Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ba Gã Say Luận Đàm Thế Sự

Ba gã say luận đàm thế sự ra đời năm 1887, đúng thời điểm đất nước Nhật Bản đang đứng giữa ngã ba đường của lịch sử, loay hoay tìm đường hướng phát triển quốc gia: Phải lựa chọn chế độ chính trị như thế nào? Cần theo đuổi chính sách ngoại giao ra sao để có thể trở thành một cường quốc ở châu Á? Là xác lập chủ nghĩa lý tưởng Tây phương, qua hình tượng chàng Thân sĩ Tây học, sống trong “khuê các tư tưởng”? Là đi theo chủ nghĩa quốc quyền, qua hình tượng vị Hào kiệt, con người của hành động, thao thao bất tuyệt về mưu toan bành trướng Trung Hoa? Hay là chủ nghĩa hiện thực với đường lối trung dung, tùy thời tiến thoái, như hình tượng vị Nam Hải tiên sinh? Được cấu tứ dựa trên ý tưởng một cuộc luận đàm về chính trị giữa ba gã say, Ba gã say luận đàm thế sự đã chỉ ra những ưu nhược điểm của chủ nghĩa phương Tây, chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa quốc quyền, bành trướng, như một lời chỉ dẫn về con đường Nhật Bản nên đi và cũng được xem như điềm báo về sự thịnh suy của đế quốc Nhật Bản trong tương lai. Với văn phong cổ kính, ngôn từ hàm súc, sử dụng nhiều điển tích Đông Tây kim cổ, cuốn sách đã khắc họa một bức tranh đa diện, nhiều màu sắc về lịch sử văn minh thời Minh Trị, về những vấn đề mà giới tinh hoa Nhật Bản đang đau đáu bận tâm. Tác phẩm được coi như một danh tác tiêu biểu cho văn minh thời Duy tân Minh Trị. “Nói rằng nhiều vấn đề trọng đại của Nhật Bản hiện tại như hòa bình, tự do, phòng vệ, tiến bộ - bảo thủ, dân quyền - quốc quyền… được gói gọn trong Ba gã say luận đàm thế sự cũng không phải quá lời.”       --- Kuwabara Takeo *** VÀI NÉT VỀ TÁC PHẨM   Nakae Chōmin tên thật là Tokusuke, sinh ngày 1 tháng Mười một năm 1847 tại Kochi phiên Tosa (nay là tỉnh Kochi). Cha của ông là Tameshichi (sau đổi thành Motosuke, Yasosuke), mẹ là Yanagi và một người em trai tên Kōma. Tổ tiên của nhà Nakae có thể tính lùi về đến ông cố của Tokusuke là Densaku. Không có nhiều thông tin về lai lịch của Densaku, chỉ biết vào năm 1766 ông được tuyển làm Ashigaru của phiên Tosa, được cấp sinh hoạt phí gấp đôi và nhận bổng lộc bốn thạch lúa gạo. Tokusuke là đời thứ tư, sau người ông Katsuji và cha Tameshichi. Cha ông bị ràng buộc ở Edo nên thời thơ ấu được một tay mẹ nuôi dưỡng. Người ta truyền rằng ông vốn trầm tính như con gái và rất thích đọc sách. Năm 1861, cha mất, ông kế tục làm một Ashigaru. Năm sau, ông vào học Bunbukan (Văn Võ quán) khi nơi này vừa được thành lập, rồi nhận được sự chỉ dạy của Hosokawa Junjiro, một nhà Tây dương học nổi tiếng, người này sau làm Viện trưởng Đế quốc học sĩ. Nhờ sự tiến cử của Hosokawa, ông được gửi đến Nagasaki với tư cách là du học sinh của phiên và học tiếng Pháp với Hirai Gijūrō. Hai năm sau, ông lên Edo, theo học bậc thầy Pháp học Murakami Hidetoshi nhưng vì quá phóng đãng nên đã bị khai trừ. Khi Công sứ Léon Roches xuống phía tây vì vấn đề mở cửa Hyogo, ông đi theo với vai trò là tùy viên hỗ trợ phiên dịch. Trước và sau Minh Trị Duy tân, Chōmin không có hành động của một chí sĩ, ông chỉ học tiếng Pháp và nghiên cứu Pháp điển đồng thời khổ luyện âm khúc truyền thống Edo như Nagauta. Sau Duy tân, ông là học trò tại trường tư của Mitsukuri Rinsho, rồi trở thành người đứng đầu trường tư Nisshinsha (Nhật Tân xã) của Fukuchi Gen’ichirō, sau đó nhận giảng dạy tiếng Pháp tại Đại học Nankō (Nam Hiệu, sau là Đại học Tokyo). Năm Minh Trị thứ 4 (1871), ông có nguyện vọng sang Pháp du học, nhờ sự tận tình của Ōkubo Toshimichi, ông vào phục vụ ở Tư pháp sảnh [Bộ Tư pháp], rồi đồng hành cùng Iwakura Tomomi với tư cách là Đại sứ toàn quyền sang Tây dương. Trong thời gian lưu trú tại Pháp, ông từng giao du với Saionji Kinmochi và Komyoji Saburō, học hỏi nhà tư tưởng chính trị cấp tiến Acollas. Năm 1874, ông về nước và mở “Pháp Lan Tây học xá” để dạy Pháp học tại nhà, nhưng đến năm Minh Trị thứ 8 (1875) ông đến nhậm chức Hiệu trưởng trường Ngoại ngữ Tokyo. Chōmin nhận chức hiệu trưởng này chưa được ba tháng đã từ chức, có thuyết cho rằng vì ông chủ trương giáo dục Nho giáo nhưng bị phản đối. Việc này không có chứng cứ xác thực, nhưng có một sự thật là sau này vì yêu thích Hán học ông đã vào trường tư thục của Okamatsu Ōkoku. Genrōin (Nguyên lão viện) được thành lập, ông được thư ký quan của viện mời về làm việc, công việc ở đây cũng nhàn, lại thuận tiện cho việc kinh doanh “Pháp Lan Tây học xá” nên ông chuyển việc đến đó cũng là lẽ tự nhiên. Nhưng ở Genrōin, ông lại xung đột với Mutsu Munemitsu, nên đã từ chức vào năm 1877. Sau đó, ông vẫn nhận công việc phiên dịch do chính phủ ủy thác nhưng không thuộc chế độ phục vụ suốt đời. Có vẻ như khí chất ông không thể chịu được cuộc sống viên chức. Cuộc vận động tự do dân quyền cũng bắt đầu vào năm Chōmin về nước, nhóm người Itagaki Taisuke dâng bản điều trần [kiến bạch thư] thiết lập dân tuyển nghị viện. Chōmin không lập tức tham gia cuộc vận động này, ông phổ cập tư tưởng chủ nghĩa dân chủ, xây dựng cơ sở lý luận cho nó dựa vào Pháp học. Ông thử nghiệm việc dịch Khế ước Xã hội, nhưng rồi sau đó ông cùng Saionji Kinmochi sáng lập tờ báo Tōyō Jiyū shimbun(Đông Dương Tự do tân văn), do Saionji làm chủ tòa soạn, còn bản thân ông thì làm chủ bút. Số đầu tiên ra ngày 18 tháng Ba năm Minh Trị thứ 14 (1881). Đây là lần đầu tiên từ “Tự do” xuất hiện trên mặt báo ở Nhật Bản. Chính phủ lo sợ cuộc vận động tự do dân quyền lan rộng, bèn dựa vào uy quyền của Thiên hoàng đàn áp tờ báo, ép Saionji từ chức, tờ báo không tránh khỏi bị đình bản sau khi đã ra được 34 số. Cuộc vận động dân quyền phát triển đến mức, Iwakura Tomomi cho rằng “dù là thời điểm trước cách mạng Pháp, e cũng không sánh được với tình thế hiện tại”. Thế nhưng phe phản chính phủ cũng có nhiều yếu điểm nên cuộc vận động sớm nảy sinh chia rẽ, một bộ phận phần tử cấp tiến đã tự ý hành động trực tiếp, chẳng hạn như các vụ bạo động ở Gunma, Kabasan; hệ quả tất yếu là trung ương bộ của Đảng Tự do tự giải tán (tháng Mười năm 1884). Trước sự kích động như thế, Chōmin hầu như chưa có hoạt động chính trị nào. Ông phản đối đường lối khởi sự thô bạo mà chỉ muốn đào sâu về lý luận, ông dốc sức dịch sách L’Esthetique của Eugene Veron (1883), Histoire de la Philosophic của Alfred Jules Émile Fouillee (1886) và viết Rigaku Kogen(Lý học câu huyền) và Kakumeizen France Niseki Kiji (Ký sự hai thế kỷ nước Pháp trước cách mạng), quyển Ba gã say luận đàm thế sự này cũng là một trong những thử nghiệm đó. Chúng tôi sẽ bàn về điều này sau. Tuy nhiên, trong thư phòng của Chōmin chắc chắn sẽ không có những nghiên cứu thấu triệt mà chuyên sâu làm thỏa mãn việc tranh luận về lý luận chính trị. Sau khi quyển sách này xuất bản không lâu, nhân dịp Ngoại tướng [Bộ trưởng Bộ Ngoại giao] Inoue Kaoru phản đối kế hoạch Cải chính Điều ước*, cuộc vận động tổng lực của phái tự do dân quyền đã bùng nổ trở lại, đả đảo chính phủ phiên phiệt. Chōmin tham gia tích cực vào cuộc vận động này, đóng vai trò chỉ đạo, chấp bút thượng tấu buộc tội chính phủ thay cho Gotō Shōjirō. Thế nhưng chính phủ lo sợ cuộc vận động này nên đã công bố Điều lệ Bảo an vào cuối năm Minh Trị thứ 20 (1887), liệt ông cùng 570 người nhóm Ozaki Yukio, Hoshi Tooru vào thành phần nguy hiểm và bị trục xuất khỏi Tokyo, ông đành phải dời về Osaka. Nhưng, ở Osaka ông lại lập tức thành lập và kiêm chủ bút tờ Shinonome shimbun (Đông Vân tân văn), ra sức phổ cập tư tưởng dân quyền, ủng hộ việc thiết lập quốc hội. Mạch chính trong chủ trương của Chōmin là đưa việc khâm định hiến pháp vào quốc hội, cho phê duyệt từng hạng mục [điểm duyệt], qua đó có thể thực hiện được chủ trương dân chủ hóa. Nhờ đợt ân xá vào thời điểm công bố Hiến pháp, lệnh trục xuất Chōmin được giải trừ, ông quay lại Tokyo, ra ứng cử Khu số 4 Osaka và trúng cử trong cuộc tuyển cử Chúng nghị viện lần thứ nhất. Trong quốc hội, thành phần chống đối chiếm đa số nhưng không thể gắn kết trong một chiến tuyến thống nhất, bị chia rẽ bởi chính sách mua chuộc của chính phủ, tháng Hai năm Minh Trị thứ 24 (1891), dự toán thỏa hiệp với chính phủ được xác lập do phe Tosa phản bội, Chōmin giận dữ, nộp đơn từ chức “Tiểu sinh sắp tới đây e là phát bệnh do trúng độc rượu, không tiện đi lại, khó tham dự cuộc bỏ phiếu, vậy nay trình đơn này xin phép được từ chức” và rời bỏ quốc hội. Dù rất nhiệt tâm nhưng ông không thành công trong cuộc vận động thực tiễn có tính tổ chức. Đó phần nào cũng do tính cách cá nhân của riêng ông, nhưng cũng là bởi tình hình quá tệ, ông từng mắng những nghị viên nhút nhát là bọn sâu mọt không máu, cuối cùng lại phải ôm mối tuyệt vọng với giới chính trị hủ bại và dời về Hokkaido, ông làm chủ bút tờ Hokumon Shinbo (Bắc Môn tân báo) ở thành phố Otaru. Mùa hè năm Minh Trị thứ 25 (1892), ông rút khỏi tờ Hokumon Shinbo,sau đó bắt đầu sự nghiệp kinh doanh. Xét thấy nếu không có tiền thì cả hoạt động chính trị lẫn sáng tác đều mất tự do và suy thoái, ông quyết định sẽ kiếm tiền trước, ông cai rượu, quyết tâm dấn thân vào nhiều ngành nghề nhưng phần nhiều bị cho là mang tính môi giới. Tất cả liên tục bị thất bại, Chōmin rơi vào cảnh nghèo túng. Trong thời gian kinh doanh ông đã dịch lại Die beiden Grundprobleme der Ethik của Authur Schopenhauer từ tiếng Pháp nhưng trước sự can thiệp của ba nước sau chiến tranh Nhật-Thanh, ông đã phẫn uất thốt lên rằng “đó là vết nhơ lớn hằn sâu vào trang sử của Đế quốc Nhật Bản chúng ta”. Sau đó vào năm Minh Trị thứ 31 (1898), hầu như một mình ông tự sáng lập Kokuminto (Quốc dân đảng), phát hành bản tin Hyaku rei ichi (Bách linh nhất). Tuy nhiên, cương lĩnh đó không phải là chủ nghĩa quốc quyền mà là chủ nghĩa tự do tiến bộ, là yêu sách về tuyển cử phổ thông, miễn phí giáo dục tiểu học, tự do ngôn luận, xuất bản. Năm Minh Trị thứ 33 (1900), ông gia nhập Kokumin Domeikai (Quốc dân Đồng minh hội) của Konoe Atsumaro nhằm tiến vào đại lục, đồng thời khích lệ Risodan (Lý tưởng đoàn) của Kuroiwa Shuroku, Uchimura Kanzo cân nhắc đến việc bãi bỏ quyền sở hữu đất đai và quyền kế thừa tài sản, lại gia nhập “Phổ thông tuyển cử kỳ thành Đồng minh hội” (1901). Qua đó để thấy có không ít hành động trong cuộc đời ông bộc lộ sự mâu thuẫn. Tháng Ba năm Minh Trị thứ 34 (1901), Chōmin đến Osaka vì công việc kinh doanh và ngã bệnh, ông được chẩn đoán là ung thư thực quản, thời gian còn lại chỉ là một năm rưỡi. Sau khi làm phẫu thuật, ông viết lchinen yūhan(Nhất niên hữu bán) và Zoku lchinen yūhan (Tục nhất niên hữu bán) trong cơn đau bệnh. Ngày 13 tháng Mười hai, ông kết thúc cuộc đời 54 năm tại nhà riêng ở quận Koishikawa, thị trấn Takeshima. Mời bạn đón đọc Ba Gã Say Luận Bàn Thế Sự của tác giả Nakae Chōmin & Nguyễn Mạnh Sơn , Võ Vương Ngọc Chân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mê Cung Trong Thư Viện Của Ngài Lemoncello - Chris Grabenstein
Kyle là một trong mười hai đứa trẻ may mắn giành được tấm vé vào tham quan thư viện mới, ngay trước ngày khai trương. Mười hai đứa trẻ được thám hiểm trong thư viện đóng kín với hàng ngàn quyển sách hay, đồ ăn ngon và những trò chơi thú vị. Chỉ khác một điều, sáng hôm sau, cửa thư viện vẫn bị đóng chặt, các cô cậu bé phải dùng trí thông minh của mình để tìm đường thoát ra khỏi thư viện, dựa vào những gợi ý của Ngài Lemoncello. Kyle và những người bạn đã lần mò, tìm manh mối dựa vào những cuốn sách, những câu hỏi và trò chơi để tìm lối thoát bí mật. Người đầu tiên ra khỏi thư viện bằng lối thoát bí mật sẽ nhận được phần thưởng vô cùng quí giá và hấp dẫn từ ngài Lemoncello. Cuốn sách bao gồm những câu đố và trò chơi trí tuệ mà người đọc có thể cùng chơi với các nhân vật trong truyện. Chính điều đó làm gợi lên sự tò mò, thích thú cũng như được đồng hành cùng Kyle và các bạn đi tìm lối thoát bí mật. *** Christopher "Chris" Grabenstein là một tác giả người Mỹ. Ông đã xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình vào năm 2005. Kể từ đó ông đã viết tiểu thuyết cho cả người lớn và trẻ em, sau này thường có cộng tác viên thường xuyên James Patterson. *** Kyle Keeley vừa bị phạt cấm túc một tuần. Chuyện là, cậu bé đi đường tắt bằng cách chui qua bụi hoa hồng ưa thích của mẹ. Những cái gai đâm đau thật đấy, nhưng san bằng những bụi mâm xôi và dẫm nát vài cành dã yên thảo giúp Kyle có được năm giây quý giá nhanh hơn ông anh cả tên Mike của cậu. Cả Kyle và Mike đều biết chính xác phải tìm thứ để chiến thắng trò chơi này ở đâu: ngay trong nhà chứ đâu nữa! Kyle đã tìm thấy quả thông để hoàn thành vòng “ngoài trời”. Và cậu cũng khá chắc rằng Mike đã kiếm được một “bông hoa vàng”. Đang là tháng Sáu, chỗ nào cũng có hoa bồ công anh. “Bỏ cuộc đi, Kyle!” Mike la lớn khi cả hai anh em chạy nước rút vào nhà. “Không cách nào chú thắng được anh đâu.” Mike vượt mặt Kyle và phóng như bay về phía cửa chính, vô hiệu hóa ưu thế năm giây ngắn ngủn của cậu em. Tất nhiên. Mike Keeley, mười bảy tuổi, là một ngôi sao thể thao của trường trung học. Bóng bầu dục, bóng rổ, bóng chày: hễ môn nào có bóng là Mike Keeley đều giỏi tất. Kyle, mười hai tuổi, lại chẳng phải sao sáng trong bất cứ lĩnh vực gì. Một ông anh khác của Kyle là Curtis, mười lăm tuổi, vẫn đang bị kẹt với con chó nhà hàng xóm. Curtis thông minh nhất trong ba anh em. Nhưng ở vòng “ngoài trời”, cu cậu lại bốc phải lá thăm xui xẻo “đồ chơi của con chó nhà hàng xóm”. Bất cứ lá thăm nào có từ “chó” trong đó, về cơ bản đều đồng nghĩa với “Mất Lượt.” Còn lí do gì khiến các cậu bé nhà Keeley chạy quanh khu phố như điên, vơ vét đủ loại ve chai sắt vụn, thì đó hoàn toàn là lỗi do mẹ của ba anh em. Chính bà ấy đã đề xuất, “nếu các ông tướng đang chán thì làm một ván cờ bàn đi.” ... Mời các bạn đón đọc Mê Cung Trong Thư Viện Của Ngài Lemoncello của tác giả Chris Grabenstein.
Phế Tích Tráng Lệ - Jess Walter
Jess Walter viết Phế tích tráng lệ năm ông 31 tuổi. Và khi dòng cuối cùng của quyển sách đầy chất thơ hoàn thành, ngẩng mặt lên, ông đã bước qua tuổi 46. Nếu có điều gì đặc biệt trong cuốn sách best-seller ngốn mất của Walter hết 15 năm này thì đó chính là thời gian, là tuổi trẻ, là những trải nghiệm một khi đã đi qua, người ta cần lắng lại để trải lòng hoặc trút bỏ. Tựa như những nhân vật trong truyện cần thời gian để trưởng thành, để vỗ về những nỗi đau, sai lầm của tuổi trẻ và gạn đục những dục vọng trong lòng. Để khi ngoái lại, có thể mỉm cười nhìn những trầm tích đã gieo. Lấy cảm hứng từ thời kỳ hoàng kim của Hollywood, và bằng sự am hiểu tường tận ngóc ngách của ngành công nghiệp giải trí, Walter rất khéo léo cài cắm câu chuyện của ông cùng những nhân vật có thật khiến tính thuyết phục của nó ở mức tuyệt đối. Sự cuốn hút của quyển sách nằm ở chất thơ và những hình ảnh như một khung hình điện ảnh, đẹp và buồn, rực rỡ và choáng ngợp, u ám và bế tắc,… trong khoảng không gian và thời gian được cài cắm phức điệu, đan xem vô cùng hợp lý. Đáng tiếc phần nửa sau, khi Pasquale chọn được cánh cửa cho anh cũng là lúc, các nhân vật tìm được lối ra cho con đường của họ, tính thơ của tác phẩm giảm nhiệt, nhịp truyện trở nên vội vã như chính hành trình của ông cụ Pasquale trên đất Mỹ trong thời hiện đại. Trên tất cả, Phế tích tráng lệ được viết bằng trải nghiệm và sự song hành trưởng thành của tác giả, nên nó khiến người đọc xúc động và suy ngẫm hơn là tiêu khiển đơn thuần. Nó là một tiếng cười giòn giã nhưng đau đớn và đắng cay vào xã hội hiện đại phồn tạp, vào trí nhớ hời hợt của những kẻ tự cho mình quyền nắm trong tay số phận người khác,… Có rất nhiều chiêm nghiệm từ quyển sách, ở mỗi góc nhìn của nhân vật, thật khó để chọn ra đây một vài câu đáng nhớ. Cách tốt nhất là, hãy thử chiêm nghiệm cùng tác giả. *** Câu chuyện khởi đầu năm 1962 ở một thị trấn nhỏ bên bờ biển nước Ý có tên Porto Vergogna. Ở đó chàng thanh niên tên là Pasquale Tursi sống với bà mẹ tàn tật và cô chị Valeria. Thị trấn chỉ là tập hợp khoảng mấy chục ngôi nhà sơn trắng cùng một tháp chuông bỏ hoang, và trung tâm thương mại duy nhất của nó là khách sạn và quán cà phê do nhà Pasquale làm chủ. Chàng trai trẻ Pasquale Tursi nuôi mộng biến nơi đây thành khu nghỉ dưỡng sầm uất bậc nhất nước Ý. Nhưng người khách nước ngoài duy nhất từng nghỉ lại đây là một cựu binh Mỹ có tên Alvis Bender. Ông ta tới đây mỗi năm hai tuần để viết một cuốn sách mà mãi vẫn chỉ xong được chương mở đầu. Cho đến một ngày, một nàng diễn viên xinh đẹp Dee Morray tới nghỉ tại khách sạn nhà Pasquale. Chàng trai trẻ Pasquale phải lòng cô gái ngay từ cái nhìn đầu tiên. Mọi chuyện thay đổi từ đó. Phế Tích Tráng Lệ là chuyến đi đầy màu sắc qua nước Ý thập niên 60 và Hollywood hiện đại. Câu chuyện diễn tiến trong mấy thập niên với đời sống phức tạp của khoảng mấy chục nhân vật cũng đầy màu sắc. Các câu chuyện được xen kẽ bằng chương mở đầu trong cuốn sách của người cựu binh Mỹ, phần đầu cuốn hồi ký của một nhà làm phim Mỹ bất đắc chí và một vở kịch. Tất cả kết nối lại thành một cuốn tiểu thuyết đẹp đẽ, hài hước, giàu tình cảm.   Mời các bạn đón đọc Phế Tích Tráng Lệ của tác giả Jess Walter.
Hãy Hôn Em Nếu Anh Có Thể - Carly Phillips
Duyên phận luôn được định đoạt và nhiều khi tình yêu tới không chỉ đơn thuần là vô cớ. Ẩn chứa sau một chiếc nhẫn cổ là vô số bí mật đến bất ngờ. Sam Cooper ("Coop") - chàng phóng viên chuyên viết về đề tài hình sự - đã trở thành nạn nhân mới nhất trên báo do mục Blog chàng độc thân đã túm chặt lấy anh và tung hô rằng anh là một mẫu đàn ông lý tưởng mới nhất có thể lấy làm chồng ở thành phố New York. Mọi rắc rối dồn dập kéo tới cùng hàng tá đồ lót khêu gợi do hàng loạt phụ nữ độc thân trong thành phố gửi tặng Coop. Nguyên do của mọi sự đeo đuổi phiền nhiễu này khởi nguồn từ lúc anh có công chặn đứng một vụ cướp tại một cửa hàng trang sức và được nhận phần thưởng "được quyền chọn bất kỳ chiếc nhẫn nào". Thờ ơ với những cô nàng đeo bám, sự chú ý của Coop hoàn toàn dành cho Lexie Davis, người phụ nữ duy nhất trong thành phố tuyên bố rằng không hứng thú gì với tình trạng độc thân của anh. Thế nhưng Lexie lại chú ý vào chiếc nhẫn cổ của Coop - phần thưởng mà anh đã chọn, và lịch sử của nó có thể đáng hổ thẹn với gia đình cô. Khi cuộc điều tra xoay quanh chiếc nhẫn của Coop bắt đầu để hé lộ ra sự thật, liệu Lexie có thể giao trái tim mình và các bí mật của gia đình cô cho anh? *** Bộ Bachelor Blogs gồm có: Hãy Hôn Em Nếu Anh Có Thể Đố Dám Yêu Em ... *** "Carly Phillips" là bút danh mà tiểu thuyết gia Karen Drogin đã sử dụng làm phụ đề cho hơn hai mươi ba cuốn tiểu thuyết lãng mạn đương đại bán chạy nhất mà cô đã viết. Theo CarlyPhillips.com, trang mạng của cô, Drogin là một cựu luật sư không hài lòng với việc hành nghề luật sư của mình. Các tác phẩm của cô là sự hòa trộn tinh tế giữa tình yêu, sự lãng mạn, cảm xúc và giải trí. Carly Phillips luôn là tác giả ăn khách nhất trên New York Times, USA Today, Publisher Weekly bầu chọn. Tác phẩm của cô đã được bán bản quyền cho nhiều nước trên thế giới. ***     Tin nóng hổi! Daily Post rất vui mừng tuyên bố mối quan hệ hợp tác với trang Blog Chàng Độc Thân, sẽ mang đến cho các bạn các tin tức về những người đàn ông mới nổi tiếng nhất, cả ở trên mạng và trên báo chí! Hãy dõi theo những anh chàng độc thân phù hợp nhất để làm chồng của thành phố: từ những người cha nuôi con một mình đến những người lính cứu hỏa cho đến những người cao quý nhất của New York, họ sẽ là những người làm nên sự khác biệt. Bạn có biết người anh hùng của mỗi ngày không? Nếu biết thì hãy bầu cho họ! Anh chàng độc thân nào trở thành tiêu điểm tiếp theo sẽ phụ thuộc vào các bạn!   Mời các bạn đón đọc Hãy Hôn Em Nếu Anh Có Thể của tác giả Carly Phillips.
Vết Nhơ Của Người
Coleman Silk, một giáo sư đại học đáng kính, hẳn đã không bao giờ ngờ được rằng sau gần nửa thế kỷ qua mặt cả thế giới với một bí mật vĩ đại, cuộc đời ông lại bị hủy hoại bắt đầu từ một lời buộc tội ngớ ngẩn và dối trá: tội phân biệt chủng tộc. Vết nhơ của người là một bi kịch lạ thường, một kiệt tác đầy trăn trở về con người bị nghiền nát bởi những nỗi ám ảnh đạo đức và thanh tẩy của kẻ khác. Tràn ngập những hồi tưởng, những đối thoại, những suy nghĩ đẩy cốt truyện xuống hàng hầu như thứ yếu, nhạo báng pha trộn với trắc ẩn, lạnh lùng đặt kế bên cuồng nộ, Vết nhơ của người đã viết về thân phận con người với một sự mãnh liệt có thể khiến người đọc nghẹt thở. Lần theo cuộc đời đáng kinh ngạc của giáo sư Silk, Philip Roth, bằng một bút lực chưa bao giờ thất bại trong việc biến tác phẩm của mình trở thành một trải nghiệm đọc vừa thử thách vừa khoan khoái, đã đặt ra những câu hỏi quyết liệt về những thứ nhãn dán mà xã hội áp đặt lên con người, thậm chí cả về cái ranh giới phân chia thiện-ác mà từ lâu đã hằn sâu trong nhận thức nói chung. *** AI CŨNG BIẾT Chính vào mùa hè năm 1998 ấy mà ông hàng xóm Coleman Silk của tôi - ông này, trước khi nghỉ hưu cách nay hai năm, vốn là giáo sư môn văn học Hy La ở Đại học Athena trong thị trấn suốt hơn hai chục năm sau đó làm chủ tịch hội đồng giảng viên thêm mười sáu năm nữa - tâm sự với tôi rằng, ở tuổi bảy mốt, ông đang dan díu với một cô lao công ba mươi tư tuổi đang làm việc ở trường. Ngoài ra hai lần một tuần cô còn lau dọn trạm bưu điện thị trấn, một căn chòi gỗ nhỏ xám xịt trông cứ như nó từng che chở một gia đình dân ngụ cư tới từ Oklahoma khỏi những cơn bão cát hồi thập niên 1930 và, đứng một mình lẻ loi đối diện trạm xăng và cửa hàng tạp hóa bên kia đường, nó giương cao lá cờ Mỹ tại giao lộ của hai con đường sầm uất nhất cái thị trấn phố núi này. Coleman thấy cô lần đầu tiên khi cô đang lau sàn trạm bưu điện một ngày nọ ông ghé vào, vài phút trước giờ đóng cửa, để nhận thư từ - một phụ nữ gầy, cao, góc cạnh với mái tóc vàng nhuốm bạc cột gọn thành túm đuôi ngựa sau gáy và có nét mặt như tạc, kiểu tạc thô, thường đi liền với những bà vợ lam lũ, sùng đạo đã nếm trải những buổi đầu vất vả của miền New England, mẫu phụ nữ thuộc địa khắc khổ bị khóa chặt trong nền luân lý thống trị thời đó và tuân theo nó. Tên cô là Faunia Farley, và dù những nỗi khốn khổ mà cô phải chịu đựng là gì đi chăng nữa thì cô cũng giấu kín chúng đằng sau cái kiểu mặt xương xương vô hồn như thể nó che chẳng giấu điều gì mà chỉ toát lên một nỗi cô đơn mênh mông. Faunia sống trong một căn phòng tại trại bò sữa địa phương nơi cô phụ việc vắt sữa để trừ tiền thuê trọ. Cô từng theo học trung học trong hai năm. Mùa hè mà Coleman tâm sự với tôi về Faunia Farley và bí mật của họ cũng là mùa hè mà, khá trùng hợp, bí mật của Bill Clinton được hé lộ tới từng chi tiết đáng xấu hổ cuối cùng - từng chi tiết đời thực cuối cùng, sự sống động, giống như sự nhục nhã, ứa ra từ sự cay độc của cái dữ kiện cụ thể. Chúng ta chưa từng có quãng thời gian nào như thế kể từ vụ người ta vớ được ảnh khỏa thân của tân Hoa hậu Mỹ trên một số báo Penthouse cũ, những bức ảnh chụp cô ta tao nhã tạo dáng trong tư thế quỳ và nằm ngửa đã buộc cô thiếu nữ bị ô danh đó phải trả lại vương miện mà tiến bước trở thành một ngôi sao nhạc pop lớn. Năm chín mươi tám ở New England là một mùa hè của hơi ấm và ánh nắng tuyệt vời, còn ở môn bóng chày là một mùa hè của trận chiến huyền thoại giữa một nam thần home run da trắng với một nam thần home run da nâu*, còn trên cả nước Mỹ thì là mùa hè hơi nồng lòng mộ đạo, hơi nồng sự thanh khiết, khi chủ nghĩa khủng bố - vốn đã trở thành mối đe dọa bao trùm đối với an ninh quốc gia - được nối tiếp bằng trò mút c.., và một ông tổng thống trung niên trẻ trung, sung mãn với một nhân viên hăm mốt tuổi trơ tráo, đắm đuối chơi nhau trong Phòng Bầu dục như hai đứa mới lớn trong bãi đậu xe làm sống lại niềm đam mê cộng đồng cổ xưa nhất của nước Mỹ, về mặt lịch sử có lẽ là lạc thú bội bạc và tai hại nhất: sự đê mê của thói cao đạo. Trong quốc hội, trên báo chí, và trên các trang mạng, đám tởm lợm công chính thích gây chú ý, điên cuồng kết tội, lên án, và trừng phạt, hùng hồn lớn tiếng dạy đời khắp nơi: tất cả chìm trong một cơn cuồng loạn có tính toán với cái tinh thần mà Hawthorne (người, hồi thập niên 1860, sống cách chỗ tôi chẳng mấy dặm) đã nhận ra từ buổi đầu non trẻ của đất nước rất lâu về trước, chính là “sự ngược đãi”; tất cả bọn họ đều hăm hở tiến hành những nghi thức thanh tẩy khắc nghiệt sẽ cắt đứt con cu chổng ngược ra khỏi ngành hành pháp, nhờ đó khiến mọi chuyện trở nên thoải mái và an toàn đủ cho cô con gái mười tuổi của Thượng nghị sĩ Lieberman lại có thể ngồi xem ti vi với ông bố xấu hổ của nó. Không, nếu bạn chưa sống qua năm 1998, bạn không hiểu được thói cao đạo nghĩa là gì đâu. William F. Buckley, nhà bình luận cánh hữu được in ở một loạt các báo, viết, “Khi Abelard* làm điều đó, người ta có thể ngăn không cho nó tái diễn,” bóng gió rằng việc làm sai trái của tổng thống - ở chỗ khác Buckley lại gọi đó là “thói dâm dục vô độ” của Clinton - có thể được cứu vãn tốt nhất không phải bằng một biện pháp hiền lành như luận tội mà, tốt hơn là, bằng kiểu trừng phạt thời trung cổ đã được dành cho giáo sĩ Abelard do đám đồng sự thích giương dao của tay bạn đồng tu với Abelard, giáo sĩ Fulbert, thực hiện, vì cái tội lén lút quyến rũ và kết hôn với cháu gái của Fulbert, trinh nữ Héloise. Không như giáo lệnh của Khomeini kết án tử cho Salman Rushdie, ước muốn thiết tha của Buckley mong được thấy đòn trừng phạt bằng thiến hoạn nhằm răn đe này không kèm theo mối lợi tiền bạc cho bất kỳ thủ phạm tương lai nào. Tuy nhiên, nó được thúc đẩy bởi một tinh thần nghiêm nhặt không kém tinh thần của vị đại lão giáo chủ nọ, và nhân danh những lý tưởng không kém phần cao đạo. Đó là mùa hè ở Mỹ khi mà cảm giác buồn nôn trở lại, khi mà trò đùa cợt không ngừng lại, khi mà những suy đoán và đặt giả thuyết này nọ và lối nói cường điệu không ngừng lại, khi mà nghĩa vụ giải thích cho con cái về cuộc sống của người lớn bị gác lại để duy trì trong đầu óc chúng mọi ảo tưởng về cuộc sống người lớn, khi mà sự nhỏ mọn của con người đơn giản là nghiền nát tất cả, khi mà một thứ ma quỷ đã sổng chuồng trong đất nước và, ở cả hai phe, người ta ai nấy đều băn khoăn “Tại sao chúng ta lại điên đến thế?” khi đàn ông cũng như đàn bà, lúc thức dậy vào buổi sáng, khám phá ra rằng hồi đêm, trong một giấc ngủ đã đưa họ đi xa hơn nỗi ghen tị và thù ghét, họ đã mơ tới vẻ trơ tráo của Bill Clinton. Còn tôi thì mơ thấy một biểu ngữ khổng lồ được quấn theo kiểu trào lưu Dada, như một tác phẩm bao gói của Christo*, từ đầu này tới đầu kia của Nhà Trắng và mang dòng chữ MỘT CON NGƯỜI BẰNG XƯƠNG BẰNG THỊT SỐNG Ở ĐÂY. Đó là mùa hè khi mà - lần thứ một tỉ - sự lộn xộn, hổ lốn, hỗn độn đó cho thấy nó còn tinh tế hơn ý thức hệ của kẻ này và hệ đạo lý của kẻ khác. Đó là mùa hè khi mà con cu của một tổng thống hiện diện trong tâm trí của từng người một, và cuộc sống, với tất cả sự bẩn thỉu trơ tráo của nó, một lần nữa làm cả nước Mỹ rối loạn. Đôi khi vào một thứ Bảy, Coleman Silk sẽ gọi điện và mời tôi chạy xe từ chỗ tôi ở phía bên này núi sang chỗ ông sau bữa tối để nghe nhạc, hoặc để chơi bài gin rummy*, một điểm ăn một xu, hoặc ngồi trong phòng khách vài giờ và nhâm nhi ít cognac và giúp ông vượt qua cái mà với ông luôn là buổi tối tồi tệ nhất trong tuần. Đến mùa hè 1998, ông sống một mình trên đó - một mình trong căn nhà cũ lớn lát ván ghép sơn trắng nơi ông đã cùng bà vợ Iris nuôi lớn bốn đứa con - đã được gần hai năm, kể từ khi Iris bị đột quỵ và qua đời đột ngột trong khi ông đang mải chiến đấu với trường đại học về cáo buộc phân biệt chủng tộc do hai sinh viên trong lớp nhắm vào ông. Đến thời điểm đó Coleman đã ở Athena gần hết cuộc đời hàn lâm của mình, một lãng tử thành thị ngọt lịm như mía, cởi mở, sắc sảo, có chút gì đó của một chiến binh, chút gì đó của một nhà điều hành, chứ chẳng có mấy tí của một giáo sư mô phạm kiểu mẫu dạy tiếng Hy Lạp và La tinh (thể hiện qua Câu lạc bộ Hy La Thường đàm mà ông khởi xướng, theo kiểu tinh thần dị giáo, khi còn là một giảng viên trẻ). Khóa học tổng quan đáng nể của ông về văn học Hy Lạp cổ qua bản dịch - được gọi là GHM, viết tắt của Gods (thần linh), Heroes (anh hùng) và Myth (thần thoại) - rất được lòng đám sinh viên chính bởi nhờ tất cả những sự trực tiếp, thẳng thắn và đầy thuyết phục theo kiểu phi hàn lâm trong cách ứng xử của ông. “Các bạn biết văn học châu Âu khởi đầu thế nào không?” ông thường hỏi, sau khi điểm danh ở buổi học đầu tiên của lớp. “Bằng một cuộc cãi cọ. Toàn bộ văn học Âu châu nảy sinh từ một cuộc tranh luận.” Rồi ông cầm cuốn Iliad lên và đọc cho cả lớp nghe những câu thơ mở đầu. “ ‘Hỡi thần thi ca, hãy hát về nỗi uất hận tàn hại của Achilles... Khởi sự nơi họ lần đầu tranh cãi, Agamemnon vua của loài người, và Achilles vĩ đại.’ Và họ tranh cãi nhau về cái gì, hai tâm hồn bạo liệt, dũng mãnh ấy? Nó cũng tầm thường như một trận cãi cọ trong quán rượu. Họ cãi nhau về phụ nữ. Cụ thể là một thiếu nữ. Một thiếu nữ bị tước khỏi cha cô ta. Một thiếu nữ bị bắt cóc trong chiến trận. Mia kouri - cô ta được tả như thế trong cuốn sử thi này. Mia, như trong tiếng Hy Lạp hiện đại, là mạo từ không xác định ‘một’; kouri, tức cô gái, trong tiếng Hy Lạp hiện đại đã chuyển thành kori,có nghĩa là con gái ruột. Lúc này, Agamemnon mê thiếu nữ ấy hơn vợ mình, Clytemnestra. ‘Clytemnestra không đẹp bằng cô ấy,’ ông ta nói, ‘ở khuôn mặt cũng như vóc dáng.’ Điều đó chỉ ra rất rõ tại sao ông ta không muốn từ bỏ thiếu nữ này, phải vậy không? Khi Achilles yêu cầu Agamemnon trả cô gái lại cho cha cô ta để vuốt giận Apollo, vị thần vốn đang vì việc cô gái bị bắt cóc mà nổi đóa lên giết người đến nơi, Agamemnon từ chối: ông ta sẽ chỉ đồng ý nếu Achilles giao cho ông ta cô gái của anh để bù lại. Thế là Achilles bốc hỏa. Achilles bừng bừng sát khí: người đàn ông dễ nổi giận nhất trong số những gã man di dễ nổi khùng mà một nhà văn từng được sung sướng mô tả lại; đặc biệt khi chuyện đó lại liên quan đến uy tín và dục vọng của anh ta, cỗ máy giết người siêu nhạy cảm nhất trong lịch sử chiến tranh. Achilles lừng danh: cảm thấy cô độc và bị ruồng bỏ bởi một sự xúc phạm tới danh dự. Achilles anh hùng vĩ đại, người, bằng sức mạnh cơn thịnh nộ trước sự lăng mạ - sự lăng mạ vì không cứu được cô gái - đã tự cô lập mình, tự đặt mình một cách ngang bướng bên ngoài chính cái xã hội mà anh ta là người bảo vệ đầy vinh quang và sự hiện diện của anh là vô cùng cần thiết. Cuộc cãi cọ ngày ấy, một cuộc cãi cọ hung bạo về một thiếu nữ và thân xác trẻ trung của cô ta cùng những niềm khoái lạc của sự mê đắm tình dục: nó, dù xấu dù tốt, trong cái hành động xúc phạm quyền lợi của dương vật, phẩm giá của dương vật, của nguồn sinh lực sung mãn nơi một ông hoàng chiến binh, chính là cách mà nền văn học hư cấu vĩ đại của châu Âu khởi đầu, và đó là lý do mà hôm nay, sau gần ba ngàn năm, chúng ta sẽ bắt đầu ở câu chuyện của hai bọn họ…” Coleman nằm trong nhóm thiểu số người Do Thái trong đội ngũ giảng dạy ở Athena khi ông được nhận vào làm và có lẽ cũng là một trong những người Do Thái đầu tiên được phép dạy tại khoa văn học Hy La ở bất cứ đâu trên nước Mỹ; một vài năm trước đó, người Do Thái duy nhất của Athena là E. I. Lonoff, nhà văn viết truyện ngắn hầu như đã bị quên lãng và cũng là người mà, từ hồi tôi còn là một tác giả tập sự mới được xuất bản, vẫn còn chật vật và đang hăm hở tìm kiếm sự công nhận của một bậc thầy, tôi đã từng có một chuyến viếng thăm đáng nhớ. Trong suốt những năm tám mươi và lẹm cả vào thập niên chín mươi, Coleman cũng là người Do Thái đầu tiên và duy nhất từng công tác tại Athena trong vai trò chủ tịch hội đồng giảng viên; rồi, vào năm 1995, sau khi từ chức chủ tịch để quay lại sự nghiệp giảng đường, ông quay lại dạy hai lớp trực thuộc chương trình ngôn ngữ và văn chương tích hợp vốn đã nuốt trọn cả khoa văn học cổ điển Hy La và được giáo sư Delphine Roux điều hành. Trong vai trò chủ tịch hội đồng giảng viên, và với sự ủng hộ hết lòng của vị hiệu trưởng mới đầy tham vọng, Coleman đã dẫn dắt trường đại học cổ hủ, tù hãm, Lờ Đờ Trũng Thấp này và, không phải là không mạnh tay nghiền nát, đặt dấu chấm hết cho cái vai trò trang trại giải khuây cho các quý ông của nơi này bằng cách huỵch toẹt khuyến khích những người vô dụng trong số vệ binh già của hội đồng giáo sư tính chuyện về hưu sớm, và tuyển mộ những phó giáo sư trẻ nhiều tham vọng, đồng thời cách mạng hóa chương trình giảng dạy. Hầu như chắc chắn rằng đến lúc ông về hưu, tại bất cứ thời điểm nào mà ông muốn, và nếu không có rắc rối gì, thì hẳn sẽ có một tuyển tập những bài viết được xuất bản để vinh danh ông, hẳn sẽ ra đời một chuỗi Bài giảng Coleman Silk mở cửa cho công chúng, sẽ có một cái ghế trong khoa văn học cổ điển mang tên ông, và có lẽ - xét đến tầm quan trọng của ông đối với việc phục hưng nơi này trong thế kỷ hai mươi - cả tòa nhà dạy các môn khoa học xã hội hoặc thậm chí giảng đường North Hall, công trình trọng điểm của trường, cũng sẽ được đổi tên để vinh danh ông sau khi ông mất. Trong thế giới hàn lâm nhỏ bé này, nơi ông đã sống phần lớn cuộc đời mình, đáng ra ông đã thôi không còn bị ghét bỏ hoặc thậm chí sợ hãi hoặc trở thành chủ đề đàm tiếu, mà thay vào đó là được chính thức xiển dương mãi mãi. Mời bạn đón đọc Vết Nhơ Của Người của tác giả Philip Roth & Phạm Viên Phương(dịch) & Huỳnh Kim Oanh (dịch).