Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nếp Cũ, Hội Hè Đình Đám (Toan Ánh)

Muốn tìm về quá khứ, đã có Nếp cũ. Còn bạn muốn Toan Ánh có chút "phù phiếm" và rộn ràng, hãy đến với Hội hè đình đám.

Tiếp tục hành trình khai quật "lối cũ lề xưa" trong đời sống của người Việt Nam, trong Hội hè đình đám, Toan Ánh sẽ nói về những niềm vui của một thời đơn sơ, những ý niệm tôn giáo lẫn những nỗi niềm khao khát gửi gắm, những nỗi sợ hãi và cả những sự ghi ơn,...

Người nông dân cày cấy ròng rã một năm trời để mong đến mùa xuân, để hội làng lại "về" cho gái trai gặp gỡ, cho những cụ già xúng xính áo hoa... Dù là một tác phẩm mang nhiều tính nghiên cứu và thu nhập, tập sách vẫn rộn rã không khí hân hoan của buổi "hội hè".

Vừa mang tính tâm linh trang nghiêm vừa là chốn vui chơi trần tục, hội hè là sự phản chiếu thú vị và đa chiều nhất về văn hóa người Việt Nam xưa. Xin giới thiệu cùng bạn đọc một cách tiếp cận thi vị với Hội hè đình đám.***

Chúng ta phải trở lại thời tiền-đệ-nhị thế-chiến, hay gần nhất cũng phải từ đầu năm Ất-Dậu (1945) trở về trước, cái thời mà phong tục tập quán của dân ta chưa chịu nhiều sự biến-đổi trước áp-lực của thời cuộc, với những sinh hoạt cổ truyền theo tổ-chức xã-hội trong một nếp sống nông nghiệp của tiền-nhân. Những phong-tục tập-quán này biểu-lộ dân-tộc tính Việt Nam với nhiều cái hay cái đẹp, nhiều điều cao-khiết lành-mạnh ngày nay đã dần phai mờ trước cuộc hưng-vong của đất nước. Muốn tìm lại tất cả những cái hay đẹp cao-khiết lành-mạnh ấy, tuy chỉ mới trải qua mấy chục năm, mà sao coi như xa-xôi lắm, và do đó cũng không phải là dễ dàng. Tìm mua: Nếp Cũ, Hội Hè Đình Đám TiKi Lazada Shopee

Trong tập sách này, chúng tôi muốn nói tới những Hội-hè Đình-đám của dân ta, những hội-hè đã từng mua vui cho người dân, đã từng chứng tỏ ý niệm thiêng-liêng tôn-giáo của người dân qua lễ-nghi, đã từng nêu cao lòng biết ơn của người dân đối với các bực anh-hùng đất nước cũng như đối với các vị thần-linh, nhất là các vị Thành Hoàng đã che chở phù-hộ cho dân mỗi xã, và nhất là đã từng là những dịp để người dân ôn lại lễ-nghi, nhớ lại phong-tục.

Những Hội-hè đình-đám lại là những dịp để thắt chặt thêm tình thân giữa dân làng, và có khi giữa dân các làng lân-cận bởi những tục giao-hảo hoặc bởi hội-hè đình-đám làng này đã kéo dân làng khác tới chung vui.

Ngày nay ở miền Trung và miền Nam, một đôi nơi, nhân những ngày thần kỵ vẫn còn tổ-chức những cuộc tế-lễ, những trò vui, tuy về mọi phương-diện lễ-nghi, du-hí cũng đã tỉnh-giảm nhiều.

Được hân hạnh sống những năm đầu hiểu biết ở một vùng quê, thời đó, mặc dầu là dưới thời Pháp-thuộc, người dân Việt-Nam còn căm-hờn người Pháp đang thống-trị đất nước, người ta vẫn không bỏ qua hội hè, chúng tôi đã được dịp đi dự nhiều hội quê, nhất là những hội ở các tỉnh Bắc-Ninh, Bắc-Giang, Vĩnh-Yên, Phúc-Yên, Hà-Đông, Nam-Định và Thái-Bình, thời đó cách đây tuy xa, nhưng ngày nay hồi tưởng lại có lúc chúng tôi tưởng như mình đang đứng trước một cây đu, đang nghe kể hạnh trong chùa, đang xem một đám vật, đang dự một đám hát quan-họ…

Nhớ lại các hội quê, tất cả cái phong-vị hội-hè đình-đám như trở lại trong đầu óc chúng tôi. Và giờ đây, viết những dòng chữ này, chúng tôi muốn bạn đọc cùng thấy với chúng tôi cái không khí của làng xóm quê-hương thuở xưa với bóng cờ ngũ sắc, với những tiếng trống thờ, với đám trai gái vùng quê, quần áo mới màu Tết lũ-lượt dắt-dìu tới những hội làng, vẻ mặt hớn hở, vừa đi vừa nói cười hân-hoan.

Hội quê có hội Xuân và hội Thu, hai thời gian mà người dân quê được nghỉ-ngơi rảnh-rỗi, Xuân sau khi đã cấy chiêm và Thu sau khi đã thoát vụ lụt con nước mã và công việc cày cấy vụ lúa tháng Mười cũng đã xong.

Trong bộ TÍN NGƯỠNG VIỆT NAM, chúng tôi đã trình bầy về đạo thờ Thần, chúng tôi coi như một tôn-giáo hoàn-toàn Việt Nam, và chính do ở sự thờ-phụng thần-linh mà có HỘI HÈ ĐÌNH ĐÁM. Nếu các bạn không lấy làm trở ngại, chúng tôi xin phép coi tập sách này như tập Phụ lục của Bộ TÍN NGƯỠNG VIỆT NAM.

Về Hội-hè đình-đám mùa Xuân, ca-dao ta có câu:

Tháng Giêng ăn Tết ở nhà,

Tháng Hai cờ bạc, Tháng Ba hội hè.

Câu ca-dao này đã nói lên đủ sự nhàn-rỗi của người dân quê, nhất là người dân quê miền Bác trong ba tháng Xuân. Lúc ấy là lúc cấy chiêm đã xong, mùa gặt tháng Năm lại chưa tới, người dân quê có thì giờ giải-lao, ăn Tết và hội hè.

Sống ở một nơi đất hẹp dân đông, riêng ở miền Bắc và miền Trung lại thêm lắm đồi nhiều núi, kỹ-nghệ không có gì, suốt năm người dân quê vất-vả với nông-nghiệp, đầu tắt mặt tối, làm buổi hôm lo buổi mai, hết công việc đồng áng đến công việc vườn tược, rất ít dịp nghỉ ngơi để cùng nhau vui chơi ca hát, ăn uống. Hàng năm chỉ có dịp Xuân là công việc đồng-áng nhàn-rỗi, công việc vườn-tược thưa-thớt, người dân quê có thể cùng nhau chia vui để hưởng thú thanh-bình.

Hơn nữa, Xuân tới nghĩa là Đông đã qua, cái mùa rét mướt đã hết, tiết Xuân ấm-áp đã khiến con người hết phải lo vì mưa phùn gió bấc, hết phải lo vì trời lạnh đêm dài, và với mưa Xuân, người ta cũng hết lo đất nẻ ruộng khô, hết lo gió lạnh làm cho cây mạ héo vàng. Người ta có thể nghỉ-ngơi để hưởng thụ mừng xuân, mừng năm mới.

Hơn nữa từ ngàn xưa, người Việt-Nam lấy gia-đình làm trọng, lấy quây-quần đoàn-tụ làm hơn, nên trong những dịp giải-lao hưởng thụ, người ta không nghỉ-ngơi riêng-rẽ, và trong lúc vui, người ta muốn được vui chung cùng bạn hữu, cùng họ hàng thân thuộc, cùng mọi kẻ quen người biết ở làng trên xã dưới. Bởi vậy nhân dịp Tết với mùa Xuân, nơi nơi, người ta đều kéo hội để cho dân chúng trong thôn ngoài xã hàng tổng và có khi hàng huyện được cùng nhau chung vui gặp-gỡ.

Trong các hội Xuân có hai loại: hội đình và hội chùa. Xin kể gộp cả vào hội đình các hội ở đền, miếu, là những hội tổ chức ở ngay những nơi thờ tự này hoặc ở những khoảng đất chung quanh, nhân dịp khánh-tiết tân-xuân hoặc nhân dịp kỵ-nhật các vị Thành-hoàng, có thể có những trò vui được tổ-chức vào dịp hội, không ở gần các nơi thờ-tự trên, ở một chỗ khác trong làng. Hội chùa tổ-chức tại Chùa làng nhân dịp tân xuân hoặc vào ngày giỗ các vị sư tổ.

Ngày hội tuỳ theo mỗi làng thay đổi, có làng mở hội sớm, có làng mở hội muộn, có làng bắt đầu mở hội từ trong năm cho đến ngoài giêng mới hết, có làng sang tháng ba mới mở hội, nhưng thường tháng giêng là nhiều hội-hè hơn cả.

Dù trong hội Đình hay hội Chùa, dù hội kéo trong năm hay ngoài Xuân, bao giờ ở hội cũng có rất nhiều trò vui để dân làng và khách trẩy hội giải-trí. Có những trò vui chung thông thường cho mọi hội như: rún đu, cờ bỏi, đốt pháo… lại có những trò vui riêng của từng địa phương: đánh phết, hát quan-họ, kéo co, bơi chải… Trong các thú vui chung có những thú dành riêng cho người già như tổ-tôm điếm, cờ bỏi, thi thơ,… và cũng có những trò vui riêng cho bạn trẻ nam nữ thanh niên, những trò vui này rất nhiều và rất thú vị: đánh phết, đánh trung-bình-tiên, hát quan-họ, hát đúm, thổi cơm thi, nấu cô thi, bơi thuyền, đánh vật… Các cụ bà trong ngày hội, dù là hội đình, có thú đi chùa, nghe kể hạnh…

Đấy là chúng tôi không nhắc tới những cuộc tế lễ rước xách chúng tôi đã trình bày trong bộ TÍN NGƯỠNG VIỆT-NAM, trong chương ĐẠO THỜ THẦN.

Về hội hè đình đám mùa thu, thì đây là thời gian dân quê vừa thắng trận phòng đê tháng bảy với con nước Mã nguy-hiểm hàng năm. Vả lại tiết thu mát-mẻ, trời thu trong sáng, tháng tám lại nhằm vào thu-tế, các làng xã mở hội, vào đám dường như muốn ăn mừng đã tránh được nạn lụt, và để tạ ơn thần-linh đã bảo hộ dân làng, mùa tháng mười sẽ được bội thu. Đã vất-vả suốt từ tháng năm, sau vụ gặt chiêm, nay được dịp cấy mùa đã xong, công việc đồng áng đã vơi, người dân quê cũng như dịp xuân tới, phải nghỉ-ngơi và phải hưởng những ngày nghỉ-ngơi. Trời thu đẹp báo hiệu một vụ lúa mùa tốt đẹp, gió thu mát, trăng thu trong như tăng sự hân-hoan của con người trước viễn-ảnh thóc lúa đầy bồ, người người no ấm.

Mùa Xuân người ta đã hội-hè, mùa thu người lại hội-hè. Hoặc giả có làng nào, mùa Xuân chưa đình đám ăn chơi, thì mùa thu nhất là tháng tám, là dịp để làng vào đám, dân làng nghỉ ngơi hội-hè. Cũng những cuộc tế lễ rước xách như mùa Xuân, với những trò vui thay đổi tuỳ theo mỗi địa-phương.

Trình bày về hội-hè đình-đám của mùa Xuân cũng như mùa Thu, chúng tôi chỉ nói tới những hội-hè chúng tôi biết, lẽ tất nhiên không là bao nhiêu so với số hội hè hằng có xưa ở vùng quê suốt từ Nam tới Bắc. Biết tới đâu chúng tôi nói tới đó, còn những điều không biết, chúng tôi xin nhường lại cho những bậc biết hơn.

Ngoài những hội hè đình đám mùa Xuân và Thu, rải rác quanh năm cũng vẫn có những hội làng ở một số các xã thôn, như hội đền Phù-Đổng Thiên vương ở làng Phù-Đổng, huyện Tiên Du, Tỉnh Bắc-Ninh vào ngày mồng 9 tháng 4; Hội bơi thuyền trên sông Tiểu Đáy của làng Yên-Hạ, tục gọi là làng Me tỉnh Vĩnh Yên vào thượng tuần tháng 5, hội đền Tả quận Lê-văn-Duyệt xã Bình-Hoà, Tỉnh Gia-Định vào ngày 30 tháng 7 v.v… Những ngày tháng của hội này theo kỵ-nhật của vị thần linh được dân làng thờ-phụng.

Trong các hội quê, chúng ta có thể phân biệt:

- Các hội về lịch-sử liên-quan tới các nhân-vật lịch-sử được dân làng thờ-phụng làm thần-linh, hoặc liên-quan tới một sự-kiện lịch-sử được dân chúng kỷ-niệm. Hội đền Hai Bà, Hội đền Đức Hưng-Đạo-Vương là những hội liên-quan tới các nhân-vật lịch-sử, giỗ Trận Đống-Đa là hội liên-quan tới sự kiện lịch sử, vua Quang Trung đại thắng quân Thanh của Tôn-Sĩ-Nghị.

- Các hội về Tôn-giáo. Trong các hội này thường là hội Chùa như hội Chùa Thầy, tỉnh Sơn-Tây, hội Chùa Hương, tỉnh Hà-Đông. Lễ vía bà núi Sam, tỉnh Châu-Đốc, lễ kỷ niệm đức Huỳnh Giáo-Chủ ở Thánh-Địa Hòa-hảo cũng là những hội-hè về tôn giáo.

- Các hội hè về phong-tục. Đây có thể là một hội tại một làng thờ một nhân vật lịch-sử không mấy quan trọng, hoặc ở một ngôi chùa làng có những tục lạ của dân chúng từng địa phương. Tất cả những hội nào, không xếp vào hai loại hội trên chúng tôi đều xếp vào loại thứ ba này.

Viết về mỗi hội, chúng tôi sẽ cố gắng lần-lượt trình bày:

- Nơi và ngày có hội

- Thân-tích

- Các trò vui trong ngày hội, ngoại trừ những cuộc tế lễ và rước xách thông thường đã có nói trong bộ TÍN NGƯỠNG VIỆT-NAM.

Chúng tôi cũng hiểu, với sự hiểu-biết nông cạn của chúng tôi, tất-nhiên có những điều thiếu sót và có cả những sự sai lầm, nhưng dù sao chúng tôi cũng cố gắng đem hết thiện-chí để mong đạt được tối đa những điều đáng viết về mỗi hội. Để bớt những sự thiếu sót chúng tôi đã tham khảo xem tài liệu ghi trong các sách báo chúng tôi đã được dịp đọc qua, ngoài những điều tai nghe mắt thấy xưa kia ở các hội quê.

Saigon, ngày 17 tháng 5 năm 1969

TOAN ÁNHDưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Toan Ánh":Nếp Cũ - Tín Ngưỡng Việt Nam Quyển HạNếp Cũ - Tín Ngưỡng Việt Nam Quyển ThượngNếp Cũ - Lễ Tết, Hội, HèMúa Thiết Lĩnh... Ném Bút Chì...Nếp Cũ, Hội Hè Đình ĐámNếp XưaPhong Tục Việt NamNếp Cũ - Làng Xóm Việt NamNếp Cũ - Tiết Tháo Một ThờiNho Sĩ Đô VậtNếp Cũ - Bó Hoa Bắc Việt

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Nếp Cũ, Hội Hè Đình Đám PDF của tác giả Toan Ánh nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Biển Cỏ Miền Tây Hình Bóng Cũ (Sơn Nam)
Tập truyện ngắn, truyện vừa… mà càng đọc càng thấy đã. Tưởng tượng là dân Nam Bộ thì vỗ đùi đánh đét mà khen. Dân Bắc Bộ, Trung Bộ thì tò mò, thèm thuồng được một lần Hành phương Nam, mà nhâm nhi, mà tận hưởng cái bao la hồn hậu của đất và người Nam Bộ. Đây cũng là một trong những tập sách của nhà văn Sơn Nam được in rất trang trọng. Tập truyện ngắn Biển Cỏ Miền Tây - Hình Bóng Cũ gồm có:Cấm Bắt RùaCon Bà TámCon Cá Chết DạiĐường Về Quê Tìm mua: Biển Cỏ Miền Tây Hình Bóng Cũ TiKi Lazada Shopee Hai Cõi U MinhKéo TrúmLũ Trẻ Chăn TrâuMây Trời Và Rong BiểnMột Chuyện Khó TinMột Người Hàng XómNgày Hội Ba KhíaNgày Xưa Tháng ChạpNgó Lên Sở ThượngNgười Đi ĐêmQua Hiệu SáchTrong Lòng Bàn TayTục Lệ Ăn TrộmVẹt Lục BìnhVọc Nước Giỡn TrăngHình Bóng Cũ***Sơn Nam tên thật là Phạm Minh Tài sinh ngày 11 tháng 12 năm 1926, tại làng Đông Thái, quận An Biên, tỉnh Rạch Giá. Do sự nhầm lẫn của nhân viên hộ tịch, tên khai sinh của ông bị viết sai thành Phạm Minh Tày. Thuở nhỏ ông học tiểu học tại quê nhà, rồi học trung học tại Cần Thơ. Năm 1945, ông tham gia Thanh niên Tiền phong, giành lấy chính quyền ở địa phương, rồi lần lượt tham gia công tác ở Hội Văn hóa cứu quốc tỉnh, phòng Chính trị Quân khu, phòng Văn nghệ Ban Tuyên huấn Xứ ủy Nam Bộ. Bút danh Sơn Nam ra đời trong thời gian này, để tưởng nhớ người phụ nữ Khmer đã cho ông bú mớm thời thơ ấu. Sau Hiệp định Genève 1954, ông về lại Rạch Giá. Năm 1955, ông lên Sài Gòn cộng tác với các báo: Nhân loại, Công Lý, Ánh sáng, Tiếng chuông, Lẽ sống... Năm 1960-1961, bị chính quyền Việt Nam Cộng hòa bắt giam ở nhà lao Phú Lợi. Ra tù, ông tiếp tục làm báo, viết văn và khảo cứu về Nam Bộ. Sau 1975, ông tiếp tục hoạt động trên lĩnh vực văn hóa văn nghệ. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Nhà văn Sơn Nam đã viết nên nhiều tác phẩm dấu ấn, ông được nhiều người gọi yêu là "ông già Nam Bộ", "ông già đi bộ’, "pho từ điển sống về miền Nam" hay là "nhà Nam Bộ học". Toàn bộ các sáng tác của ông được Nhà xuất bản Trẻ tại thành phố Hồ Chí Minh mua bản quyền. Ông qua đời ngày 13 tháng 08 năm 2008 tại Thành phố Hồ Chí Minh.***Hồi cuối năm 1949, tôi tản cư ra chợ Rạch Giá, ăn nhờ ở đậu tại xóm Sân banh, sát mé biển. Ở tỉnh nhỏ, thật khó kiếm một chân giáo viên tư thục hoặc thơ ký hãng buôn, vì vậy suốt ba bốn tháng trường, tôi cứ nằm nhà mà tập tành việc văn chương, gởi những bài thơ thuộc loại “đồng quê” cho hầu hết các nhựt báo, tuần báo ở Sài Gòn với hy vọng sẽ được các nhân viên tòa soạn lưu ý nâng đỡ. Đôi ba lần tên tôi được nêu trong mục Cánh nhạn bốn phương với kiểu trả lời: “Bạn Hoài Hương: nhận được tác phẩm của bạn. Rất tiếc vì nội dung cưỡng ép, kỹ thuật hơi vụng... nên chúng tôi hy vọng vào những sáng tác về sau. Chúc bạn cố gắng”. Có bạn phụ trách mục Cánh Nhạn, Thư Tín vô tình hay cố ý gọi tôi là cô Hoài Hương và (điều này chắc họ vô tình) đã loan tin nhận được một thiên tiểu thuyết của tôi với nhan đề quá lạ vì chưa bao giờ tôi gởi đến báo ấy thiên tiểu thuyết nào cả. Thế rồi “hết cơn bĩ cực tới hồi thới lai”, đến bài thơ thứ mười lăm, tôi hân hạnh được giới thiệu trong mục Vườn Hoa. Họ trích đăng vài câu, kèm theo đôi hàng bình luận, liệt nó vào xu hướng “tiến bộ, lành mạnh” - những danh từ quá khái quát mà tôi chưa hiểu rõ nghĩa. Tháng sau, vài bài thơ của tôi được đăng trọn, đóng khung, bên góc lại thêm bức tranh con trâu ăn cỏ, cô gái gặt lúa. Trong làng thơ, tôi tự nhận rằng mình đã bắt đầu có chỗ ngồi. Những bài ấy tôi cắt ra, dán kỹ vào quyển Nhựt ký. Đêm đêm, tôi thao thức, sáng tác thật nhiều, hy vọng đến năm sau sẽ hoàn thành một tập thơ khá dày chứa đựng nhiều đề tài độc đáo, phong phú. Vài người bàn cận đã quở trách: - Cỡ này sao chú hút thuốc vàng móng tay, đầu tóc rối nuồi, quần áo ít giặt. Coi chừng bịnh đa. Xóm Biển này nhiều âm binh khuấy rối.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Sơn Nam":Cá Tính Của Miền NamHồi Ký Sơn Nam Toàn TậpLịch Sử Khẩn Hoang Miền NamSài Gòn Xưa, Ấn Tượng 300 Năm Và Tiếp Cận Với Đồng Bằng Sông Cửu LongĐi Và Ghi NhớCon Sấu Cuối Cùng26 Truyện Ngắn Sơn NamBiển Cỏ Miền Tây Hình Bóng CũChuyện Xưa Tích CũTuyển Tập Truyện Ngắn Sơn NamLễ Hội Dân Gian Miền NamNgười Bạn Triệu PhúVạch Một Chân Trời, Chim Quyên Xuống ĐấtĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Biển Cỏ Miền Tây Hình Bóng Cũ PDF của tác giả Sơn Nam nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Biển Chết (Jorge Amado)
Tôi muốn kể cho bạn nghe những truyền thuyết về biển ở vùng Bahia. Những ngư phủ già không còn đi biển, các hoa tiêu, đám da đen xăm mình, các giang hồ bạt tử đều biết về những câu chuyện này, những bài ca được nhắc đến ở đây. Hẳn tôi đã được nghe chúng trong những đêm trăng trên các cầu tàu, trong những buổi chợ phiên, tại nhiều cảng nhỏ quanh vịnh, bên những con tàu Thủy Điển khổng lồ thả neo ở Ilhéus. Những thần dân của Iemanja có biết bao điều để kể. Hãy đến nghe các truyền thuyết và những bài hát ấy. Hãy đến nghe câu chuyện về Guma và Livia, câu chuyện về cuộc sống và tình yêu của biển. Và nếu bạn không cảm nhận được vẻ đẹp của chúng thì lỗi không thuộc về những con người chất phác kể lại mà bởi bạn đã nghe từ miệng những người của đất liền, và thật khó cho người con của đất liền hiểu được trái tim con người nơi biển cả. Dẫu rất yêu các truyền thuyết, những bài ca ấy, luôn tôn sùng những nghi lễ của Dona Janaina, anh ta vẫn không thể biết hết mọi bí mật nơi biển cả. Bởi biển quá mênh mông huyền bí, ngay những người đi biển lão làng cũng có ai hiểu được tận tường. IEMANJA, NỮ THẦN CỦA BIỂN CẢ VÀ NHỮNG CON THUYỀN*** Jorge Amado de Faria Leal (10/8/1912 - 06/8/2001) Trong lịch sử văn học Brazil, không có nhà văn nào nổi tiếng, có uy tín và nhiều độc giả như Jorge Amado. Bằng những tác phẩm văn học và hoạt động chính trị không mệt mỏi, nhà văn cộng sản này đã được sự ngưỡng mộ của tầng lớp người nghèo khổ, người da đen bị áp bức. Tìm mua: Biển Chết TiKi Lazada Shopee Hầu hết những tiểu thuyết của Jorge Amado đều được thai nghén tại thành phố Salvador, thủ phủ bang Bahia thuộc vùng Đông Bắc vốn là thủ đô của Brazil c đến năm 1763. Ra đời năm 1912 trong ngôi làng Ferradas, con một nông dân trồng ca cao, J. Amado trải qua thời thơ ấu trong một khu phố nghèo của Salvador mà mọi đường phố, ngôi nhà giờ đây vẫn gợi nhớ về quá khứ thuộc địa của Bồ Đào Nha từ thế kỷ 17. Là nhà văn hiến mình cho sự nghiệp giải phóng người nghèo khổ, Jorge Amado bắt đầu cuộc chiến đấu từ nghề làm báo năm 14 tuổi. 5 năm sau, ông xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên O País do Carnaval (1931) trong khi đang học luật tại Rio. Tuy nhiên, Amado không hề hành nghề luật sư mà tự nguyện đứng vào hàng ngũ Đảng Cộng sản Brazil, đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng người nghèo. Cho đến những năm 1950 của thế kỷ trước, hàng loạt tác phẩm của Amado viết về người nghèo đã ra đời như: Cacau (Cacao, 1933), Suor (1934), Jubiabá (1935), Mar Morto (Sea of Death, 1936)… Đến cuối những năm 50, các tác phẩm của Amado có một bước ngoặt sang hướng trào lộng và phê phán mà ông tự nhận là theo chủ nghĩa hiện thực XHCN. Các cuốn tiểu thuyết Gabriela, Cravo e Canela (Gabriela, Clove and Cinnamon, 1958) hoặc Dona Flor e Seus Dois Maridos (Dona Flor and Her Two Husbands, 1966) nói lên sức sống mãnh liệt của nhân dân Brazil. Đây là 2 cuốn tiểu thuyết được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trên thế giới, kể cả ở Việt Nam (cuốn Dona Flor và hai người chồng do NXB Đà Nẵng ấn hành năm 1987) và được dựng thành phim năm 1977 và 1984 do các nghệ sĩ tên tuổi Marcello Mastroianni và Sonia Braga thể hiện. Đây là phim thành công nhất trong lịch sử điện ảnh Brazil, đã được các đề cử cho giải Quả cầu vàng và Giải BAFTA. Đã nhiều lần được đề cử giải Nobel, nhưng do bị thành kiến, Amado chưa lần nào đoạt giải. Năm 1998, đất nước Brazil của Amado là khách mời danh dự tham gia Hội chợ Triển lãm sách Paris trong đó tên tuổi Amado được tôn vinh xứng đáng. Những thành công của Amado có phần đóng góp không nhỏ của bà Zélia Gattai, người bạn đời cũng là một nhà văn và nhà trí thức có tên tuổi ở Brazil. Các tác phẩm của J. Amado đã được dịch ra 50 thứ tiếng ở 55 nước trên thế giới và được chuyển thành phim, kịch. Ở VN nhiều tiểu thuyết của J. Amado đã được dịch: Đất dữ, Miền đất quả vàng, Ca cao, Têrêza, Dona Flor và hai người chồng, Gabriela nhành quế và hoa đinh hương…Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Biển Chết PDF của tác giả Jorge Amado nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Biển Cả Và Giá Trị Cuộc Sống (Richard Bode)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Biển Cả Và Giá Trị Cuộc Sống PDF của tác giả Richard Bode nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Biển (John Banville)
Ngay từ khi ra đời, cuốn sách đã gây nhiều dư luận trái chiều, nhưng vượt lên những lời phủ định thành kiến, The Sea (Biển) của John Banville đã giành giải thưởng Man Booker 2005 và được hàng triệu người trên thế giới biết đến như một áng văn chương tuyệt đẹp làm lay động lòng người bởi tinh thần bi tráng và nỗi hồ nghi sắc bén. Câu chuyện không bắt đầu bằng sự kiện mà khởi đầu bằng tâm trạng, nỗi mất mát, sự từ bỏ và hoang mang xáo trộn. Max Morden, một trí thức trung niên, nhà nghiên cứu nghệ thuật, sau cái chết của người vợ, đã quyết định khép kín cuộc sống của mình, làm chuyến du hành về quá khứ. Và từ đây mở ra thế giới của hồi ức, nhưng là những hồi ức đã bị cắt lìa khỏi sự quy chiếu thực tại, khỏi những cảm xúc và sự chủ động của con người thực tại, thế giới của những kẻ thực ra là đã chết ngay từ khi họ còn hít thở, ăn uống, thậm chí yêu đương… Như chính lời của họ, “chỉ còn như những bức tượng chân dung bị đổ ngã của chính mình”. Ngay từ khi trở về ngôi nhà nghỉ thuở ấu thơ bên bờ biển, sau gần nửa thế kỷ, Max Morden đã chán chường bực tức vì cảnh vật và mọi điều vẫn y sì như cũ, chi tiết tưởng như vô lý này cho ta hiểu một ý nghĩa khác, cái khả năng chủ động lục tìm hồi tưởng lại cảnh cũ người xưa của anh ta đã hoàn toàn bị vô hiệu hay là không hề được đề cập tới. Tìm mua: Biển TiKi Lazada Shopee Và quả thực suốt phần đầu của tác phẩm, Max Morden giống như bị trôi dạt nhồi dập trên những kỷ niệm và rãnh mòn của đời sống quá khứ. Chỉ cần nghĩ tới việc phải đi cắt cỏ, là anh ta đã “thấy mình ở đó rồi, sơ mi xắn tay, quần ống rộng, nhễ nhại mồ hôi, bước thấp bước cao sau cái máy cắt, mồm dính cỏ, ruồi bu trên đầu”. Dường như chỉ có những “rãnh mòn" ngơ ngẩn tức cười như thế là cái còn lại, sau chừng ấy năm sống. Và những kỷ niệm, cũng chẳng phải là cái gì ngọt ngào êm dịu mà giống như một xô xốc những hình dung về cái tréo nghoe, bất mãn, tồi tệ, xấu xí, một cách hiển nhiên, trong đó nổi bật lên cảm giác bơ vơ nhỏ nhoi của thân phận và những ẩn ức tính dục ngùn ngụt được giãi bày một cách tự nhiên và mạnh mẽ. Nhân vật của Biển là tù nhân của những khiếm khuyết đau buồn, ẩn ức tính dục và cả những bí ẩn ngẫu nhiên trong cuộc sống thời thơ ấu của mình. Và John Banville đã miêu tả một cách tuyệt vời khéo léo cái thế giới đóng kín hoá thạch của những hồi ức, với vẻ vừa tức cười vừa quái lạ của con người và cảnh vật, được tái hiện bằng những cảm giác và tâm trạng siêu hình. “Tôi đã ở đó mà không phải ở đó, là chính mình và hài lòng, vừa bị giam cầm chặt chẽ trong cái khoảnh khắc ấy mà lại vẫn lửng lơ sẵn sàng từ bỏ nó ra đi. Có lẽ toàn bộ cuộc đời cũng chỉ là một cuộc chuẩn bị dài để từ bỏ nó mà thôi.” Cảm giác vô nghĩa về thực tại, sự mất sạch những cảm xúc hiện sinh trở đi trở lại trong phần đầu tác phẩm càng được nhấn mạnh khi Max Morden kinh ngạc nhận ra rằng những gì anh ta hình dung từ thuở bé về tương lai của mình đã hoàn toàn đúng như những gì diễn ra; và cái hình dung đó thực ra là một khuôn mẫu sẵn có đã được vạch sẵn từ trước như một tinh thần xã hội, mà nếu tại thời điểm này cho anh ta chọn lại như thuở bé thơ chắc chắn cũng không thể có lựa chọn nào khác. Khép lại một vòng luẩn quẩn của của tồn tại, nỗi đau đớn và cảm giác bất lực như những thứ duy nhất còn lại sau gần nửa thế kỷ tiêu phí và trải nghiệm cuộc sống, phần đầu tác phẩm cho người đọc hình dung những cố gắng gần như tuyệt vọng mà cảm động của con người khi bị nhồi lắc trên sóng biển vô minh, kiếm tìm một điểm đến của tinh thần, kiếm tìm điều khả dĩ có thể coi là bản lai diện mục. Phần sau của tác phẩm, nhà văn đã để cho bạn đọc chùng lại nghỉ ngơi với việc kể nốt câu chuyện, những ham muốn tình dục đầu tiên của cậu bé Max Morden rất tự nhiên đúng lối gửi vào bà mẹ Grace đẫy đà phốp pháp đã nhanh chóng chuyển thành tình yêu đầu vụng dại với cô con gái Chloe. Cái chết vừa ngẫu nhiên bất ngờ vừa tự nguyện của Chloe và cậu em sinh đôi, vừa là chết thực vừa đùa bỡn với cái chết, đã gieo vào tâm trí cậu bé Max đang lớn còn chưa kịp khám phá trò chơi thân thể lần đầu tiên, ý niệm về sự tuyệt đối bất khả cưỡng của cái chết. Cái chết của Anna, người vợ hiền sau đó chính là sự tước bỏ cuối cùng đối với Max Morden, vốn đã chẳng có nhiều nhặn gì những người thân ở bên, nhưng lại được sống qua một cuộc đời quá đỗi yên bình. Giả định mà nhà văn đặt ra qua lời của Anna, mỗi con người chỉ được tạc nặn nên nhờ vào mối quan hệ của anh ta với những người khác, đã hoàn toàn đúng với Max. Tại sao anh không là những gì anh thích, mà lại cứ phải trở thành một người nào đó, như thế này hoặc như thế kia? Câu hỏi của Anna dành cho Max cũng sẽ là câu hỏi cứ vấn vương trong tâm trí nhiều người, khi mà thực ra chúng ta cũng giống như Max, suốt đời là tù nhân của những ẩn ức, của những mất mát hay khiếm khuyết, của ham muốn được sống trưởng giả yên bình và của những cá nhân khác? Đặt ra câu hỏi này, nhưng chính nhà văn cũng là người hiểu rõ hơn hết, sự bất lực vô minh của con người trong thế giới đương đại trước hình dung về bản ngã chính mình. Không có biến cố, hay nói cách khác là đã dìm kể cả những biến cố lớn như cái chết vào dòng chảy phẳng lặng của biển tồn tại muôn đời; không có thiện ác, có phần buông lơi cả trách nhiệm cá nhân; câu chuyện của Banville về đời sống bình thường, thậm chí tầm thường của một người đàn ông run rảy với bản năng sinh tồn, siêu hình và bế tắc trong kiếm tìm bản ngã, chính là ẩn dụ xác thực cho thời đại chúng ta đang sống. ***John Banville sinh tháng 12 năm 1945 tại Wexford, Ireland. Cuốn sách đầu tiên của ông, Long Lankin, được xuất bản năm 1970. Các cuốn khác là Nightspawn, Birchwood, Doctor Copernicus (đoạt giải James Talt Black Meomorial Prize năm 1976), Kepler (đoạt giải Guardian Fiction Prize năm 1981), The Newton Letter, Mefisto, The Book of Evidence (lọt vào chung khảo Booker Prize năm 1989 và giành giải Guinness Peat Aviation Award), Ghosts, Athena, The Untouchable, Eclipse và Shroud. Hiện John Banville sống tại Dublin. John Banville được trao giải thưởng Franz Kafka năm 2011. Ông cũng viết tiểu thuyết tội phạm dưới bút danh Benjamin Black.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Biển PDF của tác giả John Banville nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.