Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Dịch Lý và phương pháp luận - Quảng Đức

Cuốn sách “Dịch lý và phương pháp luận” của tác giả Quảng Đức được tóm soạn vào năm 1980 mới đầu dùng để làm tài liệu hướng dẫn các lớp Dịch học tại Việt Nam, tổ chức riêng lẻ tại Nha Trang. Thành phần tham dự đều là các tu sĩ Phật Giáo cho nên phần đầu căn bản về Âm Dương, Ngũ hành sinh khắc hầu hết đã thấu triệt, chỉ đi thêm sâu vào phần phương pháp luận đoán.

Cuốn sách “Dịch lý và phương pháp luận” của tác giả Quảng Đức được tóm soạn vào năm 1980 mới đầu dùng để làm tài liệu hướng dẫn các lớp Dịch học tại Việt Nam, tổ chức riêng lẻ tại Nha Trang. Thành phần tham dự đều là các tu sĩ Phật Giáo cho nên phần đầu căn bản về Âm Dương, Ngũ hành sinh khắc hầu hết đã thấu triệt, chỉ đi thêm sâu vào phần phương pháp luận đoán.

Tập Dịch lý và phương pháp luận đoán được tóm soạn vào năm 1980 mới đầu dùng để làm tài liệu hướng dẫn các lớp Dịch học tại Việt Nam, tổ chức riêng lẻ tại NhaTrang. Thành phần tham dự đều là các tu sĩ Phật Giáo cho nên phần đầu căn bản về Âm Dương, Ngũ hành sinh khắc hầu hết đã thấu triệt, chỉ đi thêm sâu vào phần phương pháp luận đoán. Số lượng tham dự hết sức giới hạn vì sự cấm đoán nghiêm ngặt của chính quyền. Sau khi được định cư tại Hoa Kỳ, vào đầu thu năm 1994 một số ít người Việt tại Virginia đề nghị tổ chức tiếp các lớp Dịch Học mỗi tuần vào tối thứ 5 và trọn ngày chủ nhật, các lớp tiếp theo được mở liên tục cho đến nay. Tại Hoa kỳ, các vị tham dự lớp Dịch hầu hết tuổi đời còn trẻ, đều dưới 40, đã qua chương trình đại học, trung bình là cao học; một số ít có học vị tiến sĩ. Tập Dịch lý và phương pháp luận được thêm nhiều lần sắp xếp lại cho phù hợp với trình độ người tiếp thu. Mặc dù người hướng dẫn đã qua một quá trình hơn 30 năm đọc Dịch nhưng vốn liếng hiểu biết chỉ đủ trình bày vỏn vẹn trong vòng 3 tháng. Một phần do kiến thức, am tường Dịch học của người hướng dẫn còn non, một phần do các người tham dự đã qua 5, 7 năm làm quen với Kinh Dịch và có 1 trình độ văn hóa khá vững chắc. Nội dung thuyết giảng cho các lớp Dịch học trở thành chỉ là chìa khóa để người tham dự đi vào “khu rừng mênh mông Dịch học” mà thôi. Vì Kinh Dịch vốn là 1 bộ sách quá khó như nhận định của Học giả Nguyễn Hiến Lê: “Dịch học quả là 1 khu rừng mênh mông!” (Kinh Dịch, Đạo Của Người Quân Tử). Tập sách này mới đầu viết cho các lớp Dịch đó. Hầu hết các vị đã tham dự các khóa học đều liên tục bổ sung thêm phần phương pháp luận cho nên tập sách này có thể nói là công trình tóm soạn của tập thể nhóm nghiên cứu Dịch lý vùng Hoa Thịnh Đốn. Cho dù đã đắn đo, cẩn thận, sữa chữa, bổ sung nhiều lần vẫn không tránh khỏi nhiều thiếu sót và thiển cận.

Tập Dịch lý và phương pháp luận đoán được tóm soạn vào năm 1980 mới đầu dùng để làm tài liệu hướng dẫn các lớp Dịch học tại Việt Nam, tổ chức riêng lẻ tại NhaTrang. Thành phần tham dự đều là các tu sĩ Phật Giáo cho nên phần đầu căn bản về Âm Dương, Ngũ hành sinh khắc hầu hết đã thấu triệt, chỉ đi thêm sâu vào phần phương pháp luận đoán. Số lượng tham dự hết sức giới hạn vì sự cấm đoán nghiêm ngặt của chính quyền. Sau khi được định cư tại Hoa Kỳ, vào đầu thu năm 1994 một số ít người Việt tại Virginia đề nghị tổ chức tiếp các lớp Dịch Học mỗi tuần vào tối thứ 5 và trọn ngày chủ nhật, các lớp tiếp theo được mở liên tục cho đến nay. Tại Hoa kỳ, các vị tham dự lớp Dịch hầu hết tuổi đời còn trẻ, đều dưới 40, đã qua chương trình đại học, trung bình là cao học; một số ít có học vị tiến sĩ. Tập Dịch lý và phương pháp luận được thêm nhiều lần sắp xếp lại cho phù hợp với trình độ người tiếp thu. Mặc dù người hướng dẫn đã qua một quá trình hơn 30 năm đọc Dịch nhưng vốn liếng hiểu biết chỉ đủ trình bày vỏn vẹn trong vòng 3 tháng. Một phần do kiến thức, am tường Dịch học của người hướng dẫn còn non, một phần do các người tham dự đã qua 5, 7 năm làm quen với Kinh Dịch và có 1 trình độ văn hóa khá vững chắc. Nội dung thuyết giảng cho các lớp Dịch học trở thành chỉ là chìa khóa để người tham dự đi vào “khu rừng mênh mông Dịch học” mà thôi. Vì Kinh Dịch vốn là 1 bộ sách quá khó như nhận định của Học giả Nguyễn Hiến Lê: “Dịch học quả là 1 khu rừng mênh mông!” (Kinh Dịch, Đạo Của Người Quân Tử). Tập sách này mới đầu viết cho các lớp Dịch đó. Hầu hết các vị đã tham dự các khóa học đều liên tục bổ sung thêm phần phương pháp luận cho nên tập sách này có thể nói là công trình tóm soạn của tập thể nhóm nghiên cứu Dịch lý vùng Hoa Thịnh Đốn. Cho dù đã đắn đo, cẩn thận, sữa chữa, bổ sung nhiều lần vẫn không tránh khỏi nhiều thiếu sót và thiển cận.

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

CÁC BIỂU TƯỢNG CỦA NỘI GIỚI - HAY CÁCH ĐỌC TRIẾT HỌC VỀ KINH DỊCH
Toàn bộ các chương của tiểu luận này bình giải, hoặc gần hoặc xa, một phần của cuốn Điển thư; chương đầu là sự giới thiệu chung về kết cấu của cuốn sách và cách thức vận hành của nó bắt nguồn từ các đoạn trích từ Hệ từ (Grand Connentaire) hay “Những hình thức phụ trợ - so sánh với Philastre - §1132s), đồng thời cũng là các diễn giải đầu tiên về tính tổng thể của công trình mà nó là một bộ phận của cái tổng thể đó; bốn chương tiếp theo, khi phân tích các trường hợp của các biểu tượng đặc trưng cũng như khi chuyển hoá nó, đều được đặt trong quan hệ với văn bản của các quẻ kép khác nhau được chỉ ra trong tiêu đề; ba chương cuối, kết cục, trở lại phần đầu của Hệ từ nhằm đưa ra cách đọc có tiếp liền theo một số đoạn trích: các đoạn này sẽ tạo ra chuỗi các suy tư được mở ra về tương lai và về cái nội tại. Toàn bộ các chương của tiểu luận này bình giải, hoặc gần hoặc xa, một phần của cuốn Điển thư; chương đầu là sự giới thiệu chung về kết cấu của cuốn sách và cách thức vận hành của nó bắt nguồn từ các đoạn trích từ Hệ từ (Grand Connentaire) hay “Những hình thức phụ trợ - so sánh với Philastre - §1132s), đồng thời cũng là các diễn giải đầu tiên về tính tổng thể của công trình mà nó là một bộ phận của cái tổng thể đó; bốn chương tiếp theo, khi phân tích các trường hợp của các biểu tượng đặc trưng cũng như khi chuyển hoá nó, đều được đặt trong quan hệ với văn bản của các quẻ kép khác nhau được chỉ ra trong tiêu đề; ba chương cuối, kết cục, trở lại phần đầu của Hệ từ nhằm đưa ra cách đọc có tiếp liền theo một số đoạn trích: các đoạn này sẽ tạo ra chuỗi các suy tư được mở ra về tương lai và về cái nội tại. Sự phối thuộc này trong tương quan với các văn bản điển quy không tránh khỏi việc dẫn tới những đối chiếu. Sự phối thuộc này trong tương quan với các văn bản điển quy không tránh khỏi việc dẫn tới những đối chiếu.
TÁM CHỮ HÀ-LẠC & QUỸ ĐẠO ĐỜI NGƯỜI! - XUÂN CANG
Cuốn sách “ Tám chữ hà lạc và quỹ đạo đời người ” là một trong các phương pháp Dự đoán học có nguồn gốc từ Trung Hoa có một khả năng kỳ diệu, vạch ra và dự báo những bước đường đời của một con người và chỉ dẫn cho con người những cách xử thế tối ưu để thành đạt, hoặc ít ra biết chủ động trước những bước gian truân, những hiểm hoạ không tránh được trên một quỹ đạo đời người. Cuốn sách “Tám chữ hà lạc và quỹ đạo đời người” là một trong các phương pháp Dự đoán học có nguồn gốc từ Trung Hoa có một khả năng kỳ diệu, vạch ra và dự báo những bước đường đời của một con người và chỉ dẫn cho con người những cách xử thế tối ưu để thành đạt, hoặc ít ra biết chủ động trước những bước gian truân, những hiểm hoạ không tránh được trên một quỹ đạo đời người. Tám chữ Hà Lạc là một thuật toán mà đề toán ra chỉ gồm có tám chữ thuộc Can Chi của một con người cụ thể. Thuật toán này dựa trên cơ sở những mã số Hà Lạc và 64 quẻ Kinh Dịch. Số Hà Lạc là hai hệ thống số học phản ánh những Quy luật của Trời và Đất giao hội với Quy luật sự sống Con Người. Hệ thống số Hà, còn gọi Hà Đồ do được sắp xếp thành biểu đồ và các ký hiệu biểu diễn, tương truyền là của Vua Phục Hy (4477 – 4363 trước CN) phát minh trong khi nghiên cứu trên sông Hoàng Hà. Với thuật toán này chúng ta sẽ có lời giải cho toàn bộ quỹ đạo cuộc đời của một người, từng chặng đường đời, cho tới năm, tháng, ngày, giờ.
CHỮ BÁT TRONG KINH DỊCH - BÁT TRẠCH CHÁNH TÔNG
Nói về địa lý, phần đông ai có học chữ Nho và có đọc Kinh Dịch thì mới hiểu Bát Trạch là quý báu vì sách Bát Trạch là rút một phần trong muôn phần của bộ Kinh Dịch mà làm ra. Dịch có nghĩa là thay đổi biến chuyển theo hai thể Âm và Dương (tối và sáng), do đó mà truy nguyên sự biến hoá vô cùng của vũ trụ gồm cả muôn sự vật trong đời. Nói về địa lý, phần đông ai có học chữ Nho và có đọc Kinh Dịch thì mới hiểu Bát Trạch là quý báu vì sách Bát Trạch là rút một phần trong muôn phần của bộ Kinh Dịch mà làm ra.Dịch có nghĩa là thay đổi biến chuyển theo hai thể Âm và Dương (tối và sáng), do đó mà truy nguyên sự biến hoá vô cùng của vũ trụ gồm cả muôn sự vật trong đời. Bổn sách này, tác giả lựa sẵn tuổi, tuổi nào hạp về phương hướng nào để cất nhà, theo số của Hà Đồ và Lạc Thơ trong Kinh Dịch. Nhà làm sách Bát Trạch quán thông thiên văn, rành Địa lý, am hiểu vụ trụ biến hoá, phải hiểu cả Âm Dương thuộc Ngũ Hành sanh và khắc mới làm ra được. Có lắm người biết chữ Nho và cũng có sách Bát Trạch nhưng không ai chỉ dẫn thì cũng không làm sao mà phân tách tuổi nào biết cung nào tốt hay xấu. Cuốn sách này nhằm giúp quý vị nào có cần đến cũng khỏi thắc mắc khi muốn gây dựng một ngôi nhà đúng Phương hướng theo địa lý. Cuốn sách được sắp đặt rành rẽ từ tuổi Giáp Tý cho đến Quý Hợi là 60 tuổi mà trong sách gọi là Lục Giáp. "Khắp nơi chúng ta lúc nào cũng bị nhuần thấm trong luồng tạm gọi là Vũ trụ tuyển kết hợp bằng hàng triệu vi phân tử khác nhau xuyên qua ta hằng ngày, trong suốt đời chúng ta".  (Trích trong bài tựa của Maurice de Boglie - Quyển "Les Rayons Cosmique" tác giả Le Prince Ringnet, chương 7). "Chúng ta nên khám phá ra những sự huyền vi của tạo vật có ảnh hưởng đến đời sống của chúng ta thì chúng ta rất thích chí, chẳng khác nào vị thuyền trưởng khi ra biển mà trong tay đã có sẵn chiếc Địa bàn"  (Viên Tài Hà Tấn Phát)Bổn sách này, tác giả lựa sẵn tuổi, tuổi nào hạp về phương hướng nào để cất nhà, theo số của Hà Đồ và Lạc Thơ trong Kinh Dịch.Nhà làm sách Bát Trạch quán thông thiên văn, rành Địa lý, am hiểu vụ trụ biến hoá, phải hiểu cả Âm Dương thuộc Ngũ Hành sanh và khắc mới làm ra được.Có lắm người biết chữ Nho và cũng có sách Bát Trạch nhưng không ai chỉ dẫn thì cũng không làm sao mà phân tách tuổi nào biết cung nào tốt hay xấu. Cuốn sách này nhằm giúp quý vị nào có cần đến cũng khỏi thắc mắc khi muốn gây dựng một ngôi nhà đúng Phương hướng theo địa lý. Cuốn sách được sắp đặt rành rẽ từ tuổi Giáp Tý cho đến Quý Hợi là 60 tuổi mà trong sách gọi là Lục Giáp."Khắp nơi chúng ta lúc nào cũng bị nhuần thấm trong luồng tạm gọi là Vũ trụ tuyển kết hợp bằng hàng triệu vi phân tử khác nhau xuyên qua ta hằng ngày, trong suốt đời chúng ta". "Chúng ta nên khám phá ra những sự huyền vi của tạo vật có ảnh hưởng đến đời sống của chúng ta thì chúng ta rất thích chí, chẳng khác nào vị thuyền trưởng khi ra biển mà trong tay đã có sẵn chiếc Địa bàn" 
KINH DỊCH LƯỢC GIẢI - DƯƠNG ĐÌNH KHUÊ
Chúng tôi đã may mắn mượn được quyền CHU DỊCH của cụ Phan Bội Châu tự Sào Nam, và quyển 1 CHING của Alfred Douglas. Cụ Phan thì chuyên về giảng triết lý kinh Dịch, không cho biết cách bóI Dịch, vấn đề mà Douglas đã bổ khuyết rất đầy đủ. Về ý nghĩa của mỗi quẻ và mỗi hào, cuốn của cụ Phan rất chi tiết, giải thích từng chữ từ nghĩa đen đến nghĩa bóng, và tuy đôi khi cụ cũng mở rộng sự giải thích của cổ thánh hiền bằng cái sở học của một nhà nho tân tiến (như đem các biến cố cận đại của Đông, Tây làm ví dụ), nhưng vẫn câu nệ vào văn tự của các lời đoán, truyện và hào từ, mà không tự giải thích theo những nguyên lý của Dịch mà chính cụ đã nói qua, như thuộc chất của âm dương, vị trí của mỗi hào, sự tương quan giữa các hào, v. v. Đến cuốn của A. Douglas lại còn kém xa, chỉ tóm tắt nguyên văn của kinh Dịch trong vài câu quá ngắn ngủi thành ra thiếu mạch lạc, nên càng thêm bí hiểm. Rồi chúng tôi tham khả thêm những cuốn viết về kinh Dịch của các học giả Âu-Mỹ (lulian K.Shcitkii, John Blofeld, Sam Reifler, James Legge) hy vọng tìm thấy ở đó một tia sáng của lý luận khoa học, nhưng vô ích, vì họ đều là những học giả chuyên nghiên cứu Hán tự và văn hóa Hán, chỉ có mục đích diễn tả thật trung thành nguyên lý của cổ thánh hiền Trung Hoa. Riêng chỉ có cuốn Méthode Pratique de Divination chinoise par le Yi King của Charle Canone đã viết theo lời giảng của đạo sĩ Nguyên Quang (Yuan Kuang) là bớt nô lệ vào các lời bàn của cổ thánh hiền, và giải thích mỗi quẻ và mỗi hào một cách giản dị hơn, nhưng vẫn chưa biết dùng lý luận chắc chắn để dẫn dắt lời giảng.Đó là một trong những điều thắc mắc đã vấn vương trí óc của chúng tôi sau khi đọc đi đọc lại các tài liệu tham khảo nói trên. Rồi chúng tôi nghiền ngẫm cố gắng tự mình giải quyết những thắc mắc của chính mình.Tập biên khảo này là công phu suy nghĩ trong gần ba năm. Nó không giải quyết được mọi thắc mắc, và ngay cả khi tưởng rằng đã giải quyết được cái nào, thì cũng chưa chắc là đúng. Biết vậy, nhưng chúng tôi cứ làm vì biển học mênh mông, tiến được bước nào (hoặc tưởng thế) thì cứ tiến, chứ làm sao dám có ảo vọng đạt tới chân lý tối hậu?!