Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bão

Trong Bão, có một hòn đảo, biển và gió, cơ thể những người đàn bà, một đứa trẻ cô đơn không bố, một người đàn ông bị quá khứ gặm nhấm và cơn bão rửa sạch tất cả. Trong Bão, còn có cả Phi châu, Paris và một đứa trẻ lạc lối khác đi tìm danh tính của mình. Hai câu chuyện đầy chất thơ ấy được thổi đến bằng cơn bão của thế giới của tâm hồn. Trong Bão, những số phận kì lạ gặp đầy trắc trở của Le Clezio vẫn tìm thấy phép màu, tim thấy điều níu giữ họ lại với cuộc sống, bởi "kí ức không quan trọng,không hậu quả, duy có hiện tại mới là đáng kể". Trong Bão, độc giả vẫn tìm thấy chất thơ lãng mạn từ những câu văn giản dị nhưng đầy sức nặng của tác giả từng được nhận giải Nobel Văn chương 2008. Cuốn sách kể chuyện bằng cách đưa ra các hình ảnh, những gợi mở, niềm hy vọng ở phép màu và những điều hão huyển, và phải nhìn nó qua một tấm màn thi vị hóa. Từ đầu tới cuối, tính nhạc trong từng câu chữ giữ chân người đọc. *** Bão là tập truyện mới nhất của Le Clézio - nhà văn đoạt giải Nobel năm 2008. Tác phẩm được xuất bản tại Pháp năm 2014, vừa phát hành ở Việt Nam. Có thể ví hai truyện vừa Bão và Người đàn bà không danh tính trong cuốn sách như một file nén. Với dung lượng trang sách, số con chữ không lớn nhưng nén trong đó những câu chuyện đầy sức nặng và nhiều tầng cảm xúc, triết lý. Và bởi thế, mỗi độc giả có "mã giải nén" của riêng mình. Là hai câu chuyện độc lập song bằng những chủ đề chung, tác giả đã tạo cho nó một mạch ngầm kết nối: từ cô gái June sống ở một hòn đảo hẻo lánh của Nhật Bản đến Rachel của một vùng đất thuộc địa cũ của châu Phi, từ vùng trời nước hoang sơ đến những thành thị ngột ngạt, và từ một bé gái không cha đến một thiếu nữ không mẹ đi tìm nguồn cội của mình.  Câu chuyện của Bão đưa người đọc đến những vùng đất xa xôi, những xã hội như nằm bên kia nền văn minh, nơi con người đắm mình vào thiên nhiên hoang dã, sống trong nó và chết trong nó. Ở đó, những con người còn rất trẻ đang bước qua lằn ranh mỏng manh giữa ấu thơ và trưởng thành, tâm hồn còn trong sáng vô ngần, nhạy cảm vô ngần, hồ như căng mình ra trước mọi sóng gió cuộc đời, không có khả năng tự bảo vệ khỏi những nỗi đau. Thậm chí họ dấn mình vào nỗi đau: đi tìm nguồn cội, đi tìm danh tính. Trên hết, những cô gái luôn vươn mình tới một thứ tình yêu nguyên sơ, thánh thiện, bất chấp sự già cỗi của những thứ ranh giới, khoảng cách thường tình. Đó là thứ tình yêu từ cội nguồn sự sống có trong mỗi con người mà cô bé June cảm nhận được. Tình yêu ấy đôi khi làm thương tổn chính các cô gái. Bởi nó mạnh mẽ như bão, hủy diệt như bão, và cũng tái sinh sau bão. Hai cô gái trẻ của Bão mang trong mình một tâm hồn có thể bật lên, tự tái tạo, tự giải thoát mình khỏi nỗi đau và nỗi tuyệt vọng. Cũng nhờ sức sống tươi mới tiềm tàng ấy, Kyo - người đàn ông toan đến hòn đảo hoang vắng để kết thúc cuộc đời - được giải thoát khỏi "nhà tù" của quá khứ, khỏi sự ám ảnh của ký ức và những vết thương. Bão đã rửa sạch tất cả - "ký ức không quan trọng, không hậu quả, duy có hiện tại mới là đáng kể". Bão tiếp tục những chủ đề ưa thích của Le Clézio: những thế giới, vùng đất, con người bị bỏ quên, dường như sống bên lề thế giới và nền văn minh. Ông luôn dành một sự ưu ái, trìu mến cho người trẻ và phụ nữ. Có thể thấy trong câu chuyện của ông, họ là những đối tượng dễ dàng bị thế giới nuốt chửng hay làm tổn thương. Nhưng đó cũng chính là những tâm hồn tiềm tàng khả năng tái sinh mạnh mẽ, khơi dậy niềm thiết tha sống ở những con người khác. Bên cạnh đó, chủ đề đi tìm danh tính dường như chưa bao giờ là câu chuyện cũ trong sáng tác của Clézio, nhất là khi con người đang ngày càng đánh mất mình giữa sắt thép, bê tông, phương tiện hiện đại và những thành phố xa hoa, đồ sộ. Những câu chuyện không có những tình huống gay cấn, tình tiết hấp dẫn hay chi tiết mùi mẫn của Clézio dường như thách thức sự kiên nhẫn của độc giả. Thay vào đó, ông theo sát và xoáy sâu vào những biến động tâm lý bất ngờ của nhân vật: June (Bão) đã mạnh mẽ và quyết liệt ra sao trong niềm tin của riêng mình; Rachel (Người đàn bà không danh tính) đã để mình trôi dạt, lạc lối thế nào trong nỗi cô đơn của mình, trong những ngóc ngách thành phố. Mỗi câu chuyện đều mang đến một niềm xúc động sâu xa bằng lối văn phong giản dị, trong trẻo mà đa thanh. Những câu ngắn đầy chất thơ, chất nhạc. Và những mệnh đề, câu chữ, hình ảnh trở đi trở lại như một giai điệu ám ảnh. Song, giống như hành trình tự nhiên của một cơn bão, cấu tứ câu chuyện của Clézio nương theo đó đi về phía chân trời hừng sáng sau cơn biến động của đất trời. Ở phía đó, có sự đổi thay, sự tái sinh và có niềm tin không bao giờ lụi tắt. Đó cũng là chất thơ lãng mạn chảy len lách giữa khoảng trắng của những con chữ - là chất thơ của thiên nhiên vĩnh hằng và của từng khoảnh khắc sống. Clézio được ví như một "nhà văn đi bộ" với lối bút pháp "lãng du". Mỗi câu chuyện ông kể giống như cất lên một bản du ca u buồn, sâu lắng nhưng đẹp đẽ dành cho những nơi ông từng đi qua, những con người từng gặp gỡ. Đó còn là những lời an ủi dịu dàng, thiết tha dành cho bao tâm hồn cô độc và lạc lõng. *** Đêm buông trên đảo. Đêm lấp đầy những chỗ trũng, len lỏi giữa ruộng đồng, một đợt thủy triều bóng tối dần bao phủ vạn vật. Cũng vào thời khắc đó, đảo vắng bóng người. Sáng nào du khách cũng tới trên chuyến phà lúc tám giờ, họ làm đông đúc những không gian trống, họ lấp đầy những bãi biển, họ trôi như một thứ nước bẩn dọc theo cả những con lộ lớn lẫn những nẻo đường đất. Rồi khi đêm tới, họ lại rời khỏi những vũng vịnh, họ lùi ra xa, họ mất tăm. Những con tàu mang họ đi. Và đêm tới. Tôi tới đảo lần đầu cách đây đã ba mươi năm. Thời gian đã biến đổi mọi thứ. Tôi chỉ loáng thoáng nhận ra những nơi chốn, những ngọn đồi, những bãi biển, và dáng hình của miệng núi lửa sạt lở phía Đông. Tôi quay lại vì lẽ gì nhỉ? Phải chăng không còn nơi nào khác cho một nhà văn đang kiếm tìm lối viết? Một chốn nương náu khác, xa sự ồn ào của thế gian, đỡ om sòm hơn, đỡ ngạo ngược hơn, một chốn khác để ngồi vào bàn làm việc và gõ lên máy những dòng chữ, đối diện với bức tường chăng? Tôi đã muốn thăm lại hòn đảo này, nơi tận cùng thế giới này, nơi không lịch sử, không ký ức này, một mỏm đá bị dập vùi bởi sóng gió đại dương, rã rời vì du khách. Ba mươi năm, tuổi đời của một con bò. Tôi từng đến vì gió, vì biển, vì lũ ngựa bán hoang dã lang thang kéo theo dây buộc, vì lũ bò cái ban đêm giữa những nẻo đường, tiếng rống thê thiết của chúng nghe như tiếng tù và báo sương mù, vì những tiếng sủa ăng ẳng của lũ chó bị xích. Cách đây ba mươi năm trên đảo không có khách sạn, chỉ có các phòng ngủ cho thuê theo tuần gần đê chắn sóng, và những lán gỗ bán đồ ăn bên bờ biển. Chúng tôi đã thuê một ngôi nhà gỗ nhỏ trên đồi, không tiện nghi, ẩm ướt và lạnh giá, nhưng vậy là lý tưởng rồi. Mary Song hơn tôi một giáp, mái tóc tuyệt đẹp đen nhánh gần như ngả biếc, đôi mắt màu lá thu, nàng hát những tình khúc buồn trong một khách sạn dành cho du khách giàu có tại Bangkok. Cớ gì nàng lại muốn cùng tôi tới hòn đảo hoang vu này? Tôi chắc đây không phải ý tưởng của mình, chính nàng đã bàn đến chuyện này trước. Hoặc nàng đã nghe ai đó nhắc đến một đảo đá hoang sơ, mỗi khi có bão là hết đường tới. “Em cần tĩnh lặng.” Hoặc giả đó là ý của tôi, chính tôi đã nghĩ tới sự tĩnh lặng. Để viết, để lại bắt đầu viết sau nhiều năm uổng phí. Sự tĩnh lặng, khoảng cách. Sự tĩnh lặng, trong gió và biển. Những đêm lạnh, những đám sao. Giờ thì toàn bộ chuyện này chỉ còn là một kỷ niệm. Ký ức không quan trọng, không hậu quả. Duy có hiện tại là đáng kể. Tôi đã học được điều ấy qua những kinh nghiệm xương máu của mình. Gió là bạn tôi. Gió thổi không ngừng trên các mỏm đá, gió đến từ chân trời phía Đông rồi vấp phải bức vách gãy vỡ của núi lửa, ập xuống những ngọn đồi rồi luồn lách giữa những bức tường nham thạch thấp, lướt trên cát san hô và vỏ sò vỏ ốc vỡ. Ban đêm, trong phòng khách sạn nơi tôi ở (Happy Day*, làm cách nào cái tên này tới được tận đây, một cái tên không trọn vẹn trên chiếc thùng gỗ mắc cạn), gió lùa qua khe cửa sổ và cửa ra vào, xuyên qua căn phòng trống nơi chiếc giường sắt han gỉ cũng y hệt một mảnh tàu đắm. Không có lý do nào khác cho chuyến biệt xứ của tôi, cho nỗi cô đơn của tôi, duy có sắc xám của trời và biển, và tiếng gọi ám ảnh của những người đàn bà mò bào ngư, tiếng kêu của họ, tiếng huýt của họ, một dạng ngôn ngữ cổ, xa lạ, ngôn ngữ của những động vật biển đã từng lui tới thế giới rất lâu trước con người... Aouah, iya, ahi, ahi!... Những thiếu nữ làng chài đã ở đó khi Mary dẫn tôi đi thăm đảo. Bấy giờ mọi chuyện khác hẳn. Những thiếu nữ mò ốc tuổi chừng đôi mươi, họ lặn không trang phục, thắt lưng buộc đá, đeo những mặt nạ dưỡng khí lấy từ xác lính Nhật. Các cô không có bao tay cũng chẳng có giày. Giờ đây họ đã già đi, họ mặc bộ đồ lặn liền thân bằng cao su đen, họ đeo bao tay dệt bằng sợi hóa học, đi giày nhựa màu sắc sặc sỡ. Kết thúc ngày làm việc, họ bước đi dọc con đường ven biển, đẩy xe nôi chở những thứ thu hoạch được. Đôi khi họ có xe máy điện, xe ba bánh chạy xăng. Họ có dao inox giắt ở thắt lưng. Họ cởi bộ đồ lặn giữa những mỏm đá, gần một túp lều gạch nén xây riêng cho họ, họ giội rửa ở vòi nước lộ thiên rồi trở về nhà bước thấp bước cao, tiều tụy vì chứng thấp khớp. Gió đã cuốn theo những năm tháng của họ, những năm tháng của tôi cũng vậy. Bầu trời xám xịt, màu của hối hận. Biển động, nổi sóng lừng, biển xô vào đá ngầm, vào những chỏm nham thạch, biển quay cuồng và vỗ bập bềnh trong những vũng lớn, nơi lối vào những vịnh hẹp. Không có những phụ nữ ngày ngày mò hải sản này, biển có lẽ sẽ thù địch, khó gần. Mỗi sáng tôi lắng nghe tiếng kêu của những người đàn bà của biển, âm thanh rè rè từ hơi thở của họ khi họ ngoi đầu khỏi mặt nước, ahouiii, iya,tôi hình dung khoảng thời gian đã qua, tôi hình dung ra Mary, đã mất tích, tôi nghĩ đến giọng hát tình ca của nàng, đến tuổi thanh xuân của nàng, đến thời trai trẻ của tôi. Chiến tranh đã xóa đi tất cả, chiến tranh đã phá tan tất cả. Thời đó tôi thấy chiến tranh đẹp, tôi muốn viết về nó, trải nghiệm nó và rồi viết về nó. Chiến tranh là một cô gái đẹp với thân hình trong mộng, mái tóc dài đen nhánh, đôi mắt sáng, giọng nói mê hoặc, rồi nàng biến thành mụ già tóc tai bù xù và nanh nọc, thành ác phụ báo oán, bất nhân, tàn nhẫn. Đây là những hình ảnh trở lại trong tâm trí tôi, chúng dâng lên từ nơi sâu thẳm nhất. Những thân thể trật trẹo, những cái đầu bị cắt rời, rải khắp các đường phố bẩn thỉu, những vũng xăng, những vũng máu. Một vị hắc trong miệng, một thứ mồ hôi nặng mùi. Trong một căn nhà không cửa sổ, chỉ có một bóng đèn điện không chao duy nhất, bốn gã đàn ông giữ chặt một người đàn bà. Hai gã ngồi lên chân cô, một gã đã trói hai cổ tay cô bằng một dây đai, gã thứ tư mải miết với một vụ cưỡng hiếp bất tận. Không có tiếng động, như trong những cơn mơ. Ngoại trừ tiếng thở khàn khàn, tiếng thở của kẻ cưỡng hiếp, và một hơi thở khác, nhanh, dữ dội, của người phụ nữ, nghẹt lại vì sợ, có lẽ thoạt đầu cô đã kêu bởi dấu vết một cú đánh vẫn còn lưu trên môi dưới của cô, nó đã rách toạc, và máu chảy tạo thành một vết loang hình sao trên cằm. Hơi thở của kẻ cưỡng hiếp dần gấp gáp, một dạng thở khò khè sâu, nghẹt lại, một âm thanh trầm và giật cục của máy móc, một âm thanh gấp gáp và dường như sẽ không bao giờ ngưng. Mary là lâu sau đó, Mary uống rượu nhiều quá mức, và biển đã mang nàng đi. “Em có thể làm điều đó,” nàng đã nói khi chúng tôi băng qua eo biển ngăn cách đảo với đất liền. Nàng đi vào lòng biển lúc hoàng hôn. Thủy triều đã làm láng mượt những con sóng, những vòng tròn chậm rãi tiến lên, màu rượu vang. Những người đã nhìn thấy nàng đi vào lòng biển đều nói rằng nàng điềm tĩnh, rằng nàng mỉm cười. Nàng đã mặc đồ bơi, một bộ liền màu lam không tay, rồi nàng luồn lách giữa những mỏm đá đen, nàng bắt đầu bơi cho đến khi những con sóng, hoặc ánh mặt trời lặn che khuất nàng khỏi tầm mắt những người chứng kiến. Tôi đã không biết gì, không thấy gì, không dự đoán gì. Trong phòng ngủ ở căn lều của chúng tôi, quần áo của nàng được gấp và xếp sắp như thể nàng đi du lịch, thế thôi. Những chai rượu gạo rỗng không, những bao thuốc lá bóc dở. Một túi xách đựng vài vật dụng thân thuộc, lược và bàn chải tóc, nhíp, gương, phấn, son môi, khăn mùi soa, chìa khóa, ít tiền Mỹ và tiền Nhật, mọi thứ như thể hai tiếng nữa nàng sẽ quay lại. Viên cảnh sát duy nhất trên đảo này - một người đàn ông trẻ tuổi, tóc húi cua, trông như một thiếu niên - đã kiểm kê. Nhưng anh ta đã để lại cho tôi mọi thứ, như thể tôi là một người họ hàng, một người bạn. Tôi là người được yêu cầu tùy tâm xử lý những di vật, nếu họ tìm thấy, hỏa thiêu chúng, quăng chúng xuống biển. Nhưng không bao giờ có gì khác ngoài những đồ dùng không quan trọng kia. Bà chủ nhà trọ đã chọn trong đám quần áo, bà ta giữ lại đôi giày màu lam xinh xắn, chiếc mũ rơm, đôi tất dài, cặp kính râm, chiếc túi xách. Tôi đã mang các giấy tờ ra sân đốt. Những chiếc chìa khóa, những đồ vật riêng tư, tôi đã quăng chúng xuống biển, từ boong con tàu đưa tôi trở lại đất liền. Một ánh vàng rực lấp lánh giữa hai làn nước, tôi nghĩ một chú cá phàm ăn, một chú cá tráp hồng, một chú cá đối đã nuốt chửng chúng. Thi thể chưa bao giờ được tìm thấy. Mary, với làn da mềm mại, óng vàng sắc hổ phách, đôi chân chắc lẳn của vũ nữ, của vận động viên bơi lội, mái tóc đen dài. “Nhưng vì lý do gì?” viên cảnh sát đã hỏi. Đó là tất cả những gì anh ta đã nói. Như thể một ngày nào đó tôi có thể có câu trả lời. Như thể tôi có chìa khóa giải mã ẩn ngữ. Giờ đây khi bão nổi, khi gió thổi liên hồi từ chân trời phía Đông, Mary trở lại. Không phải tôi gặp ảo giác, cũng không phải chớm điên (nhưng tay bác sĩ của nhà tù, khi thảo báo cáo, hắn đã viết lên đầu hồ sơ của tôi chữ Y nguy hại), ngược lại là khác, mọi giác quan của tôi thành sắc bén, cảnh giác, nhạy cảm đến cực độ để thu nhận thứ mà biển và gió mang lại. Chẳng có gì rõ rệt, tuy nhiên đó là một cảm giác sống chứ không phải chết, nó tỏa vầng hào quang quanh da tôi, điều này đánh thức ký ức về những trò yêu đương của chúng tôi, của Mary và tôi, những mơn trớn dài từ dưới lên trên, trong bóng tối phòng ngủ, hơi thở, vị đôi môi, những nụ hôn sâu khiến tôi rùng mình, cho đến tận con sóng tình chậm rãi, cơ thể hai chúng tôi hòa quyện, bụng áp bụng, toàn bộ những chuyện này tôi đã bị cấm đoán từ lâu, là tôi tự cấm đoán, bởi tôi đang ở chốn ngục tù cho phần đời còn lại. Trong bão tôi nghe thấy giọng nàng, tôi cảm thấy trái tim nàng, tôi cảm thấy hơi thở nàng. Gió rít qua các khe của vách kính lớn, lùa vào qua phía mặt hẹp han gỉ, xuyên qua căn phòng và khiến cánh cửa đập đập. Bấy giờ trên đảo mọi thứ ngưng lại. Những con phà không băng qua lạch nữa, những chiếc xe máy và ô tô ngừng vũ điệu của chúng, ngày giống như đêm, âm u, có những tia chớp không kèm tiếng sấm xuyên qua. Mary đã ra đi vào một buổi chiều tĩnh mịch, trong mặt biển phẳng lặng như một tấm gương. Nàng trở về trong cơn bão, từng mảnh nhỏ li ti bị biển thẳm tống xuất. Ban đầu, tôi không muốn tin vào điều đó. Tôi từng ghê sợ, từng ép chặt thái dương giữa hai bàn tay để dập tắt những hình ảnh này. Giờ đây tôi nhớ đến một người chết đuối. Không phải một phụ nữ mà là một đứa trẻ lên bảy, một tối nọ thằng bé mất tích, Mary và tôi đã cùng dân làng tìm bé nhiều giờ trong đêm. Chúng tôi men dọc bờ biển, tay cầm đèn pin, chúng tôi gọi bé nhưng không biết tên nó, Mary hét gọi: “Này cưng ơi!” Nàng thảng thốt, nước mắt giàn giụa trên má. Bấy giờ có chính cơn gió này, những đợt sóng này, thứ mùi đáng nguyền rủa này của vực biển sâu thẳm. Rạng sáng có tin báo đã tìm thấy xác thằng bé. Trên một bãi cát lẫn sỏi giữa các mỏm đá, chúng tôi lại gần, nhờ một tiếng thở than giống như tiếng gió dẫn đường, nhưng đó là mẹ thằng bé. Chị ngồi trên cát đen, thằng bé đặt trong lòng. Thằng bé trần truồng, áo quần biển đã lột sạch, trừ chiếc áo phông bẩn tạo thành một chuỗi vòng xoắn vặn quanh thân trên. Gương mặt bé trắng bệch, nhưng điều tôi tức khắc nhìn thấy, đó là lũ cua và cá đã bắt đầu rỉa xác bé, gặm chớp mũi và cu của bé. Mary không muốn lại gần, nàng run lên vì sợ và vì lạnh, và tôi đã ôm nàng sát gần mình, chúng tôi ở lại trong phòng, nằm quấn lấy nhau trên giường, không vuốt ve nhau, chỉ miệng kề miệng thở. Giờ đây hình ảnh ấy ám ảnh tôi, thân thể người đàn bà ấy nằm dang chữ thập trong khi tụi lính hành sự, và dưới khuôn miệng bầm giập máu đã khô thành hình ngôi sao đen. Và đôi mắt cô đang nhìn tôi, trong khi tôi lùi lại gần cửa, đôi mắt cô nhìn thấy xuyên qua tôi, nhìn thấy cái chết. Tôi chưa bao giờ nói gì với Mary, vậy mà chính vì cảnh tượng tàn bạo ấy nàng đã ngụp xuống biển để không bao giờ trở lại. Biển rửa cái chết, biển gặm nhấm, phá hủy và không trả lại gì, hoặc trả một cái xác trẻ em đã bị róc rỉa. Thoạt đầu, tôi đã nghĩ rằng cả mình cũng trở lại hòn đảo này để chết. Tìm lại được dấu vết của Mary, đi vào lòng biển một tối rồi biến mất. Giờ đây trong cơn bão, nàng tới phòng tôi. Đó là một giấc mơ tỉnh thức. Tôi bị mùi thân thể nàng quyện với mùi biển thẳm đánh thức. Một mùi hương nồng và hắc, chua, gắt, u uất, xộc lên. Tôi ngửi thấy mùi rêu tảo trong tóc nàng. Tôi cảm thấy làn da nàng hết sức mịn màng, nhẵn mượt nhờ sóng bào mòn, lóng lánh ánh xà cừ vì muối. Thân hình nàng bồng bềnh trong ánh sáng lờ mờ buổi hoàng hôn, luồn vào trong chăn, và bộ phận sinh dục cương cứng của tôi đi vào nàng, tới rùng mình, quấn siết tôi trong niềm mê đắm lạnh băng của nàng, thân nàng trườn sát thân tôi, môi nàng kề trên dương vật tôi, tôi hoàn toàn quyện vào nàng, nàng quyện vào tôi, cho tới cơn cực khoái. Mary, chết từ ba mươi năm nay, chưa bao giờ tìm thấy xác. Mary trở về từ đáy đại dương, đang nói vào tai tôi bằng chất giọng hơi khàn, trở về để hát cho tôi nghe những ca khúc bị lãng quên, những ca khúc về những ngôi sao trời, mà nàng đã hát tôi nghe ở quán bar khách sạn Phương Đông, lần đầu tôi gặp nàng. Không hẳn là quán bar dành cho lính tráng, và nàng không hẳn là ca sĩ quán bar. Khi nhìn thấy nàng tôi đã không hình dung ra nàng là ai, con một lính Mỹ được một gia đình nhà quê vùng Arkansas nhận nuôi, sinh ra từ một vụ cưỡng hiếp, bị bỏ rơi và trở về để chiến thắng kẻ thù truyền kiếp của mình, để hoàn thành một cuộc báo oán, hay đơn giản chỉ do sự lại giống vốn hay xua loài người đi theo vết cũ cội nguồn một cách tất yếu. Nhưng tôi, tôi đâu phải một tên lính, nàng hiểu vậy, và chắc hẳn đó là lý do nàng chọn tôi, cái gã mặc đồ lao động và mái tóc húi cua, bám theo đám lính trong những cuộc hành quân, tay cầm máy ảnh để tường thuật mọi cuộc chiến tranh. Tôi còn nhớ lần đầu chúng tôi trò chuyện, sau lượt trình diễn của nàng, vào lúc đêm muộn, hoặc sáng sớm, trên khoảnh sân hiên nhô ra trên dòng Menam Chao Phraya, nàng đã cúi xuống để nhìn thứ gì đó trên mặt đất, một con bướm đêm màu đen đang đập cánh hấp hối, và qua phần cổ khoét của chiếc váy đỏ nàng mặc, tôi đã nhìn thấy bầu ngực nàng buông lơi, hết sức mịn màng, khêu gợi. Nàng không biết gì về tôi và tôi cũng không biết gì về nàng. Bấy giờ tôi đã mang vết thương nham nhở của tội ác, tôi cứ ngỡ chuyện đó sẽ qua đi. Tôi từng quên đi quá khứ, việc xử vụ khiếu kiện bốn tên lính đã cưỡng hiếp một phụ nữ ở Huế. Cái gã giữ tay cô gái quặt ra sau đã thụi vào môi cô để bắt cô im miệng, còn gã kia xâm nhập cô chẳng ngại ngần, thậm chí không cởi quần, và tôi nhìn, không nói gì, không làm gì hoặc gần như thế, chỉ chớm cương cứng, nhưng nhìn và làm thinh, đó là hành động. Có lẽ tôi sẽ đánh đổi bất cứ thứ gì để khi ấy đã ở nơi nào khác, để không từng chứng kiến. Trước tòa, tôi đã không tự biện hộ. Thiếu phụ có mặt tại đó, ngồi hàng ghế đầu. Tôi đã liếc trộm và không nhận ra cô. Cô có vẻ trẻ hơn, gần như một đứa trẻ. Cô ngồi trên ghế băng, bất động, gương mặt được ống đèn nê ông của phòng xử án chiếu sáng. Khuôn miệng nhỏ, mím chặt, da mặt kéo căng ra vì búi tóc đen. Ai đó đã đọc lời chứng của cô bằng tiếng Anh, còn cô vẫn không nhúc nhích. Bốn gã nhà binh ngồi trên một ghế băng khác, cách cô vài mét, và chúng cũng không nhúc nhích. Chúng không nhìn ai, chỉ nhìn bức tường đối diện, cái bục nơi thẩm phán ngồi. Chúng thì ngược lại, tôi thấy chúng già hơn, đã phị ra vì mỡ, với nước da nhợt nhạt của những kẻ tù phạm. Tôi chưa từng kể chuyện này với Mary. Khi tôi gặp nàng tại khách sạn Phương Đông ấy, nàng hỏi tôi đã làm gì lúc rời quân ngũ. Tôi trả lời: “Không làm gì hết... Anh đi đây đi đó, vậy thôi.” Nàng không căn vặn, vả chăng tôi có lẽ chẳng bao giờ đủ can đảm để nói với nàng sự thật: “Anh đã bị kết án tù vì đã chứng kiến một tội ác, và đã không làm gì để ngăn cản tội ác đó.” Tôi muốn sống cùng Mary, đi đây đi đó cùng nàng, nghe nàng hát, san sẻ tấm thân nàng và cuộc đời nàng. Nếu tôi kể với nàng toàn bộ chuyện kia, hẳn là nàng sẽ xua đuổi tôi. Tôi đã sống cùng nàng một năm, cho tới khi đến hòn đảo này. Rồi một ngày nọ nàng đã quyết định đi vào lòng biển. Tôi chưa bao giờ hiểu được. Chúng tôi ẩn mình. Không ai quen biết chúng tôi, không ai có thể kể cho nàng nghe. Có lẽ nàng điên, chỉ vậy thôi, có lẽ chẳng có lời giải thích nào cho hành động của nàng. Nàng đã tự để sóng cuốn đi. Nàng vốn là tay bơi giỏi khác thường. Ngày còn ở Mỹ, năm mười sáu tuổi, nàng được chọn đi dự Olympic Melbourne. Nàng mang họ Farrell, Mary Song Farrell. Song bởi nàng được bố mẹ nuôi nhận về dưới cái tên này. Mẹ đẻ nàng tên là Song cũng nên. Hoặc giả bà ấy hay hát*, tôi không biết nữa. Có lẽ chính tôi về sau này đã suy diễn ra toàn bộ câu chuyện đó. Tôi không suy diễn cho những người khác, họ không khiến tôi bận tâm. Tôi không phải kiểu người kể chuyện đời mình trong những quán bar. Tôi không quen những người gốc Arkansas này, những người nhà Farrell này. Những chủ trang trại. Mary học cách chăm sóc gia súc, cách sửa xe máy, cách lái máy kéo tại nhà họ. Rồi một ngày nọ, năm mười tám tuổi, nàng bay đi để tới nơi khác sống, để hát. Đó là thiên hướng của nàng. Nàng đã có một cuộc sống khác, nàng chưa bao giờ trở lại trang trại. Khi nàng mất tích trên biển, tôi đã cố gắng liên lạc với bố mẹ nàng, tôi đã viết vài lá thư gửi đến quận, để biết địa chỉ của họ. Tuyệt không thấy hồi âm. Khi tôi quen Mary, nàng gần bốn mươi, nhưng có vẻ trẻ hơn tuổi nhiều. Bấy giờ tôi hai mươi tám. Tôi vừa mãn hạn tù. Bão truyền sang tôi cơn thịnh nộ. Tôi cần những tiếng ó biển của bão, những ống bễ lò rèn của bão. Chính vì bão mà tôi quay trở lại hòn đảo này. Bấy giờ, mọi thứ khép kín, mọi người mất hút trong nhà của họ, họ đóng cửa chớp và chặn cửa ra vào, họ thu lu trong vỏ ốc, trong lớp mai của mình. Họ cũng đã biến mất, những du khách mặt bự phấn, những kiểu tạo dáng, những điệu bộ, những trò õng ẹo của họ. Những cô gái mặc quần soóc cực ngắn đạp xe, những cậu trai cưỡi mô tô địa hình, những cặp kính Polaroid, những ba lô, máy ảnh, họ đã quay về thành phố, về những tòa chung cư, về xứ sở không bao giờ có bão của họ. Người dân đảo này đã tự chôn mình. Họ chơi bài, họ ngồi bệt trong những căn hầm với cửa kính mờ hơi nước mà uống bia. Ánh điện chập chờn, chẳng mấy chốc sẽ cắt điện trên diện rộng. Tủ cấp đông của các cửa hàng sẽ rỉ thứ nước vàng như nước tiểu, những con cá ướp muối sẽ chảy nước và long mắt, những thanh sô cô la đông lạnh sẽ mềm nhũn trong bao bì. Chính vì bão mà tôi quay trở lại. Tôi lại cảm thấy mình đang trong thời chiến, trong rủi may, theo cuộc bỏ chạy tán loạn của các đoàn quân, nghe những chiếc loa thét lác những mệnh lệnh khó hiểu. Tôi ngược dòng thời gian, dựng lại đời mình. Tôi những muốn quay trở lại ngưỡng cửa ngôi nhà ở Huế, nhìn, và cái nhìn của tôi sẽ ngưng thời gian lại, sẽ gieo mơ hồ lẫn lộn, sẽ giải thoát người đàn bà khỏi những kẻ hành hạ cô. Nhưng trong những điều tôi biết sẽ không có điều gì nhạt nhòa đi. Hòn đảo là sự đoan chắc về nỗi vô phương cứu chuộc. Bằng chứng của sự bất lực. Hòn đảo là ụ nổi cuối cùng, bến đỗ cuối cùng trước hư không. Chính vì điều này mà tôi trở lại. Không phải để tìm lại quá khứ, không phải để đánh hơi tìm lối như một con chó. Mà để chắc chắn rằng mình sẽ không nhận ra điều gì. Để bão xóa đi tất cả, vĩnh viễn, bởi biển là chân lý duy nhất. Mời các bạn đón đọc Bão của tác giả J. M. G. Le Clézio.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Phỏng Vấn Con Bò - Lê Hoàng
Vẫn ngòi bút hài hước, chua ngoa, thâm thúy, lạnh tanh ấy - từ chuyện hồ gươm, cụ Rùa, điện ảnh, minh tinh, nhà văn, nhà báo, nhà giáo... cho đến con bò, con mèo... Lê Hoàng tiếp tục đem đến cho độc giả những phút thư giãn, sảng khoái, hả hê rồi suy ngẫm. Và độc giả sẽ được cười đủ kiểu với loạt bài dí dỏm đầy bất ngờ mà Lê Hoàng viết về những nhân vật nổi tiếng. Qua lăng kính Lê Hoàng, chân dung nghệ sĩ được phác họa từ một góc nhìn rất riêng và ngộ nghĩnh. *** Tốt nghiệp ngành xây dựng và quay phim nhưng Lê Hoàng lại là một đạo diễn nổi tiếng, cả trong những phim truyền thống lẫn những phim nhựa giải trí. Ông còn là một nhà viết kịch, với nhiều vở kịch diễn trên các sân khấu thử nghiệm. Nhưng dưới một cái tên khác - Lê Thị Liên Hoan - ông còn là người phụ trách chuyên mục tiểu phẩm cho nhiều tờ báo lớn. Mời các bạn đón đọc Phỏng Vấn Con Bò của tác giả Lê Hoàng.
Chân Tướng Đàn Ông - Tiết Hảo Đại
“Chân tướng đàn ông” là một cuốn sách “vạch mặt” đấng mày râu mà mỗi thành viên trong liên minh xinh đẹp của thế giới nên đọc và cần phải đọc. Đây là cuốn sách vô cùng, vô cùng hài hước sẽ khiến phái mạnh phải “giật mình”. Trong cuốn sách này không có những lý luận cao thâm, cũng chẳng để vạch trần chuyện gì, càng không phải cố tình hạ thấp đàn ông để làm vừa lòng một vài người nào đó... Nó đơn giản chỉ là mượn trải nghiệm của một số người để nói rõ một phần nào đó về đàn ông. Chân tướng chưa hẳn là tốt đẹp nhưng cũng không hoàn toàn là xấu xa. Sinh vật được gọi là “đàn ông” cũng có những mặt rất đáng yêu. Hy vọng cuốn sách nhỏ viết về những đặc điểm và sự giống nhau của đàn ông này sẽ giúp cho các bạn gái còn đang mơ hồ, mờ mịt có thể tìm hiểu được lời giải cho chính câu hỏi trên: "Người đàn ông như thế nào mới thích hợp chung sống với bạn đến hết cuộc đời này?" *** K hông nhớ là bắt đầu từ khi nào, các bạn gái trên mạng đã tự nguyện chia sẻ chuyện tình cảm của mình với tôi. Vì sao lại dùng từ “chia sẻ” ở đây? Đầu tiên, phải nói trước rằng tôi không phải chuyên gia tình yêu, mà thực ra cụm từ “chuyên gia tình yêu” vốn là những chữ không đáng được tồn tại trên đời này nhất, bởi bất cứ câu chuyện tình cảm nào cũng chẳng thể đi đến hồi kết nhờ sự hướng dẫn, chỉ đạo của người khác, mà thực ra cũng chẳng cần ai phải chỉ đạo, nó giống như việc con người ta đến khi trưởng thành thì tự nhiên sẽ không còn tè dầm nữa vậy. Mặt khác, liên quan đến những mối nghi hoặc và phiền não mà các bạn gái gặp phải, thực ra trong lòng họ đều đã có sẵn một đáp án, chẳng qua đó là đáp án mà họ không muốn đối mặt nhất, cũng khó đối mặt nhất. Chúng ta cần phải nói ra những thắc mắc của mình thì mới có thể lý giải được, tốt nhất là hãy tìm một người lạ không liên quan đến câu chuyện của bạn, và tôi chính là đối tượng lý tưởng đó. Mấy năm gần đây, vì đã nhìn thấu nhân tình ấm lạnh nên tôi quyết định viết cuốn sách này cho họ - những bạn gái, một cuốn sách do một người đàn ông viết về đàn ông. Trong cuốn sách này không có những lý luận cao thâm, cũng chẳng để vạch trần chuyện gì, càng không phải cố tình hạ thấp đàn ông để làm vừa lòng một vài người nào đó... Nó đơn giản chỉ là mượn trải nghiệm của một số người để nói rõ một phần nào đó về đàn ông. Chân tướng chưa hẳn là tốt đẹp nhưng cũng không hoàn toàn là xấu xa. Sinh vật được gọi là “đàn ông” cũng có những mặt rất đáng yêu. Hy vọng cuốn sách nhỏ viết về những đặc điểm và sự giống nhau của đàn ông này sẽ giúp cho các bạn gái còn đang mơ hồ, mờ mịt có thể tìm hiểu được lời giải cho câu hỏi: Người đàn ông như thế nào mới thích hợp chung sống với mình đến hết cuộc đời này? Nếu đã đến đây rồi, vậy chúng ta hãy cùng bắt đầu thôi! Mời các bạn đón đọc Chân Tướng Đàn Ông của tác giả Tiết Hảo Đại.
Một Anh Hùng Thời Đại - M. Lermontov
Tháng 5 năm 1840, cuốn sách Một anh hùng thời đại xuất hiện trên các giá sách tại thành Pêterbua. Tác giả là một chàng trai mới hai mươi lăm tuổi: M. Lermôntôp (Mikhail Iurievich Lermontov - 1814 - 1841), vốn là một nhà thơ đã có tiếng, nhưng lại quay sang viết tiểu thuyết. Cả tên tác phẩm lẫn tác giả đều gây nên sự tò mò đến mức nôn nóng. Ai cũng muốn đọc qua cuốn sách xem cái nhân vật mà nhà thơ gọi là vị anh hùng của thời đại đó là ai, là một người như thế nào?.. Ðã là anh hùng thì ắt sẽ có nhiều người bắt chước, nhiều người noi gương... Nhưng đọc xong rất nhiều đọc giả đã la lối lên rằng: "... một thằng vô lại như thế mà Lermôntôp, một nhà thơ - nhà văn tiếng tăm, còn là một sĩ quan trong quân đội Nga Hoàng nữa, lại dám tôn vinh hắn lên là Một anh hùng thời đại chúng ta ư?!. Một sự phỉ báng hỗn xược! Đó là tiếng nói của các vị đã nhận ra những đường nét, những tính cách và hành vi nào đó của nhân vật có gì giống mình trong bức chân dung ấy. Petsôrin - nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết – là một thanh niên thông minh và nhậy cảm, vốn sống trong nhung lụa, nhưng lại là một kẻ tàn tật về tinh thần: sống buông thả, không niềm tin, không hy vọng và hoài bão, tự hủy hoại đời mình và phá hoại không biết bao nhiêu cuộc sống tươi trẻ khác. Vậy mà nhà văn Lermôntôp lại dám vẽ chân dung hắn như một vị anh hùng. Thật mỉa mai thay! Đáp lại, nhà văn nói: "Bây giờ cần có những bài thuốc đắng, những sự thật cay nghiệt! Đó quả là một chân dung nhưng không phải chân dung của một người cụ thể, mà là bức chân dung phức hợp vẽ nên mọi thói hư tật xấu của cả một thế hệ đang sống của xã hội ta"! Hà Nội 1999 *** LỜI DẪN Trong bất kỳ cuốn sách nào lời nói đầu là cái đầu tiên đồng thời cũng là cái cuối cùng, nó nhằm giải thích mục đích của tác phẩm hoặc để biện minh và trả lời giới phê bình. Nhưng thông thường thì độc giả không biết tới mục đích luân lý cũng như những lời công kích của báo chí, bởi vì họ không đọc lời nói đầu. Tiếc thay, nhưng đó là sự thật, nhất là ở nước ta. Công chúng nước ta còn rất mới mẻ và chất phác đến nỗi không hiểu được những chuyện ngụ ngôn, nếu họ không tìm thấy ở phần cuối những lời răn. Họ không đoán ra được những chuyện đùa tếu, không cảm nhận được chuyện châm biếm, chỉ tại họ kém giáo dục. Họ chưa biết được rằng trong một xã hội có nền nếp và trong một cuốn sách đúng đắn không thể có những lời chửi bới lộ liễu; rằng kiến thức hiện đại đã chế ra một thứ vũ khí sắc bén hơn nhiều, gần như là vô hình, và cũng nguy hiểm chết người không kém, một thứ vũ khí vuốt ve mơn trớn nhưng lại đánh những đòn chắc chắn và không thể chống đỡ. Công chúng của chúng ta giống như một anh chàng tỉnh lẻ, khi nghe lỏm được cuộc hội đàm giữa hai nhà ngoại giao của hai triều đình thù địch, đã tin chắc rằng mỗi người trong hai vị kia đang lừa dối chính phủ mình để mưu cầu tình bằng hữu tốt đẹp nhất với nhau. Mới gần đây, cuốn sách này cũng đã từng nếm trải sự cả tin khốn khổ của một số độc giả và thậm chí của một số báo chí, chỉ tin vào nghĩa đen của câu chữ. Một số thì bất bình ghê gớm, mà bất bình thực sự, vì người ta đã đem đến cho họ, để làm gương, một con người đồi bại như Một anh hùng thời đại chúng ta; những kẻ khác thì lại nhận xét một cách rất tinh rằng tác giả đã vẽ lại chân dung của chính mình và những người quen thuộc của mình... Một lối pha trò thảm hại và cũ rích! Nhưng rõ ràng nước Nga đã được tạo lập nên như thế, trong đó cái gì cũng đổi mới trừ những điều phi lý nhảm nhí đại loại như vậy. Một câu chuyện hoang đường nhất trong số những chuyện hoang đường ở chúng ta, cũng khó tránh khỏi lời quở trách là có ý đồ xúc phạm cá nhân! Một anh hùng thời đại[1*]chúng ta, thưa các ngài kính mến của tôi, quả là một bức chân dung, nhưng không phải của một người: đó là bức chân dung phức hợp những thói hư tật xấu của một thế hệ chúng ta đang ở độ phát triển nhất của chúng. Một lần nữa các ngài lại sẽ bảo tôi rằng làm gì có người xấu đến thế, nhưng tôi xin thưa với các ngài rằng nếu các ngài đã tin vào khả năng tồn tại của tất cả những thằng khốn nạn trong các tác phẩm bi kịch và lãng mạn, thì tại sao các ngài lại không tin ở tính hiện thực của Pêtsôrin? Nếu các ngài đã nhấm nháp những điều hư cấu còn quái gở và khủng khiếp hơn nhiều thì tại sao cái cá tính này, thậm chí là một hư cấu, lại không làm cho các ngài thương cảm? Không phải vì nó trung thực quá đấy chứ, chẳng lẽ các ngài mong muốn thế sao?.. Các ngài sẽ nói rằng điều đó không có lợi cho nền đạo đức?.. Xin lỗi. Bấy lâu người ta nuôi sống người bằng bánh kẹo, nên dạ dày họ đâm hư: bây giờ thì phải có những bài thuốc đắng, những sự thật cay nghiệt. Tuy nói vậy, nhưng đừng tưởng rằng, sau chuyện này có lúc tác giả cuốn sách cũng đã từng có một ước vọng đầy kiêu hãnh là biến mình thành người uốn nắn các thói hư tật xấu của con người. Cầu Chúa tránh cho hắn không mắc phải cái điều vô lễ ấy! Hắn chỉ muốn mô tả một con người đương đại như hắn hiểu, và thật là không may cho hắn, và cả cho các ngài nữa, hắn mô tả đúng như một con người hắn thường gặp luôn. Dẫu sao thì căn bệnh cũng đã được tìm ra, điều trị nó thế nào – điều đó họa may có trời biết nổi! M. LERMÔNTÔP Mời các bạn đón đọc Một Anh Hùng Thời Đại của tác giả M. Lermontov.
Kim Bình Mai (có tranh)
THÔNG TIN EBOOK • Nguồn text: vnthuquan.net • Soát chính tả, thêm chú thích, gắn tranh: Bình An *** VỀ TÊN SÁCH “Kim Bình Mai” được ghép lại từ tên của 3 nhân vật nữ chính: Kim Liên (sen vàng), Bình Nhi (cô Bình/Lọ), Xuân Mai (hoa mai mùa xuân). Bản thân cụm từ “Kim Bình Mai” cũng có nghĩa là “Nhành mai trong lọ vàng”, do đó, bản tiếng Anh của David Tod Roy đã dịch nhan đề là “The plum in the golden vase”. Mặt khác, theo David Tod Roy, nhan đề này cũng là một sự chơi chữ với cụm từ đồng âm có nghĩa là “Khoái cảm thâm nhập âm đạo”. CÁC HỆ VĂN BẢN Theo các nhà nghiên cứu, các văn bản Kim Bình Mai đang được lưu truyền có thể quy thành 3 hệ: • Hệ bản A: bản sớm nhất và gần với tác phẩm gốc nhất. Bản tiếng Anh của David Tod Roy được dịch từ hệ này. Theo dịch giả, ông đã dịch mọi thứ có trong hệ văn bản này. Cũng theo ông, bản dịch đầy đủ đầu tiên từ hệ A sang ngôn ngữ châu Âu là bản tiếng Pháp của André Lévy năm 1985. Các bản dịch trước đó đều từ hệ B hoặc C. • Hệ bản B và C: văn bản đã được sửa chữa, rút gọn; có thể có thêm lời bình. Bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Quốc Hùng được dịch từ hệ này. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA HỆ A VÀ B,C Cũng như nhiều bạn đọc, ban đầu tôi lầm tưởng bản B-C là bản A cắt bỏ vài chi tiết nhạy cảm, nhưng khi so sánh bản tiếng Anh của David Tod Roy và bản tiếng Việt của Nguyễn Quốc Hùng, tôi thấy nội dung khác nhau rất xa. – Bản lược (B-C) không phải là cắt bỏ vài cảnh, mà là đã được viết lại theo kiểu tóm lược bản A; có những cảnh trong bản A dài vài trang thì trong bản lược chỉ tóm lại vài dòng. – Bản A có rất nhiều thơ và lời hát; bản lược gần như bỏ hết, chỉ giữ lại vài bài. – Trong bản lược, có những chỗ người viết bịa ra những tình tiết mới không có trong bản A. Điển hình như các chương 2, 3, 4 trong bản lược được viết mới hoàn toàn. – Các chi tiết mô tả tính dục ở bản A đều được cắt bỏ hoàn toàn ở bản lược. Do sự khác biệt quá xa này nên không thể căn cứ vào bản lược để đánh giá giá trị văn chương của bản A. *** Trong phiên bản ebook này, tôi căn cứ vào bản dịch tiếng Anh của David Tod Roy (1993) để bổ sung thêm các chú thích so sánh sự khác nhau về chi tiết giữa bản lược và bản A, tuy nhiên cũng không thể truyền tải được không khí và mức độ táo bạo của bản gốc. Hy vọng một ngày gần đây, Việt Nam sẽ có bản dịch đầy đủ của Kim Bình Mai. Chúc các bạn đọc sách vui vẻ. (Chú thích hệ * là của nhà xuất bản, chú thích hệ số [1], [2]... là của người làm ebook.) Người làm ebook 09/2022 *** DỊCH GIẢ Nhà Hán học Nguyễn Quốc Hùng sinh năm 1938 trong một gia đình danh giáo, có thân phụ từng giữ chức Đốc học tỉnh Hải Dương. Năm 1969, khi chỉ mới 31 tuổi, ông đã công bố cùng một lúc bản dịch hai bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc là Hồng Lâu Mộng và Kim Bình Mai. Sau đó, ông tiếp tục cho ra đời nhiều tác phẩm biên khảo và dịch thuật quý giá khác như Trung Quốc toàn sử, Lịch sử Văn hóa Trung Hoa, Lịch sử tiểu thuyết Trung Hoa, Hán Việt tân từ điển… Năm 2003, Nguyễn Quốc Hùng qua đời tại Canada, để lại một số tác phẩm vẫn chưa kịp xuất bản. Bản Việt dịch Kim Bình Mai của Nguyễn Quốc Hùng ra đời ở Sài Gòn từ tháng 8 năm 1969, do Chiêu Dương xuất bản xã phát hành, được in thành 12 tập, mỗi tháng in từ 1 đến 2 tập. Đến đầu năm 1970, sách đã được in trọn bộ với tổng cộng hơn 2.700 trang. *** LỜI GIỚI THIỆU Bạn đọc đang tiếp xúc với bộ tiểu thuyết trường thiên, một pho “kì thư” rất đặc sắc của nền văn học cổ điển Trung Hoa. Đó thực sự là lịch sử cuộc đời đầy tội ác và sinh hoạt gia đình nhơ bẩn của Tây Môn Khánh, một kẻ hãnh tiến xuất thân từ một chủ hiệu sinh dược, nhưng do những mánh khóe bóc lột và hành vi ác bá, kéo bè kéo cánh, thông lưng với quan lại một bước nhảy tót lên địa vị một thổ hào thân sĩ giàu tiền của, đầy quyền thế. Từ cái bàn đạp đó, ngoi lên vin vào quan hệ nghĩa phụ nghĩa tử với Thái Kinh, một viên đại thần hiển hách ở triều đình lúc bấy giờ, Tây Môn Khánh đã trở thành Đề hình Thiên hộ ở bản huyện, tham lam tàn ác, bẻ cong phép nước, ăn tiền hối lộ, hại người lương thiện, và sống cuộc đời dâm ô cực kỳ bỉ ổi. Kim Bình Mai quả đã phơi bày bộ mặt thật của xã hội đương thời qua những trang sách tràn đầy hơi thở hiện thực. Qua mối quan hệ chằng chịt của nhân vật chính Tây Môn Khánh với mọi lớp người trong xã hội, tác giả đã khắc họa chân dung sinh động cùng trạng thái tinh thần muôn vẻ của hàng loạt nhân vật, từ những viên hoạn quan làm mưa làm gió trong cung đình ngay bên nách hoàng đế, đến những tên lưu manh du thủ du thực, những tay dao búa chuyên nghiệp, những tên côn đồ bịp bợm lừa đảo đầy rẫy ngoài phố chợ. Qua những hành vi đê tiện và những mánh khóe tội lỗi của chúng, tác giả đã vẽ lên khá tỉ mỉ mà khái quát một bức tranh xã hội đen tối tàn khốc, trên thực tế đó cũng chính là xã hội mà tác giả đang sống, xã hội phong kiến Trung Quốc thời Minh từ sau Chính Đức đến giữa Vạn Lịch. Nhân vật chính Tây Môn Khánh trước hết là một con quỷ dâm dục hiện hình, một mình y đã có một thê và năm thiếp nhưng còn sẵn sàng cưỡng dâm từ con gái nhà lành đến đàn bà góa bụa, giết chồng đoạt vợ, kể cả vợ bạn, em dâu y cũng không tha. Dâm dục đi đôi với tàn bạo là nét bản chất xuyên suốt cuộc đời y cho đến kết thúc bằng cái chết vì bệnh dâm dục. Bên cạnh Tây Môn Khánh là Phan Kim Liên được xây dựng như một nhân vật điển hình của hạng phụ nữ tà dâm, xảo quyệt. Thông dâm với Tây Môn Khánh, thị đã nhẫn tâm và quỷ quyệt đầu độc chồng là Võ Đại, rồi khi chồng đã ngấm thuốc chết hẳn “hai hàm răng nghiến chặt vào nhau, cắn cả vào môi chảy máu, tai mũi và cả mắt đều ứa máu ròng ròng” thì thị cùng Vương bà “kéo xác Võ Đại ra sau nhà, lau sạch vết máu, đội mũ đi giày cho tử tế, lấy khăn phủ lên mặt cho Võ Đại rồi cả hai cùng ngồi khóc”. Thị lập bàn thờ chồng với bài vị “Vong phu Võ Đại lang chi linh”, nhưng sẵn sàng hú hí với Tây Môn Khánh ngay trước bàn thờ ấy. Xoay quanh các nhân vật chính đó, thôi thì đủ hạng vô lại cặn bã của xã hội: Ứng Bá Tước và Tạ Hi Đại bợ đỡ nịnh hót, Trương Thắng và Lưu Nhị du thủ du thực, thằng quýt con sen Lai Vượng, Thu Cúc, con hát Lưu Quế Thư, kép hề Vương Kinh, cho đến thái giám, môn quan, tăng lữ, ni cô, đạo sĩ, bà mối... tất cả đám người kí sinh trong xã hội đô thị. Trên phương diện xây dựng hình tượng nhân vật cụ thể, tác phẩm đã sáng tạo khá thành công một loạt tính cách điển hình có xương có thịt. Trên tiến trình văn học của dân tộc Trung Hoa, Kim Bình Mai có một vị trí quan trọng. Thời Minh, nhất là từ Gia Tĩnh (1522-l566), xã hội tương đối ổn định, kinh tế có chiều phát triển, xu thế đô thị hóa tăng dần, đã tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển của thể loại văn học mới: trường thiên tiểu thuyết. Song hành với điều kiện xã hội đó là sự tiến bộ của kỹ thuật in khắc. Đến thời Vạn Lịch (1573-1620) đã xuất hiện một cục diện phồn vinh của thể loại này với hàng loạt tác phẩm ngày nay còn được biết. Tiểu thuyết Trung Quốc thời này có thể chia làm bốn loại: Thứ nhất, chiếm số lượng áp đảo là tiểu thuyết lịch sử diễn nghĩa, đại thể phỏng theo Tam quốc chí diễn nghĩa, kể chuyện lịch sử bằng ngôn ngữ thông thường dễ hiểu. Có thể nói, suốt từ Xuân Thu Chiến Quốc đến Minh sơ, tiểu thuyết lịch sử diễn nghĩa thời này đã phủ kín cả chiều dài lịch sử Trung Quốc. Trong đó tiêu biểu nhất là Bắc Tống chí truyện của Hùng Đại Mộc. Nhìn chung loại tiểu thuyết lịch sử diễn nghĩa này miêu tả tính cách nhân vật còn tương đối ít, kết cấu không chặt, tình tiết nhiều lúc thiếu gắn bó, còn câu nệ quá nhiều vào sự thật lịch sử, nghệ thuật còn sơ lược, thường còn nằm trên ranh giới giữa lịch sử với văn học. Thứ hai, là tiểu thuyết phong thần, tiêu biểu nhất là Phong thần diễn nghĩa. Loại này phần nhiều kể lại những chuyện li kỳ hoang đường, thiếu ý nghĩa xã hội sâu sắc. Thứ ba là tiểu thuyết “công án”, nổi tiếng nhất là Hải Cương Phong tiên sinh cư quan công án truyện của Lí Xuân Phương, 71 hồi, mỗi hồi kể một chuyện với nhân vật xuyên suốt là người thẩm án Hải Thụy. Về thể tài có thể xem là tổng tập tiểu thuyết bút kí, tựa như tập truyện vụ án. Thứ tư là tiểu thuyết “thế tình” (tình đời). Loại này lúc đó còn hiếm, ngày nay được biết chỉ có Kim Bình Mai và Ngọc Kiều Lí, nhưng Ngọc Kiều Lí thì đã thất truyền. (Thẩm Đức Phù trong Dã hoạch biên nói ông từng xem Ngọc Kiều Lí). Loại này ngày nay thường được gọi là tiểu thuyết xã hội. Trước Hồng lâu mộng hơn một trăm năm, Kim Bình Mai được coi là tác phẩm mở đường cho tiểu thuyết xã hội Trung Quốc. Từ năm 1940, đề tựa cho Bình ngoại chi ngôn của Diêu Linh Tê, Giang Đông Tễ Nguyệt gọi là “tiểu thuyết của tiểu thuyết”, còn Ngụy Bệnh Hiệp thì so sánh với tác phẩm của Dickens ở Anh, Sêkhov ở Nga, đồng thời cho rằng Thủy hử kể nhiều võ hiệp, Hồng lâu chuyên nói tình yêu, Nho lâm ngoại sử miêu tả tình thái xã hội – nhưng hạn chế trong đám hủ nho, ý nghĩa xã hội đều không rộng lớn bằng Kim Bình Mai. Trong bài Bàn về Hồng lâu mộng, Hà Kì Phương có nhắc đến mối quan hệ giữa Hồng lâu mộng với Kim Bình Mai: Hồng lâu mộng quả là cái bóng soi ngược hình của Kim Bình Mai. Dĩ nhiên Hồng lâu mộng sinh sau nhưng vượt trội nhiều mặt, đặc biệt là ngôn ngữ văn học đạt tới đỉnh cao của tiểu thuyết cổ điển, rõ ràng Kim Bình Mai không sánh được. Ngay cả sau khi Kim Bình Mai bị liệt vào hạng “sách cấm” thì giới văn học vẫn xếp nó vào một trong “tứ đại kì thư” (bốn cuốn sách lớn kì thú) của tiểu thuyết trường thiên Minh Thanh: Tam quốc diễn nghĩa, Thủy hử truyện, Tây du ký và Kim Bình Mai. Tất cả các giáo trình văn học sử ở các trường Đại học Trung Quốc đều giảng Kim Bình Mai và đều công nhận đó là con chim én báo mùa xuân của thể loại truyện dài do cá nhân sáng tác ở Trung Quốc. Lỗ Tấn nói trong Trung Quốc tiểu thuyết sử lược: “Tiểu thuyết (Kim Bình Mai) lấy chuyện Võ Tòng đánh cọp tìm anh trong Thủy hử truyệnlàm ngòi dẫn, mượn danh thời Tống để tả thực thời Minh, phản ánh hiện thực xã hội thời Minh”. Kim Bình Mai đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Bản dịch sớm nhất là bản Mãn văn khắc in năm Khang Hi 47 (1708), không ghi tên dịch giả, dịch theo bản “Trương Phúc Pha đệ nhất kì thư”. Ở phương Tây, sớm nhất là bản dịch hồi thứ nhất của Kim Bình Mai, thực hiện bởi A.P. Bazin: Histoire de Wou Song et de Kim Lien trong Chine moderne (Trung Quốc hiện đại) xuất bản năm 1853. (tiếng Pháp). Năm 1927 có bản tiếng Anh Chin Ping Mei, the adventurous of His Menching ở New York. Năm 1928 có bản tiếng Đức Djin Ping Me của Oto Kibat. Tiếng Hungari, tiếng Thụy Điển, tiếng Phần Lan đều đã có bản dịch. Ở Nhật Bản đã có nhiều bản dịch khác nhau. Bản dịch đầy đủ 100 hồi sớm nhất là của Cương Nam Nhân Kiều in thành 4 tập, hoàn thành đầu thế kỉ này. Năm 1951, có bản dịch của Tiểu Dã Nhẫn và Thiên Điền Cửu Nhất theo nguyên bản Kim Bình Mai từ thoại. Ở Việt Nam lâu nay lưu hành khá rộng rãi bản in của Nhà xuất bản Khoa học xã hội năm 1989 loại trọn bộ 4 tập, in 20.000 bản và loại trọn bộ 8 tập, cũng in 20.000 bản, nội dung hoàn toàn như nhau kể cả lời giới thiệu và ghi chú ở đầu sách: “In theo bản của nhà xuất bản Chiêu Dương – 1969, có đối chiếu bản gốc và tham khảo các bản khác”, song không cho biết tên dịch giả và bản gốc cũng như các bản tham khảo khác là bản nào. Căn cứ vào nội dung truyện và tiêu đề ngắn gọn của từng hồi trong bản dịch, chúng tôi đoán rằng dịch giả đã dùng một nguyên bản thuộc hệ văn bản thứ ba mà chúng tôi sẽ phân tích ở dưới trong phần khảo về văn bản, mà theo nhận định chung của giới nghiên cứu Kim Bình Mai ở Trung Quốc thì hệ văn bản thứ hai mang tên Kim Bình Mai từ thoại mới là văn bản tiêu biểu. Thử so sánh tiêu đề hồi đầu và hồi cuối của hai loại văn bản đó (tạm dịch):   Hệ văn bản 3 Hệ văn bản 2 Hồi 1 Bạn bè kết nghĩa vui thú ăn chơi Đồi Cảnh Dương, Võ Tòng đánh hổ; Phan Kim Liên chê chồng, bán trăng hoa. Hồi 100 Dòng Tây Môn tuyệt tự Hàn Ái Thư đến hồ tìm bố mẹ; Phổ Tĩnh sư tiến bạt quần oan. Có thể thấy hai loại văn bản này khác nhau khá xa. *** Dưới đây, đặc biệt giới thiệu hai vấn đề mà giới nghiên cứu Kim Bình Mai ở Trung Quốc cũng như trên thế giới hết sức quan tâm, hai vấn đề đã gây tranh cãi hàng trăm năm, cùng với những kết quả nghiên cứu mới nhất trong hai thập kỉ qua (sau “cải cách mở cửa”). Một là vấn đề “văn bản Kim Bình Mai”. Bộ tiểu thuyết này đã từng mang nhiều tên gọi khác nhau, số tên gọi không kém gì Thủy hử hay Hồng lâu mộng. Mà sự khác nhau trong tên gọi thường kèm theo sự xê dịch về nội dung. Theo trình tự thời gian có thể sơ lược giới thiệu như sau: Ở thời kỳ chép tay, thì tên gọi rất đơn giản, chỉ gọi là, được ghép từ tên ba nhân vật quan trọng: Phan Kim Liên, Lý Bình Nhi, Bàng Xuân Mai – mỗi tên lấy một chữ đại diện. Sau khi đưa khắc in, có người gọi là Kim Bình Mai truyện thì tên sách đề là Tân khắc Kim Bình Mai từ thoại.Đó là tên gọi ở thời kỳ đầu mới khắc in. Về sau, những người xuất bản thường chụp lên đầu tên sách một số mũ nào đó, thế là thành các tên như Túc bản Kim Bình Mai từ thoại (bản đầy đủ), Hội đồ cổ bản Kim Bình Mai từ thoại (bản cổ có tranh vẽ) v.v... Cuối đời Minh, do chỗ Kim Bình Mai từ thoại có tăng thêm, tỉa bớt hoặc sửa chữa khá nhiều, hoặc có vẽ tranh, bình luận, hình thành một hệ văn bản mới nên tên sách cũng thay đổi theo, gọi là Tân khắc tú tượng phê bình Kim Bình Mai (bản khắc mới có tranh thêu và lời bình) hoặc Tân thuyên tú tượng phê bình nguyên bản Kim Bình Mai (thêm chữ “nguyên bản”). Người ta quen gọi loại này là “bản Sùng Trinh”*. Tú khắc cổ bản bát tài tử từ thoại cũng thuộc loại này. Dưới thời Khang Hi nhà Thanh, Trương Trúc Pha, tức Trương Đạo Thâm, người Bành Thành, rất tán thưởng sách này, mệnh danh nó là Thiên hạ “đệ nhất kì thư”. Lấy Tân khắc tú tượng phê bình Kim Bình Mai làm bản nền, họ Trương đã tiến hành phê bình một cách toàn diện và có hệ thống, đến mức thành một hệ văn bản mới, lưu truyền khá rộng rãi, ảnh hưởng tương đối sâu sắc, đầu quyển thường ghi là Cao Hạc đường phê bình Đệ nhất kì thư Kim Bình Mai và ở trang bìa giả, thôi thì đủ: nào là Đệ nhất kì thư, nào là Đệ nhất kì thư Kim Bình Mai, Đệ nhất kì thư tú tượng Kim Bình Mai, Tú tượng Kim Bình Mai đệ nhất kì thư.Tứ đại kì thư đệ tứ chủng, Tăng đồ tượng túc bản Kim Bình Mai, Tăng đồ tượng Cao Hạc thảo đường kì thư toàn tập, nào là Hội đồ đệ nhất kì thư, Hiệu chính gia phê Đa thê giám toàn tập, Tân thuyên hội đồ Đệ nhất kì thư Chung tình truyện v.v... Thời Gia Khánh (Thanh), trên cơ sở bản nền Kim Bình Mai có lời bình của họ Trương, đã ra đời một bản rút gọn gọi là Tân khắc Kim Bình Mai kì thư. Thời Dân Quốc, có người gia giảm cắt gọt “Kim Bình Mai có lời bình của họ Trương”, xào xáo lại, bôi râu vẽ mặt thêm, cho ra đời cái gọi là “Kim Bình Mai chân chính”, đặt tên là Hội đồ chân bản Kim Bình Mai. Từ đó về sau lại có thêm những là Cổ bản Kim Bình Mai, Tiêu điểm cô bản cổ bản Kim Bình Mai, Cảnh thế kì thư Kim Bình Mai v.v và v.v... Chúng là hàng rởm vỗ ngực tự xưng là “chân” (thật), “cô” (hiếm), cổ (xưa), nhưng là thứ hàng rởm đã thành công trong công cuộc mập mờ đánh lận con đen, và đã từng lưu hành rộng rãi một thời. Cho đến nay tính ra Kim Bình Mai lưu truyền có đến mấy chục bản khác nhau, có thể quy nạp thành ba hệ văn bản: 1 – Hệ văn bản “từ thoại”: Hệ này, Tôn Khải Đệ gọi là Kim Bình Mai từ thoại, học giả Nhật Bản gọi là “bản từ thoại”, học giả Mỹ gọi là “hệ bản A”. Bản sớm nhất của hệ này là bản khắc năm Vạn Lịch 45, cũng là bản sớm nhất trong các truyền bản Kim Bình Mai đã biết. Hệ này nay còn lại tương đối hoàn chỉnh chỉ có ba bộ: một hiện ở Đài Loan (trước lưu giữ ở Thư viện Bắc Kinh), hai bộ ở Nhật Bản. Đặc điểm tương đối nổi bật của hệ văn bản này là ở hai chữ “từ thoại”. Từ thoại vốn là một hình thức nghệ thuật “thuyết xướng” (kết hợp hát với nói lời bạch, xen kẽ văn xuôi với văn vần), hình thức này có từ thời Tống, thịnh hành thời Nguyên – Minh. Kim Bình Mai từ thoạituy mang tên như vậy song không thể coi là “từ thoại” chính cống nữa mà nó rõ ràng là một pho trường thiên tiểu thuyết mang màu sắc “từ thoại” mà thôi. 2 – Hệ văn bản “tú tượng phê cải” (có tranh thêu và có sửa chữa). Hệ văn bản này gồm hai loại nhỏ: loại “bản Sùng Trinh” và loại “bản Trương Bình”. Hệ văn bản này có hai đặc điểm mà các hệ văn bản khác không có: 1 / lời phê lời bình; 2 / tranh thêu. So với hệ văn bản “từ thoại” nói trên, hệ này chặt chẽ, trong sáng, hợp lí thông đạt hơn, văn bản “từ thoại” vì đưa vào quá nhiều thơ ca từ phú không liên quan gì mấy với phát triển của tình tiết nên làm yếu chất tiểu thuyết. a. Loại văn bản Sùng Trinh: bản khắc sớm nhất được coi là khắc dưới thời Sùng Trinh nhà Minh. Hiện còn tám bộ lưu giữ ở tám nơi khác nhau: Thư viện Nước Thư viện Thủ đô (Bắc Kinh) Trung Quốc Thư viện Thượng Hải Thư viện Đại học Bắc Kinh Thư viện Thiên Tân Thư viện Trung ương Đài Loan Nội các văn khố Nhật Bản Trường Đại học Tôkiô Trường Đại học Thiên Lý b. Loại văn bản Trương Bình (khởi đầu từ Trương Trúc Pha như đã nói ở trên). 3 – Hệ văn bản rút gọn: Các văn bản này, nhất là những văn bản mang danh “chân bản”, “cổ bản” phần nhiều là “đồ rởm”, xưa nay không được giới học thuật coi trọng. Sở dĩ như vậy trước hết là do những kẻ làm sách giả đã tùy tiện thêm bớt rất nhiều, đã thế lại dám rêu rao là “chân”, là “cổ”. Loại văn bản này ra đời muộn, đến nay chỉ khoảng bảy tám chục năm, từng có thời gian lưu truyền rộng rãi, cho đến nay vẫn chưa phải đã hết ảnh hưởng. *** Hai là vấn đề “tác giả Kim Bình Mai”. Tác giả Kim Bình Mai là ai? Vấn đề này đã làm đau đầu nhiều nhà nghiên cứu. Bản Kim Bình Mai từ thoại khắc in ở thời Vạn Lịch nhà Minh ghi là Tiếu Tiếu Sinh sinh tác. Tiếu Tiếu Sinh rõ ràng là một bút danh có nghĩa là “chàng cười”, “chàng hay đùa” (“Tiếu” là cười, còn “sinh” là tiếng tự xưng hoặc tiếng gọi người trẻ tuổi). Bài Tựa đầu sách Tiếu Tiếu Sinh từ thoại kí tên Hân Hân Tử, đặt trước tên tác giả một địa danh là Lan Lăng. Lan Lăng là một ấp của nước Sở thời Chiến Quốc, thời Hán đặt thành huyện, thời Tấn kiêm cả quận, thời Tùy bỏ cả quận lẫn huyện, thuộc địa phận huyện Dịch tỉnh Sơn Đông ngày nay. Thời Đường lại đặt huyện, thời Nguyên bỏ. Ngoài ra, thời Tấn có lần gửi huyện Lan Lăng ở huyện Vũ Tiến tỉnh Giang Tô, và đặt thành quận Nam Lan Lăng, đến thời Tùy cũng bỏ. Nhiều người nghĩ rằng Hân Hân Tử, (nghĩa rộng là “ông vui vui”) cũng chỉ là một biến dạng của Tiếu Tiếu Sinh mà thôi. Ngoài Kim Bình Mai ra, tác phẩm của Tiếu Tiếu Sinh chỉ thấy có một bài từ Ngư du xuân thủy bảo tồn được trong tập tranh đời Minh là Hoa doanh cẩm trận (nghĩa là “trại hoa trận gấm”). Từng có người đoán là Triệu Nam Trinh (1551-1627) hoặc Tiết Ứng Kỳ (khoảng 1550-?) nhưng đều không đưa ra được chứng cứ trực tiếp. Giáo sư Chu Tinh sau mấy chục năm chuyên nghiên cứu ở khoa Trung văn trường Đại học sư phạm Thiên Tân, trong cuốn Kim Bình Mai khảo chứng của mình xuất bản tháng 10-1980 cho rằng tác giả Kim Bình Mai là Vương Thế Trinh (1526-1590) đỗ Tiến sĩ dưới triều Gia Tĩnh, làm quan đến Hình bộ Thượng thư, tác giả của Gia Tĩnh dĩ lai thủ phụ truyện, Yêm Châu sơn nhân tứ bộ cảo, Độc thư hậu, Vương thị thư uyển, Hoa uyển... Thật ra từ cuối thời Minh đã có người cho rằng được Vương Thế Trinh viết ra để trả thù cho bố. Ngụy Tử Vân trong Kim Bình Mai đích vấn thế dữ diễn biến (Nxb Đài Loan thời báo, 1981) cho rằng ngôn ngữ Sơn Đông ở trong truyện thật ra là thứ ngôn ngữ lưu hành ở các tỉnh phía Bắc, đồng thời chỉ rõ từ Đông Tấn về sau Giang Nam cũng có Lan Lăng, từ đó phủ đinh lập luận nói rằng tác giả phải là người Sơn Đông. Căn cứ vào tập quán sinh hoạt của nhà Tây Môn Khánh miêu tả trong truyện, Ngụy Tử Vân cho rằng Tiếu Tiếu Sinh phải là một người Giang Nam đã sống lâu trên đất Bắc. Năm 1981, giáo sư Từ Sóc Phương trường Đại học Hàng Châu đăng bài nói rằng tác giả Kim Bình Mai là Lí Khai Tiên (1501-1568). Đầu năm 1984, Kim Bình Mai tân chứng của Trương Viễn Phần được Tề Lỗ thư xã xuất bản, trong đó tác giả khẳng định rằng Lan Lăng Tiếu Tiếu Sinh chính là Giả Tam Cận, nhà văn huyện Dịch thời Minh. Thật ra ý kiến này đã được Trương Viễn Phần đề cập trong một bài đăng tạp chí Bão độc năm 1981. Phúc Đán học báo tháng 7-1984 đăng bài của Lý Thời Nhân “Thuyết Giả Tam Cận viết Kim Bình Mai không thể đứng được” kèm theo phụ đề “Chúng ta nên chú ý thái độ và phương pháp khảo chứng”, đồng thời công bố liền hai bài “Kim Bình Mai tác giả Đồ Long khảo” và “Kim Bình Mai tác giả Đồ Long khảo tục” của Hoàng Lâm. Đi theo hướng tìm kiếm của Ngụy Tử Vân, Hoàng Lâm đã phát hiện được Đồ Long, một người nguyên quán ở huyện Ngân tỉnh Chiết Giang từng làm quan ở Bắc Kinh, từng ký tên là Tiếu Tiếu tiên sinh ở hai cuốn sách đời Minh là Sơn trung nhất tịch thoại (Một buổi chuyện trò trong núi) và Biến địa kim (Vàng khắp nơi). Đồ Long (1542-1605) tự là Trường Khanh, lại có một tự nữa là Vĩ Chân, hiệu là Xích Thủy, đỗ Tiến sĩ dưới thời Vạn Lịch, từng làm tri huyện Thanh Phố, tri huyện Dĩnh Thượng, và Chủ sự bộ Lễ. Khảo trong Kim Bình Mai từ thoại hồi thứ 48 có việc Hoàng Mỹ ở phủ Khai Phong gửi thư cho Tuần án sử Sơn Đông là Tăng Hiếu Tự, gọi Tăng mỗ đang giữ chức Tuần án Ngự sử Đô sát viện bằng chức danh “Đại trụ sử”, chức danh này trước chưa từng nghe nói, người đọc cũng thường không để ý. Tra trong Cổ kim quan chế diên cách do Đồ Long soạn thì dưới phần khảo chứng của mục Đô sát viện có tìm thấy câu “Tại Chu vi Trụ hạ sử, Lão Đam thường vi chi” (Thời Chu là Trụ hạ Sử, Lão Đam từng làm chức ấy) v.v., chứng tỏ cách xưng hô hiếm hoi ấy trong truyện quả có khả năng chính là do Đồ Long viết. Ngụy Tử Vân khảo sát kinh lịch của Đồ Long thấy rằng rất có khả năng Đồ Long viết sách ấy để phúng dụ hoàng đế lúc bấy giờ. Có hai lí do: một là Đồ Long từ năm Vạn Lịch 12 bị cách chức về sau không ngóc đầu lên được nữa, khốn nghèo cho đến chết, hoàn toàn là vì trong khi làm tri huyện Thanh Phố một lần dâng thư mừng sinh nhật Hoàng trưởng tử, đã phạm phải điều cấm kỵ của Hoàng đế, hẳn vì thế mà có lòng oán hận; hai là Đồ Long từ sau khi bị cách chức, thường được người bạn là Lưu Thủ Hữu ở Ma Thành tiếp tế, đến sau khi chết năm Vạn Lịch 33, người đời lại truyền rằng con Thủ Hữu là Lưu Thừa Hỉ có đủ trọn bộ sách này. Đối chiếu những điều nói trên, dường như Đồ Long viết Kim Bình Mai là điều có thể tin được. Năm 1985, Kim Bình Mai nguyên mạo thám sách (Tìm kiếm diện mạo ban đầu của Kim Bình Mai) của Ngụy Tử Vân được Học sinh thư cục Đài Loan xuất bản, ông Đồng Văn đề tựa có nhắc lại bài viết Kim Bình Mai dữ Vương Thế Trinh của Ngô Hàm cũng từng đề cập tới một “Đồ Xích Thủy nổi tiếng về tạp kịch và văn chương”, mà Xích Thủy chính là hiệu của Đồ Long. Ông Đồng Văn lấy đó để khẳng định thêm khả năng thừa nhận Đồ Long là tác giả Kim Bình Mai. Dĩ nhiên đối với một “câu đố” đặt ra đã bốn thế kỉ nay và trong thời gian đó đã lần lượt ra đời hơn chục đáp án khác nhau để rồi lần lượt bị bác bỏ thì chưa thể khẳng định ngay Đồ Long là đáp án chính xác. Tuy nhiên, chí ít thì đáp án này cũng đã đứng được ngót mười lăm năm nay. Những ai quan tâm đến văn học Trung Quốc nói chung và nói riêng hẳn là hứng thú theo dõi. Phan Văn Các 1-1999 Mời các bạn đón đọc Kim Bình Mai (có tranh) của tác giả Lan Lăng Tiếu Tiếu Sinh & Nguyễn Quốc Hùng (dịch).