nào, 47 năm về trước. Mời các bạn đón đọc Ta Thuộc Về Nhau của tác giả Alan & Irene Brogan.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sau Màn Sương Lạnh - Trần Hữu Tòng
Sau Màn Sương Lạnh là tiểu thuyết phản gián viết về giai đoạn quân và dân ta ở vùng biên giới phía Bắc chống lại âm mưu, thủ đoạn thâm độc của người "bạn" lớn. *** Trần Hữu Tòng sinh năm 1938 ở huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Tháng 4/1954, ông nhập ngũ khi mới vừa tròn 16 tuổi và là một trong những người đầu tiên xẻ núi, mở rừng xây dựng Đồn biên phòng Cầu Treo. Dẫu sau này, ông có hơn 15 năm làm phóng viên Báo Công an nhân dân vũ trang, 20 năm là phóng viên báo Quân đội nhân dân, 5 năm đảm nhận chức vụ Cục trưởng Cục Văn hóa Thông tin cơ sở - Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, được đi đến nhiều miền đất của Tổ quốc, thì cái tên Nước Sốt - Cầu Treo vẫn là một vùng ký ức sâu đậm trong cuộc đời. Cũng chính vì xuất thân từ một người lính biên phòng, tác phẩm đầu tiên cũng được ra đời nơi biên viễn, thế nên chủ đề về biên giới và hình tượng người lính biên phòng cứ bền bỉ gắn với những trang viết của Trần Hữu Tòng trong suốt khoảng thời gian dài bằng cả đời người. Đến nay, nhà văn Trần Hữu Tòng đã xuất bản gần 30 tác phẩm gồm tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn mà không có tác phẩm nào vắng bóng người chiến sĩ biên phòng. Với hàng chục tác phẩm về đề tài biên giới và người chiến sĩ biên phòng như: "Ngôi sao biên cương", "Dấu vết để lại", "Tín hiệu bình yên", "Bên dòng Păng Pơi", "Cơn lốc rừng thông", "Bầy cọp núi", "Cánh rừng và hai vầng trăng", "Bếp lửa đêm rừng", "Phiên gác trăng tà", “Sau màn sương lạnh”, “Bóng núi” cùng nhiều giải thưởng văn học có giá trị trong hành trình sáng tác của mình, có thể nói rằng với nhà văn Trần Hữu Tòng ký ức của một thời trai trẻ, về những miền đất xa xôi nơi biên ải, nơi những người lính trẻ như ông thuở nào đang làm nhiệm vụ canh giữ biên cương cho Tổ quốc, chắc hẳn vẫn luôn tươi mới và là nguồn cảm hứng dồi dào cho ngòi bút của ông.   Mời các bạn đón đọc Sau Màn Sương Lạnh của tác giả Trần Hữu Tòng.
Giải Khăn Sô Cho Huế - Nhã Ca
TỰA NHỎ : VIẾT ĐỂ CHỊU TỘI Tôi được sinh ra ở Huế, lớn lên với Huế, nhưng khi trưởng thành, đã rời gia đình, bỏ thành phố và ra đi biền biệt. Hồi trước Tết Mậu thân, hôm 23 tháng chạp năm mùi, đang cùng chồng con cúng ông táo, tôi bỗng nhận được điện tín từ Huế : về ngay, ba hấp hối. Với một gói hành lý vội vàng, đứa con hư hỏng của gia đình và thành phố là tôi, đã trở lại Huế để chụi tang người cha thân yêu. Và rồi như bao người khác, đã phải chịu luôn cái tang lớn cho cả thành phố, khi biến cố tết Mậu Thân bùng nổ. Sau cả tháng dài lạn lọn trong địa ngục Huế, khi sống sót trở về Sàigòn, tôi đã thao thức mãi về việc phải thất một giải khăn sô cho Huế, phải viết một hồi ký về những ngày giờ hấp hối của Huế. Nhưng thời sự những ngày sau biến cố Tế Mậu Thân ồn ào quá, bên cạnh cơn khóc than vật vã của Huế, người ta còn bận bịu với việc khai thác những chi tiết ly kỳ của chiến cuộc, những thành tích chiến thắng trên tro tàn, thật chưa phải là lúc viết ra những sót sa, tủi nhục, tuy tầm thường nhất, nhưng cũng lại là sâu sác nhất của một thành phố hấp hói. Chính vì vậy mà sau khi phác họa một vài nét đại cương trên nhật báo Sông hồi ấy, mặc dù được tòa soạn yêu cầu tiếp tục và sau đó được nhiều nhà xuất bản thúc dục, tôi cũng đã cố gắng ngưng lại. Phải ngưng lại, để nếu không nghiền ngẫm được kỹ hơn, thì ít ra cũng tách rời được khỏi những hậu ý xô bồ của thời cuộc, để chờ đợi một giây phút yên lặng hơn, trầm tĩnh hơn, khi viết về Huế. Cái thời gian chờ đợi ấy, đến nay, đã gần hai năm qua, Hai năm, hài cốt cả chục ngàn dân Huế bị tàn sát, vùi nông ở bờ bụi, vứt bỏ xuống đáy sông đáy suối, đã được thu nhặt dần. Những nấm mồ tập thể đã tạm thời xanh cỏ. Những nền nhà đổ nát đã tạm thời dựng lại. Cơn khóc than vật vã của Huế, những tiếng nói xô bồ về Huế, như vậy, cũng đã bớt ồn ào. Đây, chính là lúc chúng ta có thể cùng nhau chít lại giải khăn sô, đốt lại nén hương nhỏ trong đêm tối mênh mông của chiến tranh và tang tóc, để hồi tưởng về Huế. Có nhiều loạt súng đạn, nhiều loại tang tóc, đã nổ và đã tàn phá Huế. Công trình ấy không biết từ đâu, nhưng dù do đâu đi nữa, thì cái tội ác tàn phá một thành phố lịch sử là Huế, chính thế hệ chúng ta, thời đại chúng ta, phải chụi trách nhiệm. Chính trong thế hệ chúng ta đây, đã có Đoan, một cô bạn học cùng lớp với tôi ngày nào, đang ngồi trên ghế đại học ở Sàigòn, bỗng về Huế, đeo băng đỏ nơi tay, dát súng lục bên hong, hâng hái đi lùng người này, bắc người khác, để trở thành một nữ hung thần trên cơn hấp hối của Huế. Chính trong thế hệ chúng ta đây, đã có Đắc một sinh viên trẻ trung, hăng hái. Thời trước Đắc làm thơ, Đắc tranh đấu, rồi bỏ ra khu. Để rồi trở lại Huế lập những phiên tòa nhân dân, kêu án tử hình hàng loặt người, rồi đích tay đào một cái hố, bắt một bạn học cũ có xích mích từ trước ra đứng bên hố, để xử tử. Cậu bạn của Đắc, tên Mậu tý, dơ cái băng đỏ dấu hiệu giải phóng quân lên cao, lạy van Đắc : - Em lạy anh. Bây giờ em theo các anh rồi mà. Em có mang băng đỏ rồi mà. Cách mạng muôn năm... Hồ chủ tịch muôn năm. Nhưng mặc Mậu Tý năn nỉ, hoan hô, Đắc vẫn nhất định nổ súng vào người bạn nhỏ. Chính trong thế hệ chúng ta đây, đã có từng đoàn người, hàng trăm người, cha có, sư có, già có, con trẻ có, mỗi người cầm một lá cờ trắng để ra dấu đầu hàng bất cứ phe nào, đi thất thểu trong một thành phố đầy lửa cháy. Cứ như thế chạy ngược chạy xuôi, cho đến khi gục ngã gần hết. Cũng chính trong thời đại chúng ta, ngày thứ hai mươi mấy trong cơn hấp hối của Huế, đã có một con chó nhỏ kẹt giữa hai lằn đạn, chạy ra sủa bâng quơ ở bên bờ sông Bến Ngự. Con chó thành mục tiêu đùa rỡn cho những mũi súng hờm rẵn từ bên kia sông. Họ bắn cho con vật khốn khổ sợ hãi rơi xuống sông. Rồi lại bắn vào những bờ sông mà con chó nhỏ đang lóp ngóp bơi vào. Những phát súng đùa cợt không có tình bắn chết con chó nhỏ, mà chỉ có trêu chọc cho con chó chới với giữa giòng nước, để có chuyện đùa chơi với máu lửa. Thành phố Huế, và có lẽ cả quê hương khốn khổ của chúng ta nữa, có khác gì thân phận của con chó nhỏ đã chới với giữa giồng nước ấy. Thế hệ chúng ta, cái thế hệ ưa dùng những danh từ đẹp đẽ phô trương nhất, không những chúng ta phải thắt một giải khăn sô cho Huế, cho quê hương bị tàn phá, mà còn phải chịu tội với Huế, với quê hương nữa. Gần hai năm đã qua, hôm nay, nhân ngày giỗ thứ hai của biến cố tàn phá Huế sắp trở lại, tôi xin viết và xin gửi tới người đọc tập giải khăn sô cho Huế này như một bó nhang dèn góp giỗ. Xin mời bạn, chúng ta cùng thấp đèn, châm nhang, chịu tội với quê hương, với Huế.   Sàigon, năm Dậu. NHã CA ***   Nhã Ca, tên thật là Trần Thị Thu Vân (sinh 1939), là một nữ văn sĩ người Việt với nhiều tác phẩm viết thời Việt Nam Cộng hoà, hiện định cư ở Hoa Kỳ. Nhã Ca sinh trưởng tại Huế đến năm 1960 thì vào Sài Gòn nơi bà bắt đầu viết văn. Trong thời gian 1960 - 1975, 36 tác phẩm của bà được xuất bản gồm nhiều thể loại như thơ, bút ký và tiểu thuyết. Một số tác phẩm của bà lấy xứ Huế làm trọng điểm. Theo lời kể của ông Nguyễn Đắc Xuân (nhà văn) thì bà vốn là một nữ sinh Huế (cùng thế hệ với Nguyễn Đắc Xuân), bỏ học Trung học vào Sài Gòn đi theo Trần Dạ Từ - một người Bắc di cư. Trần Dạ Từ viết báo chống các Phong trào tranh đấu chống Mỹ, hai vợ chồng Trần Dạ Từ và Nhã Ca là hai cây viết tâm lý chiến của Đài Tự do của Mỹ (Đài có nhiệm vụ tuyên truyền chiêu hồi và viết bài tấn công về tư tưởng đối với binh lính đối phương) Cũng vì nội dung trong những tác phẩm của bà, sau năm 1975, Nhã Ca bị chính quyền giam hai năm vì tội "biệt kích văn hóa" (có cuốn sách mang tên là ‘Biệt Kích Văn Hoá’ do các học giả, nhà văn ủng hộ Mặt trận giải phóng như Trần Văn Giàu, Lữ Phương, Vũ Hạnh... viết về 10 tác giả miền Nam. Trong sách này, ngoài bà có Hồ Hữu Tường, Nguyễn Mạnh Côn, Nhất Hạnh, Doãn Quốc Sỹ, Võ Phiến...). Trong tù, bà bị biệt giam và chính quyền tiến hành chính sách "khoan hồng, nhân đạo của Đảng" nhằm hạ gục uy tín của bà. Chính cuốn Giải khăn sô cho Huế bị liệt vào hạng tối kỵ, trưng bày trong "Nhà Triển Lãm Tội Ác Mỹ Ngụy" là chứng tích kết tội bà. Chồng bà, nhà văn Trần Dạ Từ, thì bị giam 12 năm. Do sự can thiệp của hội Văn Bút Quốc tế phối hợp với hội Ân xá Quốc tế và thủ tướng Thuỵ Điển Ingvar Carlsson, bà được sang Thuỵ Điển tỵ nạn. Năm 1992 bà cùng gia đình sang California định cư và lập hệ thống Việt Báo Daily News tại Quận Cam. Theo nhà văn Nguyễn Đắc Xuân thì cặp vợ chồng Trần Dạ Từ - Nhã Ca còn từng phụ trách nguyên cả một chương trình của đài Á Châu Tự do (RFA) của Mỹ. Tác phẩm: Nhã Ca mới (1965) Đêm nghe tiếng đại bác (1966) Bóng tối thời con gái (1967) Khi bước xưống (1967) Người tình ngoài mặt trận (1967) Sống một ngày (1967) Xuân thì (1967) Những giọt nắng vàng (1968) Đoàn nữ binh mùa thu (1969) Giải khăn sô cho Huế (1969) đoạt Giải Văn chương Quốc gia Việt Nam Cộng hòa năm 1970[4] (tái bản ở Hoa Kỳ năm 2008) Một mai khi hòa bình (1969) Mưa trên cây sầu đông (1969) Phượng hoàng (1969) Tình ca cho Huế đổ nát (1969) Dạ khúc bên kia phố (1970) Tình ca trong lửa đỏ (1970) Đời ca hát (1971) Lặn về phía mặt trời (1971) Trưa áo trắng (1972) Tòa bin-đing bỏ không (1973) Bước khẽ tới người thương (1974) v.v... Phim Đất khổ do Hà Thúc Cần sản xuất và hoàn tất năm 1973, đã một phần dựa theo cuốn Giải khăn sô cho Huế và Đêm nghe tiếng đại bác, do Nhã Ca viết đối thoại. Tại hải ngoại, bà tiếp tục sáng tác, như: Hồi ký một người mất ngày tháng Đường Tự Do Sài Gòn (2006). Mời các bạn đón đọc Giải Khăn Sô Cho Huế của tác giả Nhã Ca.
Đường Tự Do - Sài Gòn - Nhã Ca
Một đầu, dòng sông Saigon lấp lánh. Một đầu khác, tượng Đức Mẹ trắng toát trước Vương Cung Thánh Đường. Lòng đường hẹp mà vỉa hè rộng. Con đường ấy, một thời ngắn ngủi thôi, mang tên là Tự Do. Tên cũ của nó, thời Pháp: Catinat. Tên mới, thời sau 1975: Đồng Khởi. Không biết đã hoặc sẽ còn những tên nào khác nữa? Với tôi, mãi mãi, con đường ấy mang tên là Tự Do. Đủ loại gót giày, từ Nam chí Bắc, từ năm châu bốn biển, đã nện trên vỉa hè Tự Do. Không chỉ giày dép đâu, mà con người, cả tôi nữa, khi đi đứng, hít thở, hòa mình vào sinh hoạt ở trên con đường này, đã hòa hợp với mạch sống của mọi thời đại, mọi hoàn cảnh. Bắt đầu từ một buổi trưa nắng sau khi Saigon đã thay tên đổi đời... ***   Nhã Ca, tên thật là Trần Thị Thu Vân (sinh 1939), là một nữ văn sĩ người Việt với nhiều tác phẩm viết thời Việt Nam Cộng hoà, hiện định cư ở Hoa Kỳ. Nhã Ca sinh trưởng tại Huế đến năm 1960 thì vào Sài Gòn nơi bà bắt đầu viết văn. Trong thời gian 1960 - 1975, 36 tác phẩm của bà được xuất bản gồm nhiều thể loại như thơ, bút ký và tiểu thuyết. Một số tác phẩm của bà lấy xứ Huế làm trọng điểm. Theo lời kể của ông Nguyễn Đắc Xuân (nhà văn) thì bà vốn là một nữ sinh Huế (cùng thế hệ với Nguyễn Đắc Xuân), bỏ học Trung học vào Sài Gòn đi theo Trần Dạ Từ - một người Bắc di cư. Trần Dạ Từ viết báo chống các Phong trào tranh đấu chống Mỹ, hai vợ chồng Trần Dạ Từ và Nhã Ca là hai cây viết tâm lý chiến của Đài Tự do của Mỹ (Đài có nhiệm vụ tuyên truyền chiêu hồi và viết bài tấn công về tư tưởng đối với binh lính đối phương) Cũng vì nội dung trong những tác phẩm của bà, sau năm 1975, Nhã Ca bị chính quyền giam hai năm vì tội "biệt kích văn hóa" (có cuốn sách mang tên là ‘Biệt Kích Văn Hoá’ do các học giả, nhà văn ủng hộ Mặt trận giải phóng như Trần Văn Giàu, Lữ Phương, Vũ Hạnh... viết về 10 tác giả miền Nam. Trong sách này, ngoài bà có Hồ Hữu Tường, Nguyễn Mạnh Côn, Nhất Hạnh, Doãn Quốc Sỹ, Võ Phiến...). Trong tù, bà bị biệt giam và chính quyền tiến hành chính sách "khoan hồng, nhân đạo của Đảng" nhằm hạ gục uy tín của bà. Chính cuốn Giải khăn sô cho Huế bị liệt vào hạng tối kỵ, trưng bày trong "Nhà Triển Lãm Tội Ác Mỹ Ngụy" là chứng tích kết tội bà. Chồng bà, nhà văn Trần Dạ Từ, thì bị giam 12 năm. Do sự can thiệp của hội Văn Bút Quốc tế phối hợp với hội Ân xá Quốc tế và thủ tướng Thuỵ Điển Ingvar Carlsson, bà được sang Thuỵ Điển tỵ nạn. Năm 1992 bà cùng gia đình sang California định cư và lập hệ thống Việt Báo Daily News tại Quận Cam. Theo nhà văn Nguyễn Đắc Xuân thì cặp vợ chồng Trần Dạ Từ - Nhã Ca còn từng phụ trách nguyên cả một chương trình của đài Á Châu Tự do (RFA) của Mỹ. Tác phẩm: Nhã Ca mới (1965) Đêm nghe tiếng đại bác (1966) Bóng tối thời con gái (1967) Khi bước xưống (1967) Người tình ngoài mặt trận (1967) Sống một ngày (1967) Xuân thì (1967) Những giọt nắng vàng (1968) Đoàn nữ binh mùa thu (1969) Giải khăn sô cho Huế (1969) đoạt Giải Văn chương Quốc gia Việt Nam Cộng hòa năm 1970[4] (tái bản ở Hoa Kỳ năm 2008) Một mai khi hòa bình (1969) Mưa trên cây sầu đông (1969) Phượng hoàng (1969) Tình ca cho Huế đổ nát (1969) Dạ khúc bên kia phố (1970) Tình ca trong lửa đỏ (1970) Đời ca hát (1971) Lặn về phía mặt trời (1971) Trưa áo trắng (1972) Tòa bin-đing bỏ không (1973) Bước khẽ tới người thương (1974) v.v... Phim Đất khổ do Hà Thúc Cần sản xuất và hoàn tất năm 1973, đã một phần dựa theo cuốn Giải khăn sô cho Huế và Đêm nghe tiếng đại bác, do Nhã Ca viết đối thoại. Tại hải ngoại, bà tiếp tục sáng tác, như: Hồi ký một người mất ngày tháng Đường Tự Do Sài Gòn (2006). Mời các bạn đón đọc Đường Tự Do - Sài Gòn của tác giả Nhã Ca.
Bước Chạy Thanh Xuân - Miura Shion
ĐIỀU TUYỆT VỜI NHẤT CỦA THANH XUÂN LÀ KHÔNG BAO GIỜ BỎ CUỘC! Chúng ta nghĩ rằng chúng ta không thể. Mãi mãi không thể chạm vào vạch đích đó. Như tuổi thanh xuân lỡ mơ mộng và chỉ mơ mộng mà thôi. Không dám thử sức, không dám hết mình. Trong những năm tháng tuổi trẻ ấy, ở khu trọ Chikusei, có 9 chàng trai trẻ tuổi, mang trong mình những trăn trở, những sở thích và tính cách hoàn toàn khác biệt, cùng nhau ngày qua ngày sống một cuộc đời giản đơn, nhạt nhẽo. Ngỡ như tuổi trẻ của họ sẽ trôi qua mà chẳng có gì đáng nhớ. Cho đến khi chàng trai Kakeru như ngọn lửa sáng xuất hiện khiến đóm tàn trong ý chí của Kiyose – người say mê điền kinh và khao khát trở lại đường đua cháy bừng rực rỡ trong phút chốc. Hai người họ, bằng cách nào đó đã khiến 8 chàng trai khác trong khu trọ Chikusei, những người ban đầu vốn không mấy ưa chuyện vận động và chẳng hề có chút kinh nghiệm nào trong bộ môn điền kinh, bỗng nhiên cũng nuôi mộng Hakone - đường đua được cả Nhật Bản dõi theo và bao người mơ ước được đặt chân đến một lần trong đời. Thanh xuân của họ bắt đầu với ngọn lửa đam mê nhen nhóm rồi rực sáng như thế. Những giờ tập đẫm mồ hôi, những đánh đổi trong thói quen sinh hoạt và sở thích, những tranh cãi nảy lửa, một quá trình đầy rẫy khó khăn và thiếu thốn. Nhưng những chàng trai trẻ đầy nhiệt huyết ấy chưa bao giờ từ bỏ, ngược lại ngày một khao khát mãnh liệt hơn để chạm đến vạch đích trên đường đua Hakone. *** “Cậu có biết lời khen tặng quý giá nhất đối với một người chạy trên đường đua là gì không? Nhanh. Không phải, là mạnh mẽ.” Phải rồi, tuổi trẻ cũng giống như đường đua. Sự quý giá nhất không phải nhanh hay chậm, giỏi hay tệ mà là sự mạnh mẽ. Mạnh mẽ đối đầu với thử thách, mạnh mẽ theo đuổi những thứ mình đặt ra, mạnh mẽ vươn đến những ranh giới mà mình nghĩ mình không thể chạm vào. Đó chính là điều tuyệt vời nhất của thanh xuân, những bước chạy không ngừng nghỉ để phá vỡ giới hạn của bản thân. Những bước chạy ấy, có thể sẽ không hoàn hảo, có thể sẽ không phải là nhanh nhất, nhưng quan trọng là họ đã dám vượt lên chính bản thân, dám đánh đổi để thành công, dám mơ ước để đạt đến những ranh giới cao hơn, xa hơn và rực rỡ hơn trong tuổi trẻ của mình! *** Bước chạy thanh xuân - cuốn sách tràn đầy nhiệt huyết dành cho những người trẻ của Miura Shion, tác giả tiểu thuyết xuất sắc của Nhật Bản. Cuốn sách sẽ khiến bạn nhận ra rằng chẳng có giới hạn nhất định nào cho con người. Chỉ cần chúng ta đủ kiên nhẫn, đủ can đảm và đủ tin tưởng vào chính bản thân mình, mọi chuyện nhất định sẽ thành công. *** Đi bộ từ tuyến đường số 8 đến khu vực này mất chừng 20 phút. Không khí ban đêm thật trong lành. Đèn đường trong khu phố đơn điệu chỉ còn sáng vài cây. Xung quanh trở về với vẻ tĩnh lặng. Vừa bước đi trên con đường hẹp một chiều dành cho người đi bộ, Kiyose Haiji vừa ngước nhìn bầu trời đêm. Màn sao ở đây không thể so với quê nhà Shimane của anh được, nhưng rõ ràng Tokyo vẫn có riêng của mình vài đốm sáng yếu ớt. Anh ước gì bây giờ có thể thấy được sao băng. Nhưng nền trời vẫn lẳng lặng chẳng hồi đáp. Gió gợn qua cổ anh. Sắp tới tháng tư rồi mà trời vẫn còn rét căm căm. Làn khói bốc lên từ nhà tắm "Tsurunoyu" bay về phía những mái nhà thấp lè tè. Kiyose không nhìn trời nữa, mà vùi cằm vào cổ chiếc áo khoác kiểu Nhật, chân bước nhanh hơn. Nước nóng của nhà tắm công cộng ở Tokyo nóng thật. Hôm nay kiyose cũng đứng lên ngay sau khi trầm hết cơ thể trong bồn. Bác thợ xây - khách quen của"Tsurunoyu" nhìn thấy cảnh đó liền bật cười: "Vẫn nhát như mọi khi nhỉ, Haiji? Dân Edo chính gốc hồi ấy tắm nước nóng đến nỗi bỏng mông luôn đó." Giọng của bác thợ xây vọng lại từ trần nhà lát gạch men. Chẳng có bóng người nào phía nhà tắm nữ. Có lẽ trong đây chỉ có mỗi kiyose và bác thợ xây. "Cháu lúc nào cũng thắc mắc, không biết có nên hỏi chuyện này không..." "Gì đó?" "Khu này không phải vùng ngoại ô mà là nằm trên đồi bác nhỉ?" Cạo râu xong, kiyose lại bước đến bên bồn. Vừa nhìn vào ánh mắt bác thợ xây anh vừa vặn vòi nước. Nhiệt độ của nước lần này khác với lần trước. Kiyose yên tâm bước chân vào. "Có thể phân biệt đâu là khu ngoại ô đâu là khu trên đồi, xem ra cậu cũng quen với cuộc sống ở đây rồi?" "Cũng được bốn năm rồi mà ạ." "Chikusei thế nào rồi? Năm nay nhắm hết phòng nổi không?" "Còn một người nữa. Cháu cũng chẳng biết phải tính sao." "Thế tức là nổi chứ gì?" "Vâng." Kiyose thật lòng nghĩ thế. Đây là năm cuối cùng rồi. Cơ hội ngàn năm có một sắp sửa cận kề. Chỉ một người nữa thôi. Kiyose theo bác thợ xây bước ra khỏi nhà tắm. Bác dắt xe đạp, còn anh thong dong rảo bước bên cạnh. Nhờ tắm nước nóng nên kiyose hoàn toàn không thấy lạnh. Lúc anh tính cởi áo khoác ra thì đằng sau lưng chợt vang lên tiếng chân chạy, rồi tiếng la hét. Ngoái đầu lại, Kiyose trông thấy con đường hẹp phía trước có hai bóng người. Để thoát khỏi bóng người đàn ông đang hét toáng lên, bóng đen còn lại đang phóng về phía Kiyose và bác thợ xây. Trong chớp mắt, cái bóng ấy đã áp sát hai người bọn họ. Là một thanh niên, vẫn còn quá trẻ, Kiyose vừa nghĩ thế thì cậu ta đã kịp chạy biến. Nhân viên cửa hàng tiện lợi đuổi theo sau với tốc độ chậm hơn nhiều. Cậu thanh niên vừa này tông qua vai Kiyose không có lấy một nhịp thở dốc. Kiyose theo phản xạ định đuổi theo, nhưng bác thợ xây đã lên tiếng càm ràm. "Mấy thằng ăn cắp dạo này kinh thật." Nói mới nhớ, người nhân viên khi nãy cũng có kêu lên "Ăn cắp" thì phải. Nhưng Kiyose lại chẳng để ý đến chuyện đó vì trong phút chốc, anh đã bị thu hút bởi sức lực và đôi chân linh hoạt của cậu thanh niên kia. Kiyose vớ lấy chiếc xe đạp của bác thợ xây rồi leo lên. "Cho cháu mượn." Bỏ lại bác thợ xây với gương mặt ngơ ngác, Kiyose dốc toàn lực đạp xe đuổi theo vết tích cậu thanh niên đã biến mất vào đêm tối. Chính là cậu ta. Mình phải tìm cậu ta cho bằng được. Con tim Kiyose như bị nuốt chửng bởi dòng dung nham đặc quánh. Không có lý nào anh lại để mất dấu cậu ta. Trên con đường hẹp tối tăm này, thứ toả sáng duy nhất chỉ có hình dáng cậu thanh niên nọ. Áo khoác của Kiyose no gió. Cuối cùng thì xe đạp cuối cùng cũng chiếu đến cậu thanh niên kia. Thăng bằng tốt lắm. Kiyose cố gắng nén sự phấn khích để quan sát bước chạy của cậu ta. Lưng thẳng theo trục. Chân từ đầu gối trở xuống duỗi thẳng. Bờ vai thả lỏng, cổ chân nhịp nhàng nhận lấy sung động mỗi lần bàn chân chạm đất. Bước chạy vừa mềm mại vừa đầy uy lực. Có vẻ cậu ta đã phát hiện ra có người đang đuổi theo nên đến chỗ có ánh đèn đường liền ngoảnh đầu lại. Trông thấy khuân mặt nhìn nghiêng ấy, Kiyose không khỏi à lên một tiếng. Là cậu sao? Lòng anh dâng lên một cảm xúc, chẳng biết là niềm vui hay nỗi sợ hãi. Kiyose có linh cảm rằng đây nhất định là khởi đầu cho điều gì đó. Anh tăng tốc, lao lên chạy song song với cậu thanh niên. Như thể bị ai đó xui khiển, Kiyose vuột miệng hỏi: "Cậu thích chạy bộ à?" Cậu thanh niên đột ngột dừng lại rồi nhìn Kiyose với vẻ mặt không phải bối rối, cũng chẳng phải tức giận. Con ngươi đen láy ẩn chứa nhiệt huyết mãnh liệt soi ngược vào anh. Khoảnh khắc đó chính là lúc Kiyose nhận ra: Hạnh phúc và những điều tốt đẹp có lẽ tồn tại trên thế gian này thật. Đối với mình, tất cả những thứ ấy chính là chàng trai này.   Mời các bạn đón đọc Bước Chạy Thanh Xuân của tác giả Miura Shion.