Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khát Vọng Đổi Đời

Trong Khát vọng đổi đời, Stefan Zweig, bậc thầy về phân tích tâm lý con người, đã phơi bày ra những góc khuất của chủ nghĩa tư bản. Câu chuyện kể về cô gái tên là Christine, nhân viên tại một trạm bưu điện xa xôi thuộc nước Áo. Bố và anh trai đã mất trong chiến tranh, Christine sống với bà mẹ già nua bệnh tật trong một căn phòng ọp ẹp tồi tàn và ngày qua ngày làm công việc nhàm chán. Cho đến một hôm, người dì đã lưu lạc sang Mỹ 25 năm trước của Christine mời nàng đến nghỉ cùng vợ chồng họ trên dãy núi Alps thuộc Thụy Sĩ. Christine gói ghém đồ đạc tới chỗ dì Claire ở Pontresina và hoàn toàn choáng ngợp trước cảnh giàu sang phú quý nơi đây. Dì Claire đã đưa nàng bước chân vào thế giới thượng lưu hào nhoáng. Từ đây, cuộc đời nàng bước sang một trang mới với những mật ngọt cùng những giăng mắc mà nó bày ra. Khát vọng đổi đời được Stefan Zweig hoàn thành trong những năm 30 của thế kỷ XX nhưng chỉ được xuất bản 40 năm sau khi ông qua đời. *** Trong Khát vọng đổi đời, Stefan Zweig đã khám phá từng chi tiết của đời sống thường nhật với một văn phong làm rung động cả khối óc lẫn tâm hồn… Câu chuyện sầu thảm, và có lẽ là một trong những bản cáo trạng u tối nhất từng xuất hiện trong văn chương về việc sự nghèo đói hủy diệt hy vọng, niềm vui, sắc đẹp và tiếng cười như thế nào. - The Spectator (UK) Một tác phẩm vô cùng hấp dẫn cho thấy lịch sử có thể tác động lên đời sống mỗi con người như thế nào. - The Financial Times Khát vọng đổi đời táo bạo, buồn và cảm động… Với hình tượng nhân vật Christine và đặc biệt là Ferdinand, Zweig đã cho chúng ta thấy chân dung của một thế giới đang đến ngày tàn. - The Guardian … Không một tác phẩm nào của Zweig đòi đấu trực diện với di sản của Thế chiến thứ nhất với độ sâu sắc về xã hội lẫn sự chi tiết về con người như Khát vọng đổi đời… chúng ta may mắn có được cuốn sách này, không chỉ bởi nó là bức tranh đau buồn về đời sống nước Áo sau chiến tranh mà còn bởi nó rất khác các tác phẩm khác của Zweig. - William Deresiewicz, The Nationb *** Stefan Zweig sinh ra ở Viên (Áo). Cha ông lầ Moritz Zweig (1845–1926), nhà sản xuất dệt may giàu có người Do Thái; mẹ là Ida Brettauer (1854–1938), con gái một chủ ngân hàng người Do Thái. Ông là bà con của nhà văn Tiệp Khắc Egon Hostovský, người này mô tả Zweig là "một họ hàng xa"; có thuyết nói hai người là anh em họ. Không tìm thấy động lực rõ ràng, ông bỏ học sớm. Việc học của ông chỉ bắt đầu khi ông đi qua nhiều nước ở châu Âu và kết giao với nhiều nhân vật quan trọng vào thời đại của ông. Ông có nhiều chuyến đi đến Ấn Độ, châu Phi, Bắc và Trung Mỹ, cũng như Nga. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, vì lý do sức khỏe yếu, ông không phải ra mặt trận mà được làm thủ thư, phụ trách quản lý tư liệu chiến tranh. Nhưng chỉ đến khi sống một thời gian ngắn gần trận tuyến, ông mới nhận ra sự điên rồ của chiến tranh, và từ đó trở thành người cổ vũ mạnh mẽ cho hoà bình. Là một nhà văn có sức làm việc mạnh, ông đã viết nhiều tập tiểu sử (như quyển Ba bậc thầy bàn về Honoré de Balzac, Charles Dickens và Fyodor Dostoyevsky, xuất bản năm 1920), thêm truyện dài và truyện ngắn. Ông được ca ngợi là có óc phân tích tâm lý độc đáo, và có tài chắt lọc bỏ ra những tiểu tiết khiến cho những tập tiểu sử của ông đọc hấp dẫn như tiểu thuyết. Đến thập niên 1930, ông là một tác giả có tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất. Năm 1934, Adolf Hitler lên nắm quyền tại Đức, Zweig rời Áo sang Anh, ban đầu sống ở Luân Đông, đến năm 1939 chuyển đến Bath. Năm 1939 Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đức Quốc xã nhanh chóng chinh phục Tây Âu, Zweig và người vợ thứ 2 phải vượt Đại Tây Dương sang Hoa Kỳ, định cư tại Thành phố New York năm 1940. Hai người có 2 tháng làm khách của Đại học Yale ở New Haven, Connecticut, về sau thuê 1 căn nhà tại Ossining, New York. Ngày 22 tháng 8 năm 1940, Zweig và vợ di cư tới Brasil, định cư ở Petrópolis, một thị trấn miền núi có đông đảo người Đức sinh sống, cách Rio de Janeiro 68 km về hướng bắc. Tháng 2 năm 1942, trong thời gian lễ hội ở Rio de Janeiro (Brasil), vì tâm trạng cô đơn và mệt mỏi, Stefan Zweig và vợ Lotte cùng nhau tự tử. Năm 1948, truyện Bức thư của người đàn bà không quen biết đã được dựng thành phim có tựa Letter from an unknown woman, với Joan Fontaine thủ vai cô gái nhân vật chính, Howard Koch viết kịch bản và John Houseman là nhà sản xuất. Howard Koch cũng đã viết kịch bản cho phim Casablanca (1942), và John Houseman là nhà đồng sản xuất của phim "Công dân Kane" (Citizen Kane) (1941) – cả hai phim này được xếp vào nhóm 10 phim hay nhất mọi thời đại. Phim Letter from an unknown woman lấy bối cảnh là thành phố Wien vào khoảng năm 1900. Phim làm rơi lệ nhiều khán giả này nằm trong nhóm 100 phim hay nhất mọi thời đại, được Thư viện Quốc hội Mỹ xếp hạng "có ý nghĩa về mặt văn hóa," và được tuyển chọn để lưu trữ tại Cơ quan Lưu trữ Phim ảnh Quốc gia của Hoa Kỳ.   Gần đây (2005), một phim khác được thực hiện ở Trung Quốc cũng dựa trên truyện này. Năm 1968, một truyện khác được chuyển thể thành phim "24 giờ làm phụ nữ" (24 hours in a woman's life), với nữ diễn viên chính là Ingrid Bergman, cũng khá thành công. Năm 2014, Bộ phim Khách sạn Đế vương, xây dựng dựa trên cảm hứng từ các công trình ghi chép của ông với nội dung tôn vinh những "tia sáng mong manh của nền văn minh sót lại trong chốn man rợ vốn từng được biết đến là nhân đạo", ra mắt trong sự ca ngợi của các nhà phê bình phim. Bộ phim dẫn đầu danh sách đề cử giải BAFTA với 11 đề cử, nhiều hơn bất kỳ bộ phim nào khác. Nó cũng giành được Giải Quả cầu vàng cho phim ca nhạc hoặc phim hài hay nhất và chín đề cử giải Oscar, bao gồm cả giải Phim hay nhất và Đạo diễn xuất sắc nhất. Bộ phim sau đó đã giành được 4 giải Oscar cho Thiết kế sản xuất xuất sắc nhất, Nhạc phim hay nhất, Thiết kế trang phục và Hóa Trang. *** Ai đã có lần ghé vào phòng làm việc của một trạm bưu điện nông thôn nước Áo thì có thể coi như mình đã biết tất cả các trạm bưu điện khác, bởi lẽ chúng hầu như chẳng khác nhau là bao. Vẫn những đồ vật được sắp đặt, hay nói cho đúng hơn là được quy định sắp đặt theo một quy chế thống nhất, vẫn những dụng cụ có từ thời Franz Josef[1] và ở bất cứ đâu những vật dụng ấy đều mang dấu ấn của thói quan liêu nặng nề, ngay cả ở tận những xóm làng hẻo lánh vùng Tyrol băng giá cũng thế. Trong các trạm bưu điện ấy lúc nào cũng bốc lên mùi tù hãm của thuốc lá rẻ tiền và bụi giấy, những mùi vị đặc trưng cho các phòng giấy của nước Áo cổ. Các trạm bưu điện đó dù có ở nơi nào cũng đều được thiết kế giống nhau: từ tấm vách ngăn bằng gỗ với những ô cửa sổ nhỏ lắp kính chia căn phòng theo một tỷ lệ nhất định, như muốn ngăn đôi thế giới thành hai khu vực - khu vực dành cho khách hàng và cho nhân viên phục vụ. Trong khu vực dành cho mọi người chẳng có lấy một chiếc ghế hoặc những đồ dùng cần thiết dành cho khách hàng, điều ấy đã nói lên một cách rõ ràng rằng chính phủ rất ít quan tâm đến sự có mặt trong giây lát của mọi công dân trong khu vực ấy. Đồ gỗ duy nhất ở đây thường chỉ có một chiếc bàn viết phủ vải sơn dựng hờ hững vào tường. Tấm vải sơn nứt nẻ, loang lổ vết mực dù chẳng ai nhớ nổi trong cái lọ mực được bắt chặt trên mặt bàn đã bao giờ có một thứ gì, ngoài một chất lỏng lổn nhổn như cháo. Còn nếu tình cờ cạnh đấy có một chiếc bút thì chắc chắn là ngòi bút bị tòe, không thể viết được. Cơ quan ngân khố quốc gia chẳng những chỉ tiết kiệm trong các tiện nghi mà ngay cả trong hình thức cũng vậy. Kể từ khi nước Cộng hòa ra lệnh bãi bỏ các bức chân dung của Franz Josef đến nay thì vật trang trí duy nhất ở những nơi công cộng là những tấm quảng cáo lòe loẹt dán đầy trên các bức tường không quét vôi bẩn thỉu, kêu gọi mọi người đến xem các phòng triển lãm đã đóng cửa từ lâu hoặc mua vé xổ số. Còn trong một vài văn phòng khác, ít được ai ngó tới, vẫn treo những tấm áp phích hô hào mọi người mua công trái chiến tranh, với những thứ trang trí rẻ tiền như vậy lại còn kèm theo một lời yêu cầu không được hút thuốc lá và hầu như chẳng ai thèm chấp hành, sự hào phóng của quốc gia trong các văn phòng bưu điện chỉ được giới hạn có từng ấy. Tuy nhiên, ngăn của nhân viên phục vụ trông có vẻ đáng kể hơn nhiều. Tại đây, với một quy mô thích hợp, chính phủ muốn phô trương sự hùng cường của mình dưới mọi hình thức. Ở góc phòng thường đặt một chiếc két sắt chống cháy mà dựa vào những chấn song lắp trên cửa sổ ta có thể đoán được trong chiếc két ấy đôi khi có chứa những khoản tiền lớn. Trên bàn làm việc ngự trị chiếc máy điện báo bằng đồng thau sáng loáng, trông như một vật trang sức quý giá. Cạnh đấy là chiếc máy điện thoại đang yên nghỉ trên cái giá đỡ mạ kền. Hai thứ dụng cụ trên được cố tình để riêng ra trong một vị trí trang trọng như vậy bởi lẽ chúng đã nối liền cái thôn hẻo lánh này với mọi miền của đất nước bằng những dây dẫn bằng đồng. Những dụng cụ vặt vãnh còn lại của ngành bưu điện đành phải chịu cảnh lép vế: những chiếc cân và những chiếc túi đựng thư, các bảng tra cứu, những chiếc cặp giấy nhét đầy sổ sách, cuốn sổ thống kê, chiếc hộp tròn đựng tiền trả cước phí đầy tiền xu hễ cứ động vào là kêu lẻng xẻng, những quả cân, những chiếc bút chì xanh, đỏ, đen và bút chì hóa học, những chiếc kẹp giấy, cuộn giấy buộc hàng, hộp đựng xi, miếng bọt biển thấm nước, cái bàn thấm, con dao rọc giấy, lọ keo cùng với những chiếc kéo - tất cả những dụng cụ khác nhau đó đành phải chen chúc lộn xộn nơi mép bàn. Còn trong các ngăn kéo thì nhét đầy mọi thứ giấy tờ đủ loại và những biểu mẫu. Thoạt nhìn, tất cả cái đống vật dụng ấy có vẻ như được sử dụng rất hoang phí, nhưng cảm giác ấy hoàn toàn sai lầm - Nhà nước thường xuyên kiểm tra rất nghiêm ngặt từng thứ vật dụng rẻ tiền mau hỏng đó. Từ mẩu bút chì cho đến con tem rách, từ tờ giấy thấm nhàu nát cho tới mẩu xà phòng ở chỗ rửa tay, từ chiếc bóng điện chiếu sáng văn phòng cho tới chìa khóa để khóa văn phòng lại - chính phủ yêu cầu các nhân viên phục vụ phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về tất cả những tài sản quốc gia đó, cho dù chúng đã hỏng hay đang sử dụng. Bên cạnh chiếc lò sưởi bằng gang có treo một bảng đánh máy liệt kê tất cả mọi thứ vật dụng, bên dưới có đóng dấu hẳn hoi và một chữ ký loằng ngoằng. Với một sự chính xác của toán học, tất cả mọi thứ dụng cụ, kể cả những thứ rẻ tiền và không đáng kể của trang thiết bị đã được tính toán, cân nhắc để cung cấp cho từng trạm bưu điện tương ứng. Không một thứ vật dụng nào không có tên ở trong bảng lại có quyền tồn tại trong phòng làm việc, và ngược lại mỗi một dụng cụ có tên trong bảng phải luôn luôn có mặt trong phòng để bất cứ lúc nào cũng có thể sử dụng được. Chính quyền, luật lệ và thể chế đã quy định như vậy. Nghiêm khắc mà nói thì trong cái bảng liệt kê được đánh máy cẩn thận ấy cần phải ghi thêm một nhân vật nữa - đó là người nhân viên cứ sáng sáng vào đúng bảy giờ lại nhấc tấm kính ở vách ngăn ra rồi đưa toàn bộ cái thế giới vô tri vô giác ấy vào hoạt động. Người đó sẽ mở các bao thư, đóng dấu vào các bức thư, thanh toán các giấy chuyển tiền, viết hóa đơn, cân các bưu kiện, ghi chép và đánh những cái dấu bí hiểm không ai hiểu nổi lên giấy tờ bằng bút chì xanh đỏ, nhấc ống nghe lên và quay điện thoại. Nhưng có lẽ vì tế nhị mà người ta không đưa cái nhân vật vẫn thường được khách hàng gọi là nhân viên bưu điện ấy vào trong bảng liệt kê vật dụng nói trên. Tên họ của người đó đã được đăng kí trong một bộ phận khác của ban giám đốc bưu điện. Tuy nhiên cũng giống như những thứ vật dụng khác, người đó cũng nằm trong diện được kiểm tra thường xuyên. Trong căn phòng làm việc đáng tôn kính ấy hầu như không bao giờ xảy ra một sự thay đổi đáng kể nào. Những quy luật vĩnh cửu về cuộc sống và cái chết đành phải lùi bước khi đụng vào bức tường chắn của quốc gia. Xung quanh bưu điện, cây cối đâm chồi nảy lộc rồi trút lá, trẻ con lớn lên còn người già lại chết đi, những ngôi nhà cũ kỹ ọp ẹp đổ sập xuống và người ta lại xây những ngôi nhà mới, chỉ riêng cái công sở của nhà nước ấy là vẫn khoa trương sức mạnh không hề bị khuất phục bởi bất cứ điều gì. Bởi lẽ, trong cái môi trường ấy, mỗi một vật dù bị mòn hay bị mất, bị hỏng hay bị gãy, liền được các nhà chức trách yêu cầu phải thay thế ngay bằng một tiêu bản khác giống y như vậy. Chính điều đó đã chứng minh sự hơn hẳn của cơ quan nhà nước với thế giới bên ngoài đang tàn rữa. Nội dung chứa đựng bên trong có thể chỉ nhất thời nhưng hình thức thì không bao giờ thay đổi. Trên bức tường có treo một tấm lịch. Cứ mỗi ngày trôi qua, một tờ lịch lại được bóc đi. Sau một tuần mất bảy tờ, sau một tháng - ba mươi tờ. Vào ngày ba mươi mốt tháng mười hai, khi lốc lịch đã hết, người ta làm đơn xin cái mới, cũng với kích thước y như vậy, hình thức ấn loát y như vậy. Và thế là một năm mới đã bước sang nhưng tấm lịch thì vẫn như cũ. Trên bàn có một cuốn sổ kế toán với những hàng số chi chít. Khi những dãy số ở hàng bên trái vừa cộng xong, kết quả liền được đưa sang hàng bên phải và công việc tính toán lại tiếp tục, hết trang này đến trang khác. Khi trang cuối cùng được viết kín cuốn sổ cũng coi như hết, lại bắt đầu một cuốn mới, vẫn hình dạng y như thế, chiều dày y như thế, không khác chút nào so với cuốn trước. Còn tất cả mọi công việc đã kết thúc trong ngày hôm ấy thì hôm sau sẽ bắt đầu lại, tẻ nhạt, đơn điệu như chính bản thân công việc. Trên mặt bàn sẽ lại xuất hiện chính những đồ vật ấy, vẫn những tập biểu mẫu in sẵn với những cây bút chì, vẫn những chiếc kẹp giấy và những tờ phiếu ghi, lần nào công việc cũng có vẻ như mới nhưng thực ra vẫn như cũ. Không có chuyện gì thay đổi hoặc thêm vào trong cái thế giới do nhà nước quản lý này. Cuộc sống cứ thế lặp đi lặp lại, không chút sinh khí, nói cho đúng hơn là sự chết dần chết mòn ấy không bao giờ chấm dứt. Điều duy nhất khác nhau giữa những đồ vật là nhịp độ hao mòn và khả năng phục hồi của chúng, nhưng điều đó hoàn toàn không phụ thuộc vào bản thân đồ vật. Chiếc bút chì chỉ tồn tại trong một tuần và sau đó được thay bằng chiếc khác giống y như chiếc cũ. Cuốn sổ bưu điện sống được một tháng, chiếc bóng điện - ba tháng, còn tấm lịch thì một năm. Chiếc ghế mây được quy định phải dùng trong ba năm mới được thay thế còn người ngồi trên đó thì phải ngồi suốt đời - khoảng ba mươi đến ba lăm năm. Sau đó trên chiếc ghế ấy người ta sẽ bổ nhiệm một người khác, song chiếc ghế vẫn như cũ, chẳng khác gì chiếc trước. Vào năm 1926, trong trạm bưu điện Klein-Reifling nằm ở một làng nhỏ bình thường cạnh thành phố Krems và cách thủ đô Vienna khoảng hai giờ xe lửa, thứ vật dụng có thể thay thế được mà ta vẫn thường gọi là “nhân viên phục vụ” lại là một người phụ nữ. Và bởi lẽ trạm bưu điện này được xếp vào loại nhỏ, do đó người nhân viên cũng chỉ được mang tước vị “trợ lý ngành bưu điện”. Qua tấm kính của vách ngăn ta không thể nhìn rõ cô gái được, nhưng có thể thấy một khuôn mặt thiếu nữ nhìn nghiêng không có gì đặc biệt song rất dễ thương: cặp môi nhỏ, đôi má hơi nhợt nhạt, phía dưới cặp mắt có một quầng tối. Vào buổi chiều, khi cô gái bật ngọn điện sáng gắt lên, người tinh mắt có thể nhận thấy một vài nếp nhăn nhỏ trên trán và hai bên thái dương. Mặc dù vậy, bên cạnh cành miên quỳ lấp ló sau khung cửa sổ và bó hoa cơm cháy sáng nay cô vừa cắm trong chiếc lọ bằng sắt tây, cô gái vẫn là một đối tượng sinh động hơn cả giữa những vật dụng của trạm bưu điện Klein - Reifling. Và cũng dễ dàng nhận thấy cô gái ấy còn có thể tiếp tục công việc của mình ít nhất là hai mươi lăm năm nữa. Bàn tay nhỏ nhắn với những ngón tay trắng xanh kia sẽ còn phải nhấc lên đặt xuống hàng nghìn lần nữa cái tấm kính ngăn. Và hàng trăm nghìn lần nữa, mà cũng có thể là hàng triệu lần nữa, bằng những động tác máy móc, cô sẽ còn phải đặt những bức thư lên miếng đệm cao su, rồi cũng hàng nghìn lần nữa có thể hàng triệu lần nữa, đóng cái dấu bằng đồng nhem nhuốc lên những con tem. Có lẽ cái thao tác thành thạo của cánh tay cô gái sẽ ngày càng trở nên chính xác hơn, nhanh nhẹn hơn nhưng đồng thời cũng trở nên vô ý thức hơn. Hàng trăm nghìn bức thư nữa sẽ qua tay cô gái, tất nhiên những bức thư khác nhau nhưng chúng luôn luôn chỉ là những bức thư, và những con tem dẫu có khác nhau, nhưng dù sao thì đó cũng chỉ là những con tem. Những tháng ngày khác nhau sẽ trôi qua, nhưng ngày nào cũng bắt đầu từ tám giờ sáng, đến mười hai giờ trưa, từ hai giờ chiều đến sáu giờ tối, rồi năm tháng sẽ trôi qua, không chút hứng thú, không chút thay đổi vì vẫn chỉ là những công việc ấy, cứ lặp đi lặp lại mãi. Cũng có thể vào chính cái buổi trưa mùa hạ êm ả ấy, người thiếu nữ có mái tóc màu hung nhạt ngồi sau ô cửa kính đang nghĩ về tương lai của mình, mà cũng có thể nàng chỉ đang mơ mộng. Dù có thế nào thì cô gái vẫn ngồi đấy, hai cánh tay tuột khỏi mặt bàn nằm yên trên đầu gối, những ngón tay thon nhỏ, trắng xanh mệt mỏi đan vào nhau. Vào những buổi trưa tháng bảy oi nồng với bầu trời xanh nhạt như thế này, trong trạm bưu điện Klein - Reifling hầu như chẳng có việc gì làm. Công việc buổi sáng đã kết thúc, người đưa thư Hinterfellner, một người đàn ông gù lưng lúc nào cũng nhai thuốc lá đã chuyển xong những bức thư từ lâu. Từ giờ đến chiều tối sẽ chẳng có một cái công văn hoặc một mẫu hàng nào từ các nhà máy gửi đến nữa, còn người dân trong làng thì chẳng muốn hoặc chẳng có thời gian đâu mà viết thư. Những người nông dân đầu đội mũ rơm rộng vành đang vun gốc nho, đám trẻ con chân đất vẫn đang nghỉ hè thì dẫn nhau ra sông. Mảnh sân lát đá trước cửa vắng hoe bị ánh nắng mặt trời nung nóng. Giá bây giờ được ngồi ở nhà thì thật là tuyệt và cũng thật là tuyệt nếu được ngồi yên mà mơ mộng. Dưới bóng râm của cánh cửa chớp, những tờ biểu mẫu và những tấm bưu ảnh đang ngủ yên trên giá và trong hộp gỗ, chiếc máy điện báo uể oải lười biếng hắt ra ánh kim loại trong bóng tối nhờ nhờ vàng đục. Sự tĩnh lặng giống như một lớp bụi vàng dày đặc bao trùm lên tất cả mọi thứ dụng cụ trong phòng, chỉ còn lại dàn nhạc violon nhỏ xíu của đàn muỗi và của bầy ong đất là vẫn còn tiếp tục chương trình hòa nhạc buổi chiều của mình ngoài khung cửa. Vật duy nhất còn hoạt động trong căn phòng mát mẻ là quả lắc chiếc đồng hồ treo tường vỏ gỗ treo giữa hai khuôn cửa sổ. Mỗi một giây trôi qua, chiếc đồng hồ nuốt chửng một giọt thời gian. Tuy nhiên tiếng lắc đều đều yếu ớt của nó chỉ càng làm cho người ta dễ ngủ hơn là đánh thức người ta dậy. Cô gái trợ lý ngành bưu điện vẫn ngồi yên trong cái thế giới nhỏ bé của mình và uể oải thiếp đi với một cảm giác dễ chịu. Đúng ra mà nói, cô cũng định tranh thủ thêu thùa một chút. Cô đã chuẩn bị sẵn kim chỉ và một chiếc kéo nhỏ, nhưng tấm vải thêu tuột khỏi đầu gối rơi xuống đất, nhặt nó lên thì cô không đủ sức và cũng chẳng có ý định ấy. Ngửa người ra thành ghế, cô gái nhắm mắt lại thở nhè nhẹ, hoàn toàn đắm chìm trong cảm giác khoan khoái, dễ chịu vì được nghỉ ngơi. Những giây phút như vậy thật hiếm trong đời nàng. Chú thích [1] Franz Josef (1830 - 1916): hoàng đế Đế quốc Áo - Hung từ năm 1848 tới năm 1916.   Mời các bạn đón đọc Khát Vọng Đổi Đời của tác giả Stefan Zweig.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nơi Này Trời Vẫn Còn Xanh - Karen Robards
Tên eBook: Nơi này trời vẫn còn xanh (full prc, pdf, epub)  Tác giả: Karen Robards Thể loại: Tiểu thuyết, Lãng mạn, Văn học phương Tây  Dịch: Khánh Vân   Công ty phát hành: Thái Uyên  Nhà xuất bản: NXB Văn Học  Ngày xuất bản: 03/2013  Chụp pic: Phi Phi Yên Vũ  Type: Annabelle Tran Prince Ashitaka Ngọc Quế Trần Yến Ngọc Tsubaki Minamoto Claire Mimi Linh Linh Beta: Ha Huyen & Phi Phi Yên Vũ  Tạo prc: Dan Nóng Nảy   Nguồn: Hội Chăm Chỉ Làm Ebook Free   Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com  Giới thiệu tác giả   Karen Robards (sinh ngày 24/8/1954 tại Louisville, Kentucky, Hoa Kỳ) là một trong những tác giả viết tiểu thuyết lãng mạn lịch sử hay nhất theo bình chọn của New York Times, USA Today và Publishers Weekly với hơn bốn mươi tiểu thuyết đặc sắc được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Bà cũng là chủ nhân của nhiều giải thưởng có giá trị từ Romantic Times hay Affaire de Coeur. ***   Giới thiệu tác phẩm  Xinh đẹp và hấp dẫn, nàng Caroline Wetherby thường được cha dùng làm mồi nhử với mục đích lừa bịp những gã trai háo sắc trên khắp các sòng bạc nước Anh. Sau khi cha mất, nàng trốn chạy khỏi lão chủ nhà dâm ô để sang Mỹ tìm kiếm sự giúp đỡ từ chị gái. Ephraim Mathieson, một người đàn ông mạnh mẽ quyến rũ, người sở hữu trang trại to nhất vùng Saybrook, đã quyết định sẽ không bao giờ tái hôn sau cuộc hôn nhân mà chàng luôn cố gắng quên đi với chị gái của Caroline, Elizabeth đã mất hai năm trước. Sẽ thế nào nếu hai người họ, một người con gái xinh đẹp mang trong mình nỗi khiếp đảm về ái ân và một người đàn ông đầy khát vọng yêu đương nhưng thề không tái hôn gặp gỡ và yêu nhau? Họ có thể xóa nhòa ký ức để mở lòng và gây dựng một chân trời mới với tình yêu và hạnh phúc ngập tràn? *** Anh sẽ cưới em, vì anh yêu em. Caroline, hơn bất cứ ai hay bất cứ thứ gì trên đời này. Anh yêu em nhiều đến nỗi chỉ nghĩ đến chuyện đánh mất em thôi cũng khiến lòng anh ngập tràn sợ hãi. Anh yêu em nhiều đến nỗi, nếu em từ chối anh, có khi anh sẽ ngửa cổ hú lên với vầng trăng suốt quãng đời còn lại như một con sói bị điên mất. Mời các bạn đón đọc Nơi Này Trời Vẫn Còn Xanh của tác giả Karen Robards.
Chàng Công Tước Bí Ẩn - Michelle Willingham
Tên eBook: Chàng Công Tước Bí Ẩn (full prc, pdf, epub) Tác giả: Michelle Willingham Thể loại: Lãng mạn, Tiểu thuyết, Văn học phương Tây  Tên gốc: Undone by the Duke  Công ty phát hành: Bách Việt  Nhà xuất bản: NXB Lao Động  Dịch giả:  MI FLI  Kích thước: 14.5 x 20.5 cm  Số trang: 508  Ngày xuất bản: 02/2015  Giá bìa: 115.000 đ  Nguồn sách: Lam Vy   Chụp pic: Bell Jingle  Type: P1: Viễn Ảnh P2: Ngân Amber P3: Bell Jingle P4: Anh Thư P5: Lam Vy  Beta & Tạo prc: Annabelle Tran  Nguồn: Hội Chăm Chỉ Làm eBook Free  Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Giới thiệu: Jonathan - một công tước vô cùng giàu có và tài năng nhưng giàu lòng trắc ẩn, không hứng thú với những phụ nữ yêu mình chỉ vì đống tài sản. Victoria - một tiểu thư thông minh, sáng tạo, chăm chỉ, biết kiếm tiền dựa trên tài năng của bản thân và cô đã thành công trong việc tiên phong đồ nội y bằng những loại vải độc đáo, đầy quyến rũ. Tuy nhiên, nỗi ám ảnh trong quá khứ khiến cô luôn sống khép kín, không mở lòng với bất kỳ chàng trai nào và chẳng bao giờ muốn bước chân ra khỏi ngôi nhà mình đang ở. Sau một tai nạn do nhầm lẫn, Jonathan đã được Victoria cứu sống nhờ khả năng khâu vá khéo léo. Những rung động giữa hai người ngay lần đầu gặp gỡ trong tình huống đặc biệt này đã dệt nên nhiều chi tiết thú vị cùng những biến đổi tâm lý tinh tế từ dòng cảm xúc chân thực. Điều gì đang chờ họ ở phía trước khi xung quanh đầy rẫy những nguy hiểm rình rập? Và cả hai sẽ tự đấu tranh như thế nào với mâu thuẫn trong chính con người mình? *** Tác giả Michelle Willingham Tác giả đạt giải RITA năm 2010  (Giải thưởng danh giá dành cho các nhà văn lãng mạn xuất sắc nhất nước Mỹ) Michelle Willingham đã xuất bản hơn hai mươi cuốn sách và tiểu thuyết ngắn. Hiện nay, bà đang sống cùng gia đình ở Virginia. Ghé thăm trang web của bà tại www.michellewillingham.com Các tác phẩm đã được BachvietBooks giới thiệu tới độc giả: - Chàng công tước bí ẩn (XB 2015) - Bí Mật Tội Lỗi (XB 2014) Mời các bạn đón đọc Chàng Công Tước Bí Ẩn của tác giả Michelle Willingham.
Kẻ Ích Kỷ Lãng Mạn - Frédéric Beigbeder
Tên eBook: Kẻ ích kỷ lãng mạn (full prc, pdf, epub)  Tác giả: Frédéric Beigbeder Thể loại: Tiểu thuyết, Lãng mạn, Hài hước, Văn học Pháp Tên gốc: L'égoïste romantique  Dịch giả: Phùng Hồng Minh  Đơn vị xuất bản: Công ty CP Nhã Nam – NXB Văn học  Số trang: 344  Kích thước: 14x20.5 cm  Giá bìa: 80.000 VND  Ngày phát hành: 10/04/2013  Nguồn sách: Hana Lee  Chủ dự án: Tuyền mama  Type P1: Nghiêm Minh Ngoc P2: Minh Hằng P3: Hoang Phung Dang P4: Lucas Pham  Beta: Ha Huyen  Tạo prc: Anna Trinh  Nguồn: Hội Chăm Chỉ Làm Ebook Free  Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Giới thiệu tác giả:  Frédéric Beigbeder sinh năm 1965 tại Neuilly-sur-Seine trong một gia đình quý tộc lâu đời, xuất bản tiểu thuyết đầu tay, Hồi ký một thanh niên không yên ổn ở tuổi 24. Năm 1994, ông lập ra giải thưởng Prix de Flore trao cho các tác giả trẻ viết bằng tiếng Pháp. Cho đến nay, ông đã có nhiều tác phẩm được ấn hành, trong đó có những thành công lớn như tiểu thuyết Cứu với, xin lỗi hay Kẻ ích kỷ lãng mạn. Tác phẩm của Beigbeder đã được dịch sang tiếng Việt: 99 franc, Tình yêu kéo dài ba năm, Một tiểu thuyết Pháp, Cửa sổ trên Tháp Đôi. Năm 2008, ông nhận giải thưởng danh giá Renaudot cho Một tiểu thuyết Pháp. Ngoài viết tiểu thuyết và truyện ngắn, Frédéric Beigbeder còn là một nhà phê bình văn học nổi tiếng, là chuyên gia điểm sách cho các tờ tạp chí như Elle, Paris Match, Voici, Figaro Magazine... Hai tập tiểu luận văn học quan trọng nhất của ông đã được in mang tên Bản kiểm kê cuối cùng trước khi thanh lý và Bản tổng kết đầu tiên sau tận thế. Frédéric Beigbeder còn làm nhiều công việc bên ngoài văn học. Ông là một chuyên gia quảng cáo nổi tiếng, tác giả của nhiều câu slogan tồn tại trong thời gian dài, từng tổ chức rất nhiều bữa tiệc đông người; là cố vấn cho ứng cử viên Đảng Cộng sản Robert Hue trong chiến dịch tranh cử tổng thống Pháp năm 2002. Ông còn tự làm bộ phim chuyển thể từ Tình yêu kéo dài ba năm rất thành công và đang có kế hoạch thực hiện một bộ phim nữa. *** Giới thiệu tác phẩm Một kẻ ích kỷ, ưa châm chọc tàn nhẫn và chất chứa những suy nghĩ không mấy tốt đẹp, lại cũng có thể là một con người đầy rung động và đặc biệt mong manh dễ vỡ. Rất sợ đối diện với cuộc sống nhưng lại lao vào cuộc sống bằng toàn bộ sức lực, rồi sau đó loay hoay trốn tránh những câu hỏi của cuộc đời, ngần ấy mâu thuẫn làm nên con người Frédéric Beigbeder thể hiện trong Kẻ ích kỷ lãng mạn. “Tôi chỉ thích đọc, viết và làm tình. Vì thế với tôi một căn hộ nhỏ là đủ để sống, với điều kiện nó có một giá sách, một máy vi tính và một cái giường.” Và cuốn nhật ký rối bời này lóe sáng những suy tư độc đáo, sâu sắc của một trong những nhà văn thú vị nhất nước Pháp hiện nay, tiếp nối một truyền thống văn chương tâm lý huy hoàng mà đất nước này từng biết cách sản sinh không ngừng. “Điều khó khăn nhất không phải là biết được tại sao ta lại sống, mà là thoát được khỏi câu hỏi này.” *** Nhận định “Kẻ ích kỷ lãng mạn sẽ là một thành công lớn đồng thời là một tác phẩm văn học độc đáo, vô cùng hài hước.” - Nhà xuất bản Grasset  “SỰ NGHIỆP MỘT NHÀ VĂN Ở tuổi ba mươi, người ta bảo bạn thật “xuất chúng”. Ở tuổi bốn mươi, người ta bảo bạn thật “tài năng”. Ở tuổi năm mươi, người ta bảo bạn có “tài”. Ở tuổi sáu mươi, người ta bảo bạn là một người “đã từng”. Ở tuổi bảy mươi, người ta bảo bạn “còn chưa chết à?” - Trích Kẻ ích kỷ lãng mạn-   “Ai là người mà thiên hạ tưởng là tôi?” - Louis ARAGON “ ‘Nhật ký’ là gì? Là một cuốn tiểu thuyết.” - Jacques AUDIBERTI Mời các bạn đón đọc Kẻ Ích Kỷ Lãng Mạn của tác giả Frédéric Beigbeder.
Bài Ca Sư Phạm - A. X. Makarenko
Tên eBook: Bài Ca Sư Phạm (full prc, pdf, epub) Tác giả: A. X. Makarenko Thể loại: Tiểu thuyết, Kinh điển, Văn học Nga Nhà xuất bản: NXB Viện Khoa Học Năm xuất bản: 1962 Người dịch: Hướng Minh Scan sách: Chợ Sách Cũ Đánh máy:  kaoaye, sao truc, haiauLucky, lilypham, tmrquan, annie_tuongminh, lathanhvien, Lynk_xu, picicrazy, huynhnhukim, lemontree123 Soát lỗi & Tạo prc: lemontree123 Nguồn: tve-4u.org Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Giới thiệu:   Antôn Xêmiônôvich Makarenkô, nhà giáo dục học vĩ đại của Liên-xô, xuất thân từ một gia đình công nhân. Cha mẹ ông đã phải chịu mọi sự thiếu thốn để cho ông theo học. Thầy giáo của ông, Kaminxki, một nhà giáo dục tiến bộ, khuyến khích ông theo nghề dạy học. Năm 17 tuổi, ông vào ngành giáo dục, dạy học ngay ở xưởng làm việc của cha. Học trò là con công nhân. Cuộc thí nghiệm giáo dục đầu tiên trong một tập thể công nhân - ở đó sau này xuất hiện khá nhiều chiến sĩ bônsêvích - đã đóng một vai trò quan trọng trong những quan niệm sư phạm của Makarenkô. Lúc đó là năm 1905. Năm 1905, ông viết, một tiếng sấm làm rung chuyển đất nước Nga. Ông đã tham gia những cuộc mít tinh biểu tình của công nhân, thường xuyên đọc tờ báo bônsêvích "Cuộc sống mới", được biết Maxim Gorki, mê say những tác phẩm của Lênin, nhất là cuốn "Tổ chức Đảng và văn học của Đảng". Năm 1914, Makarenkô vào học ở học viên sư phạm Pôntava và bắt đầu viết văn, làm thơ. Năm 1917, tốt nghiệp sư phạm, ông trở về thành phố quê hương dạy học. "Bài ca sư phạm” là một trong những tác phẩm của Makarenkô được người đọc ham thích nhất. Tác phẩm này cũng đã được dựng thành phim. Bài ca sư phạm là gì? Đó là bài ca chiến thắng của những quan điểm giáo dục macxi - Lêninit. Đó là thành công rực rỡ của Makarenkô trong việc cải tạo hàng ngàn trẻ lưu manh, tội lỗi, biến chúng từ chỗ là "cặn bã” của xã hội trở thành những công dân tích cực của xã hội xô-viết: những người công nhân, những nhà sử học, nhà địa chất, nhà giáo dục, những kỹ sư, bác học, thầy thuốc, nghệ sĩ; nhiều người được thưởng huân chương, có người trở thành anh hùng xô-viết. Mời các bạn đón đọc Bài Ca Sư Phạm của tác giả A. X. Makarenko.