Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Phía Sau Tội Ác

"Cuộc sống lúc tốt đẹp thì rất dễ để hưởng thụ, nhưng giá trị chân thật của một con người lại được đo đếm theo cách người ta hành động khi gặp phải điều bất hạnh trong đời". Trước hôm Hội Trinh Thám tổ chức minigame để thắng cuốn sách mới xuất bản trong loạt sách về Amos Decker, Biển đã bỏ cả ngày tìm hiểu rất kỹ về tác giả David Baldacci, nhờ vậy biết thêm rằng cuốn “Phía sau tội ác” của ông ấy được xuất bản đã rất lâu, giờ trở thành sách cũ hiếm. Với lòng ưa thích nồng nhiệt dành cho truyện của Baldacci, Biển tìm mượn bằng được để đọc. Nhưng sách hay cũng như món ăn ngon, phải dè sẻn, ăn lâu hết để từ từ thấm nhuần cái ngon của nó, nên Biển ngâm cuốn này khá lâu, chờ khi tâm thân không ổn mới lấy ra đọc. “Phía sau tội ác” mở đầu hấp dẫn với cảnh người tù Rufus Harms sau 25 năm bị giam oan uổng trong nhà tù quân đội Fort Jackson thì đã liên hệ với luật sư của mình là Samuel Rider để lén gửi một lá thư đến Tòa án Tối cao Hoa Kỳ. Tiếc thay, xung quanh Rufus Harms có cả mạng lưới kẻ xấu theo dõi, nên khi Michael Fiske – thư ký ở Tòa án Tối cao – tình cờ đọc được lá thư và lái xe vượt cả quãng đường xa đến nhà tù để gặp trực tiếp Rufus, thì đó cũng là chuyến đi cuối cùng trong đời Michael. Sau cái chết không minh bạch của Michael, bạn của anh là Sara Evans – cũng là thư ký Tòa án – cùng với anh trai của Michael là John Fiske và một số người khác thuộc lực lượng hành pháp tiến hành điều tra. Sara và John sớm phát hiện rằng họ đang bị gây rắc rối nghiêm trọng bởi một số kẻ giấu mặt nguy hiểm, và tình hình càng tồi tệ hơn khi viên luật sư Samuel Rider cùng vợ cũng bị sát hại. Sau những cuốn Baldacci mà Biển đã đọc thì Biển thấy cốt truyện của ông thường phức tạp, nhiều tình tiết đan xen, không thiếu bước ngoặt bất ngờ. Nói theo kiểu truyện Tàu thì nhân vật chính thường bị “ngược”, bị đẩy vào tình huống oan uổng, bị kết tội phản bội đồng đội, bị truy nã… Và suốt diễn biến truyện thì họ phải vừa tìm cách chứng minh sự trong sạch của bản thân vừa đối phó bọn xấu, có khi còn phải giải cứu cả một tổ chức hoặc một quốc gia khỏi bị tận diệt. Cuốn nào cốt truyện đơn giản (như cuốn True Blue) thì nhịp truyện lại chậm và buồn ngủ. Vừa đọc đến chương II của “Phía sau tội ác” thì Biển thầm nghĩ cuốn này khá giống truyện của John Grisham, vì bối cảnh là Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, nhân vật chính cũng toàn những người làm trong tòa án như chánh án, thẩm phán, luật sư, thư ký cao cấp của thẩm phán… Tuy cũng có nhiều đoạn Biển đọc lướt (nhất là những đoạn hội thoại hơi dài dòng và không hữu ích lắm đối với việc hiểu cốt truyện) nhưng phải công nhận “Phía sau tội ác” không buồn ngủ như một số truyện của John Grisham (xin lỗi người hâm mộ của John Grisham vì Biển nói truyện của ông buồn ngủ). Ý tưởng của truyện có phần mới lạ, lẽ ra sẽ rất bốc nếu Badacci viết ngắn gọn và kịch tính hơn. Tuy vậy, sau khi lược bỏ những đoạn dài dòng không cần thiết, chỉ tập trung vào cốt truyện thì Biển phải tấm tắc thừa nhận rằng đây là một cuốn trinh thám hay, đáng đọc. Nói đến trinh thám pháp lý thì người đọc sẽ lập tức nghĩ truyện có những cảnh cãi nhau trên tòa. “Phía sau tội ác” không có nhiều cảnh cãi nhau trên tòa nhưng vì hầu hết nhân vật làm việc trong ngành luật nên truyện nêu nhiều vấn đề liên quan đến luật pháp Hoa Kỳ. Biển nghĩ thông điệp mà tác giả David Baldacci muốn gửi gắm trong truyện là con người phải biết dùng luật pháp để đối xử công bằng và nhân văn đối với đồng loại, chứ không phải áp dụng luật khắc khe, cứng nhắc để dồn ép hãm hại người khác hoặc khư khư giữ cách làm sai trái của riêng mình. Truyện cũng đưa vào vấn đề phân biệt chủng tộc – màu da, tình thân và xung đột giữa các thành viên trong gia đình, những sự lựa chọn khó khăn để sống đúng với lương tâm của mình… “Phía sau tội ác” không phải một cuốn trinh thám mì ăn liền để đọc giải trí nhẹ nhàng mà phải đọc chậm rãi, nhớ kỹ tên + mối quan hệ giữa các nhân vật để đọc không bị loạn hoặc nhầm. Phần dịch thuật tốt, trình bày còn thô sơ nhưng rõ ràng dễ đọc. *** David Baldacci sinh ra và lớn lên tại Richmond, Virginia. Ông là người gốc Ý. Sau khi tốt nghiệp trường trung học Henrico, ông nhận bằng cử nhân Đại học Virginia Common Wealth và bằng luật của Đại học Virginia, sau đó ông hành nghề luật chín năm ở Washington, DC. Baldacci bắt đầu viết những câu chuyện khi còn là một đứa trẻ, ông sử dụng máy tính xách tay mà mẹ mua cho mình để ghi lại chúng. Ông đã viết hơn hai thập kỷ, chấp bút viết truyện ngắn và kịch bản phim nhưng không thành công lắm. Trong khi hành nghề luật sư, ông đã chuyển sang viết tiểu thuyết, tốn ba năm để viết Absolute Power, được xuất bản năm 1996, và đó là một cuốn bán chạy nhất lúc đó. Ông đã viết 25 cuốn tiểu thuyết best seller cho người lớn cũng như ba cuốn tiểu thuyết cho trẻ em. Baldacci và vợ ông, Michelle, là người đồng sáng lập của Wish You Well Foundation, trong đó hoạt động để chống nạn mù chữ ở Hoa Kỳ. Baldacci cũng đã tham gia National Multiple Sclerosis Society sau khi em gái của mình, tác giả Sharon Baldacci, được chẩn đoán mắc MS. [MS viết tắt của MULTIPLE SCLEROSIS: bệnh xơ cứng rải rác] Baldacci cư trú ở Vienna, Virginia với vợ và hai đứa con của họ. Tiểu thuyết của Baldacci đã được dịch ra hơn 45 thứ tiếng và bán ở hơn 80 quốc gia. Hơn 110 triệu bản của cuốn sách của ông được in trên toàn thế giới. Tác phẩm: Bộ Sưu Tập Tội Ác - David Baldacci Bí mật Núi sát nhân - David Baldacci Hoa Hồng Máu - David Baldacci Sát Thủ Lạnh Lùng - David Baldacci Truy Tìm Sự Thật - David Baldacci Tay Súng Cuối Cùng - David Baldacci Phía Sau Tội Ác ... *** Ở nhà tù này, cửa sắt thường dày tới hàng insơ(Đơn vị đo chiều dài Anh, bằng 2,54 cm - N.D). Khi mới ra lò ở nhà máy, chúng càng nhẵn nhụi bao nhiêu thì bây giờ càng mang trên mình nhiều những vết lõm ngang dọc bấy nhiêu. Dấu vết va đập của mặt người, của đầu gối, cùi tay, răng cùng những vệt máu khô in hằn khắp trên những bề mặt màu xám. Chúng giống như một hệ thống chữ tượng hình riêng của nhà tù, thể hiện nỗi đau đớn, sự sợ hãi và cái chết, tồn tại vĩnh cửu nơi đây, ít nhất cho tới khi những tấm sắt mới được mang tới thay thế. Mỗi cánh cửa đều có một ô vuông mở ra ngang tầm mắt. Trong những ca trực của mình, lính canh tù thường ghé mắt qua cái khoảng trống bé xíu đó rồi rọi đèn sáng chói vào những con vật hình người bên trong. Chẳng hề báo trước, những thanh dùi cui bất cứ lúc nào cũng có thể thình lình nện mạnh, kèm theo không bao giờ thiếu tiếng lách cách của súng lục. Giỏi chịu đựng là những tù nhân già đời, những kẻ dù có chú ý lắng nghe nhưng vẫn tiếp tục giả tảng nhìn xuống nền nhà, trông như đang trầm tư suy ngẫm chẳng về bất cứ điều gì bằng một thái độ bất chấp đầy tế nhị. Lũ "lính mới" vẫn luôn căng thẳng mỗi khi tiếng động hoặc ánh sáng đột ngột ập tới, một số kẻ còn són nước tiểu xuống chiếc quần cotton và đứng đó nhìn dòng nước chầm chậm thấm tới đôi giày bè bè màu đen bên dưới. Nhưng rồi tất cả đều sẽ qua, tất cả đều phải dần quen với tiếng sập mạnh của những ô cửa đáng nguyền rủa, tất cả đều học được cách kìm nén những giọt nước mắt trẻ con cùng những cơn đau quặn ở bụng. Nếu như còn muốn sống sót. Khi đêm xuống, bóng tối bao trùm khắp các xà lim, không quên tạo nên những hình thù kỳ quặc nhảy nhót trên các bức tường. Đêm nay đang có một cơn bão với sấm sét kèm theo mưa lớn trong vùng. Qua những ô cửa sổ nhỏ làm bằng kính plêxi, mỗi tia chớp chói sáng nhào xuống từ bầu trời lại rạch vỡ màn đêm trong xà lim thành muôn vàn mảnh sáng. Đi cùng với mỗi tiếng sấm, trên những bức tường đối diện lại loé lên hình ảnh phản chiếu của mạng dây kim loại nhằng nhịt hình tổ ong giăng kín phía ngoài tất cả các ô cửasổ. Trong cái ánh sáng chập chờn ấy, khuôn mặt một người đàn ông nổi lên trên nền tối như một mũi thuyền đột ngột rẽ đôi bề mặt nước. Không giống tù nhân trong các xà lim khác, anh luôn ngồi một mình, suy ngẫm một mình và không nhìn đến một ai. Các tù nhân khác khiếp sợ anh. Cả lính gác ngục cũng vậy, cho dù họ được trang bị vũ khí tận răng, vì anh là một con người có vẻ ngoài đầy hăm doạ. Khi anh đi qua những tù nhân hung đữ và chai cứng lì lợm nhất, tất cả đều phải nhanh chóng cụp mắt nhìn đi nơi khác. Tên anh là Rufus Harms, nổi danh ở nhà tù quân đội Fort Jackson này như một kẻ huỷ diệt, sẵn sàng nghiền nát bất cứ kẻ nào tấn công mình. Harms không bao giờ tấn công trước, nhưng luôn luôn là người kết thúc. Hai mươi lăm năm giam cầm trong tù để lại nhiều dấu ấn trên cơ thể anh. Giống như những vòng tuổi trên thân cây, những vết cào rách trên da, những chỗ gãy xương còn chưa lành hẳn như một cuốn niên giám minh chứng cho thời gian bị cầm tù của Harms nơi đây. Nhưng những tổn thương tồi tệ hơn thế lại chính là những ký ức, suy nghĩ, tình yêu, lòng hận thù, nỗi sợ hãi nằm sâu trong tâm trí. Tất cả đều nhơ nhuốc và thù địch với anh. Mạnh hơn tất cả, ký ức chính là khối u nhọt đau đớn nhất ngày đêm thúc vào từng thớ thịt trong Harms. Mặc dù vậy, đôi cánh tay dài đầy sẹo cùng đôi vai đồ sộ trong cái thân hình to lớn của Harms vẫn chứng tỏ sự tồn tại thực sự của một sức mạnh vững chắc. Ngay chỗ thắt lưng to lớn cũng đã đủ hứa hẹn một năng lượng khác thường trong anh. Harms vẫn như một cây sồi đứng nghiêng một phía, vươn lên mạnh mẽ với những rễ cây mọc chồi lên khỏi mặt đất, bất chấp nhiều cành lá bên trên đã hoặc đang chết. Con người anh là tổng hợp của những đặc tính trái nghịch nhau: một người đàn ông lịch thiệp, biết tôn trọng người khác, biết trung thành với Chúa và một kẻ giết người nhẫn tâm. Cũng vì thế mà lính gác ngục cùng đám tù nhân không dám dính vào Harms và anh vẫn từng bằng lòng với điều đó. Cho tới ngày hôm nay ! Anh trai anh đã mang tới một điều gì đó cho anh. Một gói vàng, một làn sóng hy vọng. Một con đường thoát khỏi nơi này. Một luồng ánh sáng loé lên làm lộ ra cặp mắt đỏ ngầu như đang chảy máu nhưng cũng không che giấu nổi những giọt nước mắt đang chảy dài trên khuôn mặt nặng trĩu và u ám của anh. Harms vuốt phẳng mảnh giấy khi bóng tối bao trùm trở lại, cố gắng không gây ra tiếng động nào vì những tiếng sột soạt sẽ chẳng khác gì lời mời chào lính gác ngục tới dò la tìm kiếm. Trời đã tối được vài giờ. Harms không thể đảo ngược được điều đó nhưng anh cũng đã kịp vừa đọc hết bức thư vừa nuốt lấy từng âm tiết. Mỗi từ ngữ như một cơn ớn lạnh cắt vào da thịt khiến anh phải rùng mình. Huy hiệu của Quân đội Hoa Kỳ in đậm nét ngay góc trên của tờ giấy. Harms quá quen với biểu tượng này vì đó là người chủ, người cai quản trại tù đối với anh đã gần ba mươi năm nay. Mời các bạn đón đọc Phía Sau Tội Ác của tác giả David Baldacci.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Phái Viên Mật - Graham Greene
Đây không phải là cuốn trinh thám dạng "giải trí", không gay cấn, hồi hộp...mà nặng nề, ám ảnh, day dứt, phiền muộn. *** Graham Henry Greene (2 tháng 10, 1904 - 3 tháng 4, 1991) là tiểu thuyết gia người Anh. Ông sinh tại Berkhamsted, Hertfordshire, Anh quốc, là con của một hiệu trưởng, và theo học Đại học Oxford. Ông làm việc cho tờ báo London Times trong giai đoạn 1926-1929 (từng làm tổng biên tập) rồi hành nghề ký giả tự do. Năm 1935, ông nhận chân điểm phim cho tờ Spectator, và đến 1940 nhận chân chủ bút văn học. Trong thời gian 1942-1943, ông phục vụ Bộ Ngoại giao Anh ở miền đông châu Phi. Sau Thế chiến thứ Hai (1939-1945), ông đi đến nhiều nơi. Ông viết nhiều, là một trong các tác giả tiêu biểu của văn học Anh thế kỷ XX. Tác phẩm đầu của ông được xuất bản năm 1925. Graham Greene khởi đầu sự nghiệp văn chương với những sách thuộc loại “giải trí” vì thuộc thể loại hành động, như truyện gián điệp. Dần dà, ông mới chuyển qua thể loại “tiểu thuyết,” nổi tiếng nhất là The quiet American (Người Mỹ trầm lặng - 1955), gần đây được dựng thành phim hợp tác với điện ảnh Việt Nam (15 tiểu thuyết của ông đã được dựng thành phim). Ông cũng viết một kịch bản dành riêng cho phim truyện, và một số tác phẩm cho trẻ em. Graham Greene có xu hướng viết về những đấu tranh tâm linh trong một thế giới đang mục rữa. Tác phẩm của ông có đặc tính đi vào chi tiết sống động, và lấy bối cảnh đa dạng ở nhiều nơi (Mexico, châu Phi, Haiti, Việt Nam), miêu tả nhiều nhân vật sống dưới những áp lực khác nhau về xã hội, chính trị hoặc tâm lý. Tác phẩm cuối cùng, A world of my own: A dream diary (1994), được viết trong những tháng cuối cùng trong cuộc đời của tác giả, có tính nửa hư cấu nửa tự thuật dựa trên 800 trang tác giả ghi lại qua 24 năm.   Mời các bạn đón đọc Phái Viên Mật của tác giả Graham Greene.
Ngôi Nhà Số 12 - John Milne
Nancy bốn mươi sáu tuổi, một người phụ nữ trầm lặng, cô đơn, sống cô độc trong ngôi nhà và mớ tài sản do cha mẹ cô để lại. Chẳng có người bạn nào bên cạnh, Nancy đến Eastbourne để nghỉ dưỡng và kiếm bạn mới. Và cô đã gặp được Henry John, xấp xỉ ngũ tuần, góa vợ và đang sống cùng người em Isobel Jones trong một thị trấn nhỏ gần London. Cuộc gặp gỡ với Henry đã khiến Nancy nghĩ rằng từ nay cô sẽ không bao giờ phải cô đơn nữa. Nhưng Nancy đâu ngờ rằng, sau hôn lễ lặng lẽ, một cuộc đời bi đát hơn đang chờ đợi cô trong ngôi nhà mang số 12 đại lộ Rừng Sồi... Tình tiết nhanh, ngắn gọn, John Milne một lần nữa mang đến độc giả một bí ẩn mới đậm chất John Milne như đã từng gặp trong các tác phẩm như Con mèo đen, Đường hầm, Oliver Twist,... Liệu văn phòng thám tử Terry Mason và những người bạn của mình có phát hiện ra được bí mật đen tối trong ngôi nhà số 12? Liệu Nancy có thoát khỏi căn nhà u ám đó trước khi quá muộn hay chịu nằm chờ chết trong tuyệt vọng? Tất cả còn chờ các bạn độc giả cùng khám phá. *** Những nhân vật trong truyện Nancy Robert là một thiếu phụ bốn mươi tuổi. Cô ta đã sống cùng gia đình nhiều năm ở Ấn Độ. Đến năm 1970, gia đình cô chuyển sang nước Anh sinh sống. Cha mẹ cô giờ đây đã chết. Nancy trở thành một người phụ nữ trầm lặng và cô đơn. Henry John xấp xỉ tuổi ngũ tuần và góa vợ. Vợ hắn đã mất một năm trước đây. Isobel Jones trạc tuổi Nancy. Cô ta sống với anh trai mình là Henry John trong một thị trấn nhỏ gần London. Terry Mason là một người làm công tác văn phòng nhưng anh ta không thích công việc của mình. Anh ta luôn muốn trở thành thám tử. Một ngày nọ, Terry được hưởng một số tiền từ di chúc của người cậu quá cố, và giờ đây Terry Mason đã lập một văn phòng thám tử tư. Sheila Williams là bạn của Terry Mason trong nhiều năm. Cô ta làm việc cho một văn phòng môi giới bất động sản. Bill Evans là một người giao sữa. Anh ta lái một chiếc xe chở sữa đi đến các căn hộ để giao sữa vào mỗi sáng sớm. Tom Matthews là một cậu bé bán báo mười ba tuổi. Cậu ta cũng giao báo đến các hộ trong khu phố vào mỗi sáng sớm. Bob Wilkinson là một người bạn của Terry. Anh ta làm việc tại Sở Xã Hội. Gordon Burgess là bạn của bạn Terry. Anh ta làm việc tại Tòa Thị Chính.   Mời các bạn đón đọc Ngôi Nhà Số 12 của tác giả John Milne.
Đời Tổng Thống K. Thứ Tư - Mario Puzo
Bạn đọc Việt Nam đã từng làm quen với Mario Puzo qua các tác phẩm Bố già, Sicily miền đất dữ. Đời tổng thống K. thứ tư là tác phẩm mới nhất của ông. Đời tổng thống K. thứ tư là một tác phẩm văn học hư cấu, viết về tấn bi kịch trong đời tư của một Tổng Thống Hoa Kỳ... Vừa phát hành, tác phẩm đã được báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng ở Hoa Kỳ hết lời ca ngợi và đươợ in ở nhiều nước với nhiều thứ tiếng khác nhau. Bản dịch này, chúng tôi dịch theo bản gốc do Bantam Books tái bản năm 1992 và đồng thời in, phát hành tại Hoa Kỳ và Canada. Tác phẩm mới nhất của Mario Puzo, người đã “sinh” ra từ BỐ GIÀ đến SICILY MIỀN ĐẤT DỮ... ĐỜI TỔNG THỐNG K. THỨ TƯ, tuy có dựa vào một vài sự kiện có thật, có mang dáng dấp của một vài nhân vật có thật, nhưng như chính tác giả tuyên bố, nó vẫn là một tác phẩm hư cấu, vẫn là một tiểu thuyết văn học trăm phần trăm. Nó VIẾT VỀ TẤN BI KỊCH TRONG ĐỜI RIÊNG CỦA MỘT TỔNG THỐNG MỸ. Và cũng như hầu hết các tác phẩm của MARIO PUZO, vừa ra đời năm 1992, ĐỜI TỔNG THỐNG K. THỨ TƯ đã được các phương tiện thông tin đại chúng phương Tây chào đón rầm rộ như một sự kiện văn học trọng đại nhất trong năm. *** Oliver Oliphant đã tròn trăm tuổi và tâm trí vẫn sáng trong như tiếng chuông. Thật bất hạnh cho lão! Đấy là một tâm trí sáng trong, còn tinh nhạy tới mức khi phá bỏ rất nhiều phép tắc đạo lý, nó tẩy sạch trơn lương tâm lão. Một tâm trí xảo quyệt tới mức Oliver Opliphant chưa lần nào bị vấp những cái bẫy hầu như khó tránh khỏi trong cuộc sống hàng ngày, lão chưa hề lấy vợ, chưa từng là một ứng cử viên giữ chức vụ mang màu sắc chính trị và chưa hề có người bạn tin tưởng tuyệt đối. Oliver Opliphant, người giàu có nhất Hoa Kỳ và có lẽ là công dân ẩn dật có uy quyền nhất, đang đón đợi Christian Klee, con trai đỡ đầu của lão, chưởng lý Tối cao pháp viện Hoa Kỳ, tại dinh cơ đồ sộ có đội vệ sĩ tuyển lựa kỹ canh gác cẩn mật chỉ nằm cách Nhà trắng mười dặm. Sức quyến rũ của Oliphant không thua kém gì sự tài giỏi của lão: quyền lực của lão dựa vào cả hai điểm này. Tuy đã tròn trăm tuổi, các vĩ nhân tin tưởng khả năng phân tích của lão lũ lượt kéo tới lắng nghe lời khuyên bảo của Oliphant đông đến nỗi lão được mệnh danh là “Oracle” (1). Với tư cách cố vấn Tổng thống, Oracle đã dự đoán trước các cuộc khủng hoảng về kinh tế, các vụ sụp bể ở Wall Street, đồng đô la mất giá, cuộc tháo chạy của tư bản nước ngoài, những mức tăng vọt không thể tưởng tượng nổi của giá dầu. Lão dã sự đoán trước những bước thăng trầm về chính trị ở Liên Xô, những đường lối bất ngờ của các đối thủ trong Đảng Dân chủ và Cộng hoà. Nhưng cái chính là lão đã tích luỹ được mười tỷ đô la. Lời khuyên của một người giàu nứt đố đổ vách như vậy, thậm chí dù sai trái, cũng đều như vàng ngọc là lẽ tự nhiên. Nhưng Oracle thường dự đoán gần đúng. Bây giờ, vào Ngày Thứ Sáu Thánh Thiện này, Oracle đang bận tâm tới mỗi một điều: tổ chức lễ sinh nhật mừng ngày một trăm năm có mặt trên Trái đất này của lão. Buổi lễ sẽ được tổ chức vào Chủ Nhật Lễ Phục Sinh tại Rose Garden trong Nhà trắng, đích thân Tổng thống Hoa Kỳ là Francis Xavier Kennedy chủ trì lễ tiệc... Tâm trạng phấn chấn vui mừng trước một việc thu hút sự chú ý của mọi người là một sự phù hoa chấp nhận được đối với Oracle. Thế giới lại nhớ tới lão trong giây phút ngắn ngủi. Lão buồn rầu nghĩ bụng, có lẽ đây là sự xuất hiện cuối cùng của lão trên vũ đài. Tại Rome, vào Ngày Thứ Sáu Thánh Thiện, bảy tên khủng bố đã hoàn tất công việc chuẩn bị vụ ám sát Giáo hoàng. Bọn chúng gồm bốn gã đàn ông và ba phụ nữ, chúng tin rằng chúng là những kẻ giải thoát cho nhân loại. Chúng tự mệnh danh là Đức Chúa của Bạo Lực. Trưởng nhóm đặc biệt là một tên thanh niên người Italia dày dặn kỹ thuật khủng bố. Mật danh của hắn khi tham gia chiến dịch đặc biệt là Romeo: cái tên gọi này gây hào hứng cho tính châm biếm trẻ trung của hắn và nó thật gợi cảm mơn dịu tình yêu đầy trí tuệ đối với loài người. Chiều tối Ngày Thứ Sáu Thánh Thiện, Romeo đã nằm nghỉ trên chiếc giường cũ kỹ trải khăn hoen ố trong căn nhà an toàn do International One Hundred bố trí. Miệng ngậm thuốc lá, lòng bồn chồn một nỗi lo ám ảnh suốt bao ngày đêm, hắn đọc cuốn anh em nhà Karamazov loại in phổ thông bán rẻ. Cơ bắp chân hắn bị chuột rút vì căng thẳng, có lẽ vì sợ hãi, nhưng chẳng sao. Thường thì rồi đâu sẽ vào đấy cả. Thế nhưng nhiệm vụ lần này thật đặc biệt, thật phức tạp, kéo theo bao nguy hiểm cho thể xác và tinh thần trong lần thi hành nhiệm vụ này, hắn thực sự là Đức Chúa của Bạo Lực, một cái tên nghe đích thực Thiên chúa giáo nên mỗi khi nhớ tới nó hắn lại phá lên cười. Romeo là con trai của gia đình Armando Giangi một gia đình cao sang giàu có. Bố mẹ hắn muốn con trai trở thành một người thuần tính, giàu sang, ngoan đạo, nhưng những ước muốn đó trái ngược hắn bản chất khổ hạnh của hắn nên đến năm Romeo mười sáu tuổi, hắn đã khước từ mọi của cải vật chất và không chịu đi lễ nhà thờ. Và bây giờ, vào năm hai mươi ba tuổi, chẳng hiểu sao hắn lại nảy ra cái ý nổi loạn ghê gớm là ám sát Giáo hoàng? Hắn bị một sự mê tín kinh hãi luôn ám ảnh. Lúc còn nhỏ, một hồng y giáo chủ mà hắn căm ghét đã làm lễ kiên tín cho hắn. Romeo thường bị ám ảnh cái mũ màu đỏ báo điềm gở của vị Hồng y Giáo chủ nọ rất giống màu lửa hun ở dưới địa ngục. Do đó, hình ảnh lửa hun nơi địa ngục ấy cứ khắc sâu dần trong tâm trí hắn theo từng buổi đi lễ, Romeo tự chuẩn bị cho bản thân để gây một tội ác khủng khiếp làm hàng ngàn người sẽ phải nguyền rủa tên tuổi hắn, rồi người ta sẽ biết rõ tên thật của hắn. Hắn sẽ bị bắt. Hắn đã trù tính như vậy. Nhưng lại vào dúng lúc hắn, Romeo, được tôn sùng là vị anh hùng đã ra tay cứu giúp làm thay đổi trật tự xã hội tàn ác hiện đang tồn tại. Những điều bỉ ổi kéo dài suốt trăm năm qua sắp được tẩy rửa sạch tinh. Nhưng nếu ngược lại, Romeo mỉm cười thầm nghĩ. Hàng thế kỷ trước đây, vị Giáo Hoàng đầu tiên được khoác cái tên “Innocent” (2) đã ban bố sắc lệnh cho phép tra tấn hành tội và ra rả truyền bá niềm tin thực sự và cứu rỗi những linh hồn dị giáo. Nhà thờ sắp phong thánh cho vị Giáo chủ mà Romeo sẽ giết, điều đó càng khơi gợi tính châm biếm trẻ trung của hắn. Hắn sẽ dựng lên một vị thánh mới. Hắn vô cùng căm ghét họ, tất cả các vị giáo chủ đó. Những vị Innocent IV, Giáo chủ Pius, Giáo chủ Bennedid, ôi, quá nhiều các vị thánh, các vị này cóp nhặt của cải, các vị này đàn áp niềm tin thực sự của con người được tự do lựa chọn, các vị này dùng phép thuật ngu dân và lời lăng nhục gay gắt gây khủng hoảng niềm tin để khoe trương tài cán che giấu những nỗi bất hạnh trên đời. Hắn, Romeo, một trong số Một Trăm Đầu Tiên của Đức Chúa của Bạo Lực sẽ vạch trần cái trò ma thuật thô bạo ấy. Một Trăm Đầu Tiên này được gọi một cách thông tục là bọn khủng bố, toả ra khắp các nước Nhật Bản, Đức, Italia,Tây Ban Nha... Kể cũng lạ là không hề thấy một tên nào trong số Một Trăm Đầu Tiên xuất hiện ở Hoa Kỳ. Tại cái đất nước dân chủ này, trong chiếc nôi của tự do này chỉ toàn thấy những nhà cách mạng trí thức hễ thấy máu đổ là mặt mày tái mét. Như vậy biết kiếm đâu ra kẻ đánh bom các toà cao ốc đã xua hết mọi người rời ra ngoài, biết kiếm đâu ra kẻ cho rằng thông dâm công khai ngay tại trên bậc thềm cửa nhà là một hành động chống đối mang tính duy tâm. Chúng thật đáng khinh. Do đó, không một tên người Hoa Kỳ nào dám ra nhập vào nhóm Một Trăm Đầu Tiên là điều chẳng lấy gì phải ngạc nhiên. Romeo tạm bứt khỏi dòng suy nghĩ mơ mộng. Hắn chẳng rõ quái quỷ thế nào mà lại phải là một trăm. Có thể năm chục hoặc sáu chục cũng được chứ sao, đây chẳng qua chỉ là một con số tượng trưng. Nhưng, những điều tượng trưng như vậy mới tập hợp được quần chúng và lựa chọn ra được những người thích hợp. Điều duy nhất, hắn, Romeo, thực sự hiểu rõ: hắn là một trong số Một Trăm Đầu Tiên, cũng như Yabril, bạn và kẻ sẽ hỗ trợ hắn. Một trong số cơ man nhà thờ ở Rome đang kéo chuông. Gần sáu giờ tối Ngày Thứ Sáu Thánh thiện... Một tiếng nữa Yabril sẽ tới để xem xét, kiểm tra lại toàn bộ các bước trong chiến dịch phức tạp này. Kẻ giết Giáo hoàng có thể sẽ là kẻ đi một nước cờ rất vẻ vang, nên cả một loạt hành động phiêu lưu trào tới kích thích cái đầu lãng mạn của Romeo. Yabril là tên đàn ông duy nhất không hề run sợ Romeo, cả thể xác lẫn tinh thần. Gã biết rõ những trò gian dối của các nhà cầm quyền, những bộ mặt đạo đức giả của các nhà chức trách do luật pháp dựng lên, những mối nguy hiểm do tính lạc quan của những kẻ cuồng tín gây nên, những sơ suất bất ngờ về niềm tin thậm chí cả ở những tên khủng bố mù quáng nhất. Nhưng điều nổi bật nhất của Yabril thể hiện rõ ở điểm gã là một tài năng hiếm có trong cuộc chiến tranh cách mạng. Gã coi khinh lòng nhân từ tầm thường và tình thương hại ấu trĩ gây mủi lòng người. Yabril chỉ có một mục tiêu duy nhất: giải phóng tương lai. Do đó Yabril tàn nhẫn hơn Romeo nhiều. Romeo giết hại người dân vô tội, bất hiếu với bố mẹ và phản bội bè bạn, giết viên luật sư đã từng chở che bảo vệ hắn. Nhưng có lần Yabril bảo hắn: “Nếu mày không dám liệng một trái bom vào vườn trẻ thì mày chưa phải là một kẻ khủng bố thực sự”. Romeo đã đáp: - Cái đó thì tao chịu. Nhưng Romeo lại có thể giết chết một vị Giáo hoàng. ... Mời các bạn đón đọc Đời Tổng Thống K. Thứ Tư của tác giả Mario Puzo.
Tay Lái Súng Đa Cảm - Hugh Laurie
Nhân vật chính trong Tay lái súng đa cảm là viên quân nhân về hưu Thomas Lang. Lang có một cuộc sống không mấy dư dả ở Luân Đôn với nguồn thu nhập chính từ công việc vệ sĩ, lính đánh thuê... dựa vào những kỹ năng cũng như các mối quan hệ anh ta có được trong thời gian tại ngũ. Khi ở Amsterdam, Lang bất ngờ được một người đàn ông giấu mặt thuê để theo dõi tay doanh nhân Alexander Woolf. Trong quá trình làm nhiệm vụ, Lang phát hiện ra chính mình lại là đối tượng bị theo dõi bởi cả Bộ Quốc Phòng và Cơ quan Tình báo trung ương - những người đồng thời đang điều tra Woolf vì hành vi buôn lậu ma túy ở quy mô quốc tế. Lang đã cố gắng tìm cách tiếp cận kẻ lạ mặt đã thuê mình theo dõi Woolf để làm rõ mọi chuyện, nhưng thực không ngờ rằng người đàn ông ấy lại chính là Woolf, và hắn ta cùng với con gái hiện đang có mặt tại Luân Đôn. Theo đó, một sự thật đáng sợ được vạch trần: tất cả mọi việc xảy đến với Lang đều nằm trong kế hoạch tinh vi của Woolf, và đằng sau đó còn cả một âm mưu khủng khiếp đang chờ Lang đối mặt... *** Tác giả Hugh Laurie (sinh 1959) là diễn viên, nhạc sĩ, nhà văn nổi tiếng người Anh, hai lần đoạt giải Quả Cầu Vàng và sáu lần được đề cử giải Emmy. Năm 2011 ông được sách kỷ lục Guinness ghi nhận là diễn viên truyền hình được trả thù lao cao nhất, 250.000 bảng Anh một tập trong bộ phim nhiều tập House. Mặc dù văn chương không phải là “nghề tay phải” của Laurie, song Tay lái súng đa cảm (The Gun Seller), tiểu thuyết đầu tay (cũng là tiểu thuyết duy nhất cho đến nay) của ông, lập tức trở nên nổi tiếng và được tái bản nhiều lần. *** Nhận định “Một tiểu thuyết thriller hạng nhất… một cỗ máy giải trí tuyệt diệu vô song” - The Plain Dealer (Cleveland) “Một cuốn tiểu thuyết rất đỗi thông minh tinh tế… tươi mới và lôi cuốn không cưỡng được.” - Christopher Buckley, The New York Times Book Review *** Thử hình dung anh phải bẻ gãy tay ai đó. Phải hay trái không quan trọng. Quan trọng là phải bẻ, bởi vì nếu không bẻ... ờ thì thực ra cũng chẳng vấn đề gì. Cứ cho là nếu anh không bẻ thì sẽ có hậu quả xấu đi. Vậy câu hỏi của tôi là: anh sẽ bẻ thật nhanh - rắc, ối chà, xin lỗi, để tôi giúp anh với cái xương gãy ngay tức thì kia - hay anh sẽ nhẩn nha trong vòng tám phút, thi thoảng mới mạnh tay lên một tí, cho tới khi tất cả những hoa cà hoa cải, những nóng và lạnh quyện vào nhau khó chịu đến vô cùng? Đúng vậy. Tất nhiên rồi. Lựa chọn đúng đắn, lựa chọn duy nhất hẳn là làm cho xong đi càng nhanh càng tốt. Bẻ cái tay, nốc vài ngụm rượu, và lại trở thành công dân tốt. Chẳng thể có câu trả lời nào khác. Trừ khi. Trừ khi, trừ khi, trừ khi. Nếu như anh căm ghét cái kẻ bị bẻ tay kia thì sao? Ý tôi là thực sự ghét hắn ta, vô cùng ghét hắn ta. Đó chính là điều mà lúc này tôi phải tính tới. Tôi nói “lúc này”, có nghĩa là khi đó, là cái khoảnh khắc mà tôi đang miêu tả; cái khoảnh khắc nhỏ, nhỏ khốn kiếp ấy, trước khi cổ tay tôi bị kéo quặt tới gáy và xương cánh tay trái tôi gãy ra ít nhất thành hai đoạn lủng lẳng, rất có khả năng là nhiều hơn. Cái tay mà chúng ta vừa nói đến, anh thấy đó, là tay tôi. Nó không phải là một cánh tay trừu tượng, triết học. Những xương đó, da đó, những lông tay, rồi cả cái sẹo nhỏ màu trắng ở đúng cùi tay do quệt vào góc lò sưởi từ hồi ở trường tiểu học Gateshill, tất cả đều thuộc về tôi. Và giờ là lúc tôi phải cân nhắc khả năng kẻ đứng đằng sau tôi, kẻ đang bóp chặt cổ tay tôi mà bẻ ngược dọc sống lưng theo một tư thế gần như tình tứ, hắn căm ghét tôi, vô cùng căm ghét tôi. Hắn cứ giữ cái tay thế mãi. Họ hắn là Rayner. Tên không rõ. Dù sao tôi đã không thể biết và bởi thế tôi đoán chắc là anh cũng không nốt. Tôi đồ rằng hẳn phải có ai đó, ở đâu đó biết tên của hắn - đã từng rửa tội cho hắn bằng cái tên đó, đã từng gọi hắn xuống ăn sáng bằng cái tên đó, đã từng dạy hắn phải đánh vần nó như thế nào - và một người nào khác ắt đã từng gọi tên hắn trong quán bar để mời hắn làm vài cốc, hay đã từng thì thào cái tên đó trong lúc làm tình, hoặc giả đã viết nó vào một ô trong tờ khai bảo hiểm thân thể. Tôi biết chắc chắn họ đã làm tất cả những điều đó. Chỉ có điều khó mà hình dung ra, thế thôi. Tôi áng chừng Rayner hơn tôi mười tuổi. Thế tốt thôi. Chuyện đó chẳng vấn đề gì cả. Tôi có quan hệ tốt, thân mật - không liên quan tới chuyện bẻ tay - với rất nhiều người hơn tôi mười tuổi. Những người lớn hơn tôi mười tuổi nhìn chung là đáng kính trọng. Nhưng Rayner còn cao hơn tôi bảy phân, nặng hơn khoảng hai chục ký, và ít nhất hơn tôi tám đơn vị trong thang bạo lực. Hắn xấu xí hơn cả cái bãi đỗ xe, với cái sọ to trụi tóc chỗ hóp vào chỗ phình ra như một quả bóng nhét đầy que trong ruột và cái mũi chiến binh phẳng dẹt, trông như thể một dải đồng bằng quanh co khúc khuỷu do ai đó cầm bút chì bằng tay trái, hoặc tệ hơn, bằng chân trái, vẽ lên mặt hắn vậy. Và Chúa ơi, cái trán mới đã làm sao. Bao nhiêu gạch, dao,chai lọ và những thứ vụ ẩu đả đầy đủ lý do khác, theo thời gian đã táng vào cái mặt phẳng căng đét đó mà không hề gây hư hại gì, chỉ để lại những vệt lõm mờ giữa các lỗ chân lông sâu hoắm, lưa thưa. Chúng là những lỗ chân lông sâu nhất và thưa nhất mà tôi đã từng thấy trên da người, khiến tôi nhớ đến khu lỗ gôn của sân gôn địa phương ở Dalbeattie vào cuối mùa hè khô hạn, dài dặc năm 76. Giờ chuyển sang hai bên đầu. Tai của Rayner rõ đã bị cắn rời từ lâu và rồi lại được phết vào cái thành đầu ấy, bởi vì cái tai trái toàn toàn bị lộn ngược trên xuống dưới hay trong ra ngoài, hoặc là một kiểu gì đó khiến ta phải nhìn chăm chú vào hồi lâu rồi mới nghĩ ra “ồ, đó là cái tai”. Và trên hết, Rayner mặc áo khoác da màu đen bên ngoài áo đen cổ lọ, nói thế cho rõ nếu anh vẫn chưa hình dung rõ. Nhưng hẳn anh đã mường tượng rõ được hắn. Kể cả khi Rayner quấn lụa mỏng quanh người và cài hoa lan sau mỗi vành tai, người qua đường yếu bóng vía cũng vẫn sẽ nộp tiền cho hắn trước, sau đó mới băn khoăn tự hỏi liệu mình đã từng nợ hắn hay chưa. Thực tế là tôi chẳng hề nợ tiền hắn. Rayner thuộc một nhóm riêng mà tôi chẳng nợ nần gì cả, và giá như chuyện giữa chúng tôi tốt đẹp hơn một chút thì có lẽ tôi đã gợi ý cho hắn và nhóm của mình đeo chung một loại cà vạt đặc biệt giúp nhận diện nhau. Kiểu hoa văn hình dấu thánh chẳng hạn. Tuy nhiên, như tôi đã nói, chuyện giữa chúng tôi không tốt đẹp gì. Có lần, huấn luyện viên chiến đấu cụt một tay tên là Cliff (vâng , đúng vậy - ông ta huấn luyện đánh nhau tay không , và chỉ có một tay thôi - đời lắm khi thế đấy), đã bảo tôi rằng sự đau đớn là điều mà người ta tự gây ra cho bản thân mình. Người khác làm mọi thứ với anh - họ đánh anh, họ đâm anh, họ cố bẻ tay anh - nhưng nỗi đau là do chính anh. Bởi thế,Cliff ông huấn luyện viên đã từng ở Nhật hai tuần và luôn cảm thấy mình có bổn phận phải nhồi nhét những thứ vớ vẩn kiểu như vậy trong các giờ học, khẳng định, chúng ta luôn có sức mạnh để kiềm chế nỗi đau đớn của bản thân. Ba tháng sau, Cliff bị một mụ góa năm mươi lăm tuổi giết chết trong một vụ ẩu đả tại quán rượu, bởi thế tôi không còn cơ hội cùng ông ta kiểm chứng điều đó. Đau đớn là một sự kiện. Nó xảy tới với anh, và anh đương đầu với nó theo mọi cách có thể. Điều duy nhất tốt cho tôi là, cho tới giờ, tôi chưa hề rên la. Chẳng phải là dũng cảm gì, anh hiểu không, đơn giản là tôi chưa đạt được mức đó. Cho tới lúc này, Rayner và tôi đã quần nhau giữa các bức tường và đồ đạc, trong im lặng đẫm mùi mồ hôi của giống đực, chỉ thỉnh thoảng có một tiếng gằn gừ để thấy rằng cả hai đều đang tập trung. Nhưng giờ đây, cùng lắm là năm giây nữa thôi tôi sẽ xỉu đi hoặc cuối cùng cái xương sẽ rã ra - giờ là thời khắc lý tưởng để tôi tung ra một chiêu thức mới. Và âm thanh là tất cả những gì tôi có thể nghĩ ra. ... Mời các bạn đón đọc Tay Lái Súng Đa Cảm của tác giả Hugh Laurie.