Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hai Cõi Người Ta

Khi người bạn yêu sâu sắc mất đi, dù là người thân hay người phối ngẫu, cuộc đời bạn mãi mãi không còn như trước nữa. Những gì trước nay bạn có như một điều mặc nhiên, đột nhiên sẽ mất. Khoảng trống đó không gì bù đắp được, chỉ có chính bạn có thể, bằng cách này hay cách khác, vượt qua và tìm cách sống tiếp. Nhưng cách vượt qua của mỗi người sẽ không như nhau. Có người sẽ cố chấp không buông như Ross, đi khắp nơi mong gặp linh hồn của vợ, tìm mọi cách cực đoan để liều mình tìm sang thế giới bên kia, thế nhưng không thỏa nguyện, bởi bóng hình anh yêu có tồn tại đâu? Hoặc như nỗi ám ảnh của người mẹ có con mắc bệnh hiếm, khiến cô khép mình với thế giới bên ngoài, sợ cả yêu thương.  Thế nhưng đây không chỉ là một cuốn sách về tâm lý tình cảm. Một hồn  ma, một hồ sơ vụ án chưa bao giờ khép, một khu đất là quê hương của thổ dân Châu Mỹ ngày xưa với biết bao hiện tượng kỳ dị... được lật lại bởi người cảnh sát địa phương, không ngờ lật ra cả một giai đoạn đen tối của lịch sử nước Mỹ, khi mà khao khát về đời sống tốt đẹp hơn lại vô hình suýt đẩy quốc gia vào con đường diệt chủng với Thuyết Ưu Sinh - một lý thuyết gạn lọc những gen bị cho là "gen xấu" của con người. Nhưng con người, với tất cả hiểu biết hạn hẹp của  mình, liệu đã có đủ năng lực để vạch ra lằn ranh cho khoa học di truyền đó? Một câu chuyện đan cài hấp dẫn từ đầu tới cuối, là sự xen kẽ của trinh thám, tình cảm, khoa học và lịch sử, với ngòi bút mượt mà đậm tính nhân văn. *** Lần đầu tự đẩy mình vào chỗ chết, Ross Wakeman suýt thành công, nhưng lần thứ hai và thứ ba chết hụt thì không phải do anh. Lần thứ hai, anh ngủ gục trên tay lái nên phóng xe lao qua thành cầu và rớt xuống hồ nhưng được đội cứu hộ tìm thấy. Khi chiếc Honda nửa chìm nửa nổi được trục vớt, cửa xe đều còn khóa kín, kính cửa sổ cường lực rạn như mạng nhện mà vẫn nguyên vẹn. Sau vụ tai nạn chẳng ai hiểu làm sao anh ta thoát khỏi xe mà không hề trầy xước. Lần thứ ba, Ross bị cướp ở New York. Tên cướp trấn lột ví tiền, đập Ross một trận nhừ tử, nã một phát vào lưng anh rồi trốn mất dạng. Với cự ly gần như thế, viên đạn lẽ ra phải khiến xương vai vỡ vụn và đâm thủng phổi. Vậy mà như có phép thần, viên đạn kẹt lại ngay khi vừa chạm xương. Mẩu đạn chì bé tẹo giờ đang được Ross dùng làm móc chìa khóa. Còn lần đầu tiên suýt chết là vài năm trước, khi Ross mắc kẹt giữa một trận bão sét. Tia sét màu xanh tuyệt đẹp bất chợt xuất hiện trên nền trời rồi phóng thẳng trúng tim anh. Mấy bác sĩ đều nói anh đã chết lâm sàng khoảng bảy phút. Họ nói rằng tia sét không đánh trúng Ross trực tiếp. Nếu dòng điện mạnh 50,000 ampe thực sự truyền thẳng vào lồng ngực, nó sẽ làm nước trong tế bào bốc hơi và khiến anh nổ tung đúng theo nghĩa đen. Tia sét chỉ sượt qua, tạo ra dòng điện cảm ứng khiến nhịp tim anh rối loạn. Mấy tay bác sĩ đều trầm trồ cái gã này sao mà may mắn quá. Mấy gã đó đều sai bét. Lúc này, Ross chẳng buồn cẩn trọng khi dò dẫm trên mái nhà đen thui ướt nhẹp của gia đình O’Donnells’ Oswego vào ban đêm. Trời đã vào tháng Tám mà gió lùa vào từ hồ Ontario vẫn còn lạnh buốt, thổi mấy sợi tóc dài vào mắt khi anh khéo léo rướn mình qua ô cửa sổ xiêu vẹo. Nước mưa vỗ xuống gáy khi anh loay hoay gắn mấy cái kẹp vào máng xối và chỉnh lại máy quay phim chống thấm nước hướng vào tầng gác mái. Đôi ủng của anh trượt một phát, khiến vài tấm ván lợp cũ mèm rơi xuống. Ông O’Donnel che ô đứng dưới đất, nheo mắt dõi theo anh. “Cẩn thận đấy,” ông ta hét lên. Ross ngầm hiểu lời O’Donnel muốn nói: Chừng ấy hồn ma là đủ lắm rồi. Nhưng Ross sẽ chẳng làm sao cả đâu. Anh sẽ không trượt chân; anh sẽ không ngã. Đây là lý do vì sao hết lần này đến lần khác, anh sẵn sàng lao vào nguy hiểm và liều mạng như nhảy bungee, leo núi và hút ma túy. Anh vẫy tay với ông O’Donnell, ra hiệu rằng mình đã nghe thấy. Nhưng Ross biết mặt trời sẽ mọc sau tám tiếng nữa, cuộc sống của anh vẫn tiếp diễn, và dù muốn đến đâu thì mình cũng không chết được. Tiếng trẻ con khiến Spencer Pike tỉnh giấc và loay hoay ngồi dậy. Tất cả phòng trong Viện Dưỡng Lão Shady Pines đều bật đèn ngủ, nhưng ông biết dù có bật điện hết công suất đủ để chiếu sáng cả thành phố Burlington này thì mình cũng chẳng thấy gì quá phạm vi chân giường. Bệnh đục thủy tinh thể khiến ông chẳng nhìn được gì. Những lúc bước ngang qua gương soi để vào phòng vệ sinh, ông loáng thoáng thấy ai đó đang nhìn mình - một anh chàng với hàng lông mày chưa lốm đốm ngả vàng; một người hoàn toàn khác với làn da nhăn nheo bọc ngoài khung xương hiện tại. Nhưng bóng dáng Spencer một thời trẻ trung vụt tan biến, bỏ lại ông với những mảnh vụn sót lại của đời mình. Dù vậy, đôi tai ông vẫn còn rất thính. Khác với mấy lão già lẩm cẩm ở đây, Spencer chưa bao giờ cần đến máy trợ thính. Quỷ thật, ông còn nghe được những thứ ông chẳng buồn quan tâm. Trời ơi, đứa nhỏ lại khóc nữa rồi. Ông vén chăn, bấm nút bên cạnh giường. Một lúc sau, y tá trực đêm bước vào hỏi, “Ông Pike, có việc gì sao?” “Có đứa nhỏ cứ khóc mãi.” Cô y tá nhanh nhẹn xoay gối và nâng cao đầu giường sau lưng ông. “Ông Pike, chẳng có đứa trẻ nào ở đây cả. Đó chỉ là mơ thôi.” Cô vỗ nhẹ lên bờ vai một thời rắn rỏi của Spencer. “Bây giờ thì ông nên ngủ tiếp đi. Ngày mai sẽ bận rộn lắm đấy. Ông có hẹn đúng không?” Ông tự hỏi vì sao cô ta nói chuyện như đang dỗ con nít vậy? Vì sao ông lại ngoan như một đứa con nít - mặc cô đỡ ông nằm xuống giường và kéo chăn lên ngực? Một loạt ký ức chực chờ dâng trào nơi cổ họng, tiếp đó là một cảm giác mơ hồ khiến ông rơm rớm nước mắt. Cô y tá ân cần hỏi: “Ông có cần vài viên Naproxen cho dễ chịu không?” Spencer lắc đầu. Từng là nhà khoa học, ông biết rõ chẳng có phòng thí nghiệm nào bào chế được loại thuốc xoa dịu nỗi đau này. Curtis Warburton ngoài đời trông nhỏ con hơn trên truyền hình. Nhưng chuyện này chẳng hề ảnh hưởng đến sức quyến rũ của anh, thứ khiến chương trình Đêm Rùng Rợn trở thành một trong những tiết mục ăn khách nhất. Mái tóc đen ngắn với vệt tóc bạc trông như lông chồn hôi - anh thành ra thế từ chín năm trước, khi hồn ma của ông nội hiện về ngay chân giường. Sau đêm ấy, anh ta bắt đầu dấn thân vào lĩnh vực điều tra hiện tượng tâm linh. Maylen vợ anh ta có dáng người thấp bé nhưng khả năng ngoại cảm vang danh đến tận sở cảnh sát Los Angeles. Cô đang ngồi bên cạnh và mải miết ghi chép khi Curtis đặt câu hỏi cho ông bà chủ nhà. “Đầu tiên là tại nhà bếp,” bà Eve O’Donnell thì thào, và chồng bà gật gù. Hai vợ chồng đều đã nghỉ hưu. Hai người mua căn nhà bên hồ này làm nơi nghỉ hè, nhưng suốt ba tháng ở đây, họ gặp nhiều hiện tượng kỳ quái ít nhất hai lần mỗi tuần. “Khoảng mười giờ sáng, tôi khóa hết cửa, đặt chuông báo động và đi đến bưu điện. Lúc về nhà, chuông báo động vẫn đang bật… nhưng tất cả tủ bếp trong nhà đều mở toang, mấy hộp ngũ cốc nằm la liệt trên bàn và vương vãi xung quanh. Tôi gọi tên Harlan vì nghĩ rằng ông ấy mới về nhà và là thủ phạm của đống lộn xộn này.” “Tôi ở câu lạc bộ Elks suốt buổi sáng,” chồng bà ngắt lời. “Chưa từng về nhà. Nhà chẳng ai làm chuyện đó cả.” “Lúc hai giờ sáng, chúng tôi nghe thấy tiếng đàn calliope vọng lại từ tầng gác mái. Nhưng khi chúng tôi bước lên đó thì tiếng nhạc ngừng lại. Lúc mở cửa ra, chúng tôi thấy một chiếc đàn piano đồ chơi không hề gắn pin nằm ngay giữa sàn.” “Chúng tôi không có cây đàn piano đồ chơi nào,” ông Harlan nói thêm. “Nhà cũng chẳng có trẻ con. “Khi chúng tôi thử gắn pin vào thì tiếng nhạc phát ra từ cái đàn lại không giống với âm thanh kia.” Bà Eve ngập ngừng. “Anh Warburton, tôi hy vọng anh hiểu rằng chúng tôi không phải là những người tin… tin vào những thứ như thế. Chỉ là… chỉ là nếu như không phải là nó thì có lẽ tôi đang mất trí rồi.” “Bà O’Donnell, bà không bị mất trí đâu.” Curtis khẽ nắm tay bà ra vẻ cảm thông. “Đến sáng mai là chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về chuyện gì đang diễn ra tại nhà hai vị.” Anh ngoái đầu ra sau để đảm bảo Ross ghi lại đoạn phim này. Tùy vào việc xảy ra sau đó, nhà O’Donnells có thể xuất hiện trên chương trình Đêm Rùng Rợn. Nếu vậy thì thước phim này rất quan trọng. Mỗi ngày, nhóm Warburtons nhận được hơn ba trăm thư điện tử từ những người tin rằng nhà họ bị ma ám. Tám mươi lăm phần trăm vụ việc hóa ra là những trò chơi khăm hoặc do chuột trên nóc nhà. Những vụ còn lại thì - theo kinh nghiệm của Ross - không thể giải thích một cách đơn giản được. “Ông bà từng thấy ma chưa?” Curtis hỏi. “Hoặc là cảm giác nhiệt độ thay đổi đột ngột?” “Phòng ngủ hai vợ chồng tôi đột nhiên nóng như địa ngục khoảng một phút, sau đó lại lạnh đến rùng mình,” ông Harland trả lời. “Ông bà có cảm thấy đặc biệt không thoải mái với chỗ nào trong nhà không?” “Tầng gác mái. Còn cả phòng tắm trên lầu nữa.” Curtis đưa mắt nhìn từ tấm thảm thủ công đậm chất Đông phương đến chiếc bình cổ trên bệ lò sưởi. “Tôi phải khuyến cáo hai vị rằng bắt ma là công việc rất tốn kém đấy.” Là nhà nghiên cứu thực địa trong nhóm Warburtons, Ross được cử đến thư viện, khu tư liệu báo chí để tìm tài liệu về căn nhà hay vụ giết người hoặc tự tử từng xảy ra ở đó. Công tác điều tra của anh chẳng mang lại thông tin gì đáng giá, nhưng Curtis không hề muốn bỏ cuộc. Dù sao thì ma quỷ có thể ám cả người lẫn nhà. Lịch sử luôn để lại vết tích, như mùi nước hoa nhàn nhạt hay vệt ký ức in đậm sau ánh mắt. “Cứ tiến hành thôi,” bà Eve O’Donnell đáp. “Tiền bạc không thành vấn đề.” “Tất nhiên là vậy rồi.” Curtis vừa cười vừa vỗ tay đánh bốp lên đầu gối. “Tốt lắm. Chúng tôi có vài việc phải làm.” Đó là ám hiệu của Ross. Trong quá trình điều tra, anh chịu trách nhiệm thiết lập và giám sát các thiết bị điện từ, máy quay video kỹ thuật số, nhiệt kế hồng ngoại. Bất chấp lợi nhuận kếch xù do chương trình truyền hình và những vụ làm ăn kiểu này mang lại, Ross làm việc với mức lương rẻ mạt. Chín tháng trước, sau khi đọc về nhóm Warburtons trên tờ tạp chí L.A. Times vào ngày lễ Halloween, Ross đã phải nài nỉ họ nhận mình vào làm. Khác với Curtis và Maylene, dù rất muốn nhưng anh chưa từng thấy một linh hồn nào cả. Anh hy vọng khả năng ngoại cảm có thể lây qua đường tiếp xúc giống như bệnh đậu mùa và in lại dấu ấn vĩnh viễn trên người anh. “Tôi nghĩ mình nên kiểm tra tầng gác mái,” Ross đề nghị. Anh đứng giữa hành lang, đợi bà Eve O’Donnel dẫn đường. Dù anh chẳng hề thắc mắc nhưng bà vẫn thừa nhận, “Tôi cảm thấy thật là ngu ngốc, từng tuổi này rồi mà còn thấy ma Casper.” Ross mỉm cười. “Ma có thể làm bà rùng mình một tí, hoặc khiến bà nghĩ mình bị mất trí nhưng sẽ không làm hại bà đâu.” “Ồ, tôi cũng không nghĩ cô ấy sẽ hại tôi.” “Cô ấy?” Bà Eve ngập ngừng. “Harlan dặn tôi không được chia sẻ quá nhiều thông tin để tránh việc các anh hiểu sai vấn đề.” Bà rùng mình, liếc mắt về phía cầu thang. “Em gái tôi mất hồi tôi bảy tuổi. Thỉnh thoảng tôi tự hỏi… liệu ma có tìm được người nào đó nếu nó muốn?” Ross hướng mắt ra chỗ khác. “Tôi không biết nữa,” anh đáp, thầm ước giá mà mình có thể đáp lời bà ấy với một câu trả lời cụ thể hay chia sẻ trải nghiệm cá nhân. Mắt anh sáng lên khi nhìn thấy cánh cửa nhỏ ngay trên bậc cầu thang. “Ở đây à?” Bà gật đầu, để anh vượt lên trước và mở cửa. Chiếc máy quay phim Ross gắn ngoài cửa sổ trông như con mắt của người khổng lồ Cyclops đang dõi theo hai người. Eve sợ đến rúm ró cả người. “Bước vào đây là tôi thấy ớn lạnh.” Ross dời mấy cái hộp để tránh trường hợp hình bóng kỳ lạ nào đó xuất hiện trong thước phim bị nhận nhầm. “Curtis nói đó là cách tìm ra họ, chỉ cần nghe theo cảm giác mách bảo.” Mắt anh nhìn trúng thứ gì đó lấp lánh trên sàn nhà. Anh khuỵu gối nhặt lên vài đồng xu. “Tất cả có 6 xu.” Anh mỉm cười. “Kỳ quái thật.” “Thỉnh thoảng cô ấy vẫn làm vậy.” Bà Eve lùi dần về phía cửa, hai tay ôm lấy vai. “Luôn để lại cho chúng tôi mấy đồng xu lẻ ấy.” “Con ma đấy sao?” Ross xoay người lại thắc mắc nhưng bà Eve đã chạy xuống lầu. Hít một hơi thật sâu, Ross đóng cửa phòng gác mái lại và tắt hết đèn, để bóng tối tràn ngập căn phòng nhỏ. Anh lách mình sang góc phòng, tránh khỏi tầm máy quay phim rồi khởi động nó bằng điều khiển từ xa. Sau đó Ross cố tập trung vào bóng tối bủa vây trước ngực và sau hai đầu gối, giống như chỉ dẫn của Curtis Warburton. Ross thả lỏng tất cả giác quan, chờ đến khi sự hoài nghi giảm dần và khoảng không xung quanh mở rộng. Anh thầm nghĩ, có lẽ chính là cảm giác này. Cảm giác khi những bóng ma vây quanh giống như cổ họng lúc nấc nghẹn. Bên trái có tiếng bước chân, kèm theo tiếng leng keng không lẫn vào đâu được của mấy đồng xu rớt trên sàn. Ross bật đèn pin rọi quanh phòng, đến chỗ đôi ủng của mình thì thấy có ba đồng xu nằm đó. “Aimee?” anh thì thào với khoảng không trống trải. “Có phải em không?” Thị trấn Comtosook bang Vermont nằm giữa nhiều ranh giới tự nhiên: vùng trũng dẫn nước chảy vào hồ Champlain, vách núi dựng đứng bao quanh mỏ đá granite nơi nửa số dân thị trấn đang làm việc. Dường như có một giới tuyến vô hình ngăn giữa vùng nông thôn bang Vermont và thành phố Burlington liền kề. Nhà thờ thuộc Tự trị giáo đoàn ở trung tâm thành phố có treo một bảng hiệu ca ngợi Comtosook là vùng đất đẹp nhất tiểu bang do tạp chí Đời Sống Vermont trao tặng năm 1994. Thật không sai. Có những ngày, Eli Rochert chỉ biết nín thở ngắm nhìn tán lá đang chuyển màu, nào là màu hồng ngọc, màu hổ phách và cả màu ngọc lục bảo. Nhưng dù khách du lịch có nghĩ gì về Comtosook thì đây vẫn là quê hương Eli. Đã từng, và mãi mãi. Anh vẫn cho là vậy. Tất nhiên, với cương vị là một trong hai cảnh sát của thị trấn, anh biết rõ những gì du khách thấy chỉ là ảo ảnh. Từ lâu Eli đã biết có những thứ dù có cố nhìn chằm chằm thì cũng không thấy được những gì nằm ẩn sâu dưới mặt ngoài. Anh lái xe dọc con phố Nghĩa Trang. Anh vẫn hay tuần tra vào những đêm trăng tròn vành vạnh tỏa ra ánh vàng như mắt diều hâu. Mấy cửa sổ xe đều kéo xuống nhưng chẳng có ngọn gió nào thổi qua. Phần tóc đen ngắn ngủn sau gáy Eli nhớp nháp dính vào gáy. Ngay cả Watson, chú chó săn của anh, cũng đang thở hổn hển trên ghế sau. Mấy tấm bia mộ cũ kỹ nằm ngả nghiêng như những chiến binh với đôi chân rệu rã. Bên trái khu nghĩa trang, gần chỗ cây sồi, là bia mộ kỳ quặc nhất của thị trấn Comtosook. Bia đề, WINNIE SPARKS. SINH NĂM 1835. QUA ĐỜI NĂM 1901. QUA ĐỜI NĂM 1911. Truyền thuyết kể rằng khi đang trên đường đưa tang cho bà lão cay nghiệt có tiếng ra khu nghĩa địa thì mấy con ngựa kéo lồng lên, khiến quan tài rớt xuống. Sau đó nắp quan tài bật ra, bà Winnie ngồi dậy, leo ra khỏi đó rồi khạc nhổ điên cuồng. Mười năm sau khi bà chết - thêm một lần nữa - thì ông chồng tội nghiệp đã đóng đến 150 chiếc đinh trên nắp quan tài để phòng chuyện trước kia. Mời các bạn đón đọc Hai Cõi Người Ta của tác giả Jodi Picoult & Trần Nguyên Hương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trò Chơi Của Ripley
Tom Ripley chỉ quan tâm đến tiền. Tom Ripley chỉ giết người vô tội. Tom Ripley chỉ giả vờ hiền lành để người khác quý mến. Thông qua phần 1 – Quý ngài tài năng và phần 2 – Thế giới ngầm của Ripley, độc giả đã hiểu rõ về quá trình mà Tom Ripley từ một thanh niên “có vẻ hiền lành” trở thành một kẻ sát nhân. Hai phần đầu dường như khiến người đọc cảm thấy đã hiểu rõ về nhân vật này. Thế nhưng… Mọi điều bạn nghĩ mình biết về Tom Ripley – nhân vật phản anh hùng được yêu thích nhất của Patricia Highsmith – sắp hoàn toàn thay đổi. Anh tham gia vào một phi vụ chỉ vị cảm thấy bản thân có trách nhiệm. Anh trừng trị những kẻ sát nhân. Nhưng anh vẫn bị người khác ghét đến mức nhổ nước bọt vào mặt. … Và trong trò chơi nguy hiểm này, không còn những tay cảnh sát, thám tử ngờ nghệch. Những tên mafia Ý ra tay dứt khoát và tàn độc sẽ không dễ dàng buông tha cho Tom Ripley. Liệu với quá nhiều biến động xảy ra như vậy, anh có thể bảo toàn tính mạng cho màn đấu trí tiếp theo? *** REVIEW “TRÒ CHƠI CỦA RIPLEY” “Hai ô tô đậu trên sân sỏi một cách tùy ý, Tom muốn ngôi nhà của mình trông giống bức tranh một bữa tiệc đang diễn ra huyên náo, đông vui hơn so với thực tế. Dù Tom biết rằng thật ra chuyện này cũng sẽ chẳng cản trở hành động của tụi mafia đâu, nếu chúng định quẳng một quả bom vào, và do đó có thể anh đang đẩy bạn bè mình vào vòng nguy hiểm. Nhưng Tom có cảm tưởng là lũ mafia thích mưu sát anh một cách lặng lẽ hơn: chọn lúc anh ở một mình rồi tấn công anh, có thể là không dùng súng, chỉ cần tấn công đột ngột và gây chết người là đủ”. Hào hứng chờ quyển thứ 3 trong series Ripley và quả thật không cảm thấy thất vọng sau khi đọc xong. Ripley ở quyển này mang đến những màn giết người trầm tĩnh đến đáng sợ dù ở những chương đầu, một cuộc sống khá yên ả của nhân vật chính hiện ra trước mắt bạn đọc. Nhưng sự thanh bình trong đời sống của Tom chỉ là giây phút thoáng qua, dường như vận mệnh của một kẻ như anh là vậy, nhìn cứ tưởng là hào nhoáng, là nhẹ nhàng sau bao màn giết chóc nhưng ẩn giấu tận cùng đều là mùi máu tanh. Reeves – một người quen cũ của Tom đến tìm anh với mục đích nhờ giết dùm mấy tên mafia. Với cách cảm nhận của mình thì Reeves là một tên có tính cách đáng ghét và ăn hại. Vậy mà Ripley vẫn giúp hắn, nhưng anh nâng tầm lên bằng việc “nhờ cậy” Jonathan Trevanny. Thực chất, đưa Jonathan vào vụ này vì Tom muốn có kẻ thay mình làm, sau đó tâm lý dần chuyển thành muốn có bạn làm chung rồi cuối cùng là chuyển hóa thành tâm lý muốn bảo vệ Jonathan thoát khỏi vụ này. Ban đầu, việc thuyết phục Jonathan Trevanny khá khó khăn nhưng Tom nắm thóp được Jonathan đang cần tiền để chữa bệnh và lo cho gia đình, Reeves thì nhìn nhận Jonathan là một kẻ nhát gan và thiếu ý chí nên sẽ dễ dắt mũi. Một vài chiêu trò về tiền bạc, về sự cám dỗ đã khiến Jonathan rơi vào vòng xoáy phạm pháp mà Ripley vẽ ra. Cũng từ đó, hàng loạt vụ giết người diễn ra và Jonathan đáng thương cứ bị cuốn theo như thế, không thể nào tách ra được. Về mạch truyện, “Trò chơi của Ripley” thực sự rất cuốn vì ban đầu cứ thư thả, nhẹ nhàng, dần dần chuyển nhanh và đẩy cao trào một cách trọn vẹn. Những vụ ám sát xảy ra khá nhiều, cảm giác những cái chết của mấy tên mafia đến nhanh chóng và hồi hộp vô cùng. Nhân vật Tom ở phần 3 này dường như đã bớt “phản anh hùng” hơn hai quyển trước. Thứ nhất là ở tâm lý chỉ giết kẻ xấu, không giết người tốt nữa – một sự chuyển biến khá tích cực mà Patricia Highsmith đã dựng lên khá hay trong câu chuyện lần này. Thứ hai là cảm giác ăn năn khi kéo Jonathan Trevanny vào vụ việc ám toán lũ mafia. Sự hối hận này không giúp Jonathan thoát khỏi những rắc rối giết chóc nhưng cũng phần nào có thêm sự hỗ trợ để tránh những hiểm nguy chết người khi thực hiện “nhiệm vụ”. Dù rằng sau đó kết cục hơi cay đắng nhưng màn xây dựng tâm lý cho Tom ở quyển này đã mang nặng tình nghĩa và tình người hơn. Đây cũng là điểm yếu của quyển sách này vì khác với hai quyển trước, khi tâm lý tội phạm là nghệ thuật đỉnh cao trong cách viết của Highsmith thì ở quyển này, vì “tính tội phạm” của Ripley đã giảm một phần nào đó trong tính cách nên phần diễn tả nội tâm có phần kém hấp dẫn. Một điểm thú vị mà mình thấy được trong cách sống phức tạp của nhân vật Ripley là Jonathan Trevanny có một sức hút đặc biệt lạ kỳ đối với anh ta. Điều này cũng đã từng xảy ra ở hai quyển trước đó, dường như Tom rất dễ bị ảnh hưởng, bị ám ảnh bởi một người khác. Lần nào cũng vậy, một khuôn mẫu mà anh dễ bị tác động đến, vừa muốn bảo vệ vừa muốn làm hại người đó – vừa ngưỡng mộ vừa muốn phá bỏ để thay thế cái mà bản thân khao khát. Mình không nghĩ điều này là do Tom có tâm lý bệnh hoạn gì nhưng có xuất phát từ tài năng bắt chước, xuất phát từ hoàn cảnh thuở bé mà mãi cho đến tận sau này, Ripley vẫn chưa hề hài lòng về bản thân. Có lẽ, ở “Trò chơi của Ripley”, ai chết đã không còn quan trọng nữa, vì đối với Tom thì chúng là mafia – là những kẻ đáng phải chết. Và đúng với tinh thần đó, tác giả cũng miêu tả những cái chết một cách chớp nhoáng, kịch tính và không phức tạp tâm trạng của nhân vật chính khi giết người. Đúng là khi chúng ta ở thế giới của một nhân vật chính “phản anh hùng” thì luôn thấy những lý do giết chóc ấy ở một góc độ hợp lý. Sự biện minh chính nghĩa ấy được nâng tầm khá tốt ở quyển sách này và giống như một biểu tượng trưởng thành của Tom vậy. Nếu lần đầu, khi đọc “Quý ngài tài năng”, mình cảm thấy hình ảnh của “Gatsby vĩ đại”; lần hai khi đọc “Thế giới ngầm của Ripley”, mình liên tưởng đến “Bức tranh Dorian Grey” thì lần này, đọc “Trò chơi của Ripley”, mình chẳng liên tưởng đến bất cứ tác phẩm nào nữa, cảm thấy Tom Ripley của phần này khác biệt quá. Thật sự, cốt truyện của quyển này không phải là một chất xúc tác hấp dẫn mà thứ chinh phục bạn đọc chính là hình tượng nhân vật chính đã mang bản sắc cá nhân rất riêng biệt, rất độc đáo, khác đi với chính hắn trong quá khứ và chắc sẽ còn khác biệt nữa ở những quyển sau. (Trần Nguyễn Phước Thông, FB Trần Thông, 16-11-2020) *** “Trần đời không thể có một vụ giết người hoàn hảo,” Tom nói với Reeves. “Đó chỉ là một trò chơi tự biên tự diễn, cố gắng khiến nó trở nên hoàn hảo. Tất nhiên anh có thể tranh luận là có rất nhiều vụ án chưa được giải quyết. Hai chuyện này khác nhau.” Tom thấy chán. Anh đi đi lại lại trước lò sưởi nhà mình, bên trong có một ngọn lửa nhỏ nhưng ấm cúng nổ lép bép. Tom cảm thấy cái cách anh vừa nói chuyện có vẻ trịch thượng lại còn bảo thủ. Nhưng vấn đề là, anh không thể giúp Reeves và anh cũng đã nói với anh ta điều đó rồi. “Phải, không sai,” Reeves nói. Anh ta đang ngồi trên một chiếc ghế bành lụa màu vàng, cơ thể mảnh dẻ chúi về phía trước, hai tay chụm lại giữa đầu gối. Anh ta có khuôn mặt xương xẩu, mái tóc ngắn màu nâu sáng, đôi mắt màu xám lạnh lẽo - không phải một khuôn mặt dễ chịu nhưng có thể được xem là khá đẹp trai nếu không có một vết sẹo dài mười hai phân từ thái dương bên phải vắt ngang qua má và gần chạm đến miệng. Có màu hồng sáng hơn một chút so với da mặt, vết sẹo giống như một tác phẩm khâu vá không lành nghề, hoặc cũng có thể nó chưa bao giờ được khâu lại. Tom chưa một lần hỏi về chuyện đó, nhưng Reeves từng tự nguyện kể lại, “Một cô gái dùng hộp phấn bỏ túi của cô ta gây ra đó. Anh có tưởng tượng nổi không?” (Không, Tom không thể.) Reeves nở một nụ cười buồn bã thoáng qua, một nụ cười hiếm hoi mà Tom nhớ ở anh ta. Vậy nhưng trong một dịp khác, “Tôi bị ngã ngựa - bị kéo lê theo bàn đạp vài thước.” Reeves đã nói vậy với một người khác, nhưng Tom cũng có mặt ở đó. Anh thì nghi là do một con dao cùn trong một trận ẩu đả hết sức hung hãn ở đâu đó gây ra. Giờ thì Reeves lại muốn Tom đề cử một người để thực hiện một mà có lẽ là hai “vụ giết người đơn giản” và có thể thêm một vụ trộm nữa, cũng rất an toàn và đơn giản. Reeves đã từ Hamburg đến tận Villeperce để nói chuyện với Tom và anh ta sẽ ở qua đêm, rồi ngày mai tới Paris để nói chuyện thêm với một người khác, sau đó mới quay về nhà, hẳn là để suy nghĩ thêm nếu mời chào thất bại. Reeves vốn chỉ làm việc mua bán đồ ăn cắp, nhưng dạo này đã bắt đầu nhúng tay vào thế giới cờ bạc phi pháp của Hamburg, giờ anh ta đang đảm nhận vai trò bảo vệ. Bảo vệ khỏi cái gì? Khỏi lũ cá mập Ý muốn nhảy vào ăn phần. Một gã từng là sát thủ đánh thuê của mafia đã được cử ra làm người thử lửa, ngoài ra còn có một gã nữa có thể đến từ một băng đảng khác, Reeves nghĩ. Khi trừ khử một hoặc có thể là cả hai kẻ xâm nhập đó, anh ta mong muốn sẽ dập tắt được những nỗ lực trong tương lai của bọn mafia, thêm vào đó là thu hút sự chú ý của cảnh sát Hamburg tới mối hiểm họa này, còn lại để cảnh sát giải quyết nốt việc tống cổ lũ mafia đi. “Bọn nhóc Hamburg đó là một băng đảng đứng đắn,” Reeves đã hùng hồn tuyên bố như vậy. “Có thể những gì chúng làm là phi pháp, việc điều hành vài casino tư, nhưng với câu lạc bộ thì không, vả lại chúng cũng chẳng thu về những khoản lợi nhuận kếch xù. Không giống Las Vegas, hoàn toàn bị mafia thao túng, lại còn ngay dưới mũi đám cảnh sát Mỹ!” Tom cầm que cời và gạt lửa lại một chỗ cho gọn, đút thêm một khúc gỗ nhỏ được chẻ gọn gàng vào. Giờ là gần sáu giờ tối. Chẳng mấy nữa là đến lúc uống rượu. Mà sao không uống luôn nhỉ? “Anh có muốn. Bà Annette, quản gia của nhà Ripley, đúng lúc ấy từ bếp vào. “Xin thứ lỗi. Anh Tome, anh có muốn uống rượu luôn không, vì hai anh đã không hề uống trà?” “Có, cảm ơn bà Annette. Tôi cũng vừa mới nghĩ vậy xong. Bà mời Heloise uống rượu cùng chúng tôi luôn được không?” Tom muốn cô giải tỏa bầu không khí một chút. Trước khi đến sân bay Orly lúc ba giờ chiều để đón Reeves, anh đã dặn Heloise là anh ta muốn nói chuyện riêng với mình, nên cô đã nhẩn nha trong vườn hoặc ở lỳ trên gác cả buổi chiều. “Anh vẫn không,” Reeves nói với vẻ khẩn thiết và dồn hết hy vọng lần chót, “cân nhắc chuyện tự mình đảm nhận việc đó sao? Anh thấy đấy, anh không có liên hệ nào với thế giới đó hết, đó là điều chúng tôi muốn. Sự an toàn. Sau tất cả, số tiền chín mươi sáu nghìn đô đâu phải là tệ.” Tom lắc đầu. “Theo một cách nào đó mà nói, tôi có liên hệ với anh còn gì.” Chết tiệt, anh từng giúp Reeves Minot vài việc vặt, như là gửi những món đồ nhỏ bị ăn cắp, lấy lại đồ từ các tuýp kem đánh răng, nơi anh ta đã đút chúng vào, những vật nhỏ xíu như các cuộn vi phim chẳng hạn, được những hành khách mang theo không chút hoài nghi. “Anh nghĩ tôi có thể trốn thoát bao nhiêu phi vụ bí mật như thế này nữa? Tôi còn phải bảo vệ danh tiếng của mình, anh biết đấy.” Tom suýt phì cười khi nói ra câu này, nhưng đồng thời tim anh cũng rộn ràng với một cảm xúc rất thật. Và anh đứng thẳng hơn, ý thức sâu sắc về ngôi nhà hoa lệ mà mình đang sống, về sự tồn tại an toàn của mình hiện giờ, tròn sáu tháng sau sự vụ Derwatt, suýt nữa đã trở thành một thảm kịch. Nhưng anh đã thoát được, chẳng phải chịu hậu quả gì ngoài chút hoài nghi quấn thân. Đi trên làn băng mỏng, đúng thế, nhưng mặt băng chưa vỡ. Tom đã tháp tùng thanh tra người Anh Webster và vài chuyên gia pháp y tới khu rừng ở Salzburg nơi anh đã hỏa thiêu cái xác của người được xem là họa sĩ Derwatt. Cảnh sát cũng hỏi vì sao anh lại đập nát sọ người. Tom vẫn nhăn nhó khi nghĩ lại, vì anh đã làm vậy để cố gắng rải rác và che giấu hàm răng trên. Hàm răng dưới dễ dàng bung ra, và Tom đã chôn nó ở cách đó một đoạn. Nhưng hàm răng trên... Vài chiếc răng đã được một chuyên gia pháp y thu thập lại, nhưng hoàn toàn không có hồ sơ nha khoa của Derwatt từ bất kỳ một nha sĩ nào ở Luân Đôn hết, Derwatt đã sống (như người ta nghĩ) ở Mexico suốt sáu năm trước đó. “Lúc ấy nó có vẻ là một phần của công tác hỏa táng, việc phải làm để giúp anh ấy biến thành tro bụi,” Tom đã trả lời họ như vậy. Cái xác bị đốt thực ra là xác của Bernard. Đúng thế, Tom vẫn thấy rùng mình trước sự nguy hiểm trong thời khắc ấy cũng như hành động đáng kinh sợ của anh, thả một tảng đá lớn xuống cái sọ đã cháy đen. Nhưng ít nhất anh không hề giết Bernard. Bernard Tufts đã tự tử. Tom nói, “Chắc chắn là trong số những người mà anh quen thì anh có thể tìm được một người làm việc đó chứ.” “Đúng thế, vậy nhưng họ đều có liên hệ với tôi - nhiều hơn anh. À, những người mà tôi quen thì đều khá tai tiếng,” Reeves nói với giọng đượm vẻ đầu hàng buồn bã. “Anh quen rất nhiều người đáng kính, Tom, những người thật sự trong sạch, những người không thể chê trách.” Tom bật cười. “Anh định dụ dỗ những người như thế bằng cách nào hả? Thỉnh thoảng tôi lại nghĩ anh mất trí rồi đấy, Reeves.” “Không! Anh hiểu ý tôi mà. Một người chịu làm vì tiền, chỉ cần tiền mà thôi. Họ không nhất thiết phải là chuyên gia. Chúng tôi sẽ chuẩn bị chu đáo. Nó sẽ giống như... một vụ mưu sát công cộng. Một ai đó mà nếu bị thẩm vấn thì trông anh ta sẽ... hoàn toàn không có khả năng gây ra hành động đó.” Bà Annette đẩy xe chở rượu vào. Xô đá bạc bóng loáng. Chiếc xe đẩy kêu lọc xọc. Tom đã định tra dầu cho nó mấy tuần nay rồi. Anh có thể giễu cợt Reeves tiếp vì bà Annette, Chúa phù hộ linh hồn bà ta, không hiểu tiếng Anh, nhưng Tom đã chán ngán chủ đề này rồi và thậm chí còn thấy sung sướng khi bà Annette cắt ngang. Bà ta tầm sáu mươi tuổi, gốc Normandy, đường nét đẹp và cơ thể rắn rỏi, một viên ngọc quý trong số những người hầu. Tom không thể tưởng tượng ra Belle Ombre vận hành mà thiếu bà ta. Mời các bạn đón đọc Trò Chơi Của Ripley của tác giả Patricia Highsmith & Nguyễn Mai Trang (dịch).
Bùn Nhơ Trên Tuyết
Bùn nhơ trên tuyết Tác giả: Georges Simenon Người dịch: Lê Văn & Vân Phong Nhà xuất bản Thuận Hóa Năm xuất bản 1988   Nhà văn Georges Simenon sinh ngày 13.2.1903 mất ngày 4.9.1989. Năm 16 tuổi, Simenon là chàng phóng viên trẻ viết tin vắn cho tờ La Gazette de Liège. Mỗi ngày, ông đạp xe đến các bót cảnh sát, nhà băng, sở cứu hỏa, những cuộc thi thể thao để lấy tin cho báo. Năm 1922, ông tới Paris hoa lệ. Tiểu thuyết đầu tay Trên Chiếc Cầu Vòm Cung được xuất bản tại Liège (Bỉ) với bút danh Georges Sun. Nhưng sự thành công chưa vội đến với cây bút trẻ có hàng chục bút danh khác nhau này (Jean du Perry, Gom Gut, Christian Brull...). Mười năm miệt mài viết như người lao động khổ sai giúp ông thành thạo trong “tốc độ” sáng tác. Đây chính là thế mạnh của tác giả “bậc thầy trinh thám” sau này. “Suốt thời kỳ 1928-1931, ông chỉ viết những tác phẩm về Maigret, trung bình mỗi tháng một cuốn”, ông nổi tiếng như cồn khi tiểu thuyết trinh thám Con Chó Vàng (Le chien jaune, 1931) được xuất bản, với tên thật Georges Simenon. 11 tác phẩm in năm đó thì 10 cuốn là tiểu thuyết với nhân vật sáng tạo Thanh tra Maigret. Một đời văn với hơn 300 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp đã được xuất bản, người ta không khỏi thán phục năng lực sáng tác bền bỉ và trí tưởng tượng phong phú của nhà văn Georges Simenon. Bậc thầy tiểu thuyết trình thám thật sự chinh phục hàng triệu người đọc tại nhiều nước trên thế giới. Hơn 80 tiểu thuyết Thanh tra Maigret không nằm trong thể loại truyện hình sự tầm thường. Giá trị văn học của tác phẩm đã được các nhà phê bình nhìn nhận. Sau ngày ông mất, Đại học Liège ở Bỉ đã thành lập Trung tâm nghiên cứu Georges Simenon và đã xuất bản các tác phẩm nghiên cứu về ông. Cho đến nay, chưa có nhà xuất bản nào tại Pháp in toàn bộ tác phẩm của Georges Simenon. Mới đây, các tiểu thuyết của ông được Nhà xuất bản Ommious in thành 25 tập Tất cả Simenon nhưng chưa đầy đủ. Còn ở Việt Nam mới chỉ có khoảng chục cuốn thuộc thể loại trinh thám hình sự của Georges Simenon. Không học cao, không đọc nhiều, không quan hệ rộng và cũng chẳng mấy khi đi đâu xa, thế nhưng Georges Simenon lại lập kỷ lục về số sách bán được và làm giàu nhờ những tác phẩm được chuyển thể điện ảnh. Bị một số người xem thường suốt thời gian dài, nhà văn viết nhiều và viết nhanh này lại được những đồng nghiệp danh tiếng như André Gide, Henry Miller hết mực kính trọng. Làm thế nào một người rời trường học từ lúc 15 tuổi và thừa nhận mình chưa bao giờ đọc những tác phẩm văn học cổ điển lại trở thành nhà văn viết tiếng Pháp có nhiều người đọc nhất và có tác phẩm được dịch nhiều nhất trên thế giới? Văn phong của Georges Simenon không có gì đặc biệt, không hoa mỹ và không có những hình ảnh ấn tượng. Vốn từ vựng của ông cũng rất hạn chế. Tiểu thuyết của ông không có nhiều yếu tố lịch sử hay triết học. Mọi nhân vật trong truyện đều thuộc tầng lớp trung lưu, có cuộc sống bình lặng, những thị dân tiểu tư sản, chung thủy với vợ, ít ngao du, không tham vọng, không chính kiến rõ rệt. Thế mà không khí trong tiểu thuyết của ông khiến người đọc phải nhớ mãi. Trong 60 năm cầm bút, Georges Simenon trải qua nhiều trào lưu văn nghệ; chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa Marx và Tiểu thuyết mới, nhưng không trào lưu nào ảnh hưởng nơi ông. Để hiểu được phần nào bí quyết thành công của Georges Simenon, có lẽ cần trở lại thời thơ ấu của ông. Gia đình sống quanh quẩn trong thành phố quê hương, chẳng mấy khi đi đâu xa. Để thay đổi số phận, năm 16 tuổi, Georges Simenon đến Paris. Vì sinh kế, chàng thanh niên trẻ làm đủ mọi công việc liên quan đến viết lách. Con người rất ít khi đọc sách ấy lại có một năng khiếu đặc biệt: Có thể cùng lúc là thư ký, nhà báo, nhà văn, và viết rất nhanh. Khi một nhà xuất bản yêu cầu một cuốn tiểu thuyết, câu hỏi đầu tiên của Georges Simenon luôn là: “Ông muốn có sách vào thứ sáu này hay tuần tới?” Ông viết nhiều và nhanh đến nỗi khi chưa đến 25 tuổi đã có rất nhiều bút danh. Tất cả các tác giả từng viết tiểu sử Georges Simenon đều nhận định: Để viết cuốn tiểu thuyết “Maigret” (tên vị thanh tra, nhân vật chính trong tiểu thuyết của Simenon), nhà văn chỉ cần 6 ngày và chỉ mất 9 ngày cho những tác phẩm khác mà ông gọi là “tiểu thuyết hắc” (romans durs). Cách viết nhanh như vậy giúp ông đạt được những thành công đầu tiên. Pietr le Letton (1931) là cuốn truyện mở đầu loạt truyện Maigret. Trong vòng hai năm, ông viết hơn 20 tiểu thuyết, đem lại lợi nhuận lớn lao cho nhà xuất bản Fayard. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng, Maigret et monsieur Charles (Maigret và ông Charles) được xuất bản năm 1972. Những cuộc phiêu lưu của thanh tra Maigret trải dài trên 75 tiểu thuyết (với khoảng chừng 10 năm), mà nhân vật chính không già đi, trán không gợn một nếp nhăn. Từ tác phẩm đầu tiên cho đến tác phẩm cuối cùng, thanh tra Maigret vẫn ở tuổi 50. Các nhà nghiên cứu nhận thấy tên Georges Simenon được ký trên hơn 200 cuốn tiểu thuyết và ông cũng viết ngần ấy tiểu thuyết với những bút danh khác (40 bút danh) và gần 1.000 truyện ngắn. Les fiançailles de monsieur Hire (Lễ Đính Hôn Của Ông Hire) và Le Chien Jaune (Con Chó Vàng) là những tác phẩm củng cố danh tiếng của ông. Những trí thức ở Paris không muốn nhắc đến “kẻ xa lạ” trốn tránh kinh đô Ánh sáng và xem thường những nghi thức của xã hội thượng lưu. Nhiều người phê phán Georges Simenon không có văn phong. Ngoại trừ nhà văn Pháp André Gide và nhà văn Mỹ Henry Miller, Georges Simenon không giao tiếp với ai nên bị giới văn học cho “ra rìa”. Ông cũng giữ thái độ mập mờ, không cộng tác với ai, cũng chẳng phản kháng ai. Khi nước Pháp thoát khỏi sự chiếm đóng của phát xít Đức, cũng như nhiều nhà văn khác, Georges Simenon bị buộc nhiều tội, trong đó hai tội chính: Ký hợp đồng với một nhà sản xuất phim người Đức để chuyển thể 9 cuốn tiểu thuyết của ông và Christian Simenon, em trai ông, ủng hộ phong trào chống chế độ đại nghị ở Bỉ, bị kết án tử hình vắng mặt. Năm 1945, Georges Simenon rời châu Âu sang Mỹ, lưu lại đây 10 năm. Nhưng ở nơi sống mới, “nỗi ám ảnh viết lách” không hề dịu đi. Trái lại, trí tưởng tượng của ông càng thêm phong phú nhờ những chuyến phiêu lưu khám phá kinh đô điện ảnh Hollywood. Lúc này ở châu Âu, những lời lên án ông hợp tác với phát xít Đức đã nhạt đi. Georges Simenon sang Thụy Sĩ, sống trong một dinh thự mênh mông ở Epalinges, cách Lausanne 10km. Ông đã là một ngôi sao. Người tra tranh nhau đăng tiểu thuyết của ông trên các báo và chuyển thể thành phim. Từ La nuit du carrefour (1932) đến Monsieur Hire (1989), tổng cộng 56 tiểu thuyết chuyển thể. Thêm một kỷ lục nữa: Georges Simenon trở nên giàu có nhờ số sách bán được và những bộ phim. Thoạt đầu, danh tiếng làm ông thích thú, nhưng rồi ông thấy chán ngán: “Tôi bán bản quyền và chẳng quan tâm nữa. Thậm chí tôi còn không đi xem phim”. Ở Epalinges, cuộc sống của ông rất bình lặng. Ông ít giao tiếp, dành toàn bộ thời gian để viết, đi dạo hai lần mỗi ngày, mỗi tháng gửi một bản thảo cho nhà xuất bản. Cuộc sống cứ thế trôi đi cho đến năm 1972, ông hầu như ngưng viết. Trước khi qua đời năm 1989, ông cho xuất bản 20 tác phẩm tự truyện. Sách của Georges Simenon được dịch sang 50 thứ tiếng. Trong bảng xếp hạng các sách được dịch nhiều nhất trên thế giới, sách của Georges Simenon và Agatha Christie chỉ xếp sau Kinh Thánh và các tác phẩm của Karl Marx. Cùng với việc viết lách, phụ nữ là mối quan tâm lớn của đời ông. Có nhiều lời đồn đoán về “năng lực tình ái” phi thường của Georges Simenon. Ông từng khoe đã yêu 10.000 phụ nữ. Denyse, người vợ thứ hai, cho biết lúc tuổi xế bóng, Georges Simenon vẫn chăn gối 3 lần mỗi ngày. Bà bếp tiết lộ đã dan díu với ông chủ Georges Simenon trong một thời gian dài, và trong lúc đi dạo, cha đẻ của Maigret lại tìm quên trong vòng tay của một cô gái làng chơi. Sinh hoạt tình dục sôi nổi ấy lại không để lại một dấu vết nào trong tác phẩm của Georges Simenon. Bà Maigret là một phụ nữ tiểu tư sản, mờ nhạt và lệ thuộc, luôn ngưỡng mộ chồng. Điểm này cũng là một bí ẩn của Georges Simenon. Ông kết hôn lần đầu tiên năm 19 tuổi với Tigy, có một con trai tên Marc. Marc kết hôn với nữ diễn viên nổi tiếng Mylène Demongeot, Georges Simenon cũng có quan hệ tình ái với ngôi sao nhạc kịch Joséphine Baker và suýt ly hôn với Tigy. Năm 1945, Georges Simenon gặp Denyse Ouimet, thoạt đầu là thư ký của ông, rồi trở thành người tình, người vợ, Georges Simenon và Denyse có 3 con: John, Mary và Pierre. Mời các bạn đón đọc Bùn Nhơ Trên Tuyết của tác giả Georges Simenon.
Kẻ Gây Hấn
XIN MỜI QUÝ BẠN ĐỌC THỬ NGAY CUỐN SÁCH NÀY ĐỂ ĐƯỢC SỐNG HAI GIỜ TUYỆT THÚ CHƯA TỪNG CÓ, NHƯ CẦM TRÊN TAY MỘT QUẢ BOM NỔ CHẬM Nguyên tác “Le Provocateur” của Maurice Ellabert Bồ Giang dịch thuật Tác phẩm thứ 1 của TỦ SÁCH BỒ-GIANG In lần thứ nhất: Tháng 4-1974   LỜI TỰ GIỚI THIỆU CỦA TỦ SÁCH BỒ-GIANG Để giúp Quý Bạn thuộc mọi giới công tư chức, quân nhân, sinh viên và học sinh một vài giờ giải trí đầy những bất ngờ vừa kinh hoàng vừa lý thú, chúng tôi xin gửi đến Quý Bạn Tủ Sách Bồ Giang mà tác phẩm đâu tiên là “KẺ GÂY HẤN” của Maurice Ellabert, tác phẩm đã đoạt Giải Thưởng Tiểu Thuyết Phiêu Lưu Hay Nhất Năm 1967 tại Pháp. Sau đó, Tủ Sách Bồ-Giang sẽ lần lượt phát hành những tác phầm lừng danh khác đã từng chiếm những giải thưởng đặc biệt trong lãnh vực văn chương trinh thám và khoa học giả tưởng trên khắp thế giới như: ♦ Giải Thưởng Edgar của Hiệp Hội Các Nhà Văn Bí Mật Mỹ Châu: ♦ Giải Thưởng Nebula và Hugo của Hiệp Hội Các Nhà Văn Khoa Học Giả Tưởng Mỹ Châu. ♦ Các Giải Thưởng Quai des Orfèvres. Tiểu Thuyết Phiêu Lưu Hay Nhất Năm, Tiểu Thuyết Trinh Tham Hay Nhất Năm, ♦ Giải Thưởng Văn Chương Trinh Thám tại Pháp ♦ Các Giải Thưởng Văn Chương Trinh Thám khác tại Anh, Bắc Âu... Bên cạnh đó, còn có những tác phẩm kỳ tuyệt khác tuy không chiếm giải thưởng nào nhưng vẫn sôi động không kém, sẽ khiến cho độc giả mỗi khi cầm lên tay là phải đọc một hơi từ đầu đến cuối. Đó là trường hợp của TUẦN TRĂNG MẬT THẢM KHỐC của Lawrence Block, tác phẩm thứ 2 trong Tủ Sách Bồ Giang sẽ phát hành vào đầu tháng sau. Trong giai đoạn đầu tiên, Tủ Sách Bồ Giang sẽ xuất bản mỗi tháng một cuốn. Về sau nếu hoàn cảnh thuận tiện hơn chúng tôi sẽ xuất bản mỗi tháng hai cuốn hoặc nhiều hơn. Muốn vậy, trong trường hợp Quý Bạn vừa ý với tác phẩm đầu tiên này của Tủ Sách Bồ Giang, chúng tôi ước mong Quý Bạn giúp chúng tôi một việc mọn: Giới thiệu cuốn sách này với hai người bạn thân cùng sở thích mê đọc sách, nhất là loại kinh dị. Được như thế, Tủ Sách Bồ-Giang mới có hy vọng sống còn trong giai đoạn cực kỳ khó khăn này và sẽ tiếp tục phục vụ tận tình với Quý Bạn trong những tác phẩm khác càng ngày càng thêm hấp dẩn từ hình thức đến nội dung. Chúng tôi xin thành khẩn ghi ơn Quý Bạn. Gia định, ngày 11-4-1974 BỒ GIANG và Nhóm Bằng Hữu *** CHƯƠNG 1 Người chủ khách sạn của tôi đang chăm chú làm việc tựa hồ cố tính toán để dùng số tiền dành dụm mua lại nhà hàng Ritz hoặc Crillon. Tuy nhiên ông ta vẫn ngẩng đầu lên khi tôi đi qua và cất tiếng gọi tôi: - Ông Charmoy! Sáng nay có người đến thăm dò tôi về ông. Tôi quay bước trở lui, có vẻ thú vị. - Một ký giả chứ gì? - Chắc không phải. Một người muốn biết rõ tư cách của ông. Tôi liền bảo: - Tôi hết lòng tin cậy ở ông. Vì thanh danh khách sạn của ông, lẽ ra ông nên nhờ một tên giết mướn thanh toán bọn nghèo đói như tôi. - Ông ta cũng đặc biệt lưu ý đến hoạt động kịch nghệ của ông. - Chắc ông đã hết lời khai ra rằng hiện giờ tôi vô cùng nhàn rỗi? Viên chủ khách sạn cằn nhằn: - Đâu có phải vì tôi mà lúc này ông không có việc làm? Người đó đã hỏi tôi hiện giờ ông có bận tập một vở kịch gì hay đang quay một cuốn phim nào không. Tôi đã ngầm nói cho ông ta hiểu rằng ông không đến nỗi bận rộn lắm. - Như thế thì kỳ lạ thật. Không lẽ ông ta đi thăm dò để lập gánh hát? - Ông sẽ hiểu rõ nếu người ta đề nghị với ông một giao kèo đóng phim với Brigitte Bardot. Tôi trở về phòng và cố suy đoán nguyên do chính xác về vụ xâm phạm đời tư của tôi một cách kỳ lạ này. Giả thuyết cho rằng đây là một cuộc điều tra để tìm diễn viên sân khấu hoặc màn ảnh tôi thấy không hẳn là vô lý. Thật tình tôi có một bản chất lạc quan và tôi sẵn sàng đón nhận những thất vọng của cuộc đời với tất cả bình tĩnh, kể từ khi ban giám khảo Trường Quốc Gia Kịch Nghệ cấp cho tôi một giấy ban khen, đúng với lời ông thầy tử vi đã tiên đoán tôi sẽ đoạt Giải Nhất về ngành hài kịch. Tôi đã để lại hình và địa chỉ cho khá nhiều nhà sản xuất điện ảnh và các vị giám đốc đoàn ca kịch nên rất có thể một người nào đó vì không tin, vì thận trọng hoặc vì theo một thủ tục bắt buộc, đã đi thăm dò kỹ về tôi trước khi ký hợp đồng với tôi. Tôi ngủ thiếp đi với những nhận định này. Ngày hôm sau, những tư tưởng đó bỗng trở về trong tâm trí tôi khi tôi nghe nói có ai điện thoại. Tôi vội vàng chạy xuống chiếc tủ được ngụy trang thành một buồng điện thoại. Tôi nói vào máy bằng một giọng ung dung của kẻ không chờ một ai cả. - Tôi là Pierre Charmoy, đang nghe đây. - Tôi muốn nhờ ông giúp một việc. Tôi không hy vọng lạc quan của mình thành sự thật một cách nhanh chóng như thế. Tôi bảo: - Mình sẽ cùng nhau bàn tính. Xin lỗi ông là ai? Người ở đầu dây đằng kia trả lời ngay: - Ông dù có biết cũng không lợi gì. Vì vậy xin ông cho tôi được giấu danh tánh, Tôi chưa kip trình bày nỗi kinh ngạc của tôi thì người kia lại tiếp: - Vì lẽ nghề nghiệp của ông là đóng những vở kịch vui, tôi muốn đem đến cho ông một vai trò đặc biệt và hết sức bất ngờ. Đây không phải là một màn trên sân khấu mà ở ngoài đường phố. Tôi xin giải thích: ông hãy đến lưu ngụ trong một đô thị nhỏ, suốt ngày hãy xuất hiện quan sát thiên hạ và giả vờ tò mò muốn tìm hiểu các hành vi và cử chỉ của họ để làm cho họ phải khó chịu, phải tức tối. Tôi hy vọng ông sẽ đóng được vai trò này. Biết chắc mình đang bị một kẻ vô danh đùa cợt, tôi trả lời: - Đó chỉ là trò trẻ con. Người kia vẫn tiếp lời: - Có lẽ ông đã hiểu vì sao tôi bày trò lừa phỉnh này? Tôi thú thật không được hiểu rõ bao nhiêu. Y liền trình bày rõ: - Lý do rất đơn giản. Tôi có một mối ác cảm với dân chúng trong vùng đó. Tôi tưởng có thể làm thế cho bõ ghét, một lối trả thù mà chắc ông cũng công nhận là không lấy gì làm ác độc, nhưng không kém phần khôi hài. Tôi tiếp: - Như mọi soạn giả khác, ông không được khiêm tốn mấy. Và để trình diễn tác phẩm của ông, ông sẽ trả cho tôi bao nhiêu? - Tùy theo điều kiện của ông. Ông muốn bao nhiêu cũng được. Câu trả lời quả quyết làm cho tôi sửng sốt mất một lúc lâu mới nói đại một con số: - Một ngàn quan mỗi tuần chưa kể mọi chi phí. Người kia im lặng một lát. Tôi vội vàng nói tiếp: - Đó là giá lương hiện lại của tôi. Lẽ tất nhiên vì đây là trường hợp đặc biệt tôi phải đầu cơ lên giá chút đỉnh. Nếu ông không quyết định ngay, không chừng tôi còn lên giá cao hơn nữa. Gã đối thoại nặc danh đề nghị: - Tổng cộng một ngàn quan. Các chi phí của ông chắc sẽ không nhiều lắm đâu. Ông đồng ý chứ? Tôi la lớn: - Ồ! Đâu có gấp như thế được! Ông phải cho tôi biết rõ các chi tiết đã chứ. Trước hết là thời gian trình diễn? - Ít ra cũng một tuần. Có lẽ hai. - Nơi nào? - Gần Nancy...Foncourt. Lại im lặng một lát, rồi người kia hỏi: - Cái tên đó làm ông nhớ tới chuyện gì hay sao? Tôi bảo: - Thủy tinh. - Đúng thế. Đó là xứ sở sản xuất nhiều loại thủy tinh nổi tiếng, ông có quen biết người nào ở nơi đó không? - Không. - Càng hay. Như vậy càng đỡ rắc rối. Tôi sẽ trả tiền trước. Ông có thể đi ngay được chứ? Tuy đã quyết định chấp thuận mọi điều kiện về tiền thù lao và thời hạn, tôi vẫn không muốn tỏ ra mình đã chấp thuận một cách gấp rút tố cáo rằng mình đang túng tiền. Tôi liền trả lời: - Tôi đâu đã nói với ông rằng tôi bằng lòng. Nói trắng ra, vai trò do ông đề nghị là một trò hề! Đó không phải kịch nghệ mà chính là làm xiếc. Nói như thế vẫn còn chưa được đúng. Phải bảo là trò múa rối. Vì vậy, tôi do dự. Tôi không muốn giảm giá cũng như làm ô danh nghệ thuật... Y cắt ngang mục khôi hài của tôi bằng một tiếng cười nhạt xấc láo: - Với một ngàn quan mỗi tuần, ông nên dẹp quách cái luận điệu đó đi. Tôi vẫn còn cãi bướng, viện lý do nhiều vận động quan trọng đòi hỏi sự hiện diện của tôi ở Paris và tôi lại hỏi y: - Người đã đến đây hôm thứ bảy để hỏi thăm viên chủ khách sạn có phải là nhân viên của ông? Y trả lời: - Những điều thuận tiện mà tôi được biết về ông trên lãnh vực nghề nghiệp cần phải được nhiều chi tiết khác bổ khuyết cho hoàn toàn đầy đủ. Thế nào mình cùng nhau thỏa thuận chứ? - Mình sẽ thỏa thuận khi tôi đã nhận được tiền. - Ông sẽ nhận tiền vào ngày mai. Tôi bỏ tiền vào phong bì gửi ngay tức khắc cho ông. Ông hãy đến Foncourt dùng cơm tối và đi tới Khách Sạn Thương Mãi. Ông cứ ghi tên thật vào sổ và cho biết nghề nghiệp của ông. Phần còn lại, tôi để cho ông tùy nghi hành động. Lúc này, tôi không còn nghi ngờ thiện ý của kẻ đã điện thoại với tôi và sự việc y muốn giữ kín danh tánh đã xác nhận điều tôi suy nghĩ. Y lại còn nhấn mạnh sự kiện tôi không được tiết lộ lý do thái độ của tôi khi đã đến Foncourt và cũng không được cho bất cứ một ai trong đám bạn bè thân thuộc hay biết sứ mạng dị thường này. Rồi y xác định với tôi một cuộc điện đàm tại chỗ cũ, vào ngày thứ ha tuần tới; đúng mười hai giờ trưa, và y gác máy. Tối đến, ở tiệm ăn, tôi không bỏ qua một chi tiết nào trong lúc kể lại cho Sylvie nghe vụ đề nghị không mấy bình thường đó. Nàng quả quyết bảo: - Gã đó phải tồi tệ lắm mới nghĩ ra một cách trả thù như thế này. Nếu mang lòng thù hận với tất cả người dân trong thành phố thì chắc bởi vì y đã bị xã hội bạc đãi, vừa là một con người giàu tưởng tượng và thâm hiểm. Tôi đáp: - Dù tên tồi tệ này có những lý đo gì đi nữa, cuộc phiêu lưu vẫn khiến anh thích thú. Anh sẽ khuấy động cả một vùng đã có một không khí buồn chán từ nhiều thế kỷ nay. Sylvie đầy vẻ nghi ngờ. - Anh nhớ không được lạm dụng đó. Anh chịu hứa với em anh sẽ không dối gạt em chứ? Tôi làm mặt giận: - Em tin anh theo cái kiểu đó à? Em dám mở miệng nói với anh như thế, sau khi anh vừa tỏ hết lòng tin cậy em bằng cách kể hết câu chuyện cho em nghe, bất chấp những chỉ thị minh bạch của gã đó? Nàng vừa trả lời vừa đưa tay qua mặt bàn siết nhẹ lấy tay tôi: - Chà, sung sướng cho cho em quá! Anh không có nói gì với má anh hay sao? - Ồ! Không. Bà cụ đâu còn đủ đầu óc khôi hài để thưởng thức vụ đùa dai cỡ này. Anh sẽ tối tăm mặt mũi với những lời căn dặn phải lưu ý đề phòng và những lời trách móc về cái tính thích phiêu lưu của anh. Tôi đã giới thiệu Sylvie với má tôi. Bà có cảm tình đặc biệt với nàng, nhưng nhất thiết không chịu thừa nhận rằng một kịch sĩ - dù là kịch sĩ sáng giá đến mấy đi nữa, và tôi lại còn chưa đạt tới mức đó - có thể kết hôn với một người con gái sắp sửa thi ra trường y-khoa và có dự định mở phòng mạch ở tỉnh nhỏ. Sylvie và tôi thì trái hẳn lại, có những tư tưởng lành mạnh và hết sức thành thực: tương lai về sự phối hợp giữa đôi lứa chúng tôi không vượt qua cái bằng bác sĩ của nàng. Lúc ra tới ngưỡng cửa tiệm ăn, tôi hỏi nàng: - Em cùng về với anh? - Tối nay không được, anh à. Suốt tuần vừa qua em đã không về ngủ ở nhà trọ lấy cớ phải đi trực đêm ở bệnh viện. Anh đừng có quên bà chủ nhà của em vẫn thường báo cáo tất cả cho gia đình em hay. Em khó lòng tìm cách chạy tội. Tôi vẫn còn cố thuyết phục: - Anh sắp sửa phải xa em suốt bảy tám ngày... Sylvie chận lời: - Mình sẽ thừa thời giờ sắp đặt mọi việc cần thiết khi ngày đi của anh đã được xác định. Dù sao vẫn còn một điều chưa rõ rệt và chính điều đó quyết định việc đi hay không. Tôi chắc lưỡi. - Vấn đề tiền! Anh tin chắc ngày mai sẽ có. Tôi nói đúng. Người đưa thư sáng hôm sau đã mang đến nhà tôi một chiếc phong bì màu xám, gửi từ Nancy, bên ngoài kẻ mấy hàng chữ in rất ngay ngắn đều đặn, rõ ràng được viết bằng dụng cụ vẽ. Chiếc phong bì đựng hai tờ giấy bạc năm trăm quan. Tôi đến tìm Sylvie tại bệnh viện Cochin và chúng tôi cùng đi ăn trưa, không ngừng bàn bạc nêu ra đủ mọi giả thuyết về nhân cách và những âm mưu thực sự của người bí mật vừa gửi tiền cho tôi. Tôi đã định sẽ đóng vai trò của mình một cách trọn vẹn để chiếm được lòng tin của kẻ quái dị đang mướn tôi và kéo dài giao kèo thêm một tuần lễ thứ hai. Tôi hứa với Sylvie sẽ điện thoại về cho nàng mỗi ngày, nhưng tôi nghĩ không cần phải báo tin việc tôi đi vắng trong một thời gian ngắn cho má tôi hay. Trong phòng riêng của tôi, tôi đã cẩn thận sắp đặt các thứ hành lý trước khi đi ăn trưa. Quả nhiên ngay khi cửa vừa khóa, Sylvie đã mở cuộc tấn công "những việc cần thiết" mà nàng muốn có một bảo đảm đầu tiên cho sự trung thành của tôi trong những ngày sắp tới. Khi tôi bước lên chiếc Triumph của tôi, trễ mất hai tiếng đồng hồ so với thời khắc biểu mà tôi đã định trước trong trí, cả hai ống chân của tôi đều mềm nhũn như đã hóa thành bông gòn, và đôi mí mắt chỉ muốn sụp xuống để ngủ một giấc mê say. Tình trạng này quả thật không thích hợp với công việc lái một chiếc xe hơi kiểu thể thao. Sylvie khuyên tôi nên ngừng xe ở dọc đường để uống cà phê và mở máy thâu thanh thật lớn. Mời các bạn đón đọc Kẻ Gây Hấn của tác giả Maurice Ellabert.