Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chị Em Thù Hận - Janet Dailey

Janet Anne Haradon Dailey (21/5/1944 - 14/12/2013) là một tác giả Mỹ về nhiều tiểu thuyết lãng mạn với bút danh Janet Dailey. Các tiểu thuyết của cô đã được dịch sang hơn 90 ngôn ngữ và đã bán được hơn 300 triệu bản trên toàn thế giới. Dailey vừa là một tác giả vừa là một doanh nhân. Dailey luôn muốn trở thành một nhà văn và yêu sách. Ba chị gái của bà thường đọc cho bà khi còn là một đứa trẻ. Đến năm 4 tuổi, bà đã có thẻ thư viện riêng của mình.  Bà tốt nghiệp năm 1962 tại Trường Trung học Jefferson ở Independence, Iowa và làm việc cho một công ty xây dựng thuộc sở hữu của người chồng tương lai của cô, Bill Dailey, hơn bà 15 tuổi. Hai người tiếp tục làm việc cùng nhau, thường dành 17 tiếng một ngày, 7 ngày một tuần làm việc và kết hôn năm 1964. *** Các tác phẩm của bà đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam, bao gồm: Bến Hẹn Chị Em Thù Hận Chỉ Vì Yêu Chuyện Tình Dưới Nhành Cây Tầm Gửi Con Đường Đêm Điểm Hẹn Của Tình Yêu Giông Tố Thảo Nguyên Hai Chị Em Hoa Thảo Nguyên Khung Trời Quyến Rũ Ngôi Sao Đơn Độc Ngựa Hoang Sự Lựa Chọn Cuối Cùng Tình Địch (The Rivals In Love) Vũ Hội Hoá Trang *** Dạo này hết truyện Tàu hấp dẫn, tôi lại lượn một vòng qua truyện Tây, cuối cùng là dừng lại ở cuốn tiểu thuyết tình cảm đầu tiên (kể cả Tây lẫn Tàu) mà tôi đọc. Tôi nhớ đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên tôi đọc sau khi tôi bắt đầu học đại học, và đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên tôi mượn ở Thư viện Tổng hợp Tp.HCM. Bản lúc đó tôi đọc khá cũ kỹ, và có một số trang đã bị xé bỏ. Mãi sau đó vài năm tôi mua cuốn truyện này khi tái bản thì tôi mới biết là mấy trang đó là mấy trang có đôi chút nóng bỏng, tính ra cũng chẳng đáng kể gì nếu so với những truyện được xuất bản mấy năm gần đây. Truyện này nội dung không phức tạp lắm, nhưng nó không hẳn là truyện chỉ có yêu đương nam nữ. Có thể nói là nhân vật chính trong truyện là hai người phụ nữ, Abbie Lawson và Rachel Farr, họ có thể xem gần như là chị em sinh đôi, bởi họ được sinh cùng ngày, giống nhau đến mức đáng ngạc nhiên, và họ có cùng một người cha là Dean Lawson. Dean có một cuộc hôn nhân không hạnh phúc với người vợ chính thức, có một tình yêu lớn của đời ông với một người họa sỹ. Vì nhiều lý do nên ông chọn duy trì cuộc hôn nhân với người vợ nhưng đồng thời ông cũng qua lại với người tình của ông, nhiều người biết điều đó, và quan trọng hơn là những người trong cuộc chấp nhận điều đó. Cho đến một ngày Dean bất ngờ ra đi do một tai nạn sau chuyến đi thăm người con ngoài giá thú là Rachel Farr, người con được thừa nhận của dòng họ Lawson là Abbie Lawson mới biết được sự thật rằng cô không phải là người con duy nhất, và rằng những nghi ngại trước đây trong tình cảm của ông dành cho cô đã được sáng tỏ. Mâu thuẫn giữa hai người con gái càng được đẩy lên cao hơn khi Rachel Farr được thừa hưởng một quỹ ũy thác hàng triệu USD, còn Abbie cùng mẹ của mình được thừa hưởng toàn bộ tài sản hiện có của dòng họ nhưng kèm theo một khoản nợ khổng lồ mà nếu không bán tất cả tài sản ấy đi thì không thể nào thanh toán được khoản nợ ấy. Rachel Farr được sinh ra và ở với mẹ của cô ở California, nơi cách xa dòng họ Lawson, đồng nghĩa với cách xa người cha mà cô yêu quý. Với số lần ít ỏi đến thăm của người cha, cùng với niềm đam mê nghệ thuật của người mẹ, Rachel cô đơn trong cuộc sống suốt 27 năm của mình. Những món quà có giá trị của Dean luôn là những thứ được dùng để khỏa lấp đi sự mặc cảm vì không được gần Rachel, nhưng không ai biết rằng cô lại căm ghét những món quà ấy như thế nào. Tất cả những gì cô muốn chỉ đơn giản là được yêu thương thực sự. Mẹ của Rachel là người có thể từ bỏ tất cả mọi thứ vì đam mê của bà, còn Dean lại có trách nhiệm với gia đình lớn của ông. Rachel luôn cảm thấy bị bỏ lại đằng sau rất nhiều thứ quan trọng hơn, cô không được ai cần đến. Mặc cho cha mẹ cô đều nói rằng cô là đứa con của tình yêu, nhưng cô không cần như vậy, cô muốn được thừa nhận, dần dần Rachel tự ti, mặc cảm và sống trong thế giới lẻ loi một mình cô. Sự ra đi của Dean cùng với gia sản cô được hưởng đã giúp Rachel thực hiện được những ước mơ mà cô hàng theo đuổi. Một kế hoạch về một trang trại ngựa danh tiếng của cô, được bước vào thế giới của Dean, hơn thế nữa cô còn có thể thừa hưởng một cách công khai River Bend – tài sản bao đời của dòng họ Lawson. Lane Canfield đã giúp Rachel có được điều cô mong muốn một cách suôn sẻ hơn, giúp cô thực hiện được các ước mơ của cô dễ dàng hơn, đồng thời cũng cho cô được hưởng những ấm áp từ tình yêu thương thật sự, cho cô một danh phận và một gia đình thực sự. Cuộc sống của Rachel như bước sang một trang mới hoàn toàn, trở thành một bà Canfield mà người ta ngưỡng mộ, có mọi thứ mà người khác mong muốn, không còn là một Rachel trong vỏ ốc của riêng mình nữa.  Abbie Lawson lại hoàn toàn khác Rachel, kể cả hoàn cảnh sống lẫn tính cách. Nếu Rachel nhút nhát, tự ti bao nhiêu thì Abbie lại cứng rắn và tự tin bấy nhiêu. Sự ra đi của Dean cùng với những bí mật được mở toang ra sau đó đã khiến cho thế giới vốn có của Abbie sụp đổ hoàn toàn. Không còn sự sung túc giàu có, cũng không còn River Bend cùng những con ngựa mà cô yêu quý, cuộc sống trước đây của cô đã chấm dứt hoàn toàn. Nhưng có lẽ những vật chất ấy không khiến cho Abbie đau khổ như khi những yêu thương cô đang có và gia đình hạnh phúc êm ấm của cô không như cô tưởng, những tình cảm ấy hóa ra lại giả dối khiến cho Abbie không chịu đựng được. Abbie không chấp nhận được sự phản bội, ngay cả trước khi Dean ra đi. Sự phản bội của người chồng khiến Abbie không băn khoan chút nào khi chọn giải pháp ly hôn, trong khi cha mẹ cô vẫn âm thầm chấp nhận tình trạng đó. Họ thỏa hiệp với phản bội, nhưng Abbie thì không. Abbie yêu thương và kính trọng Dean hơn bất cứ người nào khác, nhưng cô luôn nhận ra sự xa cách của ông dành chô cô, luôn có một thứ gì đó ngăn cách, Abbie luôn cảm thấy ông tìm kiếm điều gì đó ở cô, là ông đang nhìn cố nhưng lại như đang ngắm nhìn một người khác vậy. Sự thật sau đó đến quá nhanh cùng với đau lòng khi Dean ra đi, chật vật cùng với món nợ mà ông để lại, rồi lại chu toàn mọi thứ trong phạm vi tốt nhất có thể, Abbie từ một tiểu thư quyền quý trong giới quý tộc Taxas  rất nhanh chóng đã trở thành một cô gái gần như chỉ có bàn tay trắng. Nhưng trong chính lúc khốn khó ấy Abbie đã gặp được Mac Crea Wilder. Vấp ngã một lần trong hôn nhân của bản thân và những mặt tối trong cuộc hôn nhân của cha mẹ không khiến Abbie mất niềm tin vào tình cảm, nhưng bây giờ tất cả mọi thứ của cô không thể liên quan đến Rachel Farr, mọi thứ liên quan đến cô gái đó đều khiến lòng đố kị của Abbie không thể ngủ yên được. Chính lòng đố kị đó đã che mờ đi rất nhiều thứ khác, bao gồm luôn cả tình cảm mà Mac dành cho cô. Tình cảm của Mac Crea Wilder và Abbie giống như rất nhiều chuyện tình phương Tây khác, đó là sự hấp dẫn về giới tính trước khi có được tình cảm thực sự. Nhưng chỉ có Abbie là khiến Mac lưu luyến mãi không thôi. Cô nồng nhiệt trong tình cảm nhưng đồng thời cũng rất lý trí khi xác định vị trí của mình, cô có niềm đam mê mãnh liệt đối với ngựa nhưng khi phải rời xa River Bend thì cô đã cố gắng để giữ lại được món quà tặng của Dean, cô thông minh nhưng đôi khi mất lý trí chỉ bởi những chuyện chẳng liên quan gì đến nhau, miễn là chuyện đó có liên quan đến Rachel Farr. Không giống như Lane Canfield cho Rachel Farr mọi thứ cô cần, cô mong ước, Mac ở thời điểm gặp Abbie không thể  Abbie điều gì cả ngoại trừ tình cảm của anh. Và Abbie cũng không có vỏ bọc yếu đuối và tự ti của Rachel để khiến anh phải chiều chuộng như Lane đã làm. Abbie ngang ngược và Mac còn hơn thế nữa, nhưng những lúc cô mệt mỏi, cô cần một bờ vai thì anh đã đến bên cô, cho cô dựa dẫm vào bản thân, lặng lẽ canh giấc ngủ cho cô, dịu dàng với cô những lúc cần thiết. Sự đố kị giữa Rachel Farr và Abbie không những giảm bớt đi mà ngày càng sâu đậm hơn. Từ những hụt hẫng về tình cảm mà bấy giờ 2 cô gái mới sáng tỏ, cho đến chênh lệch giữa khoản thừa kế là một quỹ ủy thác và một món nợ khổng lồ, sau đó nữa là ngôi nhà mà bao đời dòng họ Lawson đã sống buộc phải bán để trả nợ và trớ trêu thay là Rachel đã mua nó bằng chính khoản tiền mà cô được thừa kế. Sau tất cả, một tai nạn đã xảy ra và River Bend bị thiêu rụi ngay sau khi Rachel sở hữu. Tất cả những điều đó đã làm cho sự đố kị ấy trờ thành thù hận khó có thể xóa bỏ được giữa 2 người. Mà nạn nhân đầu tiên chính là Mac Crea. Ngay lúc anh hỏi cưới Abbie thì cũng là lúc mối quạn hẹ giữa họ chấm dứt, bởi những mối làm ăn của anh có liên quan đến Lane, đồng thời liên quan đến Rachel. Nhiều năm sau khi tất cả mọi người đều đã bắt đầu yên vị với một cuộc sống mới, Abbie cố gắng làm mọi thứ để có được một trại ngựa của riêng mình, Mac Crea trở thành một triệu phú mới nổi trong giới dầu mỏ, và Rachel với sự giúp đỡ của Lane có thể làm mọi điều với niềm đam mê ngựa đẹp của cô, nhưng mối hận giữa hai cô gái vẫn hiển hiện. Cùng một đam mê về ngựa nên họ không thể tránh được những lần đụng độ nhưng họ biết kìm chế hơn trước. Cuộc hôn nhân giữa Lane và Rachel không được suôn sẻ như trước. Lane mải mê với công việc của ông, những khoảng thời gian trống ông luôn dành cho đứa con trai giữa hai người. Những mặc cảm khi không được ai cần đến lại quay trở về với Rachel, cô yêu Lane nhưng cô cảm thấy đối với ông thì cô không quan trọng đến vậy, ngay cả đứa con trai của hai người cũng xa lánh cô, con của cô nhưng lại sợ ngựa vô cùng. Gia đình ấy mỗi người một thế giới của riêng mình, Lane quay cuồng với công việc, đứa con trai gửi trường nội trú, và Rachel cảm thấy cô đơn trong chính ngôi nhà của mình. Có lẽ sự chênh lệch tuổi tác khiến Rachel và Lane không có được tình yêu nồng cháy như các cặp đôi trẻ khác, ít nhất là trong đời sống tình dục. Sự săn đuổi của Tips khiến Rachel cảm thây xao lòng bởi được chăm sóc, được theo đuổi và được yêu thương trong lúc cô đơn. Quan hệ ngoài luồng ấy dường như là một điều tất yếu sẽ phải xảy ra vậy, Lane biết nhưng ông không ngăn cản sự phản bội ấy, bởi ông biết có những điều ông không thể cho Rachel được, chỉ cần cô yêu ông, và quay về bên ông là được. Abbie có một cuộc hôn nhân toan tính với Dobbie – người hàng xóm yêu cô tha thiết từ thời trung học – để che đậy bào thai đang từ từ lớn lên trong cô. Abbie muốn có đứa bé nhưng cô không chấp nhận quay lại với Mac Crea, cũng không thể làm mẹ đơn thân bởi dòng họ cô có quá nhiều điều để mọi người bàn tán trong thời gian ấy. Dobbie là sự lựa chọn hoàn hảo trong thời điểm ấy bởi anh quá yêu cô. Nhưng cuộc hôn nhân này không thể bền vững được khi mà Dobbie chỉ muốn vợ là một bà nội trợ, keo kiệt trong chi tiêu, trong khi Abbie có niêm đam mê quá lớn đối với ngựa, cô cũng không muốn bó buộc cuộc sống trong bếp. Những tranh cãi của họ luôn xảy ra, và cuộc hôn nhân lúc nào cũng như bên bờ vực.  Mac Crea gặp lại Abbie trong một lần thi ngựa đẹp, sau bao nhiêu năm gặp lại cô thì anh phát hiện ra rằng mình vẫn còn yêu cô nhiều như thế nào. Nhưng lần này thì khác, anh sẽ không để cho cô quyết định chuyện giữa họ nữa, anh muốn cô, và anh muốn có gia đình của mình. Đã qua thời nay đây mai đó, với địa vị hiện tại Mac Crea có thể ở một chỗ, cũng có thể cắt đứt mọi làm ăn liên quan đến vợ chồng Lane Canfield – một điều để đảm bảo mối quan hệ lâu dài giữa anh và Abbie. Có lẽ thực sự Abbie may mắn hơn Rachel khi có được tình yêu của Mac Crea và người bạn già thân thiết Bend. Hai người đàn ông ấy đã giúp cô nhận ra được tình cảm của Dean dành cho cô, xóa bỏ dần những thù hận mà cô dành cho Rachel.  Nhưng Rachel lại không được như vậy, cô có được tình yêu từ 2 người đàn ông nhưng lại vẫn cảm thấy cô đơn. Họ biết cô thù hằn với Abbie, biết rõ nguyên nhân nhưng không một ai kiên quyết khuyên nhủ cô giống như Bend và Mac Crea đã làm đối với Abbie. Và sự thù hận ấy ngày càng ăn sâu nhiều hơn vào trong suy nghĩ của Rachel, để rồi chính sự ghen ghét ấy đã dẫn đến những quyết định sai lầm của cô. Chỉ đến khi chuẩn bị lìa xa thế giới, Rachel mới kịp nhận ra tình yêu của mình ở nơi nào, và thù hận kia không đáng để cô phải trả giá nhiều như vậy. Sau tất cả, Dean đã đến đón cô đi trước. Thực sự truyện này có thể không hay đối với nhiều người, nhưng không hiểu sao tôi cứ ấn tượng mãi với suy nghĩ của 2 nhân vật về tình cảm trong gia đình. Abbie nghĩ rằng trong một gia đình thì những đứa con không thể có được tình yêu đồng đều như nhau từ cha mẹ được. Mac Crea nói với Abbie rằng, cha mẹ yêu mỗi đứa con theo những cách thức khác nhau mà thôi. reviewnovelbygiangkt1.wordpress.com Mời các bạn đón đọc Chị Em Thù Hận của tác giả Janet Dailey.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chiếc Cầu Trên Sông Drina - Ivo Andritch
Chiếc cầu danh tiếng xây trên sông Drina ở Vichégrad để nối xứ Bosnie với xứ Serbie, cả hai thời đó đều là những tỉnh trong đế quốc Thổ, mới là nhân vật chính trong bộ cố sự chép từ thế kỷ XVI tới năm 1914 đó. “Công trình kiến trúc quí báu, đẹp tuyệt vời” kia trong xứ hẻo lánh ấy làm cho người ta ngạc nhiên và giúp cho tác phẩm có tính cách nhất trí: Chương nào cũng chép một cố sự liên quan tới “chiếc cầu trên sông Drina” Chiếc cầu đó được xây 1571, chương 3 và 4 chép việc xây cầu, những khổ dịch, và đau khổ ghê gớm mà tên hiểm ác Abidaga, người tin cẩn của quan tể tướng, bắt dân chúng chịu âm mưu phá cầu do Radislav tổ chức bị phát giác, Radislav bị bắt giam rồi bị xử tử xóc xiên (cuộc hành trình này thật rùng rợn, bút pháp tả chân thành tàn nhẫn) Nhưng mọi thứ biến cố - hết thảy đều liên quan tới chiếc cầu trên sông Drina - nối tiếp nhau xảy ra trong những thế kỷ sau: nạn lụt, loạn lạc, bệnh dịch, và trên cầu đặt lính canh gác, kiểm tra mọi người qua cầu, vụ tự tử của thiếu nữ diễm lệ Fata, để tránh khỏi một cuộc ép duyên… Bố cố sự dài này xen lẫn nhiều truyện tình cảm hoặc khôi hài, hấp dẫn từ đầu tới cuối. Như trong tập Cố sự Travnik, biến cố lịch sử ghép vào những sự biến cố gia đình. Tác giả là một học giả mà cũng là một nghệ sĩ, mô tả tâm lý rất dài. *** Ivo Andrić là nhà văn Nam Tư đoạt giải Nobel Văn học năm 1961. Ivo Andrić sinh ở làng Dolac, gần Travnik, Bosna và Hercegovina, khi đó thuộc Đế chế Áo-Hung. Tên là Ivan nhưng mọi người thường gọi là Ivo. Bố mất năm Ivo lên 2, mẹ phải đưa con đến ở nhờ một bà dì. Thời trẻ Ivo Andrić sống ở Bosnia nên ông có điều kiện tiếp xúc với nhiều tầng lớp đại chúng của nhiều sắc tộc, nhiều tôn giáo, nhiều nền văn hóa khác nhau vùng Balkan. Ông học triết học tại các đại học ở Zagreb, Viên và Kraków. Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra khiến ông phải nghỉ học; sau đó bị bỏ tù do hành động chống Đế quốc Áo. Năm 1923, Ivo Andrić nhận học vị tiến sĩ tại trường Đại học Graz, làm việc tại Bộ ngoại giao Nam Tư. Chức vụ cuối cùng mà ông nắm giữ là Tham tán tại Đại sứ quán Nam Tư ở Berlin. Khi Đức xâm lược Nam Tư năm 1939, Ivo Andrić trở lại Beograd cho tới hết Chiến tranh thế giới thứ hai, sau đó tiếp tục sống ở thủ đô Nam Tư. Ivo Andrić bắt đầu sự nghiệp văn chương với vai trò là nhà thơ: năm 1918 ra đời tập thơ Ex ponto (Từ biển), và hai năm sau là tập Немири Lo lắng. Sau đó, ông tập trung viết truyện ngắn. Cuốn đầu tiên là Пут Алије Ђерзелеза (Chuyến đi của Alija Djerzelez), xuất bản năm 1920, được coi là một trong những tác phẩm nổi trội trong cuộc đời sáng tác của Ivo Andrić. Trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai, ông gần như bị quản thúc tại nhà; không thể tham gia cuộc kháng chiến chống phát xít, ông tập trung sáng tác. Năm 1941 - 1945 ông viết bộ sách có tên gọi chung "Bộ ba Bosna" với ba tiểu thuyết trở thành kiệt tác, На Дрини ћуприја (Nhịp cầu trên sông Drina), Травничка хроника (Sử biên niên Travnicka) và Госпођица (Tiểu thư); trong đó nổi tiếng nhất là Nhịp cầu trên sông Drina, kể về cuộc chiến giữa những người Do Thái giáo, Hồi giáo và Kitô giáo trong lịch sử mấy trăm năm của Bosna. Ivo Andrić đạt tới đỉnh cao danh tiếng sau chiến tranh và trở thành một trong những nhà văn hàng đầu của Liên bang Nam Tư (mà Bosna là một trong sáu thành viên), vào Đảng Cộng sản và giữ chức Chủ tịch Hội Nhà văn Nam Tư. Năm 1948, ông giới thiệu cuốn Nove pripovetke (Những câu chuyện mới) viết về vấn đề con người xã hội lúc bấy giờ, về tâm lý của con người trong chiến tranh, về thời kì hậu chiến. Năm 1960, ông cho xuất bản tuyển tập truyện ngắn Lica (Những gương mặt). Ivo Andrić cũng viết một số khảo luận, trong đó nổi bật là Zapisi o Goji (Những ghi chép về Goya). Năm 1961 ông được nhận giải Nobel vì tài năng nghệ thuật sử thi "cho phép đặt ra những vấn đề và những số phận con người gắn với lịch sử đất nước một cách đầy đủ nhất". Ông mất năm 1975 ở Beograd. Tác phẩm: Ex ponto (Từ biển, 1918), tập thơ Немири (Lo lắng, 1919), tập thơ Пут Алије Ђерзелеза (Chuyến đi của Alija Djerzelez, 1920), tiểu thuyết Pripovetke (Truyện ngắn, 3 tập, 1924, 1931, 1936), truyện ngắn На Дрини ћуприја (Nhịp cầu trên sông Drina, 1945), tiểu thuyết Травничка хроника (Sử biên niên Travnicka, 1945), tiểu thuyết Госпођица (Tiểu thư, 1945), tiểu thuyết Nove pripovetke (Những câu chuyện mới, 1948), tập truyện Проклета авлија (Khu vườn bị nguyền rủa, 1954), truyện vừa Lica (Những gương mặt, 1960), tuyển tập truyện Zapisi o Goji (Những ghi chép về Goya, 1961), tiểu luận Омерпаша Латас (Omer-Pasha Latas, in sau khi mất vào năm 1977) *** Bối cảnh của truyện này là xứ Bosnie – Herzégovine, nhưng trong vài chương xứ Serbie cũng thường được nhắc tới; mà những xứ đó, đa số độc giả chưa được biết, nên chúng tôi giới thiệu ít hàng dưới dây để độc giả dễ hiểu truyện. Chúng ta thường nghe nói đến Nam Tư Lạp Phu (tiếng Pháp là Yougoslavie có nghĩa là xứ của dân tộc Slave phương Nam, mà Slave trỏ một giống người ở Trung Âu, nhất là Đông âu như dân tộc Ukraine, Serbie, Croatie, Nga, Bảo Gia Lợi …) và Thống chế Ti to, vị anh hùng Nam tư theo chế độ cộng sản. Ông có tinh thần quốc gia mạnh mẽ, ngày càng xích gần lại với Tây Âu. Bosnie – Herzégovine và Serbie nay là hai trong sáu tiểu bang của Liên bang Cộng hòa Nhân dân Nam Tư, bốn tiểu bang kia là Croatie, Slovénie, Monténégro, Dalmatie. Liên bang đớ nằm trên bờ vịnh Adriatique, phía Tây ngó qua Ý, phía Đông Hung Gia Lợi, Lỗ Ma Ni, Bảo Gia Lợi, phía Bắc giáp Áo, phía Nam giáp Hy Lạp; dân số năm 1954 khoảng 17 triệu, kinh đô là Belgrade, trên tiểu bang Serbie. Bosnie – Herzégovine và Serbie là hai tiểu bang giáp nhau, rộng nhất, dân số mỗi tiểu bang năm 1954 khoảng bốn triệu. Cả hai đều nhiều núi, từ thế kỷ XIX trở về trước nguồn lợi canh là canh nông và mục súc. Kinh đô của Bosnie – Herzégovine là Sarajevo, của Serbie là Belglade. Dân hai xứ đều là giống Slave, hiện nay khoảng một phần ba theo Hồi giáo, hai phần ba theo Ki tô giáo. Lịch sử của họ rất gian truân, có lẽ nhờ vậy mà họ anh dũng và có tinh thần quốc gia mạnh. Mới đầu họ lệ thuộc La Mã, qua thế kỷ VII mới thành lập những tiểu quốc gần như độc lập: Bọsnie – Herzégovine, Serbie. Họ phải chống với những dân tộc ở chung quanh: Hi Lạp, Bảo Gia Lợi, Hung Gia Lợi. Thế kỷ IX họ theo Ki tô giáo. ... Mời các bạn đón đọc Chiếc Cầu Trên Sông Drina của tác giả Ivo Andritch.
Về Phía Mặt Trời - Matthew Quick
Không cần những tình tiết giật gân, tiểu thuyết của Matthew Quick hấp dẫn người đọc bởi câu chuyện cảm động, nhẹ nhàng với lối kể chuyện dí dỏm. Không giống như một số tác giả cùng thời, hướng ngòi bút đến những câu truyện trinh thám giật gân hồi hộp hay các câu chuyện tình cảm lãng mạn. Ngòi bút của Matthew Quick giàu tính nhân văn, anh tập trung vào những câu chuyện đời thường với những con người chịu nhiều tổn thương trong cuộc sống. Hai nhân vật Pat và Tiffany trong tiểu thuyết Về phía mặt trời là một ví dụ. Pat, một anh chàng vừa rời khỏi bệnh viện tâm thần, và Tiffany - cô gái trẻ góa bụa bỗng tìm thấy nhau. Họ giúp đối phương chữa lành những vết thương và tìm lại niềm tin trong cuộc sống. Cái kết hạnh phúc của Pat và Tiffany là minh chứng mạnh mẽ nhất về sức mạnh của tình yêu. Đến nay các tác phẩm của Matthew Quick đã được dịch ra hơn 30 thứ tiếng, được vinh danh tại lễ trao giải PEN/ Hemingway Award, lọt vào chung khảo LA Time Book Prize. Năm 2013, Matthew Quick lọt vào danh sách 100 người có ảnh hưởng nhất thế giới của tạp chí Time. *** Matthew Quick sinh năm 1973 tại Oaklyn một thành phố có lịch sử hơn 100 năm thuộc tiểu bang New Jersey, Mỹ. Năm 1996, anh tốt nghiệp đại học La Salle với bằng kép về văn học Anh và Sư phạm. Sau khi tốt nghiệp, Matthew Quick trở thành một giáo viên dạy văn ở một trường trung học ở New Jersey. Sau thời gian dài, đứng trên bục giảng, năm 2004, Matthew Quick bỏ nghề giáo để tập trung cho sự nghiệp sáng tác. Năm 2008, cuốn tiểu thuyết đầu tay của anh The Silver Linings Playbook được xuất bản. Ngay lập tức cuốn sách đã nhận được độc giả đón nhận nồng nhiệt. Trong suốt nhiều tuần, đây là cuốn sách bán chạy nhất theo tạp chí The New York Time. Tác phẩm đã được dịch sang tiếng Việt với tựa Về phía mặt trời. Năm 2012, cuốn tiểu thuyết này đã được đạo diễn David O. Russell đưa lên màn ảnh rộng và bộ phim đã thắng lớn khi dành được bốn đề cử quan trong nhất của giải Oscar: Phim xuất sắc nhất, Đạo diễn xuất sắc nhất, Nam diễn viên chính xuất sắc nhất, Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất. Nữ diễn viên người Mỹ, Jennifer Lawrence đã dành giải Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho vai Tiffany. Đến nay, Matthew Quick đã cho ra đời 6 cuốn tiểu thuyết. Tác phẩm mới nhất của anh với tựa đề Every exquisite thing sẽ được ra mắt vào đầu năm 2016 tại Mỹ. Độc giả Việt Nam biết đến Matthew Quick qua 3 cuốn tiểu thuyết đã được dịch ra tiếng Việt: The Silver Linings Playbook (tựa tiếng Việt:Về phía mặt trời), Boy21 và Chết đi cho rồi, Leonard Peacock. *** Chẳng cần ngước lên tôi cũng biết Mẹ lại đến thăm đột xuất. Vào mùa hè bao giờ bà chả sơn móng chân màu hồng; và tôi nhận ra hình vẽ hoa trên đôi dép da, đôi dép Mẹ mua lần trước khi bà ký giấy cho tôi ra khỏi nơi xấu xa này và đưa tôi đến khu mua sắm. Lần này, Mẹ lại bắt gặp tôi mặc áo choàng tắm khi tôi đang tập một mình trong sân, và tôi mỉm cười vì biết bà sẽ quở trách bác sĩ Timbers, sẽ hỏi ông ta sao phải nhốt tôi nếu suốt ngày bỏ mặc tôi một mình. “Con định chống đẩy đến bao giờ hả Pat?” Mẹ nói khi tôi bắt đầu lượt một trăm thứ hai, không nói chuyện với bà. “Nikki-thích-một-người-có-thân-trên-săn-chắc,” tôi nói, thổ ra từng từ sau mỗi cái chống đẩy, nếm vị mồ hôi mặn chảy vào mép. Trời tháng Tám sương mù dày đặc, thật lý tưởng để đốt chất béo. Mẹ đứng nhìn một đôi phút, rồi bà làm tôi bất ngờ. Bà nói, giọng run rẩy, “Hôm nay con muốn về nhà với mẹ không?” Tôi thôi chống đẩy, quay mặt lên nhìn Mẹ, nheo mắt vì ánh ban trưa trắng xóa – và tôi có thể nói ngay rằng Mẹ rất nghiêm túc, vì trông bà lo lắng, chừng như đang phạm sai lầm, và Mẹ hay vậy khi bà thật lòng nói gì đó, còn bình thường khi không buồn phiền hay lo sợ thì bà cứ nói huyên thuyên cả giờ không ngớt. “Nhưng con phải hứa không được đi tìm Nikki nữa,” bà nói thêm, “con có thể về nhà và sống với bố mẹ cho đến khi chúng ta tìm cho con một công việc và một chỗ sống ổn định.” Tôi lại tiếp tục chống đẩy, mắt dán vào con kiến đen óng đang bò trên ngọn cỏ ngay dưới mũi, nhưng tầm nhìn tôi còn thấy cả những giọt mồ hôi từ trên mặt nhỏ xuống đất. “Pat à, con chỉ cần nói là sẽ về ở với mẹ, mẹ sẽ nấu cho con ăn, và con có thể đi thăm các bạn cũ và bắt đầu quay về cuộc sống bình thường. Mẹ xin con. Mẹ cần con đồng ý. Chỉ vì mẹ thôi, Pat à. Mẹ xin con đấy.” Tôi chống đẩy nhanh hơn, cơ ngực dồn dập, lớn lên - đau, nóng, mồ hôi, thay đổi. Tôi không muốn ở chỗ xấu xa này, nơi không ai tin vào tia hy vọng, vào tình yêu, hay những kết thúc có hậu, nơi người ta cứ bảo tôi rằng Nikki sẽ không thích dáng vẻ mới của tôi, và rằng nàng cũng không muốn gặp tôi khi thời gian cách ly kết thúc. Nhưng tôi cũng sợ những người trong cuộc đời cũ của tôi sẽ không hào hứng như tôi đang cố gắng lúc này. Cho dù có thể, nếu mà suy nghĩ cho rành rẽ ra, thì tôi cần thoát khỏi những tay bác sĩ ác ôn và những mụ y tá xấu xa kia - với cơ man nào là thuốc với cả cốc giấy - và vì qua mặt Mẹ sẽ dễ dàng hơn rất nhiều qua mặt mấy y bác sĩ kia, nên tôi nhảy dựng lên, đứng trên hai chân mà nói, “Con sẽ về sống với mẹ cho đến khi hết thời gian cách ly.” ... Mời các bạn đón đọc Về Phía Mặt Trời của tác giả Matthew Quick.
Quo Vadis (Tiếng Việt)
Đề tài tiểu thuyết lịch sử Quo vadis (1895 -1896) là cuộc khủng bố các tín đồ Thiên chúa giáo thời Nerô bạo chúa ở Cổ La Mã. Với những giá trị tư tưởng và giá trị nghệ thuật lớn lao, ngay từ khi ra đời, Quo vadis đã được hoan nghênh nhiệt liệt. Tác phẩm đã gây nên những chấn động mạnh trong giới văn học nghệ thuật thế giới. Quo vadis nhanh chóng được dịch ra nhiều thứ tiếng. Từ lúc sinh thời, tác giả đã nhận được bản dịch Quo vadis bằng các tiếng Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Italia, Nga, Thụy Điển, Đan Mạch, Hà Lan, Tiệp Khắc, Hunggari, Bồ Đào Nha, Hy Lạp, Acmênia, Phần Lan, Lítva, Nhật và Ả Rập. Cho đến nay, Quo vadis đã được dịch ra trên bốn mươi thứ tiếng khác nhau. Tác phẩm cũng rất nhiều lần được đưa lên sân khấu và màn ảnh ngay từ những năm xa xưa nhất, đồng thời nó cũng trở thành đề tài của không ít công trình khảo cứu, không những chỉ ở Ba Lan mà trên phạm vi thế giới. Chuyển đạt lời văn của H.Sienkievich đến bạn đọc là một khó khăn lớn đối với người dịch, đặc biệt là trong trường hợp Quo vadis, bởi lẽ tiểu thuyết đề cập đến một thời đại, một nền văn hóa xa xưa có nhiều khác biệt với bạn đọc Việt Nam ngày nay. Để phần nào hỗ trợ cho bạn đọc trong việc tìm hiểu tác phẩm, chúng tôi có soạn thêm phần chú thích (bố trí ở cuối tập II) đề cập đến một số tên người và địa danh có trong tác phẩm nhưng không phổ biến lắm ở ta. Chúng tôi hy vọng rằng, mặc dù có những khiếm khuyết và hạn chế khó tránh khỏi, bản dịch Quo vadis từ nguyên bản tiếng Ba Lan sẽ là một dịp để bạn đọc tiếp xúc với Henryk Sienkievich, một nhà văn kiệt xuất, người đại diện xứng đáng cho nền văn học cổ điển rất phong phú của dân tộc Ba Lan *** Henryk Adam Aleksander Pius Sienkiewicz là nhà văn Ba Lan đoạt giải Nobel Văn học năm 1905. Ông thường ký dưới các tác phẩm của mình bằng bút hiệu Litwos. Henryk Adam Alexandr Sienkiewicz là con trai một địa chủ quý tộc nghèo sống ở nông thôn. Đến tuổi đi học, do ảnh hưởng của các biến động trong nền kinh tế, gia đình chuyển về Warszawa. Học xong trường gymnazy năm 1870, ông vào học Đại học Warszawa, lúc đầu học luật và y khoa, sau chuyển sang văn và sử. Sienkiewicz là cộng tác viên thường xuyên của các báo Przegląd Tygodniowy, Gazeta Polska, Niwa, Słowo và bắt đầu gây được sự chú ý với tiểu thuyết Namarne (Phí hoài, 1871), các truyện ngắn Stary sluga (Người đầy tớ già, 1875), Hania (1876), đồng thời ông cũng trở thành một nhà báo được thừa nhận tài năng. Năm 1876, tờ Gazeta Polska cấp tiền cho Sienkiewicz đi Mỹ với điều kiện đổi lại là ông phải viết một loạt bài về Hoa Kỳ; ở đây ông tham gia vào những thử nghiệm xây dựng trại xã hội chủ nghĩa không thành ở Anahaim (gần Los Angeles). Từ 1878 ông trở về châu Âu, đi nhiều nước, viết báo, viết văn và diễn thuyết. Năm 1879, Sienkiewicz trở thành chủ bút một tờ nhật báo mới ở Ba Lan; ba lần lấy vợ; vợ đầu có hai con nhưng chết sớm. Sau khi về Ba Lan, Sienkiewicz bắt đầu sáng tác những tác phẩm dài hơi và nổi tiếng với bộ ba tiểu thuyết Potop (Trận hồng thủy), Pan Wolodyjowski (Ngài Wolodyjowski), Ogniem i mieczem (Bằng lửa và gươm) - viết về các sự kiện diễn ra hồi thế kỉ 17 trong thời gian chiến tranh giữa người Ba Lan với người Kazakh, với người Thụy Điển và với người Thổ Nhĩ Kỳ. Sau đó Sienkiewicz viết hai tiểu thuyết về cuộc sống hiện đại là Bez dogmatu (Không có giáo điều) và Rodzina Polaniekich (Gia đình Polaniecki), còn vào những năm 1895-1896 - tiểu thuyết Quo vadis nói về cuộc sống dưới triều đại của hoàng đế Nero thời cổ La Mã đã mang lại danh tiếng thế giới cho ông. Năm 1900, Henryk Sienkiewicz được những người hâm mộ quyên tiền đủ để mua một trang trại nhỏ và tổ chức sinh nhật rầm rộ. Năm 1905 ông được trao giải Nobel vì những đóng góp xuất sắc trong lĩnh vực sử thi, mà cụ thể là tiểu thuyết Quo vadis viết về cuộc đấu tranh của những người Thiên Chúa giáo với Nero. Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, Sienkiewicz rời quê sang sống ở nước Thụy Sĩ trung lập, làm việc trong tổ chức Hồng thập tự Ba Lan. Năm 1916 ông mất ở Vevey, tám năm sau thi hài của ông được chuyển về Warszawa và an táng trong nhà thờ. *** Vinixius gửi Ligia:     “Nô lệ Phlagon, kẻ mà tôi nhờ chuyển cho nàng bức thư này là một tín đồ Thiên chúa, nên bác ấy sẽ là một trong những người được đón nhận tự do từ chính tay nàng, hỡi con người thân yêu nhất đời! Đây là một đầy tớ già của gia đình, nên tôi có thể hoàn toàn tin cậy viết thư gửi qua bác ta, không sợ thư bị lọt vào một bàn tay nào khác ngoài tay nàng. Tôi viết thư từ Laurentum, nơi chúng tôi đang dừng chân vì thời tiết nóng nực. Tại đây, chàng Otho từng có một tòa biệt thự tuyệt vời mà hồi trước chàng đã tặng cho Poppea, còn ả ta, mặc dù đã ly dị chàng, vẫn cho rằng việc tiếp tục giữ món quà kia là hợp lẽ… Cứ nghĩ đến những người đàn bà đang ở chung quanh tôi rồi lại nghĩ về nàng, tôi thấy rõ là một khối đá của Đeukalion đã thành hình đủ loại người khác nhau, những loại không một chút giống nhau và nàng thuộc về những người được sản sinh từ chính pha lê. Tôi ngưỡng mộ, tôi yêu nàng với tất cả tâm hồn, đến nỗi tôi chỉ muốn nói cùng nàng về mỗi một mình nàng mà thôi và tôi phải bắt buộc mình lắm mới viết nổi cho nàng về chuyến đi, cùng những gì đang diễn ra với tôi và những chuyện mới mẻ trong chốn cung đình. Vậy hoàng đế đang là khách của Poppea, ả đã bí mật chuẩn bị một cuộc thù tiếp thật duyệt diệu. Thực ra, ả chỉ mời rất cẩn thận, nhưng cả tôi lẫn cậu Petronius đều nhận được lời mời. Sau bữa tiệc, chúng tôi chèo những con thuyền vàng trên mặt biển, biển lặng lẽ như đang say ngủ và biếc xanh như màu mắt nàng vậy, hỡi nữ thần!  ... Mời các bạn đón đọc Quo Vadis của tác giả Henryk Sienkiewicz.
Quần Đảo Ngục Tù - Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn
Thiên tiểu thuyết này viết xong đã lâu mà tôi vẫn ngần ngại chưa muốn xuất bản. Thà phụ lòng người chết còn hơn gây hại cho những người còn sống. Nhưng bản thảo bất ngờ lọt vào tay mật vụ thì tôi đành phải cho ra ngay, càng sớm càng tốt.  Xin lưu ý là trong Quần đảo ngục tù không có người bịa chuyện. Nhân danh, địa danh đều ghi rõ tên thực. Nếu có ghi tên tắt chỉ là bắt buộc cũng như nếu có thiếu sót chỉ vì người viết không nhớ nổi, nhớ hết. Vì tất cả trong Quần đảo ngục tù đều có thực, nghĩa là THẤY SAO VIẾT VẬY.  Aleksandr I. Solzhenitsyn   *** Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn là nhà văn, nhà viết kịch của Liên Bang Xô Viết và Liên Bang Nga đoạt giải Nobel Văn học năm 1970. Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn sinh ở Kislovodsk, vùng bắc Kavkaz. Bố mất khi Solzhenitsyn chưa sinh, mẹ đi làm nghề đánh máy để nuôi con. Năm 1925 hai mẹ con chuyển về thành phố Rostov-trên-sông-Đông (Rostov-na-Donu). Từ năm 1926 đến 1936 học ở trường phổ thông thường bị bạn bè chế diễu vì đeo thập tự và không muốn vào Đội thiếu niên Lenin. Sau đó, nghe theo lời khuyên của các thầy cô giáo, Solzhenitsyn đã tiếp nhận lý tưởng cách mạng, năm 1936 vào Đoàn thanh niên cộng sản Komsomol. Từ nhỏ Solzhenitsyn đã muốn trở thành nhà văn nhưng có năng khiếu toán học nên năm 1936 ông theo học khoa Toán trường Đại học Rostov để sau này dễ kiếm việc làm. Những năm học ở Đại học Rostov, Solzhenitsyn luôn là sinh viên xuất sắc, được nhận học bổng Stalin.   Năm 1970, Alekxandr Solzhenisyn được tặng giải Nobel nhưng ông không đến Thụy Điển nhận lễ trao giải vì sợ sau đó không trở về nước được; hai năm sau ông mới đến nhận giải và đọc Diễn từ. Năm 1974, sau khi công bố bản tuyên ngôn Không sống bằng dối trá (Жить не по лжи) và cho in tác phẩm Quần đảo GULag (Архипелаг ГУЛаг) ở Paris, Solzenitsyn bị bắt, bị nhà nước Liên Xô tước quyền công dân và bị trục xuất sang Cộng hòa Liên bang Đức, sau đó ông định cư ở Hoa Kỳ. Bản tuyên ngôn Không sống bằng dối trá được viết ngay trước khi ông bị trục xuất khỏi nước Liên Xô đã thể hiện tâm tư của ông, có đoạn viết Chúng ta đã bị phi nhân tính một cách tuyệt vọng tới mức chỉ vì một khẩu phần ăn khiêm tốn hàng ngày cũng sẵn lòng đánh đổi mọi nguyên tắc của mình, tâm hồn của mình, những nỗ lực của tiền nhân và cơ hội dành cho hậu thế - cốt sao sự tồn tại mong manh của mình không bị phá vỡ. Chúng ta chẳng còn lấy một chút vững vàng, một chút tự hào và một bầu nhiệt huyết. Chúng ta thậm chí còn chẳng sợ cái chết vì vũ khí hạt nhân, không sợ thế chiến thứ ba (còn có thể trú ẩn trong những kẽ hầm mà!), thế nhưng lại sợ những hành động can đảm của công dân! Bài viết này được các báo chí trên thế giới đăng lại hoặc nhắc đến, gồm The Washington Post,  NewYork Times *** Năm 1949, bọn tôi tình cờ đọc được một mẩu tin ngăn ngắn in chữ nhỏ li ti đăng trên tờ Thiên nhiên cơ quan của Hàn lâm Viện Khoa học. Bản tin tiết lộ là trong công tác khảo cổ khai quật một vùng sông Kolyma người ta đã tìm ra một lớp băng nằm dưới mặt đất nguyên là một con suối, một nhánh sông đông lạnh mà trong đó còn nguyên vẹn một số sinh vật tiền sử, cỡ vài chục ngàn năm. Cá hay thằn lằn cũng còn tươi nguyên, tươi đến nỗi những người có mặt lúc bấy giờ hăm hở phá vỡ lớp băng, đào lên KHOAN KHOÁI đớp ngay tại chỗ.  Độc giả tập san Thiên nhiên có bao nhiêu xong chắc chắn họ phải kinh ngạc không ngờ cá đông lạnh có thể giữ tươi nguyên lâu đến vậy. Tuy nhiên mấy ai đã thấu hiểu ý nghĩa đích thực của mẩu tin sơ hở, vụng về nói trên?  Bọn tôi, trái lại hiểu ngay tức khắc. Bọn tôi còn tưởng tượng ra đầy đủ từng chi tiết nhỏ của công tác khai quật kia. Bọn tôi biết người ta đào lớp băng hăng hái cỡ nào, tranh nhau như thế nào… Khỏi khảo cổ, nghiên cứu cá cua gì hết, thấy cá tiền sử cũng đào lên, xé ngay ra cho lên bếp lửa nướng đớp liền.  Bọn tôi hiểu vì bọn tôi cũng thuộc một lớp người với đám người đào băng đó – cũng là dân ZEK với nhau mà! Những thằng ZEK [1] thì quá đông quá nhiều và có thể nói là thế gian này chỉ có chúng là những thằng người duy nhất dám đớp cả cá tiền sử một cách SUNG SƯỚNG.  ... Mời các bạn đón đọc Quần Đảo Ngục Tù của tác giả Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn.