Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kinh Trường Bộ - Tập 1 (Thích Minh Châu)

Trích Lời Giới Thiệu, Trường Bộ Kinh, Tập III (1972):.. Cho dịch và cho in các bản kinh Pāli, tôi không mong muốn gì hơn là để các Phật tử, các Học giả, các Sinh viên được đọc thẳng vào những kinh điển thật sự nguyên thủy hay gần nguyên thủy nhất, và tự mình tìm hiểu những lời dạy thật sự của đức Phật, khỏi phải qua những lập trường của các bộ phái. Nhất là khỏi phải qua những xuyên tạc của những Học giả và những Phật tử muốn giải thích đạo Phật theo dục vọng và tà kiến của mình. Muốn chạy theo dục vọng, thì giải thích kinh điển một cách để hiểu rằng đạo Phật chấp nhận và tha thứ dục vọng. Muốn giết người và muốn binh vực kẻ giết người, đạo Phật được giải thích như là có thể tha thứ và chấp nhận sự giết người. Muốn chạy theo tà giáo và tà kiến, lại giải thích đạo Phật viên dung vô ngại, chấp nhận mọi tà kiến, mọi tà thuyết. Ta kiến nào, tà thuyết nào cũng là Phật giáo được hết! Muốn tránh những tai nạn trên, cần nhứt là phổ biến những kinh điển thực sự nguyên thủy hay gần nguyên thủy nhất, để Phật tử được đọc thẳng ngay kinh Phật, khỏi qua một ống kính màu nào.

Đạo Phật cần những cá nhân Phật tử biết suy tư, biết phân tích, biết tự tìm hiểu, rồi xác nhận sự hiểu biết của mình, ngang qua sự hành trì, kinh nghiệm cá nhân. Đạo Phật không cần đến những đoàn người theo đạo Phật, theo một cách ồ ạt mù quáng, theo một cách thụ động nhắm mắt, hay tự mình bóp méo, xuyên tạc đạo Phật theo tà kiến dục vọng của mình. Chính kinh Đại Bát Niết Bàn, có ghi rằng, dầu chúng ta có nghe vị Tỷ kheo nào nói tự thân nghe đức Phật, tự thân nghe các vị Thượng Tọa, Thủ Chúng, v.v... nói như vậy là Pháp, như vậy là Luật, đức Phật khuyên cũng không được tán thán, đả kích, chấp thuận, hay từ bỏ ngay, mà phải so sánh với Kinh, đối chiếu với Luật, có phù hợp mới được chấp nhận, không phù hợp thời phải từ bỏ. Đạo Phật đòi hỏi sự nhận xét, tìm hiểu, suy tư cá nhân rất nhiều. Nhưng chúng ta chỉ có thể nhận xét, tìm hiểu, suy tư khi chúng ta được đọc những lời dạy nguyên thỉ nhất hay gần nguyên thỉ nhất của đức Phật. Đó là nguyên nhân và động lực khiến tôi phải lo dịch và in bản Trường Bộ Kinh này.

Trích Lời Giới Thiệu, Trường Bộ Kinh, Tập IV (1972):... Với tập IV này, tôi đã phiên dịch xong bộ Dīgha Nikāya (Trường Bộ Kinh), từ chữ Pāli ra tiếng Việt. Năm 1965, tôi in xong tập I, gồm 3 kinh đầu. Năm 1967, tôi in xong tập II, gồm 10 kinh kế tiếp. Năm 1972, tôi in xong tập III và tập IV, gồm 21 kinh trong khoảng thời gian kỷ lục 7 tháng, từ Tết Nhâm Tý (tháng 2-1972) cho đến nay, Vu Lan rằm tháng 7 (tháng 8-1972). Cứ xem thời gian hoàn thành từng tập một, mới thấy chức vụ đa đoan của một Viện Trưởng làm trở ngại cho sự phiên dịch như thế nào. Chúng tôi chỉ có thể để dành những ngày nghỉ, những buổi sáng thật sớm và những buổi tối (nếu không quá mệt mỏi vì những công việc ban ngày), để phiên dịch. Chúng tôi vẫn kiên trì phiên dịch và in cho xong tập IV, Trường Bộ Kinh là để hoàn thành một chí nguyện mà tôi ấp ủ từ khi tôi mới đi du học Tích Lan năm 1952. Về nước năm 1964, nếu tôi không nhận chức vụ Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh thời nay tôi đã dịch ít nhất cũng trọn bộ Kinh Tạng Pāli rồi. Tôi tự đánh dấu hỏi, làm Viện Trưởng hay làm một vị dịch kinh, làm chức vụ nào có lợi cho Phật Giáo hơn? Và tôi phải tự thẳng thắn để trả lời, dịch kinh có lợi hơn! Và tôi chỉ có thể vớt vát, bằng cách để những thời giờ thong thả, chú tâm vào vấn đề phiên dịch. Chúng tôi viết những dòng chữ này vừa để sám hối, vừa mong các Phật tử và các Học giả thông cảm cho.

Phiên dịch Tam Tạng Pāli có một dụng ý khác quan trọng hơn. Trước năm 1952, Việt Nam chúng ta chỉ biết có một số Kinh Đại Thừa căn bản, như Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Kinh Bát Nhã, Kinh Kim Cang, Kinh Di Đà v.v... dầu rằng chúng ta vẫn có Hán Tạng hết sức phong phú, nhưng ít người nghiên cứu. Các Kinh A Hàm, Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Kinh Di Giáo cũng có được đề cập. Tuy có biết, nhưng không dám học vì theo tứ y, cần phải "y liễu nghĩa kinh, bất y bất liễu nghĩa kinh."

Qua Tích Lan, chúng tôi được biết đến Tam Tạng Pāli, rất là phong phú, rất gần với lời dạy nguyên thỉ của đức Phật, lại được phổ biến rộng rãi ở năm châu. Qua Ấn Độ, được biết thêm Tạng Sanskrit, dồi dào và phong phú hơn cả Tạng Pāli, nhưng nguyên bản gần như mất hết cả, ngoại trừ vài chục bộ mới tìm lại được. Cũng may Tạng Sanskrit được dịch ra Tạng Tây Tạng và Hán Tạng, và nhờ vậy hai tạng dịch này là kho tài liệu khá đầy đủ cho nguyên tạng Sanskrit. Nhưng nếu Pāli là Tam tạng vừa là nguyên thỉ, vừa là của học phái Thượng Tọa Bộ, Tạng Sanskrit phong phú hơn, là Tam Tạng cũng vừa là nguyên thỉ, vừa thuộc nhiều học phái như Nhứt Thế Hữu Bộ, Đại Chúng Bộ, Đàm Vô Đức Bộ, Di Sa Tắc Bộ v.v... và cũng vừa là tạng của Đại Thừa. Gía trị của hai tạng dịch là như vậy, và Tạng Trung Hoa cũng có dịch một số kinh tạng Pāli có thể do Ngài Pháp Hiển, thế kỷ thứ VI đem từ Tich Lan về. Nếu chúng ta muốn tìm đến Tạng nào hay Kinh nào có thể là đại diện cho nguyên thỉ, chúng ta chỉ cần so sánh Kinh Tạng Luật Tạng Pāli và Kinh Tạng A Hàm và Luật Tạng các Học phái. Những điểm nào giống nhau, thời chúng ta có thể chấp nhận là Tạng Nguyên Thỉ. Những điểm dị biệt có thể là do dị biệt lập trường của các Học phái. Cho dịch Trường Bộ Kinh này, chúng tôi không mong gì hơn là giới thiệu Tạng Pāli cho Phật tử và Học giả Việt Nam và cũng mở đầu một môn học mới, tức là môn Tỷ Giáo Học giữa Kinh Tạng, Luật Tạng Pāli và Tạng chữ Hán tương đương. Môn Tỷ Giáo học này sẽ giúp chúng ta hiểu được thế nào là Tạng Nguyên Thỉ của Phật Giáo Tìm mua: Kinh Trường Bộ - Tập 1 TiKi Lazada Shopee

Có người sẽ cho, dịch Tạng Pāli là tuyên truyền cho Tiểu Thừa, phản lại tư tưởng Đại Thừa. Chúng ta nên chấm dứt ngay thái độ ngây thơ và buồn cười này. Đạo Phật không có Đại Thừa, Tiểu Thừa, không có Nam Tông, Bắc Tông. Đạo Phật gồm có một số giáo lý căn bản mà học phái nào cũng phải tôn trọng, một số pháp môn thiết yếu mà đệ tử Phật tử nào cũng phải y cứ để tu hành, nếu không muốn lạc vào tà giáo, ngọai đạo. Cho dịch Tạng Pāli là chúng tôi muốn giới thiệu và tìm hiểu số giáo lý căn bản ấy và số pháp môn thiết yếu ấy. Những danh từ Đại Thừa, Tiểu Thừa, Nam Tông, Bắc Tông là những danh từ đẻ ra sau này để phân biệt các học phái, và một học phái chỉ được gọi là học phái Phật Giáo khi nào học phái ấy tôn trọng và trung thực với số giáo lý, số pháp môn căn bản ấy.

Ngày nay, một nhà nghiên cứu Phật Giáo, phải biết đến Phật Giáo Nguyên Thỉ, phải biết đến Phật Giáo các Học Phái và phải biết đến Phật Giáo Đại Thừa mới có thể có một cái nhìn đại thể về lịch sử tư tưởng Phật Giáo. Sau khi nắm được cái nhìn đại thể, vị ấy có thể chọn lấy một ngành nào, hay một pháp môn nào làm ngành chuyên môn của mình. Cho dịch Kinh Tạng Pāli, chúng tôi muốn giúp phần tài liệu nghiên cứu cho các nhà học giả ấy để có thể biết đến Phật Giáo Nguyên Thỉ và biết đến Học phái Thượng Tọa Bộ, một học phái có tiếng là bảo thủ nhất, trung thành với tư tưởng và lối sống Phật Giáo Nguyên Thỉ nhất, và là học phái duy nhất gìn giữ được gần như trọn vẹn cả ba tạng giáo điển.

Hơn thế nữa, ngày nay chúng ta nhận thấy một chiều hướng mới đã bắt đầu sống dậy trong những nhà tìm hiểu tư tưởng Phật Giáo, một chiều hướng đi ngược lên Phật Giáo Nguyên Thỉ, tìm hiểu những căn bản giáo lý mà phần lớn các học phái chấp nhận, giới thiệu một lối sống đích thực, đức Phật muốn giảng dạy cho các đệ tử để sống ngay với đời sống hiện tại, khỏi phải qua những phân ly các học phái, hay những mê tín, dị đoan, cuồng tín v.v... đã dần dần xâm nhập vào Đạo Phật, làm mất bản chất thuần túy của Đạo Phật nghìn xưa. Hơn nữa, ngày nay người ta dần dần ý thức rằng chỉ có Đạo Phật Nguyên Thỉ mới đáp ứng được những đòi hỏi của một thế giới khoa học hiện tại. Một tôn giáo muốn được giới trí thức trẻ hiện tại chấp nhận, vừa phải không mâu thuẫn với những phát minh khoa học mới mẻ nhất, vừa phải giải quyết được những vấn đề thuộc phạm vi con người của con người ở thế kỷ thứ hai mươi, hai mốt này. Chỉ có Đạo Phật Nguyên Thỉ mới may ra đáp ứng được những đòi hỏi trên, và cho dịch tập Trường Bộ Kinh này, chúng tôi nuôi dưỡng một hy vọng rất khiêm tốn, là giới thiệu được tới tay các Học giả và các Phật tử, một phần nào những lời dạy thật sự nguyên thỉ hay gần nguyên thỉ nhất của Đạo Phật.

Tỷ kheo Thích Minh Châu

Đại học Vạn Hạnh

Sài Gòn, 1972Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Thích Minh Châu":Đại Thừa Và Sự Liên Hệ Với Tiểu ThừaKinh Tiểu Bộ - Tập 1Kinh Tiểu Bộ - Tập 2Kinh Tiểu Bộ - Tập 3Kinh Tiểu Bộ - Tập 4Kinh Tiểu Bộ - Tập 5Kinh Tiểu Bộ - Tập 6Kinh Tiểu Bộ - Tập 7Kinh Tiểu Bộ - Tập 8Kinh Tiểu Bộ - Tập 9Kinh Tiểu Bộ - Tập 10Kinh Tiểu Bộ - Tập 11Kinh Tiểu Bộ - Tập 12Kinh Trung Bộ - Tập 1Kinh Trung Bộ - Tập 2Kinh Trung Bộ - Tập 3Kinh Trường Bộ - Tập 1Kinh Trường Bộ - Tập 2Kinh Trường Bộ - Tập 3Kinh Tương Ưng Bộ - Tập 1Kinh Tương Ưng Bộ - Tập 2Kinh Tương Ưng Bộ - Tập 3Kinh Tương Ưng Bộ - Tập 4Kinh Tương Ưng Bộ - Tập 5Kinh Tương Ưng Bộ - Tập 6Kinh Tăng Chi Bộ - Tập 1Kinh Tăng Chi Bộ - Tập 2Kinh Tăng Chi Bộ - Tập 3Kinh Tăng Chi Bộ - Tập 4Kinh Tăng Chi Bộ - Tập 5Kinh Tăng Chi Bộ - Tập 6

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Kinh Trường Bộ - Tập 1 PDF của tác giả Thích Minh Châu nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Nghi Lễ Phật Giáo (Thích Hoàn Thông)
Mục Lục Đôi lời gợi ý 1. PHẦN TIẾP DẪN Nhập mạch (liệm) Thành phục (phát tang) Tìm mua: Nghi Lễ Phật Giáo TiKi Lazada Shopee Phu thê thọ tang Khai kinh Cáo đạo lộ Tiến vong: Bài I Bài II Phụng Minh Sanh cáo từ tổ Thiết Minh Sanh Tụng Tịnh độ Phát hành Từ hậu thổ An sàng Khai mộ môn Bùa trấn mả 2. PHẦN TRUY TIẾN Trình tổ Nghinh mộ biên (ra mả rước vong về) Tiến linh (cúng ông bà) Tiến vong (cúng cơm vong) Cúng vong (bài nghĩa) Khai chung bản Khai kinh Tụng kinh Cúng ngọ Trừ phục (xả tang, trừ linh) Lễ cúng dường: - Văn tác bạch kỳ siêu cho cha, mẹ - Văn đáp từ kỳ siêu cho cha, mẹ - Văn tác bạch kỳ siêu cho phu, thê - Văn đáp từ kỳ siêu cho phu, thê Nghi thức thăng tòa thuyết pháp Hoàn kinh Nghi cúng cô hồn, tế chiến sĩ Tụng kinh Cúng kỵ nhựt Lễ vớt vong kỳ siêu Kinh Di Đà 3. PHẦN CẦU AN Chúc Thánh nghi Cúng sao hội Sớ cúng sao Nghi thức lễ thành hôn Phép thọ giới Bát quan trai: Thọ có giới sư truyền Phép xả Tự thọ Phép xả Kỷ luật trong 24 giờ Nghi phóng sanh Nghi thức an vị: Nghi cổ Nghi mới Nghi tiến cúng Giác linh Lục tuần chúc thọ 4. PHẦN LINH TINH TẠP DỤNG Cách xưng hô Chọn ngày: - Thập nhị địa chi - Thập thiên can - Ngũ hành - Lục giáp - 12 địa chi thuộc ngũ hành - Địa chi thuộc 8 phương Bát quái - Địa chi thuộc Âm, Dương - Địa chi phân Đông mạng, Tây mạng - Thiên can thuộc Ngũ hành, Ngũ phương - Ngũ hành tương sanh - Ngũ hành tương khắc - Ngũ hành: Vượng, Tướng, Hưu, Tù, Tử - Địa chi hạn, kỵ: Tam hạp, Lục hạp, Chi đức hạp, Tứ kiểm hạp, Địa đới, Tuế tinh, Tứ tuyệt, Lục hại,Tứ xung, Lục xung, Lục hình - Thiên can hạp khắc - Vòng Lục giáp - Nhận định vị trí 12 chi và 6 con giáp trên hai bàn tay - Đọc thuộc các con số Cách tính tuổi - Tìm vòng con giáp để tìm can Cách tìm mạng Coi giờ liệm - Giờ trùng tang liên táng - Liệm chôn kỵ người còn sống - Tùy ngày lựa giờ tốt để liệm - Tính giờ Nguyệt tiên Lựa ngày giờ an táng Cách chọn ngày, giờ Huỳnh đạo: - Ngày Huỳnh đạo - Giờ Huỳnh đạo - Thái tuế áp bổn mạng - Coi ngày xả tang - Bảng định giờ - Cách chiếm giờ đại kiết Bảng chọn ngày (quan trọng) Cách tìm cung: - Cung sanh (hay cung ký) - Cung phi Bát trạch: - Cách tìm cung phi bát trạch theo xưa - Cách tìm cung phi bát trạch theo nay Cách thứ nhứt Cách thứ hai Cách thứ ba Cách thứ tư - Cách tìm các cung biến - Cữu tinh ngũ hình - Cữu tinh chế phục - Hôn nhơn, tu tạo kiết hung biểu - Tám cung kiết hung ca - Bảng lập thành phi cung Bát trạch - Cung phi BÁT TỰ Cách tìm phi cung Bát tự Bảng lập thành phi cung Bát tự - Cung biến kiết hung của Bát tự Cung tử - Bảng lập thành về cung tử Bàn tay Huỳnh long thệ-thế Coi bịnh: Lâu mạnh, mau mạnh hay chết Hóa cầm chưởng Ngày hung không kỵ - Vài bài thơ cổ: Ngày sát chủ Sát chủ Âm Ngày Thọ-tử Sát chủ mùa Phép thả đòn tay nhà - Tìm trực chủ nhà - Trực thuộc ngũ hành Bàn tay Hoanh ốc và Kim lâu Tuổi hạp kỵ ngày, tháng Bảng lập thành ngày nào kỵ tuổi nào Phép chọn người xuất-gia Phép chọn ngày xuống tóc và thâu đồ: - Ngày xuống tóc kiết hung - Ngày Truyền pháp, thâu đồ kiết hung Phép tính sao, hạn - Coi sao - Sao nào cúng đêm nào - Coi hạn - Bảng lập thành về sao - Bảng lập thành về hạn - Ảnh hưởng tốt xấu của mỗi sao - Ảnh hưởng tốt xấu của các hạn Bao nhiêu tuổi gặp việc tốt xấu ra sao Liễn tang Vài loại thước cần nên biết Bàn về 3 kiết tinh: Sát cống, trực tinh và Nhơn chuyên Đổng Công Tuyển Trạch Nhựt Yếu Lãm Ngày hung kỵ dùng Lữ-Tài hiệp hôn Phương hướng tu tạo: - Về hướng nhà - Cách đặt Lò, Bếp: Hỏa môn (miệng lò) Táo tòa (vị trí đặt lò) Điều cấm kỵ nên tránh - Phép để cửa: Đại môn 8 đồ Bát quái lập thành Huỳnh tuyền quyết Đô thiên Xuyên tỉnh quyết (phép đào giếng) Phép tính sanh trai hay gái Chọn ngày đám cưới cần chú ý - Bảng lập thành ngày Bất tương Những tuổi bị lương duyên trắc trở Chọn ngày sửa chữa, xây cất nên biết Vài nguyên tắc chọn ngày tốt Cách làm tương Huế Bát san giao chiến Bát san tuyệt mạng Hung niên (kỵ cưới gả) Tháng đại lợi Tháng cô Hư sát Ích tài thối tài Tuổi phá sản vợ Tuổi phá sản chồng Coi nghề nghiệp Năm tam tai Ngày thánh đản Ngày trai kỳ Các ngày kỷ niệm Cách viết bài vị sao hạnĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Nghi Lễ Phật Giáo PDF của tác giả Thích Hoàn Thông nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Cẩm Nang Tu Ðạo (Quảng Khâm)
Mục Lục Dẫn Nhập Tiểu Sử Hòa Thượng Quảng Khâm Chương I: Tu Hành 1. Tu Hành: Tìm Lại "Bản Lai Diện Mục" Tìm mua: Cẩm Nang Tu Ðạo TiKi Lazada Shopee 2. Cục Ðá Cột Chân Người Tu A. Tham, Sân, Si B. Ngã Mạn C. Thiện Ít, Ác Nhiều 3. Nẻo Chánh Ðể Tu Hành A. Trừ Trướng B. Xã Bỏ Tâm Phân Biệt C. Tâm Kiên Cố D. Canh Gác Sáu Căn E. Tâm Trường Viễn 4. Bản Sắc Của Việc Tu Chương II: Khổ Hạnh 1. Vững Lòng Tin, Tu Khổ Hạnh A. Khuyến Khích Tu Hành B. Hạnh Nguyện 2. Làm Sao Tu Khổ Hạnh 3. Buông Xã Túi Da Thối Này! Chương III: Rõ Nghĩa 1. Hiểu Biết, Lập Hạnh 2. Công Phu Khuya và Tối 3. Gõ Chuông Chương IV: Pháp Môn Tịnh Ðộ 1. Tây Phương Có Phật Hiệu A-Di-Ðà 2. Niệm Phật 3. Niệm Phật Có Thể Thấy Phật Không? 4. Thầy Quảng-Hóa Tới Tham Phỏng Chương V: Việc Làm Ba-La-Mật 1. Thẳng Thắn 2. Nhẫn Nại 3. Khéo Léo Chương VI: Hạnh Xuất Gia 1. Xuất Gia Ðể Làm Gì? 2. Con Ðường Siêu Thoát Của Người Tu A. Trước và Sau Khi Thọ Giới B. Vất Bỏ Danh Lợi C. Điều Cái Tâm Nầy 3. Tự Ðộ A. Chùa Thập Phương B. Chỗ Lầm Lẫn C. Thăm Viếng Học Hỏi D. Quan Hệ Giữa Kẻ Đồng Tu E. Nhẫn Nhục F. Một Niệm Cách Biệt 4. Ðộ Người A. Biết điều tốt của thí chủ B. Tiếp đãi tín đồ C. Sự nghiệp của Bồ-tát 5. Ðiểm Tốt Của Việc Tu 6. Ðạo Cao Một Tấc, Ma Cao Một Thước 7. Ni Chúng Chương VII: Xuất Gia Và Tại Gia 1. Tại Gia 2. Xuất Gia: Báo Ðền Bốn Ân Lớn 3. Ở Ðời và Ði Tu Chương VIII: Cảnh Giới Của Chúng Sanh 1. Tâm Chúng Sanh 2. Thói Quen, Tập Khí 3. Danh Lợi và Chậm Chạp Chương IX: Nhân Quả Và Sám Hối 1. Nhân Quả 2. Sám Hối Chương X: Lời Cuối 1. Thời Ðại Ðã Thay Ðổi Rồi! 2. Khai Thị - Ngộ Nhập 3. Pháp Ngữ 4. Lời Của Thầy Truyền-Văn Tám Quy Luật của Viện Phiên Dịch Kinh Ðiển ________________________ Dẫn Nhập Tập Cẩm-Nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh, khiến ta giác ngộ như Ngài. Kinh Hoa-Nghiêm dạy rằng: "Chúng sanh như người bệnh, Thiện-tri-thức như bác-sĩ, lời dạy của Thiện-tri-thức như thuốc hay. Thuốc hay thì đắng, song trị lành được bệnh." Bởi vậy, trong tập Cẩm-Nang này, bạn sẽ thấy mỗi lời dạy của Ngài đều vô cùng sâu sắc, trực tiếp song đơn giản; ngắn gọn, dễ hiểu mà hàm súc. Ðây là điểm then chốt dị biệt giữa lời nói của người đã ngộ Ðạo và kẻ chưa tỉnh giác. Kẻ còn mê muội thì cần lời giảng cao xa, sâu sắc, dùng trò chơ trí thức chữ nghĩa, song thiếu thực dụng nội tại. Những lời dạy của Hòa-Thượng QuảngKhâm là những lời mà không ai có thể bắt chước đặng, bởi vì những lời ấy được lưu xuất từ một nội tâm thâm chứng và một cuộc đời chân thật thực nghiệm, "sống" trong sự thâm chứng ấy mỗi ngày. Ngài chỉ ăn một bửa ngọ và chỉ ăn trái cây; ngủ thì ngủ ngồi; áo mặc thì chỉ một vài bộ. Ngài rất ít lời, không nói chuyện dông dài, bàn luận thế sự tạp nhạp. Cả đời, vật sở hữu của Ngài hoàn toàn không! Chẳng có xe hơi, chẳng có trương mục ngân hàng hay thẻ tín dụng, nhà riêng, Tivi, tủ lạnh, radio. tất cả Ngài đều không có. Chính bởi vì, và chỉ có, cuộc sống rỗng không như vậy nên Ngài mới thực sự an trụ trong cảnh giới Chân Không của tự tâm. Ðây thật là điều quý báu để chúng ta, kẻ hậu học, nhất là người xuất gia, phản tỉnh và thức tỉnh. Ðối tượng trọng tâm của tập Cẩm-Nang này là người xuất gia, song hoàn toàn ứng dụng cho kẻ tại gia. Khi đọc Cẩm-Nang, bạn hãy hình dung như có một vị Tăng già hiền từ, chín mươi tuổi ngoài, đang nói chuyện cùng mình vậy. Sách này, đọc là để áp dụng; đây không phải là tiểu thuyết; truyện, hay sách nghiên cứu để tăng kiến thức. Khi được đọc để áp dụng như thuốc lành trị bệnh hay như gậy đỡ chân, thì tập Cẩm-Nang này sẽ giúp chúng ta đổi cái nhìn, sửa thói hư tật xấu, trừ suy nghĩ lầm lẫn, hướng dẫn bước tu đúng đắn. Khi đó, ánh sáng bất tận của Chánh Pháp sẽ chắc chắn tràn ngập nơi nơi - trong tâm bạn và những gì quanh bạn.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Cẩm Nang Tu Ðạo PDF của tác giả Quảng Khâm nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Cẩm Nang Tu Ðạo (Quảng Khâm)
Mục Lục Dẫn Nhập Tiểu Sử Hòa Thượng Quảng Khâm Chương I: Tu Hành 1. Tu Hành: Tìm Lại "Bản Lai Diện Mục" Tìm mua: Cẩm Nang Tu Ðạo TiKi Lazada Shopee 2. Cục Ðá Cột Chân Người Tu A. Tham, Sân, Si B. Ngã Mạn C. Thiện Ít, Ác Nhiều 3. Nẻo Chánh Ðể Tu Hành A. Trừ Trướng B. Xã Bỏ Tâm Phân Biệt C. Tâm Kiên Cố D. Canh Gác Sáu Căn E. Tâm Trường Viễn 4. Bản Sắc Của Việc Tu Chương II: Khổ Hạnh 1. Vững Lòng Tin, Tu Khổ Hạnh A. Khuyến Khích Tu Hành B. Hạnh Nguyện 2. Làm Sao Tu Khổ Hạnh 3. Buông Xã Túi Da Thối Này! Chương III: Rõ Nghĩa 1. Hiểu Biết, Lập Hạnh 2. Công Phu Khuya và Tối 3. Gõ Chuông Chương IV: Pháp Môn Tịnh Ðộ 1. Tây Phương Có Phật Hiệu A-Di-Ðà 2. Niệm Phật 3. Niệm Phật Có Thể Thấy Phật Không? 4. Thầy Quảng-Hóa Tới Tham Phỏng Chương V: Việc Làm Ba-La-Mật 1. Thẳng Thắn 2. Nhẫn Nại 3. Khéo Léo Chương VI: Hạnh Xuất Gia 1. Xuất Gia Ðể Làm Gì? 2. Con Ðường Siêu Thoát Của Người Tu A. Trước và Sau Khi Thọ Giới B. Vất Bỏ Danh Lợi C. Điều Cái Tâm Nầy 3. Tự Ðộ A. Chùa Thập Phương B. Chỗ Lầm Lẫn C. Thăm Viếng Học Hỏi D. Quan Hệ Giữa Kẻ Đồng Tu E. Nhẫn Nhục F. Một Niệm Cách Biệt 4. Ðộ Người A. Biết điều tốt của thí chủ B. Tiếp đãi tín đồ C. Sự nghiệp của Bồ-tát 5. Ðiểm Tốt Của Việc Tu 6. Ðạo Cao Một Tấc, Ma Cao Một Thước 7. Ni Chúng Chương VII: Xuất Gia Và Tại Gia 1. Tại Gia 2. Xuất Gia: Báo Ðền Bốn Ân Lớn 3. Ở Ðời và Ði Tu Chương VIII: Cảnh Giới Của Chúng Sanh 1. Tâm Chúng Sanh 2. Thói Quen, Tập Khí 3. Danh Lợi và Chậm Chạp Chương IX: Nhân Quả Và Sám Hối 1. Nhân Quả 2. Sám Hối Chương X: Lời Cuối 1. Thời Ðại Ðã Thay Ðổi Rồi! 2. Khai Thị - Ngộ Nhập 3. Pháp Ngữ 4. Lời Của Thầy Truyền-Văn Tám Quy Luật của Viện Phiên Dịch Kinh Ðiển ________________________ Dẫn Nhập Tập Cẩm-Nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh, khiến ta giác ngộ như Ngài. Kinh Hoa-Nghiêm dạy rằng: "Chúng sanh như người bệnh, Thiện-tri-thức như bác-sĩ, lời dạy của Thiện-tri-thức như thuốc hay. Thuốc hay thì đắng, song trị lành được bệnh." Bởi vậy, trong tập Cẩm-Nang này, bạn sẽ thấy mỗi lời dạy của Ngài đều vô cùng sâu sắc, trực tiếp song đơn giản; ngắn gọn, dễ hiểu mà hàm súc. Ðây là điểm then chốt dị biệt giữa lời nói của người đã ngộ Ðạo và kẻ chưa tỉnh giác. Kẻ còn mê muội thì cần lời giảng cao xa, sâu sắc, dùng trò chơ trí thức chữ nghĩa, song thiếu thực dụng nội tại. Những lời dạy của Hòa-Thượng QuảngKhâm là những lời mà không ai có thể bắt chước đặng, bởi vì những lời ấy được lưu xuất từ một nội tâm thâm chứng và một cuộc đời chân thật thực nghiệm, "sống" trong sự thâm chứng ấy mỗi ngày. Ngài chỉ ăn một bửa ngọ và chỉ ăn trái cây; ngủ thì ngủ ngồi; áo mặc thì chỉ một vài bộ. Ngài rất ít lời, không nói chuyện dông dài, bàn luận thế sự tạp nhạp. Cả đời, vật sở hữu của Ngài hoàn toàn không! Chẳng có xe hơi, chẳng có trương mục ngân hàng hay thẻ tín dụng, nhà riêng, Tivi, tủ lạnh, radio. tất cả Ngài đều không có. Chính bởi vì, và chỉ có, cuộc sống rỗng không như vậy nên Ngài mới thực sự an trụ trong cảnh giới Chân Không của tự tâm. Ðây thật là điều quý báu để chúng ta, kẻ hậu học, nhất là người xuất gia, phản tỉnh và thức tỉnh. Ðối tượng trọng tâm của tập Cẩm-Nang này là người xuất gia, song hoàn toàn ứng dụng cho kẻ tại gia. Khi đọc Cẩm-Nang, bạn hãy hình dung như có một vị Tăng già hiền từ, chín mươi tuổi ngoài, đang nói chuyện cùng mình vậy. Sách này, đọc là để áp dụng; đây không phải là tiểu thuyết; truyện, hay sách nghiên cứu để tăng kiến thức. Khi được đọc để áp dụng như thuốc lành trị bệnh hay như gậy đỡ chân, thì tập Cẩm-Nang này sẽ giúp chúng ta đổi cái nhìn, sửa thói hư tật xấu, trừ suy nghĩ lầm lẫn, hướng dẫn bước tu đúng đắn. Khi đó, ánh sáng bất tận của Chánh Pháp sẽ chắc chắn tràn ngập nơi nơi - trong tâm bạn và những gì quanh bạn.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Cẩm Nang Tu Ðạo PDF của tác giả Quảng Khâm nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Mục Đích Đời Sống Con Người (Đang Cập Nhật)
1. Chương trình của Thượng Đế Thượng Đế mong ước thể hiện Ngài thông qua con người. Vì thế Ngài đã tạo nên con người giống hình dạng Ngài. Như chiếc găng tay được tạo ra vừa vặn với một bàn tay như thể nào, thì con người được tạo ra theo gi ống hình dạng Thượng Đế thể đó. Như chiếc găng tay phải tiếp lấy cái bàn tay và cử động theo bàn tay như thế nào, thì con người cũng được tạo ra như vậy để tiếp nhận Thượng Đế, đổ đầy bởi Ngài và để Ngài dẫn dắt như thế ấy. 2. Con người Thượng Đế đã tạo nên con người như là một cái bình2 có ba phần: thân xác, tâm hồn, và tâm linh. Thân xác là vật chất, có quan hệ với thế giới vật chất và thâu nhận vật chất. Bằng tâm hồn, chúng ta duy trì mối qua hệ với người khác, chúng ta suy nghĩ, cảm thông, ước muốn, dự tính và xử lý những gì chúng ta lĩnh hội được bằng giác quan. Tìm mua: Mục Đích Đời Sống Con Người TiKi Lazada Shopee Tâm linh của con người là phần ẩn kín ở trong cùng (không nên lẫn lộn với lý trí là phần thuộc về tâm hồn) được Thượng Đế tạo ra với mục đích là con người nhận Ngài vào trong tâm linh, và ở đó giao tiếp với Ngài và thờ phượng Ngài. Cuối cùng, con người được tạo ra như vậy với mục đích là thâu nhận Thượng Đế, Đấng cũng là Linh, vào trong tâm linh của mình. Kể từ khi Thượng Đế sống trong tâm linh của mình, con người mới có thể thiết lập mối liên hệ thực với Thượng Đế và biểu lộ Ngài.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Đang Cập Nhật":Thực Hành Lửa TímHãy Có Lý Trí Để Nhận BiếtChân Phật Pháp Trung PhápMục Đích Đời Sống Con Người499 Điều Cấm Kỵ Trong Phong ThủyĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Mục Đích Đời Sống Con Người PDF của tác giả Đang Cập Nhật nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.