Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ruồng Bỏ

David Lurie, một giáo sư dạy tiếng Anh người Nam Phi, là người mất mát mọi thứ: uy tín, công việc, sự yên bình trong tâm trí, vẻ ngoài bảnh bao, những giấc mơ về thành công trong môn mỹ thuật và ngay cả khả năng bảo vệ đứa con gái của chính mình, ông cũng không còn. Ông đã ly hôn hai lần, không thỏa mãn với công việc làm giáo sư môn Thông tin. Ông đang dạy một lớp học chuyên đề về Thơ ca lãng mạn tại một trường đại học kỹ thuật ở Cape Town ở Nam Phi. Ông bị “ruồng bỏ” sau khi ông dụ dỗ một trong những sinh viên của mình mà không làm bất cứ điều gì để bảo vệ chính bản thân mình tránh khỏi những hậu quả của việc làm đó. Thời điểm bị mọi người trong trường xa lánh, dè chừng, Lurie đang viết vở nhạc kịch Byron ở Italy. Lurie từ bỏ địa vị, công việc giảng dạy trong trường và quyết định tới thăm cô con gái Lucy đang sống một mình tại một trang trại ở Eastern Cape. Một quãng thời gian dài ba tháng, ông sống hòa nhập với cuộc sống nơi thôn dã, tham gia vào công việc chăm sóc những con vật bị bỏ rơi tại bệnh viện Phúc lợi Động vật, cùng cô con gái chăm sóc vườn tược và mấy chú chó. Nhưng rồi, một ngày nọ, sự yên bình ấy đã bị phá vỡ. Có ba kẻ lạ mặt đã tới trang trại, đánh đập và tính thiêu cháy ông, cưỡng hiếp con gái ông. Sau cuộc tấn công ấy, ông phải đối mặt với sự xa cách ngày một lớn với cô con gái mà ông vô cùng yêu quý nhưng lại không đủ quyền lực và tình yêu thương để dẫn dắt cô. *** John Maxwell Coetzee (sinh ngày 9/2/1940) sinh trong gia đình gốc Đức tại miền Tây Nam Phi, từ nhỏ đã giỏi cả tiếng Anh và tiếng Đức; học các trường đại học tổng hợp Cape Town và Texas; dậy tiếng Anh và văn học; bắt đầu viết văn từ năm 1969 và ngay lập tức được dư luận chú ý từ cuốc sách đầu tiên, nổi tiếng thế giới với tiểu thuyết Giữa miền đất ấy (In the heart of the country, 1977) viết về tính bạo lực và thói ghẻ lạnh là bản chất của chính sách thuộc địa của người da trắng. “Ruồng bỏ” (Disgrace) của John Maxwell Coetzee – Một nhà văn hai lần đoạt giải Booker: Cuộc sống và thời đại của Michael K. (1983) và Ruồng bỏ (1999) – và đoạt giải Nobel Văn học năm 2003. Những tác phẩm của Coetzee được viết bằng giọng văn điềm đạm, ngắn gọn, ít phô diễn kĩ thuật, người mới đọc dễ nắm bắt được mạch tác phẩm của ông và hiểu được cốt truyện. Tất nhiên, để hiểu toàn bộ kĩ thuật hay dụng ý của Coetzee lại không đơn giản lắm. Các tác phẩm của ông thường đi sâu vào cuộc sống và suy nghĩ riêng của một người nào đó đặt trong một bối cảnh có biến động, phức tạp vì chính trị hoặc bị xô đẩy bởi chiến tranh, như trong Cuộc sống và thời đại của Michael K. thì là hành trình của K. Ruồng bỏ là hành trình của David Lurie, hay Tuổi sắt đá là về bà Curren, một giáo sư sống và chết dần vì bệnh ung thư. *** Trong suy nghĩ của ông, một người đàn ông năm mươi hai tuổi, đã ly hôn như ông, giải quyết vấn đề tình dục như thế là khá tốt. Cứ đến chiều thứ Năm, ông lái xe đến Green Point. Đúng hai giờ chiều, ông bấm chuông ở lối vào biệt thự Windsor, xưng tên và bước vào, Soraya đợi ông bên cửa căn hộ số 113. Ông vào thẳng buồng ngủ, căn phòng tỏa ánh sáng dịu dàng và có mùi dễ chịu, rồi ông cởi quần áo. Soraya từ phòng tắm đi ra, buông rơi áo choàng và trườn lên giường cạnh ông.   - Anh có nhớ em không? - cô hỏi.   - Lúc nào cũng nhớ em - ông đáp. Ông vuốt ve tấm thân màu nâu vàng óng, không hề rám ánh mặt trời của cô; ông duỗi người cô ra, hôn lên ngực cô, rồi họ làm tình.   Soraya cao, mảnh dẻ, mái tóc đen dài, cặp mắt đen trong trẻo. Nói một cách nghiêm túc, ông đáng tuổi bố cô; nhưng cũng nói cho nghiêm túc, người ta cũng có thể làm bố ở độ tuổi mười hai. Ông yêu quý cô hơn một năm nay; ông thấy cô hoàn toàn thỏa mãn. Suốt tuần lễ như ở trên sa mạc, ngày thứ Năm trở thành một ốc đảo của xa xỉ và khoái lạc.   Trên giường, Soraya không phải là người nồng nàn. Thực ra, tính cô khá bình lặng, dịu dàng và ngoan ngoãn. Theo quan điểm của cô, cô là một người đạo đức đáng ngạc nhiên. Những vị khách du lịch để ngực trần trên các bãi tắm công cộng làm cô bất bình (cô gọi chúng là “vú bò”); cô mong gom những kẻ lang thang lêu lổng lại và bắt đi quét phố. Ông không hỏi làm sao cô có thể dung hòa những quan niệm với công việc của cô.   Ông thích cô, sự thích thú ấy không bao giờ cạn, và ông ngày càng yêu mến cô hơn. Ông tin rằng ở một mức độ nào đó, sự yêu mến này đang được đền đáp. Yêu mến có thể không phải là tình yêu, nhưng chí ít cũng như tình họ hàng. Cả hai người đều lấy làm may mắn trong mối quan hệ không hứa hẹn gì của họ: ông tìm được cô, và cô tìm được ông.   Hiểu sự đa cảm của mình, ông thỏa mãn, thậm chí bị xỏ mũi. Dù sao ông vẫn khư khư giữ lấy đặc tính đó.   Ông trả tiền cho chiếc R400 của cô, từng đợt chín mươi phút một, một nửa thời gian trong đó là tìm Người tháp tùng bí mật. Đáng tiếc là Người tháp tùng bí mật lại nhiều đến thế. Nhưng họ sở hữu căn 113 và nhiều căn khác trong biệt thự Winsor. Về mặt tình cảm, sở hữu cả Soraya, đây là nhiệm vụ, và nghề nghiệp của cô.   Ông đùa cợt với ý nghĩ bảo cô đến gặp ông trong khoảng thời gian riêng của cô. Ông muốn chia sẻ mọi thứ với cô, có khi suốt cả đêm. Nhưng không phải là sáng hôm sau. Ông biết quá rõ bản thân mình, chiều chuộng cô cho đến sáng hôm sau, lúc ở một mình, ông sẽ là người lạnh lùng, cáu kỉnh và thiếu kiên nhẫn.   Tính ông là như thế; ông đã quá già nên không thay đổi được tính nết. Tính ông đã ổn định. Tính tình ông đi theo đầu óc ông: đó là hai phần khó khăn nhất trong con người.   Với ông, tính tình không phải là một triết lý sống, ông không đề cao nó bằng cái tên ấy. Nó chỉ là một quy luật, giống như Luật của dòng tu Benedict.   Ông khỏe mạnh, đầu óc minh mẫn. Ông có nghề chuyên môn, hay nói đúng hơn, ông là một học giả, sự uyên bác của ông vẫn đầy hứa hẹn, là cốt lõi của ông. Ông sống bằng thu nhập, đúng tính khí và những cảm xúc của mình. Ông có hạnh phúc không? Trong hầu hết những tiêu chuẩn, ông tin rằng mình hạnh phúc. Tuy vậy, ông không quên câu đồng ca cuối cùng trong vở Oedipus: Không thể gọi một người là hạnh phúc cho đến lúc người ấy chết.   Mặc dù tính tình nồng nhiệt, trong lĩnh vực tình dục ông chưa bao giờ say đắm. Nếu chọn totem (vật thờ), ắt là ông sẽ chọn hình tượng con rắn. Ông hình dung những cuộc ái ân của ông với Soraya giống như sự giao cấu của loài rắn: dài dòng, mê mải, nhưng khá buồn tẻ, khá khô khan, ngay cả những lúc hăng hái nhất.   Liệu totem của Soraya có là rắn không nhỉ? Chắc chắn với những người đàn ông khác, cô trở thành một người phụ nữ khác: một người đàn bà năng động. Có thể tin rằng với tính khí của cô, say đắm ông nhất định không phải là giả vờ.   Dẫu cho vì nghề nghiệp, cô có là người phóng túng, ông vẫn tin cậy cô trong một giới hạn nào đó. Trong những lần gặp gỡ, ông trò chuyện với cô khá thoải mái, thậm chí có lần ông còn bộc bạch nỗi niềm với cô. Cô biết nhiều sự việc trong đời ông. Cô đã nghe nhiều chuyện về hai cuộc hôn nhân của ông, biết về con gái ông và những nỗi thăng trầm của con gái ông. Cô biết nhiều quan điểm của ông.   Soraya không hề thổ lộ về cuộc sống của cô ngoài biệt thự Windsor. Soraya không phải là tên thật của cô, đó là điều chắc chắn. Có nhiều dấu hiệu chứng tỏ cô đã sinh nở hoặc có nhiều con. Có lẽ cô không phải là gái điếm chuyên nghiệp. Có thể cô làm việc cho một hãng nào đó mỗi tuần chỉ một, hai buổi; và phần còn lại là một cuộc sống đứng đắn ở vùng ngoại ô Rylands hoặc Athlone. Điều đó thật không bình thường với dân Hồi giáo, nhưng ngày nay mọi chuyện đều có thể xảy ra.   Ông ít nói về nghề nghiệp của mình, không muốn làm cô buồn chán. Ông dạy ở Trường đại học Kỹ thuật Cape, trước kia là Trường Đại học tổng hợp Cape Town. Đã có thời ông là giáo sư các ngôn ngữ hiện đại, từ khi Ngôn ngữ Cổ điển và Hiện đại bị cuộc hợp lý hóa vĩ đại bóp chết, ông là giáo sư phụ giảng môn Thông tin. Giống như tất cả những người bị hợp lý hóa, ông được mời mỗi năm dạy một lớp chuyên đề, không phải ghi vào danh sách, vì đó là thiện chí. Năm nay ông được mời dạy một lớp về Các nhà thơ Lãng mạn. Còn lại ông dạy Thông tin 101, “Kỹ năng thông tin” và Thông tin 201, “Kỹ năng thông tin tiên tiến”.   Mặc dù mỗi ngày dành nhiều giờ cho môn học mới, ông nhận thấy những tiền đề đầu tiên trong Cẩm nang Thông tin 101 thật vô lý hết sức: “ Xã hội loài người sáng tạo nên ngôn ngữ để chúng ta có thể thông báo với nhau những suy nghĩ, tình cảm và ý định”. Theo quan niệm của ông, nguồn gốc lời nói nằm trong bài hát, và nguồn gốc bài hát là từ nhu cầu lấp đầy tâm hồn quá rộng lớn và trống rỗng của loài người bằng những âm thanh.   Trong sự nghiệp trải dài một phần tư thế kỷ, ông đã xuất bản ba cuốn sách, chẳng cuốn nào gây nên tiếng vang gì: cuốn đầu tiên về opera (Truyền thuyết về Boito và Faust: Nguồn gốc của Mefistofele), cuốn thứ hai về nghe - nhìn (Cái nhìn của Richard về St. Victor), cuốn thứ ba về Wordsworth[1] và lịch sử (Wordsworth và gánh nặng của quá khứ).   Trong mấy năm gần đây ông ôm ấp ý tưởng viết một tác phẩm vể Byron. Lúc đầu ông có ý định viết một tác phẩm phê bình opera nữa. Nhưng ngay từ những dòng đầu tiên, ông đã bị sa vào cảnh tẻ ngắt. Thực ra, ông chán phê bình, chán văn xuôi dài lê thê. Thứ ông muốn viết là âm nhạc: Byron ở Italy, một khúc mộng tưởng về tình yêu khác giới dưới dạng một vở opera.   Trong lúc dạy các lớp Thông tin, những câu cú, âm điệu của bài hát trong tác phẩm chưa viết ra cứ vụt qua tâm trí ông.   Vì chẳng kính trọng gì những thứ ông giảng dạy, nên ông chẳng gây được ấn tượng gì với các sinh viên của ông. Trong lúc ông nói, họ nhìn lướt qua ông, và quên bẵng tên ông. Sự dửng dưng của họ làm ông cay đắng hơn ông thừa nhận. Dù sao thì ông cũng hoàn thành chu đáo nghĩa vụ của ông đối với họ, với bố mẹ họ và với nhà nước. Hết tháng này sang tháng khác ông sắp xếp, thu thập, giảng bài, chú giải các tiểu luận của họ, chữa dấu chấm câu, lỗi chính tả và cách dùng, chất vấn những lý lẽ không có sức thuyết phục, ký tên vào từng tờ trong bản tóm tắt, cân nhắc từng lời phê.   Ông tiếp tục giảng dạy vì nó cung cấp cho ông một kế sinh nhai; nó cũng dạy cho ông tính nhún nhường, giúp ông hiểu ông là ai trên cõi đời này. Sự trớ trêu không buông tha ông: có những người đến học được nhiều điều sâu sắc nhất trong các bài giảng của ông, trong khi những người khác đến học lại chẳng thu nhận được gì. Đây là một đặc điểm trong nghề nghiệp của ông mà ông không bình luận với Soraya. Ông cho rằng cô chẳng có sự trớ trêu nào tương xứng.     Trong bếp của căn hộ ở Green Point có một ấm đun nước, những chiếc tách nhựa, một bình cà phê tan, một bát đựng nhiều gói đường nhỏ. Tủ lạnh chứa nhiều chai nước. Phòng tắm có xà phòng và một chồng khăn mặt, trong tủ quần áo có vải trải giường sạch bằng lanh. Soraya để đồ trang điểm trong một cái túi cá nhân. Chẳng là gì hơn một nơi hẹn hò bí mật, chính thức, sạch sẽ, thu xếp cẩn thận. ... Mời các bạn đón đọc Ruồng Bỏ của tác giả John Maxwell Coetzee.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thầy Thông Ngôn
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Thầy Thông Ngôn của tác giả Hồ Biểu Chánh. Ông Hương sư Trần Văn Sắc, ở Tầm vu, có một đứa con trai tên là Trần Văn Phong, cho lên Sài Gòn học, tuổi vừa mới hai mươi mà đã thi đậu Đíp lom và được cử về Bạc Liêu làm thơ ký học tập. Cả gia đình ông Hương sư kể cả Trần văn Phong hy vọng qua đó sẽ là bức thang danh vọng cho gia đình; Phong sẽ lấy được con gái nhà giàu có. Cũng vì vậy mà Phong đã bội ước với cô Hai Liền, người mà Phong hứa sẽ cưới sau khi học thành tài. Về Bạc Liêu làm việc, ngoài dự tính của Phong, thầy thơ ký mới tập sự gặp nhiều khó khăn trong công việc. Trên tình trường, Phong xém bị lừa gạt và bị làm nhục. Thời may đưa đến, Phong quen với Hội đồng Quản hạt ở Long Xuyên vừa mới đắc cử. Phong được Hội đồng Quản hạt giới thiệu cho cưới cô Như Hoa là con gái của một nhà cực giàu trong tỉnh Châu Ðốc. Do liên hệ của Hội đồng Quản hạt, Phong được chuyển về Châu Ðốc làm thông ngôn cho chủ tỉnh. Trong khi danh vọng được lên cao thì cuộc tình duyên của Phong đưa đến đổ vở vì Như Hoa hách dịch và ngoại tình. Cuối cùng xảy ra cuộc án mạng. Như Hoa bị chết để lại một đứa con cho Phong nuôi. Buồn chán Phong trở về Tầm vu và hy vọng lập lại cuộc tình duyên với cô Hai Liền, nhưng nhiều chuyện lại xảy ra ngoài sự dự tính của Phong... *** Tóm tắt Tiểu thuyết Thầy Thông Ngôn kể về câu chuyện của Trần Văn Phong, một chàng trai trẻ tuổi, học giỏi, được gia đình gửi lên Sài Gòn học. Sau khi thi đỗ Đíp lom, Phong được cử về Bạc Liêu làm thơ ký học tập. Về Bạc Liêu, Phong gặp nhiều khó khăn trong công việc và tình trường. Phong xém bị lừa gạt và bị làm nhục. May mắn thay, Phong quen với Hội đồng Quản hạt ở Long Xuyên và được giới thiệu cho cưới cô Như Hoa, con gái của một nhà giàu có ở Châu Đốc. Phong được chuyển về Châu Đốc làm thông ngôn cho chủ tỉnh. Cuộc sống của Phong trở nên sung túc và danh vọng. Tuy nhiên, cuộc hôn nhân của Phong với Như Hoa không hạnh phúc. Như Hoa là người hách dịch, ngoại tình và cuối cùng đã bị giết chết. Phong trở về Tầm vu và hy vọng lập lại cuộc tình duyên với cô Hai Liền, người mà Phong từng hứa sẽ cưới. Tuy nhiên, cô Hai Liền đã lấy chồng khác. Phong đau khổ và quyết định đi tu. Đánh giá Tiểu thuyết Thầy Thông Ngôn là một tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao. Tác phẩm đã thể hiện được những nét đặc trưng của văn học Nam bộ giai đoạn giao thời 1900-1930. Thứ nhất, tác phẩm đã thể hiện được sự giao thoa của văn học trung đại và văn học hiện đại. Trong tác phẩm, ta vẫn thấy được những yếu tố của văn học trung đại như lối kể chuyện truyền thống, những lời bình luận của tác giả,... Tuy nhiên, bên cạnh đó, tác phẩm cũng có những yếu tố của văn học hiện đại như việc khắc họa tâm lý nhân vật, xây dựng tình huống truyện,... Thứ hai, tác phẩm đã phản ánh được những vấn đề của xã hội Nam bộ giai đoạn giao thời. Đó là những vấn đề như vấn đề người trí thức, vấn đề hôn nhân gia đình,... Thứ ba, tác phẩm đã thể hiện được tài năng của Hồ Biểu Chánh trong việc xây dựng nhân vật. Các nhân vật trong tác phẩm đều được xây dựng một cách chân thực, sinh động, có cá tính riêng. Nhân vật Trần Văn Phong là một nhân vật tiêu biểu cho thế hệ trí thức trẻ của Nam bộ giai đoạn giao thời. Phong là một người học giỏi, có chí cầu tiến nhưng lại thiếu bản lĩnh, dễ bị tha hóa bởi danh vọng và tiền bạc. Nhìn chung, tiểu thuyết Thầy Thông Ngôn là một tác phẩm đáng đọc. Tác phẩm đã góp phần làm phong phú thêm cho nền văn học Việt Nam. Đánh giá chi tiết Cốt truyện: Cốt truyện của tiểu thuyết Thầy Thông Ngôn được xây dựng theo lối truyền thống, theo mô-típ "từ thiện đến ác, từ thiện đến khổ". Tuy nhiên, tác giả đã khéo léo lồng ghép những yếu tố hiện đại vào tác phẩm, khiến cho cốt truyện trở nên hấp dẫn, lôi cuốn hơn. Nhân vật: Các nhân vật trong tiểu thuyết Thầy Thông Ngôn đều được xây dựng một cách chân thực, sinh động, có cá tính riêng. Nhân vật Trần Văn Phong là một nhân vật tiêu biểu cho thế hệ trí thức trẻ của Nam bộ giai đoạn giao thời. Phong là một người học giỏi, có chí cầu tiến nhưng lại thiếu bản lĩnh, dễ bị tha hóa bởi danh vọng và tiền bạc. Nhân vật Như Hoa là một nhân vật phản diện, là nguyên nhân dẫn đến bi kịch của Phong. Tình huống truyện: Tình huống truyện trong tiểu thuyết Thầy Thông Ngôn được xây dựng một cách hợp lý, logic. Tình huống truyện đã góp phần đẩy nhanh mạch truyện, tạo nên những xung đột, mâu thuẫn giúp cho nhân vật phát triển tính cách, thể hiện được quan điểm của tác giả. Ngôn ngữ: Ngôn ngữ trong tiểu thuyết Thầy Thông Ngôn được sử dụng một cách linh hoạt, phù hợp với từng hoàn cảnh, nhân vật. Ngôn ngữ của tác phẩm cũng được sử dụng một cách uyển chuyển, giàu hình ảnh, giúp cho tác phẩm trở nên hấp dẫn, lôi cuốn hơn. Kết luận Tiểu thuyết Thầy Thông Ngôn là một tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao. Tác phẩm đã thể hiện được những nét đặc trưng của văn học Nam bộ giai đoạn giao thời. Mời các bạn mượn đọc sách Thầy Thông Ngôn của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Thầy Chung Trúng Số
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Thầy Chung Trúng Số của tác giả Hồ Biểu Chánh. Năm 1944, đầu tháng 5, trời tối một lát thì có tiếng còi báo động thổi rang tất cả vùng Sài-Gòn, Chợ-Lớn, Gia-Định. Tuân theo luật phòng-thủ thụ-động, ai cũng lo đóng cửa tắt đèn đặng xuống hầm. Tiếng còi dứt rồi thì quang cảnh im-lìm, châu thành vắng hoe chẳng khác nào bãi sa-mạc. Cách chẳng bao lâu, mấy đoàn phi-cơ tiếp nhau bay ù-ù trên không-phận Sài-Gòn thả bom xuống nổ tưng-bừng từ Xóm-Chiếu qua phía chợ Bến-Thành làm cho nhơn-dân đều kinh hồn khiếp vía. Đến sáng người ta đồn vang có nhiều nhà tang hoang, có nhiều người vong mạng. Tôi tò-mò đi xem. Ôi thôi ! Tôi rất đau đớn mà nhận thấy tai-nạn chiến-tranh tàn khốc của thiên-hạ gây ra cho lương-dân Việt-Nam phải gánh chịu. Vừa đau lòng, vừa tức trí, tôi thả bước đi cho giải khuây, không cần tính đi đâu. Tình-cờ vô tới khúc đường Frère Louis, tôi chợt thấy một dãy phố cũ-kỹ, thấp thỏi, tôi dừng bước và ngó vào. Đây là chỗ tôi ở một thời gian, cách 34 năm về trước. Những kỷ-niệm xưa phát hiện rõ-ràng trước mắt tôi. Dãy phố 10 căn tuy cũ song vẫn còn nguyên như xưa. Căn bìa đây là căn nhà của bà Phán Lý ở. Bà là một sương phụ tuổi lối 50, bà ở với cô Thiên-Hương, con gái của bà chừng 20 tuổi, tuấn-tú dung-nhan, đoan-trang hạnh-kiểm. Bà Phán Lý luôn luôn mặc y-phục trắng bằng lụa trắng. Bà ít khi ra đường, lại cũng ít tới nhà ai mà chơi. Còn cô Thiên-Hương thì ngày như đêm cô cứ cặm-cụi thêu khăn lụa và thêu mặt giầy để gởi cho mấy tiệm bán. Căn kế đó là căn của thầy Chung ở. Thầy trẻ tuổi, đẹp trai, học đã có bằng Thành-chung mà chưa có vợ, lại mồ-côi cha mẹ, cũng không có anh em. Thầy ở đây một mình, thầy làm việc trong một nhà in lớn ở đường Kinh-Lấp, lương mỗi tháng 25 đồng. Thầy nói thầy ăn cơm tháng tại quán dì hai ở đường hẻm d’Ormay, không ai biết dì tên chi, thấy dì mập-mạp nên gọi tên dì là «Dì Hai phì lủ». Ăn cơm hai bữa, trưa được nghỉ trên lầu, phải trả cho dì mỗi tháng 10 đồng. Căn kế nữa thì vợ chồng chú thợ Tư ở. Chú làm thợ mộc trong một nhà thuốc tây ngoài đường Catinat, chú chuyên đóng thùng để gởi thuốc xuống lục tỉnh. Tôi ở căn khít với chú thợ Tư đây, ở gần hai năm êm ấm vô cùng. Còn 6 căn kế thì thầy giáo, thầy ký, thầy thông thuộc các sở ở, ai cũng có vợ như tôi, có thầy lại được mụn con nhỏ ban đêm khóc chói-lói. Hồi đó số lương của mấy thầy chỉ có vài ba chục, mỗi tháng phải trả tiền phố hết 5 đồng. May nhờ giá sanh-hoạt rẻ, lại cũng nhờ biết tiện-tặn. không coi hát bóng, không ngồi nhà hàng, nên ai cũng sống được. Lần bước về nhà, những cảnh trông thấy hôm nay, với những tưởng nhớ ngày xưa cứ trạo-trực trong trí tôi hoài, làm cho tôi ngẩn-ngơ lơ-lửng. Tối lại, ngoài sân nước mưa hè rỉ-rả không dứt. Trên án thắp đèn dầu phộng bủa yến sáng tuy không tỏ, song cũng đủ đọc sách viết văn được. Ngồi bên bóng đèn leo-lét, tôi hồi tưởng đến mấy người quen năm xưa cùng tôi chung sống trong dãy phố đường Frère Louis. Tôi nhớ chuyện thầy Chung với mẹ con bà Phán Lý, tôi bắt tức cười. Tôi cười là vì ba người nầy mường-tượng như nhơn-vật trong chuyện «La Cure de Misère“ của nhà văn-hào Pháp là François Coppé. Tôi liền lấy giấy ra viết chuyện thầy Chung, viết đặng quên thảm-họa của lương-dân vô tội mà bị sát hại rất đau, rất ức. *** Tóm tắt Tiểu thuyết Thầy Chung Trúng Số kể về câu chuyện của thầy Chung, một thanh niên trẻ tuổi, đẹp trai, học giỏi nhưng mồ côi cha mẹ, sống một mình. Thầy Chung làm việc trong một nhà in với mức lương 25 đồng/tháng. Hàng ngày, thầy ăn cơm trưa tại quán của dì Hai phì lủ. Một ngày nọ, thầy Chung đi mua sắm ở chợ thì gặp bà Phán Lý, một góa phụ có con gái xinh đẹp là Thiên Hương. Bà Phán Lý bị thu hút bởi vẻ ngoài lịch lãm của thầy Chung nên đã ngỏ ý muốn gả Thiên Hương cho thầy. Ban đầu, thầy Chung không đồng ý vì nghĩ rằng mình không xứng đáng với Thiên Hương. Tuy nhiên, sau khi nghe bà Phán Lý kể về hoàn cảnh của Thiên Hương, thầy Chung đã đồng ý. Hai người kết hôn và sống hạnh phúc bên nhau. Thầy Chung tiếp tục làm việc trong nhà in, còn Thiên Hương ở nhà chăm lo cho gia đình. Một ngày nọ, thầy Chung trúng số độc đắc với số tiền 100.000 đồng. Thầy Chung quyết định dùng số tiền này để giúp đỡ những người nghèo khó. Thầy Chung mở một trường học miễn phí cho những trẻ em nghèo. Thầy cũng quyên góp tiền để xây dựng cầu cống, đường xá, giúp đỡ những người gặp khó khăn. Sự tốt bụng của thầy Chung đã khiến cho mọi người yêu mến. Thầy được mệnh danh là “Thầy Chung trúng số”. Đánh giá Tiểu thuyết Thầy Chung Trúng Số là một tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao. Tác phẩm đã thể hiện được những nét đặc trưng của văn học Nam bộ giai đoạn giao thời 1900-1930. Thứ nhất, tác phẩm đã thể hiện được sự giao thoa của văn học trung đại và văn học hiện đại. Trong tác phẩm, ta vẫn thấy được những yếu tố của văn học trung đại như lối kể chuyện truyền thống, những lời bình luận của tác giả,... Tuy nhiên, bên cạnh đó, tác phẩm cũng có những yếu tố của văn học hiện đại như việc khắc họa tâm lý nhân vật, xây dựng tình huống truyện,... Thứ hai, tác phẩm đã phản ánh được những vấn đề của xã hội Nam bộ giai đoạn giao thời. Đó là những vấn đề như vấn đề nghèo đói, vấn đề hôn nhân gia đình, vấn đề người phụ nữ,... Thứ ba, tác phẩm đã thể hiện được tài năng của Hồ Biểu Chánh trong việc xây dựng nhân vật. Các nhân vật trong tác phẩm đều được xây dựng một cách chân thực, sinh động, có cá tính riêng. Nhìn chung, tiểu thuyết Thầy Chung Trúng Số là một tác phẩm đáng đọc. Tác phẩm đã góp phần làm phong phú thêm cho nền văn học Việt Nam. Đánh giá chi tiết Cốt truyện: Cốt truyện của tiểu thuyết Thầy Chung Trúng Số được xây dựng theo lối truyền thống, theo mô-típ "tình yêu - sóng gió - hạnh phúc". Tuy nhiên, tác giả đã khéo léo lồng ghép những yếu tố hiện đại vào tác phẩm, khiến cho cốt truyện trở nên hấp dẫn, lôi cuốn hơn. Nhân vật: Các nhân vật trong tiểu thuyết Thầy Chung Trúng Số đều được xây dựng một cách chân thực, sinh động, có cá tính riêng. Nhân vật thầy Chung là một người tốt bụng, hào phóng, luôn muốn giúp đỡ những người nghèo khó. Nhân vật Thiên Hương là một người phụ nữ xinh đẹp, dịu dàng, biết lo toan cho gia đình. Tình huống truyện: Tình huống truyện trong tiểu thuyết Thầy Chung Trúng Số được xây dựng một cách hợp lý, logic. Tình huống truyện đã góp phần đẩy nhanh mạch truyện, tạo nên những xung đột, mâu thuẫn giúp cho nhân vật phát triển tính cách, thể hiện được quan điểm của tác giả. Ngôn ngữ: Ngôn ngữ trong tiểu thuyết Thầy Chung Trúng Số được sử dụng một cách linh hoạt, phù hợp với từng hoàn cảnh, nhân vật. Ngôn ngữ của tác phẩm cũng được sử dụng một cách uyển chuyển, giàu hình ảnh, giúp cho tác phẩm trở nên hấp dẫn, lôi cuốn hơn. Kết luận Tiểu thuyết Thầy Chung Trúng Số là một tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao. Tác phẩm đã thể hiện được những nét đặc trưng của văn học Nam bộ giai đoạn giao thời 1900-1930. Tác phẩm đã góp phần làm phong phú thêm cho nền văn học Việt Nam.   Mời các bạn mượn đọc sách Thầy Chung Trúng Số của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Sống Thác Với Tình
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Sống Thác Với Tình của tác giả Hồ Biểu Chánh. Sống Thác Với Tình là tiểu thuyết thứ 63 của nhà văn Hồ Biểu Chánh, sáng tác vào năm 1957. Mời thưởng thức tác phẩm. Tóm tắt Tiểu thuyết Sống Thác Với Tình kể về câu chuyện tình yêu đầy éo le giữa hai nhân vật chính là Thanh và Mẫn. Thanh là một cô gái xinh đẹp, tài năng và có học thức. Mẫn là một chàng trai nghèo nhưng có chí cầu tiến. Hai người yêu nhau say đắm nhưng lại gặp phải nhiều trắc trở. Thanh là con gái của một gia đình giàu có. Mẹ cô là một người phụ nữ độc đoán, luôn muốn gả Thanh cho một người giàu có, có địa vị. Mẫn là con trai của một gia đình nông dân nghèo. Anh phải đi làm thuê để kiếm sống. Hai người yêu nhau nhưng không dám công khai vì sợ bị gia đình Thanh ngăn cản. Họ chỉ có thể gặp nhau trong bí mật. Một ngày, Mẫn quyết định bỏ đi để tự lập. Anh muốn có một cuộc sống ổn định để có thể cưới Thanh. Thanh đau khổ khi biết Mẫn bỏ đi. Cô tìm mọi cách để tìm gặp anh nhưng không được. Mẹ Thanh vì muốn ép Thanh lấy chồng giàu nên đã bắt cô uống thuốc độc. Thanh may mắn được cứu sống nhưng cô bị câm. Mẫn sau khi tự lập đã trở thành một người giàu có. Anh tìm gặp Thanh nhưng Thanh không nhận ra anh. Mẫn đau khổ nhưng vẫn không bỏ cuộc. Anh tiếp tục tìm cách giúp Thanh lấy lại giọng nói. Cuối cùng, nhờ sự giúp đỡ của một thầy lang, Thanh đã lấy lại được giọng nói. Cô nhận ra Mẫn và hai người đã đoàn tụ. Đánh giá Tiểu thuyết Sống Thác Với Tình là một tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao. Tác phẩm đã thể hiện được những nét đặc trưng của văn học Nam bộ giai đoạn giao thời 1900-1930. Thứ nhất, tác phẩm đã thể hiện được sự giao thoa của văn học trung đại và văn học hiện đại. Trong tác phẩm, ta vẫn thấy được những yếu tố của văn học trung đại như lối kể chuyện truyền thống, những lời bình luận của tác giả,... Tuy nhiên, bên cạnh đó, tác phẩm cũng có những yếu tố của văn học hiện đại như việc khắc họa tâm lý nhân vật, xây dựng tình huống truyện,... Thứ hai, tác phẩm đã phản ánh được những vấn đề của xã hội Nam bộ giai đoạn giao thời. Đó là những vấn đề như vấn đề hôn nhân gia đình, vấn đề người phụ nữ,... Thứ ba, tác phẩm đã thể hiện được tài năng của Hồ Biểu Chánh trong việc xây dựng nhân vật. Các nhân vật trong tác phẩm đều được xây dựng một cách chân thực, sinh động, có cá tính riêng. Nhìn chung, tiểu thuyết Sống Thác Với Tình là một tác phẩm đáng đọc. Tác phẩm đã góp phần làm phong phú thêm cho nền văn học Việt Nam. Đánh giá chi tiết Cốt truyện: Cốt truyện của tiểu thuyết Sống Thác Với Tình được xây dựng theo lối truyền thống, theo mô-típ "tình yêu - sóng gió - hạnh phúc". Tuy nhiên, tác giả đã khéo léo lồng ghép những yếu tố hiện đại vào tác phẩm, khiến cho cốt truyện trở nên hấp dẫn, lôi cuốn hơn. Nhân vật: Các nhân vật trong tiểu thuyết Sống Thác Với Tình đều được xây dựng một cách chân thực, sinh động, có cá tính riêng. Nhân vật Thanh là một cô gái xinh đẹp, tài năng và có học thức. Cô là hiện thân cho những người phụ nữ Việt Nam thời xưa, luôn khao khát được yêu thương và hạnh phúc. Nhân vật Mẫn là một chàng trai nghèo nhưng có chí cầu tiến. Anh là hiện thân cho những người đàn ông Việt Nam thời xưa, luôn kiên trì, nỗ lực để đạt được ước mơ của mình. Tình huống truyện: Tình huống truyện trong tiểu thuyết Sống Thác Với Tình được xây dựng một cách hợp lý, logic. Tình huống truyện đã góp phần đẩy nhanh mạch truyện, tạo nên những xung đột, mâu thuẫn giúp cho nhân vật phát triển tính cách, thể hiện được quan điểm của tác giả. Ngôn ngữ: Ngôn ngữ trong tiểu thuyết Sống Thác Với Tình được sử dụng một cách linh hoạt, phù hợp với từng hoàn cảnh, nhân vật. Ngôn ngữ của tác phẩm cũng được sử dụng một cách uyển chuyển, giàu hình ảnh, giúp cho tác phẩm trở nên hấp dẫn, lôi cuốn hơn. Kết luận Tiểu thuyết Sống Thác Với Tình là một tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao. Tác phẩm đã thể hiện được những nét đặc trưng của văn hóa Nam Bộ.   Mời các bạn mượn đọc sách Sống Thác Với Tình của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Một Đời Tài Sắc
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Một Đời Tài Sắc của tác giả Hồ Biểu Chánh. Năm 1929 tháng Juillet. Mưa dầm dề luôn mấy ngày, rồi một buổi chiều sớm mơi, bầu trời thanh bạch, mặt trời ló ra chói nắng sáng lòa. Cây cối bị ướt loi ngoi mấy bữa, nay gặp nắng lại, giũ lá phơi ngành, trổ bông đâm tược, từ ngoài ruộng vô tới trong vườn, khoe một màu xanh lặc lìa, coi thiệt là khỏe mắt. Ông Hội đồng Võ Kế Nghiệp, nhà ở làng Phú Lợi gần chợ Cái Tắc, thuộc tỉnh Cần Thơ, có tánh hay trồng bông trồng kiểng; mấy bữa rày bị mưa, ông không chăm sóc kiểng vật của ông được, nay thấy trời nắng, ông mới bước ra sân. Con gái lớn của ông là Võ Thị Xuân Hương, 18 tuổi, học trên Sài Gòn, thi đậu, ông mới rước về, cô cũng đi theo ông ra ngoài sân mà thăm hoa xem kiểng. Ông hội đồng tay cầm cái kéo nhỏ, đi vòng theo mấy chậu bùm sụm, quít tàu, càng thăng mà hớt đọt bắt sâu. Cô Xuân Hương thì đi dài theo mấy liếp bông hường, lo chỏi mấy nhánh bị mưa oằn, gặp cái bông nào tốt thì cô cầm mà coi, mặt gần bông, bông giọi mặt. Mặt càng đẹp, bông càng xinh. Thình lình nghe có tiếng xe hơi ồ ồ ở xa chạy lại, tới ngang cửa, xe chạy chậm rồi quanh vô sân. Ông hội đồng ngó ra rồi nói với con rằng: „Xe nầy của ông Cai Tổng bên Thạnh Hòa mà". Xe ngừng giữa sân, hai vợ chồng ông Cai Tổng Hà Thiện Bình leo xuống. Ông hội đồng bước tới chào mừng. Cô Xuân Hương cũng lại gần chấp tay cúi đầu thi lễ. Bà Cai Tổng Bình ngó cô Xuân Hương và hỏi rằng: - Bày trẻ ở nhà coi nhựt trình nói con thi đậu bằng cấp gì đó rồi phải hôn? - Dạ thưa phải. Con thi đậu „Brevet Élémentaire". - Giỏi à! Bác nghe nói nên lật đật qua đây mà mừng cho con. Thằng Ý ở bên Tây nó cũng đậu Tú Tài kỳ nhì rồi, nó mới đánh dây thép về hôm qua. Có má con ở nhà hôn? - Thưa có. Ông Cai Tổng Bình tiếp hỏi Xuân Hương rằng: - Con đậu „Brevet Elémentaire" rồi con tính đi học nữa hay là thôi? - Thưa, con tính xin với má cho con học thêm ít năm nữa đặng thi „Brevet Supérieur". - Được a. Con học được thì học luôn cho đến cùng. Thằng Ý đậu Tú Tài rồi nó tính học luật. Học luật phải học 3 năm nữa mới được Cử Nhơn. Ông Hội đồng Nghiệp mời khách vô nhà. Bà hội đồng nghe nói có hai vợ chồng ông Cai Tổng Bình qua thì bước ra cửa mà tiếp chào. Ông Cai Tổng Hà Thiện Bình, nhà ở làng Thạnh Hòa, thuộc tỉnh Rạch Giá dựa bên cái lộ mới Long Xuyên - Rạch Giá kêu là lộ Cái Sắn. Ông Cai Tổng với ông Hội đồng Nghiệp vốn là bạn đồng hương, hai người hồi nhỏ ở Thục Nhiêu, thuộc tỉnh Mỹ Tho. Ông Hội đồng là con nhà giàu, rủi chừng ông cưới vợ rồi, cha mẹ lại suy sụp, gia tài bị chủ nợ thi hành phát mãi hết, ông phải qua Cái Tắc theo ở quê vợ mà nương dựa làm ăn. Ông lặn lội nhen nhúm lần lần, lại nhờ tám chín năm nay lúa gạo cao giá luôn luôn, ông dùng ít mà gây ra nhiều, nên hiện bây giờ ông có một cái nhà tốt mới cất tốn trên 12 ngàn đồng bạc lại có gần 100 mẫu ruộng trong làng Phú Lợi, 200 mẫu trong Kinh Xà No, và mới đấu giá mua thêm 200 mẫu bên làng Thạnh Hòa, thuộc hạt Rạch Giá nữa. Ông mới 42 tuổi, vợ chồng sanh được ba đứa con, đứa lớn là cô Xuân Hương đã thấy đó rồi, đứa giữa, con trai mới 15 tuổi học Tú Tài năm thứ tư, tại trường Chasseloup Laubat, còn đứa út cũng con trai, còn học tại Cần Thơ. Còn ông Cai Tổng Bình hồi trước thiệt tên Huỳnh, làng cử ông làm thôn Trưởng, ông xài thâm công nho hơn 1.000 đồng bạc, sợ tội nên bỏ xứ dắt vợ con mà trốn, để cho hương chức Hội tề giăng tay đậu tiền bồi thường. Vô Rạch Giá ông đổi tên lại là Hà Thiện Bình, nương náu ở làng Thạnh Hòa mà làm ruộng, lần lần ông mua điền khẩn đất, trở nên một người giàu, ra làm làng rồi lên chức Cai tổng. Ông năm nay đã hơn 55 tuổi rồi, có bốn người con, người con lớn đương làm Nghị Viên Hội Đồng địa hạt trong Rạch Giá, người kế đó là cậu Hà Thiện Ý 22 tuổi, học bên Tây, một người 18 tuổi, một người 16 tuổi, thôi học ở nhà mà chưa hứa gả nơi nào. Tuy ông Hội đồng với ông Cai tổng ở xa nhau, lại niên kỷ bất đồng, song thuở nay hai nhà thân thiện với nhau lắm, hay giúp đỡ nhau, hay tới lui thăm nhau, lại thường tính chừng Thiện Ý và Xuân Hương lớn khôn, thì hai nhà sẽ làm sui với nhau. Chủ khách gặp nhau mừng rỡ cùng dắt nhau vô nhà, rồi ông Hội đồng với ông Cai tổng thì ngồi bộ ghế giữa, còn hai bà thì ngồi tại bộ ván cẩm lai lót gần đó. Cô Xuân Hương lo trầu nước đãi khách, cô ra vô lăng xăng, mặt tươi cười, bộ nhâm nhẹ, tư cách phải là gái tân học, mà nết na cũng phải là con nhà giàu. Bà Cai tổng ngó theo cô hoài rồi bà nói với bà Hội đồng rằng: - Con nhỏ năm nay nó lớn đại. Nè, tôi nói với thím nó a, phải chờ thằng Ý tôi, chớ đừng có gả chỗ khác tôi không nghe cho mà coi. - Ai mà gả! Anh chị đã nói từ hồi nào tới giờ, gả chỗ khác sao được. Có sợ là sợ cậu Ý ở bển rồi cậu cưới đầm chớ. - Đâu có vậy! Vợ chồng tôi có nói trước cho nó biết rồi mà. - Ờ! Tôi quên nói cho chị hay nữa chớ. Hôm tháng giêng tôi có bịnh, tôi nghe nói ông Bình ngoài Cần Thơ hay lắm, tôi ra tôi cầu đặng xin thuốc. - Xác ông Quan Bình phải hôn? Tôi cũng nghe họ đồn hay lắm. - Thưa phải. Bận đó sẵn có con Xuân Hương bãi trường nên nó ở nhà, tôi biểu nó đi với tôi. Ra đó coi cho tôi rồi, luôn dịp coi cho nó nữa. Nè, ông Bình coi cho nó, ổng nói kỳ lắm chị. - Nói làm sao? - Ổng nói nó thông minh, học giỏi lắm, năm nay nó thi đậu, mà sau nó còn đậu một bằng cấp lớn hơn nữa. Tôi hỏi tới căn duyên của nó, thì ổng nói nó vốn tiên phong đạo cốt nên chừng nó lớn khôn không ham phú quí vinh huê, lại ngao ngán nhơn tình thế tục. Cuối 21 bước qua 22 tuổi thì nó có chồng, nhưng mà nó có chồng có con rồi thì nó lại tu. Nói năm thi đậu trúng rồi, còn sau nữa thì không biết ra sao. Mời các bạn mượn đọc sách Một Đời Tài Sắc của tác giả Hồ Biểu Chánh.