Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lời Thì Thầm Trong Đêm

Sau ba mươi năm lớn lên trong tình thương của người mẹ, nữ cảnh sát Sloan Reynolds nhận được một cuộc gọi yêu cầu cô đến gia nhập với cha và chị cô ở biệt thự riêng của gia đình Reynolds trên bãi biển Palm Beach. Cùng lúc đặc vụ FBI, Paul Richardson (trong Perfect – Định Mệnh) tìm đến cô và muốn cô giúp họ đến gần để theo dõi những hoạt động trái phép của ông. Sloan đồng ý chấp nhận lời mời của gia đình, giả làm nhà thiết kế nội thất để che giấu nghề nghiệp thực sự, và đưa theo đặc vụ FBI như là bạn trai của cô. Nhưng Sloan không hề biết rằng người mà FBI thật sự muốn đóng đinh lại là một người khác. Khi đến đó, cô thấy mình bị Noah Mailand (người anh trai giàu có và nổi tiếng của Courtney Maitland trong SOTWOM) thu hút một cách mạnh mẽ, trái ngược với những bản năng của cô. Nhưng anh lại là người mà cha cô đã nhắm cho chị cô kết hôn. Cô cũng không hề biết rằng những cung cấp mà cô đưa cho Cục điều tra liên bang là những bằng chứng buộc tội chống lại anh. Khi một vụ mưu sát bất ngờ xảy ra bẻ gãy bề ngoài quyến rũ của tiền bạc và sức hấp dẫn xung quanh cô, Sloan phải đưa mình qua mê cung của những sự lừa dối và đam mê, để tìm người mà mình tin tưởng - và giải mã sự thật đằng sau những lời thì thầm khủng khiếp trong bóng đêm. *** JUDITH McNAUGHT (1944) được xem là một trong những tác giả được yêu thích nhất mọi thời đại với thể loại tiểu thuyết lãng mạn cổ điển. Trước khi bước vào sự nghiệp viết lách, McNaught đã thành công trong lĩnh vực phát thanh, điện ảnh và tài chính. Bà đã quyên góp và làm rất nhiều việc từ thiện. Judith McNaught hiện đang sống ở Houston, Texas. Tác phẩm: Hơn Cả Tuyệt Vời Như Cõi Thiên Đường 11 Năm chờ 11 Tuần yêu Ai Đó Dõi Theo Em Whitney Yêu Dấu Vương Quốc Của Những Giấc Mơ Em Có Để Ta Hôn Em Không? Hạnh Phúc Nhân Đôi Tender Triumph Trong Từng Hơi Thở Tiếng Sét Xanh Định Mệnh Yêu Em Cho Đến Hơi Thở Cuối Cùng Một Lần Và Mãi Mãi Điều Kỳ Diệu Remember When Thiên Đường Whiney Yêu Dấu Lời Thì Thầm Trong Đêm ... *** Hắn đã theo cô ba ngày, theo dõi. Chờ đợi. Bây giờ, hắn biết thói quen và giờ giấc của cô. Hắn biết cô thức dậy lúc mấy giờ vào buổi sáng, gặp ai vào ban ngày, và đi ngủ lúc mấy giờ. Hắn biết cô đọc sách trên giường vào ban đêm, nằm kê đầu trên gối. Hắn biết tên cuốn sách cô đang đọc, và cô đặt nó úp xuống trên bàn đầu giường trước khi cuối cùng cô tắt đèn. Hắn biết mái tóc vàng dày của cô là tự nhiên và màu mắt xanh-tím của cô không phải là kết quả của kính áp tròng. Hắn biết cô mua đồ trang điểm ở hiệu thuốc và cô sử dụng chính xác hai mươi lăm phút để chuẩn bị đi làm vào buổi sáng. Rõ ràng là cô quan tâm trong việc giữ sạch sẽ và gọn gàng hơn là cải thiện bề ngoài của mình. Hắn, tuy nhiên, quan tâm rất nhiều đến bề ngoài của cô. Nhưng không phải là vì sự đòi hỏi và cho những lý do "thông thường". Lúc đầ u, hắn đã chú ý giữ cô trong tầm mắt trong khi vẫn đảm bảo là cô không nhận thấy hắn, nhưng sự đề phòng của hắn là do thói quen hơn là do cần thiết. Với dân số 150,000 người, 15,000 người trong số đó là sinh viên đại học, thành phố nhỏ của Bell Harbor ở bờ biển phía đông Florida đủ lớn cho một người lạ có thể đi lại mà không bị phát hiện trong số dân địa phương, nhưng không lớn đến nỗi hắn sẽ mất con mồi của hắn trên những xa lộ và giao lộ rối rắm. Hôm nay h ắn đã theo dấu cô đến công viên thành phố, nơi hắn đã sử dụng một buổi chiều tháng Hai êm dịu, nhưng tẻ nhạt, bị vây quanh bởi những người lớn uống bia vui vẻ và những đứa trẻ ồn ào điếc tai đến đó để tận hưởng buổi dã ngoại và lễ hội nhân ngày Lễ Tổng Thống. Hắn không thích đám con nít xung quanh hắn, đặc biệt là những đứa con nít với đôi tay dơ bẩn và khuôn mặt nhem nhuốc chạy vấp qua chân hắn khi chúng rượt đuổi nhau. Chúng gọi hắn, "Này, chú ơi!" và yêu cầu hắn ném lại trái banh bóng chày bị đánh văng ra ngoài cho chúng. Những trò hề của chúng làm hắn chú ý thường xuyên đến nỗi hắn đã bỏ vài băng ghế thoải mái và bây giờ buộc phải tìm nơi trú ẩn giấu mình bên dưới một cái cây có thân cây gồ ghề không được thoải mái khi tựa vào và những rễ dày xù xì dày nổi lên mặt đất bên dưới nó là bất khả. Mọi thứ đang bắt đầu làm hắn bực bội, và hắn nhận ra rằng sự kiên nhẫn của hắn đã kết thúc. Cả chuyện theo dõi và chờ đợi cũng vậy. Để kiềm tánh nóng nảy của mình, hắn duyệt qua kế hoạch hắn dành cho cô trong khi xoay sự chú ý đầy đủ đến con mồi của hắn. Lúc này, Sloan đang leo xuống từ những nhánh cây của một thân cây to cao mà cô đang cố gắng thu hồi một con diều trông giống như một chim ưng đen với cặp cánh duỗi ra, trên đầu cánh có màu vàng tươi. Ở gốc cây, một nhóm trẻ con năm, sáu tuổi đang reo hò cổ vũ. Đằng sau họ là một nhóm thanh niên. Những đứa trẻ quan tâm đến chuyện lấy lại con diều của chúng ; các chàng thanh thiếu niên chú mục đến đôi chân rám nắng xinh đẹp của Sloan Reynolds ló ra một cách chậm chạp từ nhánh cây trên. Các chàng trai huých khuỷu tay nhau và nhìn chằm chằm vào cô, và hắn hiểu nguyên nhân gây ra chấn động nhỏ đối với các cậu thanh niên: nếu cô là nữ sinh viên hai mươi tuổi, đôi chân đó sẽ đáng được chú ý, nhưng trên thân thể của một cảnh sát ba mươi tuổi, chúng là một hiện tượng. Thông thườ ng, hắn bị thu hút đến những người phụ nữ cao, đầy khêu gợi, nhưng người phụ nữ này chỉ cao 1.63 mét với bộ ngực nhỏ gọn, thân hình mảnh khảnh, duyên dáng và gọn gàn mặc dù không khêu gợi. Cô không phải là ứng cử viên cho một tấm ảnh màu giữa cuốn tạp chí, nhưng trong cái quần soóc ka ki và áo sơ mi trắng tinh, với mái tóc vàng buộc kiểu tóc đuôi gà, cô có vẻ khỏe mạnh tươi tắn và ngăn nắp, cô đã hấp dẫn hắn trong thời gian hiện tại. Một tiếng thét từ sân bóng chày làm hai trong số các chàng trai xoay đầu và nhìn về phía hắn, hắn nâng cao ly xô đa cam lên miệng để che giấu khuôn mặt của mình, nhưng cử chỉ đó là tự động hơn là cần thiết. Cô đã không để ý đến hắn trong ba ngày qua khi hắn theo dõi cô từ các ngưỡng cửa và những con hẻm, vì thế cô sẽ không thấy bất cứ thứ gì tai hại về một người đàn ông cô độc trong công viên đang có nhiều công dân tôn trọng luật pháp tụ tập để hưởng thụ thức ăn miễn phí và triển lãm, dù là cô có để ý đến hắn đi nữa. Thực ra, hắn nghĩ với nụ cười tự mãn bên trong, cô lơ là một cách khó tin và ngốc nghếch bất cứ khi nào cô được nghỉ. Cô không nhìn qua vai khi nghe bước chân của hắn vào một đêm nọ; thậm chí cô cũng không khóa xe khi đậu nó. Giống như bất kỳ cảnh sát tỉnh lẻ nào, cô cảm thấy an toàn một cách sai lầm trong thành phố của cô, việc không thể bị tổn thương đi cùng với phù hiệu mà cô đang đeo và cây súng mà cô đang mang, và những bí mật nhớp nhúa của công dân mà cô biết. Cô không có bí mật với hắn, tuy nhiên. Chưa đầy 72 tiếng đồng hồ, hắn đã có tất cả tài liệu thống kê quan trọng về cô - tuổi tác, chiều cao, số giấy phép lái xe, tài khoản ngân hàng, thu nhập hàng năm, địa chỉ nhà – những loại thông tin đó rất dễ tìm được trên Internet đối với bất cứ ai biết chỗ tìm. Trong túi hắn là hình của cô, nhưng tất cả các thông tin kết hợp lại thì rất nhỏ so với những gì hắn bây giờ mới biết. H ắn uống một ngụm xô đa cam hơi ấm khác, đè nén sự sốt ruột khác đang dâng cao. Đôi khi, cô rất thẳng thắng, rất nghiêm túc và có thể tiên đoán được, điều đó làm hắn thích thú; những lúc khác, cô bốc đồng một cách bất ngờ, làm cô không thể dự đoán được, và những thứ không thể dự đoán được thì rất mạo hiểm, nguy hiểm, cho hắn. Rồi hắn tiếp tục chờ đợi và theo dõi. Trong ba ngày qua h ắn đã thu thập tất cả những thứ lặt vặt bí ẩn, bình thường sẽ làm thành một người phụ nữ, nhưng trong trường hợp của Sloan Reynolds, bức tranh vẫn còn mờ nhạt, phức tạp, khó hiểu. N ắm chặt con diều trong tay trái, Sloan cẩn thận leo xuống nhánh cây thấp nhất ; sau đó nhảy xuống đất và đưa con diều cho chủ nhân của nó giữa tiếng thét gào của những tiếng "Yea!" và tiếng những bàn tay nhỏ vỗ tay một cách phấn khởi. "Trời ơi, cám ơn, Sloan !" Kenny Landry nói, ửng hồng mặt với sự thích thú và ngưỡng mộ khi nó lấy con diều của nó. Hai cái răng cửa của Kenny bị trống, làm cho nó nói ngọng, cả hai có vẻ làm cho nó rất dễ mến đối với Sloan, người đã cùng đến trường trung học với mẹ nó. "Mẹ cháu sợ cô sẽ bị thương, nhưng cháu dám cá là cô không bao giờ cảm thấy sợ hãi." Th ực ra thì, Sloan đã vô cùng sợ hãi trong hành trình leo xuống qua các nhánh cây, sợ rằng cái quần soóc của cô sẽ mắc vào một nhánh cây, kéo nó lên, và để lộ quá nhiều chân của cô.  "Ai cũng sợ cái gì đó," Sloan nói với nó, cố nén thôi thúc ôm nó và làm nó xấu hổ bởi sự âu yếm nơi công cộng. Thay vào đó cô vò rối mái tóc nâu của nó. "Cháu bị rơi từ trên cây xuống một lần !" cô bé mặc cái quần soóc màu hồng và áo thun ngắn tay màu hồng và trắng thú nhận, quan sát Sloan với vẻ kính phục. "Cháu bị đau nữa, trên khuỷu tay của cháu," Emma rụt rè nói thêm. Cô bé có mái tóc ngắn, đỏ quăn, nhiều tàn nhang trên cái mũi nhỏ của nó, và một con búp bê trong vòng tay.  Butch Ingersoll là đứa trẻ duy nhất không muốn gây ấn tượng. "Con gái lẽ ra phải chơi búp bê," cậu nhỏ thông báo với Emma. "Con trai mới leo cây." "Cô giáo của tớ nói cô Sloan là một người hùng thực sự," cô bé tuyên bố, ôm con búp bê thậm chí càng chặt hơn, như thể nó mang lại cho cô bé lòng can đảm để lên tiếng. Cô bé nâng mắt đến Sloan và thốt ra, "cô giáo của cháu nói cô đã liều thân để có thể cứu đứa bé ngã xuống giếng." "Cô giáo của cháu rất tử tế," Sloan nói khi cô nhặt cọng dây thả diều nằm trên bãi cỏ và bắt đầu cuộn nó thành cuộn trên ngón tay của cô. Mẹ của Emma đã từng là một người bạn học khác của Sloan, và khi cô liếc nhìn từ Kenny đến Emma, Sloan không thể quyết định đứa trẻ nào đáng yêu hơn. Cô đã đến trường với hầu hết cha mẹ của những đứa trẻ này, và khi cô cười với những khuôn mặt nhỏ nhắn đó, những khuôn mặt thích thú đang nhìn cô gợi cho cô nhớ sâu sắc về những người bạn học cũ. B ị vây quanh bởi con cái của đám bạn học và bạn bè của mình, Sloan cảm thấy đau nhói một nỗi ước ao có một đứa con cho riêng mình. Vào năm ngoái, mong muốn có một thằng bé hay cô bé của riêng mình để ẵm bồng, yêu thương và đưa đến trường đã phát triển thành một nhu cầu, và nó đang càng lúc càng gia tăng với tốc độ và sức mạnh đáng sợ. Cô muốn cô bé Emma hoặc cu cậu Kenny của riêng cô để ôm chặt, thương yêu và dạy dỗ. Không may là sự mong muốn đầu hàng cuộc sống cho một người chồng đã không gia tăng chút nào. Thực ra là ngược lại. Nh ững đứa trẻ khác đang quan sát Sloan với vẻ tôn sùng, nhưng Butch Ingersoll kiên quyết không gây ấn tượng. Cha và ông nội của nó đã từng là ngôi sao bóng đá của trường trung học. Mới sáu tuổi, Butch không chỉ có thân hình to lớn của họ, mà còn thừa hưởng cả cái cằm vuông và vẻ bảnh bao nữa. Ông của nó là cảnh sát trưởng và là cấp trên của Sloan. Nó chìa cái cằm ra nhắc Sloan nhớ một cách mạnh mẽ về Cảnh sát trưởng Ingersoll. "Ông cháu đã nói bất cứ cảnh sát nào cũng có thể cứu nguy đứa bé đó, cũng giống như cô đã làm, nhưng mấy chú ở đài truyền hình làm mọi chuyện lớn lên vì cô là nữ cảnh sát." M ột tuần trước đây, Sloan đã ra ngoài khi có một cuộc điện thoại báo có một đứa bé mới chập chững biết đi bị mất tích và cuối cùng là leo xuống giếng để cứu nó. Đài truyền hình ở địa phương đã bắt được câu chuyện về đứa bé mất tích, rồi giới truyền thông Florida lại chộp được câu chuyện về sự giải cứu. Ba tiếng đồng hồ sau khi cô leo xuống giếng và trải qua thời gian kinh hoàng nhất trong đời mình, Sloan đã nổi lên như một "nữ anh hùng." Dơ dáy và kiệt sức, Sloan đã được chào đón bằng những tiếng reo hò điếc tai từ công dân ở Bell Harbor đã tụ tập lạ để cầu nguyện cho sự an toàn của đứa bé và tiếng hét từ các phóng viên đã tập hợp lại để cầu nguyện cho cái gì đó đủ lý thú để nâng cao tỷ suất người xem đài của họ. Sau m ột tuần, sự xôn xao và tiếng tăm cuối cùng bắt đầu lắng xuống, nhưng không đủ nhanh đối với Sloan. Cô thấy vai trò ngôi sao của giới truyền thông và nữ anh hùng ở địa phương không những không phù hợp một cách khôi hài mà còn làm cho cô rất bối rối. Ở một bên quang phổ, cô phải đối mặt với công dân của Bell Harbor bây giờ coi cô khi một nữ anh hùng, một biểu tượng, một tấm gương cho phụ nữ. Mặt khác, cô phải đối phó với cảnh sát trưởng Ingersoll, người ông năm mươi lăm tuổi theo chủ nghĩa sô vanh của Butch, người xem những lời ca ngợi không có chủ tâm về Sloan như là "cố tình dàn dựng" và sự hiện diện của cô trong lực lượng cảnh sát của ông là một sự sỉ nhục đến nhân phẩm của ông, một sự thách thức đến quyền lực của ông, và một gánh nặng mà ông buộc phải mang cho đến khi ông có thể tìm cách để dứt bỏ cô.  Bạn thân của Sloan, Sara Gibbon, đến hiện trường chỉ khi Sloan quấn xong đoạn dây diều cuối cùng vào một cái ống tạm, cái mà cô trao cho Kenny với nụ cười. "Mình nghe ti ếng reo hò và vỗ tay," Sara nói, nhìn Sloan rồi nhìn đám nhỏ rồi đến con diều hình chim ưng với cái cánh vàng bị gãy. "Chuyện gì xảy ra với con diều của cháu vậy, Kenny ?" Sara hỏi. Cô mỉm cười với cậu bé và mặt nó sáng bừng lên. Sara có sức ảnh hưởng đến phái nam ở mọi lứa tuổi. Với mái tóc nâu vàng bóng cắt ngắn của cô, đôi mắt xanh lấp lánh, và những đặc điểm xinh xắn, Sara có thể làm cho đàn ông khựng lại với chỉ một cái liếc nhìn.  "Nó bị kẹt trên cây." "Đúng, nhưng cô Sloan đã lấy nó xuống," Emma cắt ngang một cách phấn khởi, chỉ một ngón trỏ nhỏ mũm mĩm lên cây. "Cô ấy đã leo lên đến đỉnh," Kenny chêm vào, "và cô ấy đã không sợ, vì cô ấy rất dũng cảm." Sloan c ảm thấy – như một người mẹ tương lai một ngày nào đó - cô cần chỉnh sửa ấn tượng đó của những đứa trẻ. "Dũng cảm không có nghĩa là cháu không bao giờ sợ. Dũng cảm có nghĩa là, mặc dù cháu sợ, cháu vẫn làm chuyện nên làm. Chẳng hạn như," cô nói, chuyển nụ cười đến đám nhỏ, "các cháu dũng cảm khi các cháu nói sự thật mặc dù các cháu sợ là mình có thể gặp rắc rối. Điều đó là thật sự, thật sự dũng cảm đấy." S ự xuất hiện của chú hề Clarence với một nắm bong bóng khổng lồ làm cho bọn trẻ cùng nhau quay đầu lại, và vài người trong số chúng ngay lập tức bỏ chạy láo nháo, chỉ còn lại Kenny, Emma, và Butch ở lại. "Cám ơn cô đã lấy con diều của cháu xuống," Kenny nói với một nụ cười không răng, dễ mến khác của nó. "Không có chi," Sloan nói, đè nén thôi thúc kéo nó vào cánh tay củ a cô và ôm chặt nó – dù là với cái áo dơ bẩn, khuôn mặt lắm lem, và tất cả. Ba đứa trẻ quay lưng và rồi bỏ đi, tranh cãi ồn ào về mức độ can đảm của Sloan.  "Cô McMullin nói đúng. Cô Sloan thực sự, thực sự là một anh hùng," Emma tuyên bố. "Cô ấy thật sự, thực sự dũng cảm," Kenny công bố. Butch Ingersoll c ảm thấy buộc phải thẩm định và giới hạn lời khen "cô ấy dũng cảm so với một cô gái," cậu ta công bố một cách mạnh mẽ, gợi cho Sloan nhớ thậm chí càng mạnh mẽ hơn về Cảnh sát trưởng Ingersoll.  Một cách kỳ lạ, cô bé Emma nhút nhát cảm thấy đó là lời sỉ nhục. "Con gái cũng dũng cảm y như con trai vậy." "Họ không có! Cô ấy thậm chí không nên làm cảnh sát. Đó là công việc của đàn ông. Đó là lý do tại sao họ gọi là cảnh sát (policeman)." Emma phật ý dữ dội với lời sỉ nhục cuối cùng này đối với nữ anh hùng của cô bé. "Mẹ tớ," cô bé gào lên, "nói rằng cô Sloan Reynolds nên làm cảnh sát trưởng!" "Ồ, vậy sao ?" Butch Ingersoll phản kích. "Ừm, ông của tao là cảnh sát trưởng đấy, và ông tao nói cô ấy thật phiền toái (là cái mụt nhọt trên mông ! Ông tao nói cô ấy nên lấy chồng và sinh con. Đó là điều con gái sanh ra để làm!" Emma m ở miệng định phản đối nhưng không thể nghĩ được làm thế nào. "Tớ ghét cậu, Butch Ingersoll," thay vào đó cô bé kêu lên, và bỏ chạy, nắm chặt con búp bê – một người bênh vực nữ quyền với đôi mắt ngấn lệ.  "Mày không nên nói như vậy chứ," Kenny cảnh báo. "Mày đã làm cho nó khóc." "Ai thèm quan tâm chứ?" Butch nói – một kẻ cố chấp với thái độ y như ông của nó. "Nếu ngày mai mày thật dễ thương với nó, có lẽ nó sẽ quên những điều mày đã nói," Kenny quả quyết – một nhà chính trị, như cha nó. Mời các bạn đón đọc Lời Thì Thầm Trong Đêm của tác giả Judith McNaught.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hồ Sơ Tội Phạm - Diệp Mộc Nhiên
Tâm lý học tội phạm bao hàm một phạm vi rất rộng gồm nhiều chủ đề hấp dẫn. Suốt nhiều thế kỷ qua, con người đã luôn hứng thú với tội ác, và trong hàng trăm năm gần đây, tâm lý học đã phát triển từ một một môn học non nớt thành một một bộ phận trọng yếu trong cuộc sống. Ở một vài nước trên thế giới (như Mỹ, Anh Quốc), tâm lý học nằm trong top 3 môn học phổ biến được nhiều sinh viên chọn học nhất ở trường đại học và cao đẳng. Tâm lý học bây giờ đã được công nhận là có mối liên hệ bậc nhất với nhiều khía cạnh của cuộc sống, đặc biệt với những tội phạm, tù nhân, cảnh sát, nhân chứng và tòa án. Cuốn sách này được viết cho cộng đồng nói chung, những ai có mong muốn hiểu thấu đáo hơn về tâm lý học tội phạm hơn là những kiến thức từ phương tiện truyền thông phổ biến như báo chí và truyền hình. Trong cuốn sách này, chúng tôi giải thích bằng một cách thân thiện, dễ hiểu đối với độc giả về nền tảng của tâm lý học tội phạm hiện đại. Do đó cuốn sách sẽ phù hợp với những ai có sở thích bắt đầu nghiên cứu về tâm lý học tội phạm. *** Hồ Sơ Tội Phạm 1 Chủ Đề: Triệu Chứng Chung Của Người Bị Biến Thái Nhân Cách Tội Phạm Biến Thái Top 5 Nữ Đồ Tể Khét Tiếng Nhất Trong Lịch Sử Nhân Loại Biến Thái Quá Trình Thiết Lập Hồ Sơ Tội Phạm Lập Hồ Sơ Tội Phạm Dựa Theo Địa Lý Vùng Gây Án (Geographic Profiling) Phần 1 Thái Nhân Cách - Trừng Phạt Chẳng Có Nghĩa Gì Tâm Lý Kẻ Sát Nhân Hàng Loạt - "Mục Tiêu Danh Vọng" Lý Do Những Đứa Trẻ Lại Giết Cha Mẹ Chúng? (Phần 1) Lý Do Những Đứa Trẻ Lại Giết Cha Mẹ Chúng? (Phần 2) Những "Bậc Thầy" Của Những Tên Sát Nhân Mô Phỏng Tội Phạm Cũng "Quan Trọng Tiểu Tiết" Cách Những Kẻ Lừa Đảo Ẩn Mình Dưới Con Mắt Người Thường Những Tội Phạm Trông Khác Biệt Với Những Người Không Phải Tội Phạm "Biến Mình" Thành Kẻ Sát Nhân Để Truy Tìm Tội Phạm Hội Chứng C.S.I Tâm Lý Hung Thủ Giết Người Cảnh Sát Phân Tích Tâm Lý Tội Phạm - Lực Lượng Đặc Biệt Của Cảnh Sát Tâm Lý Học Tội Phạm: Tội Ác Phát Sinh Từ Đâu? Cái Chết Của Tên Tội Phạm Và Nghi Án Về Chứng "Loạn Dâm" Gây Ngạt Lệch Lạc Tình Dục: Phô Dâm, Thị Dâm Và Loạn Dục Cảm Xúc Rối Loạn Ám Ảnh Cưỡng Chế Và Rối Loạn Nhân Cách Ám Ảnh Cưỡng Chế (Ocd & Ocpd) Rối Loạn Nhân Cách Hoang Tưởng (Paranoid Personality Disorder) Đại Cương Về Chứng Thái Nhân Cách *** Lời Biên Tập Viên: Đây không phải sản phẩm do mình làm ra mà là những kết tinh trí tuệ của các nhà tâm lý tội phạm học. Là kết quả tìm hiểu và sưu tầm của mình với mục đích học tập và giải trí nhằm thỏa mãn nhu cầu khám phá về phương diện tâm lý cũng như chia sẻ cho mọi người đọc. Trong chuỗi bài sưu tầm có thể có những vụ án mạng kinh hãi,dễ gây ảnh hưởng đến tâm lý sau này. Xin hãy suy xét kĩ trước khi đọc,hãy đọc khi đủ tuổi trưởng thành... Cuối cùng,cảm ơn vì đã ủng hộ. Nếu cảm thấy hay thì vote cho mình 1 phiếu. Cảm ơn!
Việc Máu - Michael Connelly
Terry McCaleb không ở  đỉnh cao phong độ của một đặc vụ FBI dày dặn kinh nghiệm. Ông mới ngoài bốn mươi tuổi, lẽ ra vẫn còn có thể tiếp tục cày xới thế giới tội  ác ở Los Angeles, nhưng trái tim của ông đã  đầu hàng, ông phải thay tim và thấy trước mặt  mình một cuộc sống khác hẳn. Rồi người phụ nữ  đó xuất hiện, không hề báo trước, ngay tại nơi trú ẩn tuổi già của ông. Và McCaleb buộc phải gắng gượng tìm lại phong độ tưởng chừng đã vĩnh viễn mất đi, lần mò theo những lối  đi gian nan nhất của sa mạc và của trí tuệ, với một trái tim của người khác đập trong lồng ngực. Terry McCaleb và Graciela Torres bỗng chốc khám phá ra rất nhiều điều bí ẩn của các tội ác, cũng như bí ẩn trong mối quan hệ tình cảm con người. Michael Connelly ở độ chín của tài năng và phong cách, một cuốn tiểu thuyết trinh thám có nhịp điệu mạnh liên hồi, tàn khốc nhưng không mất đi sự mềm mại, nhân bản, thậm chí là lãng mạn. *** Michael Connelly sinh ngày 21.7.1956. Ông là một nhà văn, nhà báo Mỹ. Văn đàn thế giới coi M. Connelly là "ông hoàng trinh thám Mỹ", có lẽ bởi nhiều tác phẩm thuộc thể tài này của ông đã được dịch ra hơn 40 thứ tiếng và bản thân M. Connelly đã đoạt nhiều giải thưởng văn học quan trọng nhờ số truyện trinh thám mà ông đã viết. Người biết M. Connelly nói ông viết truyện trinh thám không phải do tình cờ, cũng chẳng phải do sự bồng bột, một "tình yêu sét đánh nào đó", mà là do ông có vốn sống giàu có về lĩnh vực điều tra tội phạm. Tất cả bắt đầu từ khi M. Connelly tốt nghiệp Đại học Florida năm 1980 và khởi đầu sự nghiệp bằng những bài viết trên tờ Daytona Beach News Journal về vấn đề tội phạm Mỹ, sau đó là viết cho tờ Fort Lauderdale News and Sun-Sentinel, cũng về lĩnh vực này. Những giải thưởng đầu tiên đến với M. Connelly vào năm 1985, khi bài phỏng vấn những nạn nhân còn sống sót sau vụ rớt máy bay Delta Flight 191 của ông lọt vào danh sách đề cử giải Pulitzer - giải thưởng báo chí danh giá bậc nhất dành cho một nhà báo. Hai năm sau, chuyển đến sống tại California, M. Connelly cho ra đời tác phẩm trinh thám đầu tay của mình và gần như ngay sau đó, cuốn The Black Echo được xuất bản và đoạt giải Edgar Award năm 1992. *** McCaleb thấy nàng trước khi nàng thấy ông. Ông đang bước xuống ụ tàu chính, băng qua dãy thuyền của cánh nhà binh thì nhìn thấy người đàn bà đứng trên mũi chiếc Biển Theo Ta. Lúc đó là mười rưỡi sáng một ngày thứ Bảy, tiếng thì thầm ấm áp của mùa xuân khiến nhiều người rời khỏi nhà kéo đến các ụ tàu ở San Pedro. McCaleb đang sắp hoàn tất cuộc đi dạo vào mỗi sáng - đi trọn một vòng quanh Cabrillo Marina, dọc theo đê chắn sóng xây bằng đá rồi quay về. Đến đoạn này thì ông đã mệt bở hơi tai, nhưng ông bước còn chậm rì hơn khi tiến lại gần thuyền. Ý nghĩ đầu tiên của ông là bực bội - người phụ nữ đó đã lên thuyền ông mà không đợi ai mời. Nhưng khi đến gần hơn, ông gạt ý nghĩ đó qua bên mà tự hỏi nàng ta là ai, nàng muốn cái gì. Nàng không mặc quần áo dùng để đi thuyền. Nàng mặc bộ đầm mùa hè suông nhẹ dài tới giữa đùi. Làn gió nổi lên từ mặt nước cứ chực tốc váy nàng khiến nàng phải ép một tay vào hông để giữ yên. McCaleb không thấy hai bàn chân nàng, nhưng qua đường nét cơ bắp săn chắc ông nhìn thấy nơi đôi chân rám nắng của nàng, ông đoán nàng không mang giày dùng để đi thuyền. Nàng nhón gót lên. McCaleb lập tức hiểu ra, nàng đứng đây nhằm để gây ấn tượng với ai đó. McCaleb thì ăn mặc sao cho chẳng gây ấn tượng gì. Ông mang chiếc quần jeans cũ rách te tua vì mặc quá lâu chứ không phải để làm dáng, áo phông mặc từ hồi dự giải Catalina Gold Cup tận mấy mùa hè trước. Quần áo lấm bê lấm bết, chủ yếu là máu cá, đôi phần là máu của chính ông, axit hydrochloric, nhựa poliuretan và dầu máy. Bộ đồ này ông thường mặc để đánh cá nhưng cũng mặc cả khi sửa máy. Cuối tuần này ông định sẽ sửa máy trên thuyền nên ông đang mặc bộ đồ phù hợp. Ông bắt đầu có ý thức hơn về ngoại hình mình trong khi lại gần thuyền và thấy người đàn bà rõ hơn. Ông rút hai miếng mút của máy nghe nhạc ra khỏi tai rồi tắt CD giữa lúc bài “I Ain’t Superstitious” qua giọng Howlin’ Wolf đang phát nửa chừng. “Tôi giúp gì được cho cô?” ông hỏi trước khi bước xuống thuyền của mình. Giọng ông dường như khiến nàng giật mình, đang đứng nơi cánh cửa trượt dẫn vào buồng khách của thuyền nàng liền quay phắt lại. McCaleb đồ rằng nàng gõ lên mặt kính vì cứ nghĩ ông đang ở trong đó. “Tôi tìm Terrell McCaleb.” Nàng là một phụ nữ hấp dẫn ngoài ba mươi đôi chút, trẻ hơn McCaleb tròn chục tuổi hay hơn. Trông nàng quen quen, nhưng ông không nhớ ra ai. Chỉ là ngờ ngợ như quen, thật ra chưa chắc đã phải. Đồng thời ông lại thấy dường như ký ức mình bị đánh động khiến cho ông nhận ra, nhưng rồi điều đó qua nhanh và ông biết mình lầm, ông không quen biết người đàn bà này. Ông thường nhớ được mặt người ta. Mà cô nàng này thì mặt đủ xinh để ông không quên được. Nàng phát âm sai tên ông, đáng lẽ Mác-cây-lép thì nàng nói Mác-ca-lớp, rồi thì nàng lại dùng tên ghi trên giấy tờ của ông, cái tên chẳng ai dùng trừ cánh báo chí. Chính khi đó ông bắt đầu hiểu. Giờ thì ông biết điều gì đã đưa nàng tới con thuyền. Lại một linh hồn lạc lõng đến nhầm nơi phải đến. “McCaleb,” ông chữa lại. “Terry McCaleb.” “Xin lỗi. Tôi, ờ, tôi cứ nghĩ ông đang ở trong thuyền. Tôi không biết nếu bước lên thuyền mà gõ cửa thì có được không.” “Thì cô vẫn làm đó thôi.” Nàng lờ đi lời trách mà nói tiếp. Cứ như thể những điều nàng đang làm và những gì nàng phải nói, nàng đã phải tập đi tập lại nhiều lần. “Tôi cần nói chuyện với ông.” “Ồ, hiện giờ tôi hơi bận.” Ông chỉ tay về phía cánh cửa dẫn xuống hầm thuyền vẫn đang mở toang, may phước là cô nàng chưa lọt xuống, chỉ tay vào đống đồ nghề ông đã trút ra trên một tấm vải màn cạnh cửa sổ đuôi tàu. “Tôi đi loanh quanh tìm cái thuyền này gần cả tiếng rồi,” nàng nói. “Không lâu đâu mà. Tên tôi là Graciela Rivers, tôi chỉ muốn...” “Này, cô Rivers,” ông nói, giơ hai tay lên ngăn lại. “Thực sự là tôi... Cô đọc được về tôi trên báo có đúng không?” Nàng gật. “Thôi được, trước khi cô bắt đầu chuyện của cô, tôi phải nói với cô rằng cô không phải người đầu tiên tới đây tìm tôi hay kiếm số phôn của tôi mà gọi tôi. Và với tất cả những người khác tôi nói gì thì với cô tôi cũng nói thế thôi. Tôi không phải đang tìm việc. Thành thử nếu chuyện là cô muốn thuê tôi hay nhờ tôi giúp cách này cách nọ thì rất tiếc, tôi không làm được. Tôi không phải đang tìm loại việc ấy.” Nàng chẳng nói gì và ông cảm thấy lòng xốn xang cảm thông với nàng, cũng như ông từng cảm thấy với những người khác tới tìm ông trước nàng. “Này, tôi có biết vài ba điều tra viên tư, tôi có thể giới thiệu họ với cô. Hội này giỏi đấy, làm ăn chăm chỉ, họ không lừa cô đâu.” Ông bước lên mép đuôi thuyền, nhặt chiếc kính râm ông quên mang theo khi đi bộ, đeo vào, ra hiệu rằng cuộc nói chuyện thế là dứt. Nhưng cử chỉ và lời lẽ của ông cứ như nước đổ lá khoai đối với nàng ta. “Bài báo nói ông tốt bụng. Nói rằng bất cứ khi nào có kẻ chuồn được là ông ghét cay ghét đắng.” Ông thọc tay vào túi quần, nhún vai. “Cô phải nhớ một điều. Không bao giờ chỉ mình tôi cả. Tôi có người cộng tác, tôi có đội xét nghiệm, tôi có cả Cục ở sau lưng hỗ trợ tôi. Khác xa cái kiểu anh chàng đơn thân độc mã làm gì cũng lầm lũi một mình. Khác nhiều lắm. Dù có muốn, e tôi cũng không giúp cô được.” Nàng gật đầu nên ông đinh ninh đã làm nàng ta thấu hiểu rồi, và với cô này tới đây là hết chuyện. Ông bắt đầu nghĩ tới cái van trên một trong các động cơ thuyền mà ông đang thao tác dở, ông định sẽ làm cho xong nội cuối tuần này. Nhưng ông đã lầm về nàng. “Tôi nghĩ ông có thể giúp tôi,” nàng nói. “Có khi còn giúp chính ông nữa.” “Tôi không cần tiền. Tôi kiếm đủ.” “Tôi không nói chuyện tiền nong.” Ông nhìn nàng trong khoảng một nhịp tim trước khi đáp. “Tôi không biết cô nói thế là ý gì,” ông nói, cố tình tỏ ra cáu kỉnh. “Nhưng tôi không giúp cô được. Tôi không còn phù hiệu, mà cũng chả phải là điều tra viên tư. Tôi mà làm việc như điều tra viên tư hoặc nhận tiền mà không có giấy phép của nhà nước thì sẽ là bất hợp pháp đấy. Nếu đã đọc bài báo thì ắt cô biết chuyện gì đã xảy ra với tôi. Thậm chí tôi còn không được lái xe nữa kìa.” Ông trỏ xuống bãi đỗ xe bên ngoài dãy ụ tàu và cầu tàu. “Cô thấy cái xe trùm kín mít như quà Giáng sinh kia không? Xe tôi đó. Nó sẽ còn nằm đó chừng nào tôi chưa được bác sĩ chuẩn y cho lái xe lại. Đến nước này thì tôi còn là cái thứ điều tra viên nào nữa chứ? Đến mà phải đi xe buýt suốt.” Nàng lờ đi lời phản đối của ông, chỉ nhìn ông với vẻ kiên quyết khiến ông lúng túng. Ông chẳng biết làm cách nào điệu nàng ta đi khỏi thuyền ông được đây. “Để tôi đi lấy tên mấy người kia cho cô.” Ông đi vòng qua nàng rồi đẩy cánh cửa trượt của phòng khách ra. Vào trong rồi, ông đóng chặt cửa sau lưng mình. Ông cần sự ngăn cách. Ông đi tới chỗ mấy ngăn kéo dưới bàn vẽ hải đồ, bắt tay tìm cuốn danh bạ điện thoại. Đã quá lâu không cần tới nên bây giờ ông chẳng biết nó nằm ở đâu nữa. Ông liếc ra ngoài qua cánh cửa, quan sát cô nàng bước tới chỗ đuôi tàu, tựa hông vào ô cửa sổ nhỏ trong khi chờ đợi. Trên mặt kính cửa có lớp màng phản chiếu. Nàng không thể thấy ông đang quan sát nàng. Cảm giác quen quen lại xâm chiếm tâm trí ông và ông cố nhớ ra xem mình đã gặp khuôn mặt này ở đâu. Ông thấy nàng thật nổi bật. Đôi mắt hình quả hạnh sẫm màu vừa có vẻ u sầu lại vừa có vẻ thấu hiểu điều bí mật nào đấy. Ông biết giá như ông từng gặp nàng hay thậm chí chỉ từng quan sát nàng trước đây thì hẳn ông sẽ dễ dàng nhớ ra nàng. Nhưng ông chẳng nhớ được gì cả. Mắt ông bất giác chuyển sang hai bàn tay nàng, tìm xem có chiếc nhẫn nào không. Không có. Về chuyện giày dép của nàng thì ông đoán đúng. Nàng mang xăng đan có gót làm bằng bần, cao năm phân. Móng chân nàng sơn màu hồng, nổi bật trên làn da màu nâu mềm mại. Ông tự hỏi có phải lúc nào nàng cũng trông thế này không, hay nàng ăn mặc thế chỉ để nhử ông nhận làm cho nàng. Ông tìm ra cuốn danh bạ điện thoại trong ngăn kéo thứ hai, liền nhanh chóng tìm mấy cái tên Jack Lavelle và Tom Kimball. Ông ghi lại tên và số điện thoại của họ vào một tờ rơi quảng cáo cũ của hãng dịch vụ tàu biển rồi mở cánh cửa trượt. Nàng đang mở ví trong khi ông ra khỏi buồng khách. Ông chìa tờ giấy cho nàng. “Đây là tên hai người. Lavelle là thám tử Los Angeles đã nghỉ hưu còn Kimball hồi trước làm ở FBI. Tôi từng làm việc với cả hai, người nào cũng có thể làm việc tốt cho cô. Chọn một người mà gọi. Nhớ bảo anh ta rằng cô có được tên anh ta là nhờ tôi. Anh ta sẽ lo cho cô.” Nàng không nhận mấy cái tên từ tay ông. Thay vì vậy nàng rút một tấm ảnh ra khỏi ví chìa cho ông. McCaleb cầm lấy không nghĩ ngợi gì. Ông nhận ra ngay đó là một sai lầm. Trong tay ông là bức ảnh một phụ nữ mỉm cười ngắm một đứa bé trai đang thổi tắt nến trên cái bánh sinh nhật. McCaleb đếm được bảy ngọn nến. Đầu tiên ông nghĩ đó là ảnh của Graciela hồi trẻ hơn bây giờ vài tuổi. Nhưng rồi ông nhận ra không phải là nàng. Người phụ nữ trong ảnh mặt tròn hơn, môi mỏng hơn. Cô ta không đẹp như Graciela Rivers. Tuy cả hai đều có mắt màu nâu sẫm, nhưng mắt người phụ nữ trong ảnh không có cái vẻ mãnh liệt như mắt người đàn bà đang quan sát ông lúc này. “Em gái cô à?” “Phải. Và con của nó.” “Người nào?” “Sao cơ?” “Người nào chết?” Câu hỏi đó là sai lầm thứ hai của ông, làm trầm trọng thêm sai lầm thứ nhất bởi nó lôi ông dấn vào sâu hơn nữa. Ngay lúc hỏi, ông đã biết rằng đáng lẽ ra ông nên khăng khăng đòi nàng ta nhận lấy họ tên hai thám tử tư kia rồi chấm dứt mọi chuyện ở đây. “Em tôi. Gloria Torres. Cả nhà tôi gọi nó là Glory. Đây là Raymond, con của nó.” Ông gật đầu rồi đưa trả bức hình nhưng nàng không nhận. Ông biết nàng muốn ông hỏi chuyện gì đã xảy ra, nhưng cuối cùng ông kịp kìm lại. “Nào, thế này chả ích gì đâu,” rốt cuộc ông nói. “Tôi biết cô đang làm gì rồi. Chả ích với tôi đâu.” “Ý ông là ông không hề có lòng thông cảm phải không?” Ông ngần ngừ trong khi cơn giận sôi lên trong họng. “Tôi có lòng thông cảm. Cô đã đọc bài báo, cô biết chuyện gì đã xảy ra với tôi. Xưa nay tôi gặp rắc rối gì cũng đều do thông cảm mà ra cả.” Ông nuốt khan và cố gột sạch mọi cảm xúc khó chịu. Ông biết cô nàng này đang bị nỗi thất vọng khủng khiếp làm cho héo hon tiều tụy. McCaleb từng biết hàng trăm người như nàng. Những người thân yêu bị tước đi khỏi họ chẳng vì lý do nào hết. Không bắt bớ, không buộc tội, không phá án. Một vài người trong số đó chỉ còn như cái thây sống, đời họ bị thay đổi vô phương cứu chữa. Những linh hồn lạc lõng. Graciela Rivers giờ đây là một người như thế. Chắc chắn nàng là thế, không thì nàng đã chẳng tìm mọi cách lùng ra tung tích của ông. Ông biết, dù nàng nói gì với ông hoặc dù ông có tức giận đến mấy, nàng cũng không đáng phải hứng chịu thêm những cơn thất vọng của chính ông. “Thôi nào,” ông nói. “Tôi không làm được đâu mà. Tôi rất tiếc.” Ông đặt một tay lên tay nàng để đưa nàng trở lại bậc lên xuống thuyền. Da nàng ấm. Ông cảm nhận được bắp cơ khỏe mạnh dưới sự mềm mại đó. Ông lại đưa nàng tấm ảnh, nhưng nàng vẫn từ chối không chịu cầm. “Xem lại đi. Xin ông làm ơn. Chỉ thêm một lần thôi, rồi tôi sẽ để ông yên. Nói cho tôi biết liệu ông có cảm thấy gì khác không?” Ông vừa lắc đầu vừa phác một cử chỉ yếu ớt bằng bàn tay như muốn nói đằng nào thì cũng vậy thôi. “Tôi là cựu nhân viên FBI chứ không phải nhà ngoại cảm.” Nhưng ông vẫn làm ra vẻ giơ tấm ảnh lên nhìn. Người phụ nữ và chú bé xem chừng hạnh phúc. Là tiệc sinh nhật mà. Bảy ngọn nến. McCaleb nhớ rằng hồi ông bảy tuổi cha mẹ ông còn ở với nhau. Nhưng sau đấy thì không ở với nhau lâu nữa. Mắt ông bị hút vào đứa bé nhiều hơn vào người phụ nữ. Ông tự hỏi bây giờ không có mẹ thì thằng nhỏ sống ra sao. “Tôi xin lỗi, cô Rivers ạ. Thực sự là tôi rất tiếc. Nhưng tôi chẳng làm gì được cho cô hết. Cô có muốn lấy ảnh này lại không?” “Tôi có hai cái. Ông biết đấy, rửa một tặng một mà. Tôi tưởng ông sẽ giữ lại một cái.” Lần đầu tiên ông cảm thấy có cái gì đó ngầm ẩn trong dòng cảm xúc. Có cái gì đó hệ trọng nữa đây, nhưng ông không biết là gì. Ông nhìn kỹ cô Graciela Rivers và có cảm tưởng rằng nếu dấn thêm một bước, hỏi cái câu hỏi thật hiển nhiên, ông sẽ bị cuốn hẳn vào. Ông không kìm được. “Sao tôi lại muốn giữ tấm ảnh dù tôi sẽ không thể giúp cô được?” Nàng mỉm cười một cách buồn bã thế nào đó. “Bởi nó là người đàn bà đã cứu mạng ông. Thỉnh thoảng tôi lại nghĩ, hẳn ông cần tự nhắc mình nhớ cô ta trông thế nào, cô ta là ai.” Ông nhìn nàng chằm chằm một hồi lâu nhưng thật ra ông không nhìn Graciela Rivers. Ông đang nhìn vào bên trong mình, lục lọi trong ký ức và hiểu biết của mình điều nàng vừa nói, nhưng vẫn không hiểu được ý nghĩa của nó. “Cô nói cái gì vậy?” Ông chỉ hỏi được có thế. Ông có cảm giác quyền kiểm soát cuộc nói chuyện và mọi thứ khác đều đang tuột khỏi ông mà trượt qua boong tàu về phía nàng. Cái dòng chảy ngầm kia đã tóm được ông. Nó đang đưa ông đi. Nàng giơ tay lên, nhưng rướn tay qua bức ảnh ông vẫn đang chìa ra cho nàng. Nàng đặt lòng bàn tay lên ngực ông, miết tay dọc xuống ngực áo ông, mấy ngón tay nàng lần theo vết sẹo giống như đoạn thừng dày cộm sau lần áo. Ông để yên cho nàng làm vậy. Ông đứng như hóa đá mà để nàng làm vậy. “Trái tim ông,” nàng nói. “Nó từng là của em tôi. Nó là người đã cứu mạng ông.” ... Mời các bạn đón đọc ​Việc Máu của tác giả Michael Connelly.
Sáu Ngày Của Condor - James Grady
James Grady là nhà văn tiến bộ Mỹ. Ông sinh năm 1949 tại một thị trấn nhỏ thuộc bang Montana. Ngày nhỏ sống tại quê nhà. Sau khi tốt nghiệp đại học Montana, J. Grady trở thành nhà báo. Ngay từ khi còn ngồi trên ghế trường đại học, ông đã say mê tìm hiểu các môn khoa học xã hội - chính trị và sử học. Tuy rất có năng khiếu về văn chương, nhưng J. Grady vẫn không dám sống bằng nghề cầm bút, vì ông vốn biết chắc mười mươi rằng "phàm đã là nhà văn thì khó lòng được sống một cuộc đời no đủ". Bởi thế, J. Grady xin vào làm trợ lý các vấn đề lập pháp tại Uỷ ban soạn thảo hiến pháp bang Montana. Tiếp đó, suốt nhiều năm liền ông đã làm qua đủ mọi nghề: khi thì công nhân, khi thì chuyên gia bài trừ tệ nạn phạm pháp trong trẻ em, khi thì phóng viên báo chí. Cuộc sống của ông cứ tiếp tục trôi qua như thế cho mãi đến năm 1974, năm J. Grady công bố cuốn truyện đầu tay, làm chấn động dư luận: "Sáu ngày của Condor" 1 (trong những lần tái bản sau này được đổi tên thành "Ba ngày của Condor"). Cuốn tiểu thuyết đã đem lại cho tác giả danh tiếng ấy lập tức được đạo diễn Mỹ có tên tuổi là Sydney Pollack đưa lên màn ảnh và càng làm xôn xao dư luận. Năm 1975, J. Grady cho ra mắt bạn đọc thiên tiểu thuyết thứ hai: "Cái bóng của Thần Ưng". Nhân vật chính ở đây vẫn là anh chàng Ronald Malcolm quen thuộc mà một nhà phê bình đã từng tặng cho danh hiệu là "gã điệp viên đáng mến và hấp dẫn nhất, nhưng đồng thời cũng lại là tên điệp viên khó gặp và phi hiện thức nhất trong lịch sử tồn tại của cơ quan CIA". Ngay cả khi tác phẩm đầu tay đã có tiếng vang rộng khắp, J. Grady vẫn còn nấn ná khá lâu mãi tại quốc hội Mỹ với chức vụ trợ lý của một hạ nghị sĩ. Còn hiện thời, J. Grady đang làm thư ký riêng cho một nhà báo Mỹ lừng danh. Ông chỉ sáng tác truyện trinh thám những khi rỗi việc. Các cốt truyện trong sáng tác của ông thường xây dựng trên chất hiện thực. Những gì được hư cấu hoàn toàn không phải nhằm mục đích "thêm nhưn thêm nhị" mà chỉ là phương tiện để gắn kết các biến cố thực lại với nhau cho bố cục tác phẩm được cân xứng, thật hài hoà. Năm 1980, tác phẩm thứ ba của J. Grady ra đời: "Bắt lấy ngọn gió lành". Mùa xuân năm 1981, lại một tiểu thuyết hấp dẫn nữa của nhà văn, thiên truyện thứ tư ra mắt bạn đọc: "Kẻ trốn chạy ngoài phố". Những biến cố trong "Sáu ngày của Condor" bắt đầu từ việc một nhân viên trong một tiểu ban của CIA (gọi là "Hội Văn Sử") phát hiện ra một vụ gian lận về chứng từ, sổ sách, và muốn làm "sáng tỏ", anh bèn viết một tờ trình ngắn gởi lên cấp trên. Tờ trình rơi vào tay một "ông lớn" ở Tổng hành dinh CIA. Nhân vật này cho thi hành "những biện pháp khẩn cấp nhằm huỷ diệt hết tất cả các "khoản" cùng những hồ sơ lưu trữ có liên quan đến công việc, lẫn những nhân viên của cái tiểu ban có dính đến câu chuyện nêu trong "tờ trình". Thế là ngay đêm hôm đó, nhân viên viết tờ trình bị thủ tiêu tại nhà. Và sáng hôm sau thì toàn bộ người của tiểu ban bị giết một cách thảm khốc, trừ mỗi một mình anh chàng Malcolm, vì sáng hôm đó đi vắng, nên thoát chết. Trở về trụ sở và chứng kiến cảnh giết chóc tàn khốc nọ, Malcolm với biệt danh Thần Ưng (Condor), đã dùng điện thoại báo động. Báo động! Báo động khẩn cấp! Phong toả ngay căn cứ!... Và từ đó bắt đầu cuộc săn lùng, cuộc đấu trí, chung quanh cái trục là Malcolm, "người hùng" trong một tình thế bắt buộc, như anh thú nhận: "không có con đường nào khác". Cả hai phía; phía "chính thống" và phía "buôn lậu ma tuý" đều lùng sục Malcolm, bởi vì anh là người nắm được đầu mối của cái tấn kịch khủng khiếp. Malcolm, cái anh chàng "thư lại" ấy, bỗng chốc phải đối phó với hàng trăm tình huống gay cấn - và tình huống cũng đã buộc anh phải hành động mưu trí, sáng tạo để thoát chết và để khám phá ra bọn thủ phạm vụ án. Vấn đề là trong khi hành động như thế, Malcolm cũng dần dần hiểu ra một điều cơ bản là cả hai phía săn lùng anh cùng có chung một bản chất: "Maronic là đứa giết người thuê. Malcolm bỗng nhớ lại giọng nói của những nhân viên nhà nghề ở đầu đường dây "Báo động", những người cũng y hệt như Maronic vậy. "Không", anh nghĩ bụng, - cuộc săn lùng từ trước đến giờ chỉ nhằm vào mỗi một mình mình. Vấn đề đặt ra chỉ có thế này họ chống lại mình, họ hại mình" (chương Thứ ba (đêm) - Thứ tư (Rạng sáng)). Thông qua toàn bộ câu chuyện, J. Grady cũng phơi bày được một bộ mặt bản chất của xã hội Mỹ: đó là một xã hội với những tội ác kinh điển, thường trực, một xã hội đầy dẫy bọn buôn lậu, bọn găng- xtơ thích máu, mà đối với chúng việc giết người "chỉ là công việc làm ăn, không hơn không kém" và "họ không xúc động mảy may nào về những hậu quả do họ gây nên". Điều đáng chú ý nữa là cái bọn tội phạm ấy lại chính là những nhân vật có cỡ nằm ngay trong nội bộ CIA. Đúng hơn, một số nhân vật có cỡ trong CIA đã móc ngoặc với bọn găng xtơ, làm ăn phi pháp và gây tội ác. Và việc chúng khử cả một tiểu ban của CIA một cách lạnh lùng, tàn bạo… để bịt đầu mối, đã nói lên cái bản chất của những con người trong cái công cụ đáng nguyền rủa ấy của nước Mỹ. Qua cuốn tiểu thuyết, nội tình của CIA, cái mặt trái của tổ chức cồng kềnh này, đã bị phơi trần. Nó có nội gián. Nó mọt ruỗng từ bên trong. Nó kém hiệu lực mặc dù hùng hổ. Đứng trước sự khủng hoảng, nó đối phó lúng túng. Cái gì sẽ xảy ra nếu không có anh chàng Malcolm? Nhân vật "ông già hiền hậu" chỉ là nhân vật tỉnh táo gần như duy nhất, trong trường hợp ấy cũng sẽ chẳng làm nên chuyện gì. Còn Malcolm? Anh là "người hùng" trong một tình thế bắt buộc, như anh thú nhận: "không có con đường nào khác". Cái kết thúc phần nào "có hậu"của cuốn truyện, tuy không hẳn đã phản ảnh chân xác lô- gich của xã hội Mỹ, nhưng cái kết thúc ấy cùng với phần nào cái chất lương thiện trong con người bình thường Malcolm, biểu tượng của khát vọng về lẽ phải và lòng nhân đạo của nhân dân Mỹ, đã đem lại cho người đọc cảm tình và hy vọng. Đó là một tích cực đáng nói của cuốn truyện này Hội Văn nghệ Quảng Nam - Đà Nẵng Mời các bạn đón đọc Sáu Ngày Của Condor của tác giả James Grady.
Thánh Giá Rỗng - Higashino Keigo
Đằng sau mỗi vụ án mạng luôn có một câu chuyện đau lòng và đầy nước mắt. Nhưng liệu rằng tử hình có phải là hình phạt thích đáng cuối cùng cho mọi tội ác? Công lý có thực sự được thực thi? Liệu rằng khi lời tuyên bố án tử được vang lên trước tòa, thân nhân của người bị hại có thực sự thấy yên lòng, nỗi đau có phần nào được bù đắp và kẻ gây nên tội ác có chút nào ăn năn, hối cải? Nếu bạn cũng băn khoăn và chưa tìm được lời giải cho những câu hỏi này, hãy tự đi tìm câu trả lời trong cuốn tiểu thuyếtThánh giá rỗng của nhà văn bậc thầy trinh thám hàng đầu Nhật Bản - Higashino Keigo. Thánh giá rỗng là câu chuyện xoay quanh hai vụ án mạng tàn khốc trong cùng một gia đình. Ngày 21 tháng 9 của mười một năm về trước, cô bé Manami ngây thơ, vô tội đã bị sát hại tại nhà riêng. Đúng mười một năm sau, mẹ cô bé - Sayoko, cũng bị giết hại dã man trên con đường thuộc quận Koto. Nakahara - một người chồng, một người cha bất hạnh đã hai lần phải cảm nhận nỗi đau mất người thân. Cái chết đầy uẩn khúc của Sayoko đã khiến anh tạm gác lại niềm riêng để bước vào cuộc hành trình tìm kiếm sự thật. Trên con đường tìm lời giải đáp cho mọi thắc mắc của mình, Nakahara vô tình tìm ra mối liên hệ giữa vụ án mạng của vợ anh và một bí mật động trời khác đã được chôn giấu suốt hai mươi mốt năm trời. Bằng giọng văn giản dị nhưng không kém phần sắc bén Higashino Keigo lại một lần nữa dẫn dắt người đọc đi hết từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, lần tìm về quá khứ để từng bước, từng bước gỡ những nút thắt chưa được giải. Không có những pha rượt đổi gay cấn đến nghẹt thở, không có những màn phá án li kì đến xuất thần, nhưng Thánh giá rỗng - cuốn sách có mặt trong top 5 các tiểu thuyết trinh thám hay nhất do Shukan Bunshun bình chọn, bằng một cách rất riêng vẫn ám ảnh và lôi cuốn người đọc vào những câu chuyện cảm động, đầy nước mắt của tình bạn, tình yêu, và tình phụ tử thiêng liêng... *** Higashino Keigo sinh ngày 4/2/1958 tại Osaka. Ông được biết đến như một trong những tác giả nổi tiếng nhất Nhật Bản ở thể loại trinh thám - li kì. Sức lan tỏa và tầm ảnh hưởng của ông với các độc giả Nhật Bản có thể được ví như James Patterson hay Dean Koontz với nhiều thế hệ độc giả Mĩ. Năm 1985, Higashino Keigo giành giải Edogawa Rampo lần thứ 31 cho tác phẩm trinh thám hay nhất với tiểu thuyết Houkago (tạm dịch: Sau giờ học). Năm 1999, ông đoạt giải Mystery Writers of Japan với tiểu thuyết Bí mật của Naoko. Năm 2006, ông tiếp tục nhận giải Naoki lần thứ 134 cho Phía sau nghi can X. Trong năm 2006, Phía sau nghi can X cũng mang về cho Higashino Keigo giải Honkaku Mystery Award. Năm 2012, ông tiếp tục nhận giải thưởng văn nghệ Chuokoron lần thứ 7 cho tiểu thuyết Điều kì diệu của tiệm tạp hóa Namiya. Các tác phẩm của Higashino Keigo có lối tiếp cận rất độc đáo, cuốn hút độc giả dõi theo từng chi tiết, từng nét chuyển biến dù là mong manh nhất trong tâm lí và tình cảm của các nhân vật. Không chỉ là những câu chuyện độc nhất vô nhị đầy ám ảnh, các tác phẩm của ông còn khiến độc giả suy nghĩ về những vấn đề phức tạp của xã hội và mối quan hệ giữa người với người. Rất nhiều trong số các tác phẩm của Higashino Keigo đã được chuyển thể thành phim và mang về cho nhà sản xuất những thành công rực rỡ về cả mặt thương mại cũng như tính nghệ thuật. Cuốn Thánh giá rỗng (tên gốc: Utsuro na Jujika) bạn đang cầm trên tay là một trong những tác phẩm mới nhất của Higashino Keigo. Cuốn sách được ra mắt lần đầu tiên tại Nhật năm 2014 và nhanh chóng có mặt trong top 5 các tiểu thuyết trinh thám hay nhất do Shukan Bunshun bình chọn. Sẽ thế nào nếu một người thân yêu của chúng ta ra đi vì "bị giết?" Liệu án tử hình là cần thiết hay không hề hiệu quả? Phạt tù là sự trừng phạt hay giải thoát những nỗi đau? Sinh mệnh của đứa trẻ còn chưa lọt lòng thuộc về ai? Ngay cả khi hiểu được động cơ của kẻ gây án, ngay cả khi hắn đã phải chịu án phạt tử hình, thì liệu ngày mà tất cả thực sự được cứu rỗi có đến? Có lẽ không chỉ những người thân xung quanh người bị hại, mà gia đình thủ phạm cũng chỉ là nạn nhân. Sau khi gấp lại những trang cuối cùng và ta buộc phải suy nghĩ về những chủ đề nặng nề như một con đường hầm không thấy ánh sáng như vậy, bạn chỉ có thể thốt lên rằng: Thật đúng là Higashino! Skynovel Iguchi Saori hầu như không nhớ gì về mẹ mình, khi cô bé bắt đầu nhận thức được thế giới xung quanh, bà đã không còn trên đời. Saori vẫn nhớ hồi mẫu giáo cô bé đã ghen tị với đám bạn như thế nào vì chúng có mẹ đến đón mà mình thì không. Đến lúc học tiểu học, cô bé mới hay mẹ đã mất năm mình 3 tuổi, và mãi lên lớp 5 cô bé mới biết bà mất vì bệnh u não khi chỉ vừa 31 xuân xanh. "Mẹ con nấu ăn rất ngon, lại vô cùng dịu dàng. Bà ấy vốn là người rất khỏe mạnh, lúc đó ba cũng không dám nghĩ mẹ con lại mắc bệnh đó", Yosuke - ba của cô bé vẫn luôn nói về mẹ cô như vậy. Yosuke là kỹ sư làm việc tại một công ty chuyên về sản phẩm công nghiệp hóa chất. Trụ sở chính của công ty đặt ở Osaka, nhưng công xưởng Fuji, nơi anh làm việc lại nằm ngay ở thành phố Fuji gần đó, vì thế hàng ngày anh đi ô tô đến công xưởng. Đến năm lớp 4, anh vẫn gửi Saori ở trường giáo dục trẻ em¹. Giờ trả học sinh của trường là 6 giờ 30 phút, nhưng ngày nào Yosuke cũng đến đón cô bé sát giờ trường đóng cửa. Mỗi ngày nhìn thấy mặt ba là cô bé lại an tâm phần nào. ____________________________ (1) Là một dạng trường dành cho trẻ em cấp 1 sau khi tan học nếu về nhà không có người bảo hộ thì sẽ tới đây cho đến khi có người nhà tới đón Khi Saori lên lớp 5, cô bé không đến trường giáo dục trẻ em nữa mà đi thẳng từ trường tiểu học về nhà. Cô bé không chán ghét việc ở nhà một mình, chỉ cần đọc sách, xem đĩa phim là thời gian sẽ mau trôi qua. Ở trường cô bé cũng có bạn, nhưng Saori vốn thích được ở một mình như vậy. Cũng từ lúc đó, Yosuke về nhà muộn hơn. Trước đây, anh vẫn làm bữa sáng và bữa tối đều đặn, nhưng vì công việc càng ngày càng bận rộn, nên có những lúc anh mua cơm hộp ở cửa hàng tiện lợi để hai ba con ăn tối, cũng có những khi Saori một mình gọi pizza vừa ăn vừa đợi ba về. Được một thời gian, Saori nhận ra mình nên tự nấu cơm. Một ngày nọ, Saori đi siêu thị mua thức ăn, rồi ghé qua thư viện mượn một quyển sách dạy nấu ăn. Bữa tối hôm đó cô bé đã làm món thịt hầm khoai tây, canh miso và cơm trắng. Hôm ấy, Yosuke hiếm hoi có một ngày về sớm, mắt anh ánh lên tia lấp lánh, miệng liên tục khen con gái "Saori giỏi quá!". Và dù món thịt hầm thực ra hơi nhạt, canh miso cũng không thể nói là ngon, nhưng chỉ cần nghĩ mình đã giúp được ba cũng khiến cô bé cảm thấy vui vẻ. Từ đó trở đi, Saori trở thành người chăm lo chuyện cơm nước trong gia đình. Không phải ngày nào cô bé cũng có thể nấu, vì thế có những lúc, trước khi Yosuke đi làm cô bé sẽ dặn ba rằng, "Ba, hôm nay ba ăn tối ở ngoài nhé. Con sẽ mua bánh kẹp ở cửa hàng tiện lợi ăn tối". Ngoài nấu cơm, Saori cũng dần dần làm cả việc dọn dẹp hay giặt giũ trong nhà. Cô bé không cảm thấy có gì khổ cực, ngược lại làm việc nhà còn khiến cô bé cảm thấy vui vẻ. Có lẽ Saori hợp với công việc nội trợ gia đình. Yosuke vẫn thường khen con mình đầy tự hào rằng, "Saori sau này sẽ trở thành cô con dâu tốt đây, ba cũng rất yên tâm". Thế nhưng, sau câu khen đó, anh không quên nói thêm, "Nhưng ngoài việc nhà ra, Saori còn phải làm rất nhiều việc khác. Bây giờ điều quan trọng nhất là con phải học tập thật chăm chỉ, như thế sau này con mới được hạnh phúc. Việc nhà hay chuyện của ba, con xếp thứ hai cũng được". Nói như vậy, nhưng Yosuke cũng yên tâm khi con gái quán xuyến việc trong gia đình. Anh về nhà muộn hơn trước, có lẽ vì công việc trở nên bận bịu hơn. Thậm chí khi đã về đến nhà, anh vẫn nhận được những cuộc gọi liên quan đến công việc, số ngày lễ phải đi làm cũng tăng dần, các chuyến công tác qua đêm cũng trở nên thường xuyên. Khi Saori lên cấp hai, cuộc sống ở nhà của Yosuke chỉ là về nhà để ngủ. Cũng vì thế, hai ba con hiếm khi có thể nhàn nhã ngồi nói chuyện với nhau. ... Mời các bạn đón đọc Thánh Giá Rỗng của tác giả Higashino Keigo.