Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Từ Trái Đất Đến Mặt Trăng

Khi cuộc nội chiến Hoa Kỳ gần kết thúc, những tay súng cuồng tín của Câu lạc bộ Súng ở Baltimore rất nhàn rỗi. Một ngày đẹp trời, chủ tịch Impey Barbicane đưa ra một đề xuất được chào đón một cách nhiệt tình. Đó là việc liên hệ với Mặt trăng bằng cách phóng một quả đạn khổng lồ bằng một khẩu pháo khổng lồ! Trong khi dự án đáng kinh ngạc này đang được thực hiện, một người Paris, Michel Ardan, gửi điện báo cho Barbicane: “Hãy thay thế quả đạn hình cầu bằng quả đạn hình nón. Tôi sẽ ngồi vào trong đó”... Với các nhân vật được xây dựng hoàn hảo, sự hài hước luôn hiện hữu, Từ Trái đất đến Mặt trăng là một trong những tác phẩm vĩ đại của Jules Verne, một trong những dự đoán táo bạo nhất của ông. Tác phẩm được Thanh Yên dịch từ bản dịch tiếng Anh. *** Jules Gabriel Verne sinh ngày 8 tháng 2 năm 1828 tại Pháp và được coi là cha đẻ của thể loại Khoa học viễn tưởng. Để theo đuổi việc viết văn, Jules Verne đã bỏ học luật, nghề cha ông định hướng. Cuốn tiểu thuyết đầu tay thành công Năm tuần trên khinh khí cầu (1863) đã mở đầu cho hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng về sau của Jules Verne như Cuộc Thám Hiểm Vào Lòng Đất (1864), Hai vạn dặm dưới biển (1870), 80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới (1873)… Các  tác phẩm của ông được dịch khắp nơi trên thế giới. Jules Verne mất ngày 24 tháng 3 năm 1905. Sau khi ông qua đời, nhiều tiểu thuyết chưa in của ông vẫn được tiếp tục xuất bản. - Ông là nhà văn Pháp nổi tiếng, được coi là người khai sinh ra thể loại văn học Khoa học viễn tưởng. - Tác phẩm của ông được dịch nhiều thứ ba trên thế giới và được chuyển thể thành phim nhiều lần. - Danh tiếng ấy chắc hẳn đã là đẹp đẽ lắm rồi. Tuy nhiên ông còn xứng đáng được nhiều hơn thế. Và thật không công bằng khi chúng ta kể lại lịch sử văn học của thời đại này mà không đặt tiểu thuyết gia có lẽ là có tính sáng tạo bậc nhất vào một vị thế đúng đắn. - Ông đã dùng phòng thí nghiệm và kính viễn vọng để viết tiểu thuyết phiêu lưu. Ông không chỉ ghi lại quá trình các nhà bác học tạo nên những phát minh lớn, mà còn tiên đoán chúng. Đọc những tác phẩm cùa ông, ta có thể nhận thấy những mâu thuẫn vì trong số những ý tưởng khoa học còn có những kiến phát chưa thể xác minh. Và bỗng dưng năm sau, hoặc vài năm sau, những giả thuyết mà ông đặt ra mà đôi khi thậm chí ông còn không tin, đã trở thành sự thật, một cách hoàn toàn chính xác. Những nhà bác học đã hoàn toàn đồng tình với ý tưởng của ông, hay nói cách khác, ông đã đi trước họ!.. - Trước đây, người ta vẫn đặt câu hỏi liệu khoa học thực sự có đi ngược hướng với trí tưởng tượng văn chương hay không. Các nhà triết học thì đồng tình, lules Verne chứng minh điều ngược lại qua hành động. Ông dùng chất liệu khoa học để xây dựng nên những câu chuyện hấp dẫn, những cuộc phiêu lưu lôi cuốn. *** T rong cuộc nội chiến Hoa Kỳ, hay còn gọi là cuộc chiến tranh giữa các tiểu bang (1861-1865), tại thành phố Baltimore, bang Maryland đã xuất hiện một câu lạc bộ mới và có sức ảnh hưởng ngoài mong đợi của những người sáng lập. Nó nổi lên cùng với nguồn năng lượng đến từ những tham vọng quân sự đang lớn dần giữa các nhóm chủ tàu, chủ hiệu và thợ cơ khí. Các nhà buôn thuần túy bỏ bàn tính để trở thành đại úy, đại tá và tướng lĩnh mà chưa hề có mặt dù chỉ một ngày ở Trường đào tạo West Point; thế mà, họ vẫn mau chóng sánh ngang với những kẻ đồng cấp nơi lục địa già và cũng như những kẻ kia, giành được thắng lợi nhờ các khoản chi vô tội vạ vào đạn dược, tiền bạc và con người. Nhưng lĩnh vực trong đó người Mỹ đặc biệt bỏ xa người châu Âu là khoa học chế tạo đại bác. Không phải vũ khí của họ có độ hoàn hảo cao hơn mà đơn giản chỉ là họ tạo ra các kích thước lớn hơn; lớn chưa từng thấy, thậm chí lớn tới mức xưa nay chưa từng thấy. Có người còn bạo mồm nói rằng kể cả mãi mãi về sau… Ở các khoản bắn quét, phóng, xiên, hay lia, hoặc bắn thẳng, người Anh, Pháp và Phổ chẳng có gì cần học hỏi; nhưng súng đại bác, bích kích pháo và súng cối của đám người này chỉ là thứ súng lục bỏ túi nếu so với những cỗ máy ghê gớm của pháo binh Mỹ. Sự thật này chẳng làm bất ngờ ai. Người Yankee, dù đây là theo cách gọi coi thường của người miền Nam trong thời kỳ nội chiến dành cho dân Bắc Mỹ, thì chính họ, những thợ cơ khí đầu tiên trên thế giới, là các kỹ sư – cũng như người Ý là nhạc công còn người Đức là các nhà siêu hình học bẩm sinh. Chẳng gì nghiễm nhiên hơn, thế đấy, việc nhìn họ ứng dụng tài hoa ấn tượng của mình vào khoa học chế tạo đại bác. Chứng kiến sự kỳ diệu của các loại súng Parrott, Dahlgren và Rodman, thì lục địa già với những súng Armstrong, Palliser và Beaulieu vang lừng tên tuổi một thời đã buộc phải cúi đầu trước những kình địch ở bên kia Đại Tây Dương. Giờ đây khi một người Mỹ có kế hoạch hành động, anh ta sẽ trực tiếp tìm một anh Mỹ thứ hai để bàn bạc và mời hợp tác. Nếu có ba, họ sẽ chọn ra một thủ lĩnh. Khi có bốn, họ sẽ chỉ định người quản lý hồ sơ và văn phòng sẵn sàng hoạt động. Nếu có năm, họ sẽ tiến hành mọi nghi lễ cần thiết để cho ra đời một câu lạc bộ. Chính là cái câu lạc bộ nói trên. Mọi thứ diễn ra tại Baltimore. Nhà sáng chế ra loại đại bác mới ủng hộ các thợ đúc và thợ khoan. Từ đó hình thành nên cốt lõi, nền tảng cho sự ra đời Câu lạc bộ Súng. Rồi, chỉ vẻn vẹn một tháng sau ngày thành lập, câu lạc bộ đã có tới 1.833 hội viên hợp thức và 30.565 hội viên thông tấn. Một điều kiện được coi như yếu tố tiên quyết đối với mỗi ứng viên khi gia nhập câu lạc bộ này, là phải đã hoặc đang thiết kế, hoặc (ít hay nhiều) từng hoàn thiện một khẩu đại bác; hoặc, nếu không đại bác, chí ít cũng là loại súng ngắn nào đó. Ấy thế mà, nghe nói, chỉ các tay sáng chế ra súng lục ổ quay, súng cạc bin khạc lửa và các vũ khí tương tự cỡ nhỏ, mới gặp ít soi xét nhất. Riêng lính pháo binh luôn được xếp hạng ưu trong điều khoản chiếu cố. Quy ước để tổ chức các quý ông này, theo một trong những diễn giải khoa học nhất và cũng mơ hồ nhất, của Câu lạc bộ Súng, là “tương ứng với số lượng súng của họ và tỷ lệ thuận với bình phương khoảng cách đạt được khi đạn bắn ra”. Khi Câu lạc bộ Súng được thành lập, tương lai về các thiên tài phát minh của người Mỹ thật quá dễ mường tượng. Vũ khí quân sự của họ đạt tới tầm vóc khổng lồ, còn đạn của họ, vượt mọi giới hạn quy chuẩn, thỉnh thoảng chẳng may cắt đôi vài khách bộ hành vô tội. Những sáng chế này, trên thực tế, bỏ xa các thiết bị nhút nhát của pháo binh châu Âu lại phía sau. Cũng là lẽ công bằng khi nói thêm rằng những người Yankee này, dũng cảm như họ từng thể hiện, đã không hạn chế chính mình trong các học thuyết và công thức, nhưng đã phải trả giá đắt, bằng chính bản thân, cho các sáng chế của họ. Trong số họ có đủ các cấp sĩ quan, từ trung úy tới cấp tướng; quân nhân thuộc mọi lứa tuổi, trong đó có người vừa mới gia nhập ngành vũ khí cho tới những người đã già đi cùng xe chở pháo. Phần còn lại của nhiều người được tìm thấy trên chiến trường và dòng tên viết in hoa trong Cuốn sách Danh vọng của Câu lạc bộ Súng, nhiều người khác tỏa ánh vinh quang mang theo những dấu tích của lòng dũng cảm không thể bàn cãi. Nạng đỡ, chân gỗ, tay giả, móc thép, hàm cao su, sọ bạc, mũi bạch kim, đều được tổng kết lại; và nhà thống kê xuất sắc Pitcairn tính toán rằng, suốt thời gian hoạt động của Câu lạc bộ Súng, cứ bốn người thì một thiếu đôi tay toàn vẹn và sáu người thì một không có đôi chân đủ đầy. Tuy nhiên, những pháo thủ can đảm này chẳng dành chút chú ý đặc biệt nào tới những thừa thiếu nhỏ nhoi này, mà chỉ cảm thấy niềm tự hào dâng tràn khi thông báo kết quả gửi về từ trận chiến: Con số tử vong gấp mười lần lượng đạn tiêu hao. Một ngày nọ, ấy vậy mà lại là ngày u buồn! Hòa bình được ký kết giữa những kẻ sống sót sau cuộc chiến; tiếng gầm rú của đạn pháo dần vơi, súng cối trở nên câm lặng, bích kích pháo bị bịt kín miệng trong thời gian không hạn định, đại bác, với những họng súng rầu rĩ, bị kéo vào kho… những hồi ức đẫm máu cũng lu mờ; cây bông mọc sum suê trên những cánh đồng được bón phân cẩn thận, tất cả đồ tang lễ được xếp sang một bên, cùng với nỗi đau thương; còn Câu lạc bộ Súng bị đẩy xuống trạng thái trì trệ vô thời hạn. Dăm ba nhà lý luận cấp cao thâm căn cố đế quay lại với việc sửa đổi các trù tính về luật súng đạn. Họ khăng khăng lật lại vấn đề về đạn pháo khổng lồ và bích kích pháo ngoại cỡ. Nhưng thiếu thực tiễn, mớ lý thuyết này có giá trị gì? Và như vậy, các phòng trong câu lạc bộ trở nên vắng ngắt, những người phục vụ ngủ gà gật nơi tiền sảnh, báo chí mốc meo trên bàn, tiếng ngáy vọng ra từ góc tối, còn hội viên của Câu lạc bộ Súng, khi xưa ầm ĩ trong cả phiên họp lẫn giờ giải lao, nay tụt xuống im ắng vì thứ hòa bình tai họa này và buông bỏ toàn bộ bản thân vào những giấc mơ về một nền pháo binh thuần khiết. “Thật là tệ hại!” Tom Hunter nói khi chiều tối, trong lúc đang mau chóng tôi cacbon cặp chân giả trong lò sưởi phòng hút thuốc. “Chẳng có gì để làm!” anh nói, giọng hằn học. “Chẳng có gì để trông mong! Cái loại tồn tại ghê tởm này! Đến khi nào súng ống lại đánh thức chúng ta dậy buổi sáng bằng tiếng nổ dễ chịu của nó đây?” “Những ngày đó qua rồi,” Bilsby dễ mến nói, cố duỗi đôi tay đã mất. “Đã là ngày xưa vui vẻ rồi! Một người phát minh ra súng và khó khăn lắm mới đúc ra nó, một người vội vã thử dùng để đối đầu với kẻ thù! Sau đó một người quay về doanh trại cùng lời cổ vũ của Sherman hoặc cái bắt tay thân thiện với McClellan. Nhưng giờ các tướng đều quay lại với bàn tính; và thay vì súng đạn, họ gửi đi các kiện bông. Trời ơi, tương lai ngành chế tạo đại bác của nước Mỹ tiêu rồi!” “Ây! Còn chẳng có viễn cảnh chiến tranh nào!” James T. Maston nổi tiếng tiếp lời, cào cào cái sọ nhựa kết của mình bằng bàn tay móc thép. “Chẳng có nguy cơ nào trong tương lai! Mà lại còn ở cái giai đoạn then chốt trong sự phát triển của khoa học pháo binh! Đúng thế đấy, các quý ông! Tôi, người đang nói với các bạn đây, sáng nay đã hoàn thiện một mẫu, đủ cả, gồm bố trí, mặt cắt, góc nâng, vân vân và vân vân của loại súng cối sẽ thay đổi mọi tình thế chiến trận!” “Không… không! Có thể như vậy ư?” Tom Hunter kêu lên, vô tình nhớ lại sáng chế trước kia của ngài J. T. Maston, bằng cách nào đó, trong lần thử nghiệm đầu tiên, đã tiêu diệt ba trăm ba mươi bảy tên địch. Một thành công hơn cả mơ ước. “Nhưng mà,” anh nói tiếp, “tiến hành nhiều nghiên cứu, đánh bại nhiều khó khăn thì cũng có ích lợi gì đâu? Chỉ lãng phí thời giờ! Tân Thế Giới có vẻ đã quyết tâm sống trong hòa bình; còn vị lãnh đạo hiếu chiến của chúng ta dự đoán rằng một số thảm họa sắp phát sinh từ sự gia tăng dân số tồi tệ này.” “Tuy nhiên,” đại tá Blomsberry đáp lời, “ở châu Âu họ luôn phải vật lộn để duy trì nguyên tắc của các dân tộc.” “Thì sao?” “Thôi nào, có thể là vẫn có chỗ cho lòng can đảm ở bên đó và nếu họ chấp nhận sự phục vụ của chúng ta…” “Cậu mơ mộng cái gì đấy?” Bilsby hét lên, “chế tạo đại bác vì lợi ích của lũ ngoại quốc ư?” “Thế chả hơn là vô công rỗi nghề ở đây sao?” đại tá đáp trả. “Chính xác,” J. T. Matson nói, “nhưng chúng ta không cần tính đến cái kế đó.” “Tại sao không?” đại tá gặng hỏi. “Vì quan điểm về sự tiến bộ ở Cựu Thế Giới của họ trái ngược với thói quen tư duy của người Mỹ chúng ta. Những kẻ đó tin rằng không ai có thể trở thành tướng mà ban đầu không phục vụ với vai trò người cầm cờ; thế thì chẳng khác gì nói một người không thể chĩa súng nếu không tự làm ra một khẩu súng trước đó!” “Lố lăng!” Tom Hunter vừa nói vừa gọt đẽo tay ghế bành bằng một lưỡi mác, “nhưng nếu như vậy, tất cả những gì còn lại cho chúng ta chỉ là trồng thuốc lá và chưng dầu cá voi.” “Gì đây!” J. T. Maston gầm lên, “Sao chúng ta không tận dụng những năm còn lại của đời mình để hoàn thiện loại súng cầm tay? Chẳng lẽ không bao giờ có cơ hội tử tế để thử tầm đạn à? Chẳng lẽ ánh chói ngời từ súng của chúng ta sẽ không bao giờ làm bừng sáng không gian nữa à? Không có mâu thuẫn quốc tế nào nảy sinh để chúng ta tuyên bố chiến tranh chống lại các thế lực bên kia Đại Tây Dương hay sao? Chẳng lẽ không người Pháp nào đánh chìm tàu hơi nước của chúng ta, hay người Anh, bất chấp quyền lợi giữa hai dân tộc, treo cổ vài đồng hương của chúng ta hay sao?” “Không may mắn thế đâu,” đại tá Blomsberry đáp, “chẳng cái gì tương tự có khả năng xảy ra đâu, mà dù có, chúng ta cũng chả lợi dụng được gì từ nó. Tính nhạy cảm của người Mỹ đang sụt giảm mau chóng, rồi tất cả chúng ta đều sẽ lụn bại.” “Quá đúng,” J. T. Maston trả lời với giọng giận dữ chưa tan, “Có hàng ngàn chiến trường để chiến đấu, nhưng chúng ta không chiến đấu. Chúng ta hy sinh tay chân cho lợi ích của các dân tộc – những kẻ không biết phải làm gì với chúng! Nhưng khoan – khỏi tốn công tìm động cơ chiến tranh – chẳng phải Bắc Mỹ một lần nữa lại thuộc về người Anh?” “Chắc chắn thế rồi,” Tom Hunter đáp, giậm giậm nạng của mình trong cơn giận dữ. “Chà, nếu vậy,” J. T. Maston nói, “tại sao không đổi lại nước Anh thuộc về người Mỹ?” “Thế mới thích đáng và công bằng,” đại tá Blomsberry đáp lại. “Hãy kiến nghị với tổng thống Mỹ đi,” J. T. Maston ré lên, “và xem xem ông ta sẽ tiếp đón anh thế nào.” “Hừ!” Bilsby gầm gừ giữa bốn chiếc răng chiến tranh đã để lại cho mình, “Điều đó không bao xảy ra!” “Trời ơi!” J. T. Maston la lớn, “Thế thì ông ta hẳn không cần phiếu của tôi cho lần bầu cử tiếp rồi!” “Cũng không cần của chúng tôi luôn,” tất cả các thương binh hiếu chiến nhất trí đáp lời. “Trong lúc ấy,” J. T. Maston tiếp tục, “cho phép tôi nói điều này, nếu tôi không thể tóm được một cơ hội để thử nghiệm súng cối mới của mình trên chiến trường chân chính, tôi sẽ nói lời tạm biệt với tất cả thành viên của Câu lạc bộ Súng và đi chôn vùi bản thân trong các thảo nguyên ở Alaska!” “Trong trường hợp đó, chúng tôi sẽ đi theo anh,” những người khác kêu lên. Chuyện là trong tình cảnh đáng tiếc ấy, câu lạc bộ bị đe dọa trước nguy cơ giải tán, thì một tình huống bất ngờ đã xảy ra và ngăn chặn một kết thúc bi đát. Vào ngày tiếp theo sau cuộc trò chuyện này, mỗi thành viên của hội đều nhận được một giấy báo có niêm phong thuật lại nội dung sau: BALTIMORE, Ngày mùng ba tháng Mười, Chủ tịch Câu lạc bộ Súng trân trọng thông báo tới các đồng sự rằng, tại buổi họp khẩn cấp lần thứ năm, ngài sẽ mang đến cho họ một tin tức vô cùng thú vị. Ngài yêu cầu, do đó, họ sẽ phải chuẩn bị sẵn sàng để tham gia theo đúng lời mời này. Rất thân ái. IMPEY BARBICANE, Chủ tịch Câu lạc bộ Súng. Mời các bạn đón đọc Từ Trái Đất Đến Mặt Trăng của tác giả Jules Verne & Thanh Yên (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Không Lấm Máu - Alessandro Baricco
Alessandro Baricco đã dệt nên một tấn thảm kịch pha trộn bạo lực và máu lửa, khiến người đọc thoạt tiên có thể nhầm lẫn nó với loại truyện báo thù theo kiểu gangster. Nhưng những trang viết tiếp nối nhau đã hé lộ dần một câu chuyện nhân sinh. Đó là bi kịch của những con người, vì lỗi lầm của chính mình hay của người thân của mình, đã vĩnh viễn bị giam cầm trong mê cung không lối ra của những xung đột không hề liên quan đến mình. Đó là ám ảnh về chiến tranh cũng như tội ác và hệ quả của nó. Đó là sự giằng xé nội tâm giữa nỗi khao khát phục thù và lòng khoan dung tha thứ... *** ... Vào một ngày xa xưa sau khi kết thúc chiến tranh, ở một trang trại tồi tàn nơi vùng quê hẻo lánh, đã xảy ra một vụ thảm sát mà nạn nhân là Roca, người chủ trang trại đang sống với hai đứa con nhỏ. Một nhóm người lạ mặt từ xa tìm đến, kết tội Roca đã giết hại nhiều tù binh khi ông ta còn là bác sĩ trong một bệnh viện thời chiến. Roca và con trai bị hạ sát tại chỗ. Riêng Nina, đứa con gái hơn 10 tuổi, được cha kịp thời giấu xuống hầm, đã may mắn thoát chết sau khi bọn sát thủ phóng hỏa thiêu hủy trang trại. Năm mươi năm sau, có một cuộc gặp gỡ giữa hai người luống tuổi trong một nhà hàng ở thủ đô: người phụ nữ chính là cô bé năm xưa sống sót sau thảm họa, và người đàn ông - Pedro Cantos, tên trẻ tuổi nhất trong đám sát thủ, người vào phút cuối đã quyết định cứu đứa bé bằng cách không tiết lộ với đồng bọn về chỗ ẩn nấp của nó. Cuộc đối thoại nhẹ nhàng diễn ra trong khung cảnh yên tĩnh không tiếng súng nổ và máu loang hôm nay xem ra khốc liệt hơn rất nhiều so với tấn thảm kịch năm xưa. Quá khứ được tái hiện, những biến cố kinh hoàng được giải thích từ cái nhìn của hai phía. Và cùng với việc làm sống lại quá khứ, là sự phơi bày những số phận bị vùi dập, bị hủy diệt trong cơn lốc của tội ác và hận thù, mặc dầu chiến tranh đã thực sự lùi xa... “Đất nước đang tiến về phía trước, bỏ xa chiến tranh đằng sau, với một vận tốc đáng kinh ngạc, quên đi tất cả. Nhưng có một đám người không bao giờ ra khỏi chiến tranh, và họ không sao làm lại cuộc đời trong cái đất nước hạnh phúc này.” ... Khi đặt bút xây dựng tiểu thuyết này, Alessandro Baricco không dự định viết về chiến tranh, như lời bộc bạch của ông với độc giả The New Yorker, một tờ báo nổi tiếng ở Mỹ. Trong ý đồ sáng tác của ông, chiến tranh chỉ đơn thuần là cái nền, còn cốt truyện chính lại xoay quanh việc một đứa bé được cứu thoát nhờ chỗ ẩn nấp, đã dành suốt cuộc đời còn lại của mình để đi tìm một chỗ trú ẩn tương tự với ước ao được cứu rỗi vĩnh viễn. Tuy nhiên, khi câu chuyện nên hình nên vóc và đến với độc giả, nó đã được đón nhận như là một trong những tiểu thuyết đặc sắc viết về chiến tranh. Alessandro Baricco đã dệt nên một tấn thảm kịch pha trộn bạo lực và máu lửa, khiến người đọc thoạt tiên có thể nhầm lẫn nó với loại truyện báo thù theo kiểu gangster. Nhưng những trang viết tiếp nối nhau đã hé lộ dần một câu chuyện nhân sinh. Đó là bi kịch của những con người, vì lỗi lầm của chính mình hay của người thân của mình, đã vĩnh viễn bị giam cầm trong mê cung không lối ra của những xung đột không hề liên quan đến mình. Đó là ám ảnh về chiến tranh cũng như tội ác và hệ quả của nó. Đó là sự giằng xé nội tâm giữa nỗi khao khát phục thù và lòng khoan dung tha thứ... Với Không lấm máu, Alessandro Baricco đã đưa người đọc đến với lời cảnh báo nóng bỏng: mối quan hệ giữa lịch sử của một đất nước với thân phận từng cá thể trong cộng đồng ấy. Cho dẫu là quốc gia nào, ở bất cứ thời kỳ nào, những tham vọng và tội ác tập thể mù quáng đều có nguy cơ như những quả đại bác có sức hủy diệt khó lường cho các thế hệ mai sau. Tác giả lại đặt câu chuyện trong một bối cảnh không xác định về cả thời gian lẫn không gian, phải chăng nhằm truyền đi một ẩn dụ sâu xa, rằng tội ác có thể xảy ra ở bất cứ nơi đâu trên hành tinh này, rằng con người trong chiến tranh thường phạm phải những lỗi lầm giống nhau, như hiệu ứng dây chuyền lây lan từ đời này sang đời khác, gây nên tấn thảm kịch triền miên cho toàn nhân loại! Những chủ đề ấy làm cho quyển tiểu thuyết chỉ vỏn vẹn có hai chương, tràn ngập bạo lực ở phần 1 và hồi hộp căng thẳng ở phần 2, với cuộc đối thoại chông chênh giữa tình thương và căm hận, lại thấm đẫm màu sắc nhân văn và mang dáng dấp của một ngụ ngôn với kết thúc đầy chất thơ, khi tình người sau cùng đã thực sự chiến thắng những cừu oán riêng tư. Với thông điệp trên, rất dễ hiểu vì sao Không lấm máu lại nhanh chóng nhận được sự đồng cảm sâu sắc của công chúng văn học và được giới thiệu ở nhiều nước trên thế giới. Nhân loại vốn đã có quá nhiều trải nghiệm xương máu trong chiến tranh, giờ đây cần nỗ lực hàn gắn mọi vết thương quá khứ và cùng chung tay xây dựng “một thế giới công bằng, trong đó người thấp cổ bé họng không phải đau khổ vì cái ác của người khác, nơi mà ai ai cũng có thể có quyền hưởng hạnh phúc”. ... Mời các bạn đón đọc Không Lấm Máu của tác giả Alessandro Baricco.
Hảo Nữ Trung Hoa - Hân Nhiên
Khinh Phong Dạ Thoại như ngọn gió được đêm đen ôm ấp, chỉ khi thân phận được che giấu và được lắng nghe thật sự, những người phụ nữ Trung Hoa mới dám cất tiếng nói nhỏ nhoi yếu ớt đã bị đè nén suốt cả trăm năm ròng, tiết lộ thế giới bí mật mang đầy những đau thương và tủi nhục. Trong cái thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa đen tối và hỗn loạn của lịch sử Trung Quốc, không chỉ một mà có cả trăm, nghìn, thậm chí cả triệu người phụ nữ bị đã chà đạp, lăng nhục, và hủy hoại. Những câu chuyện đau lòng đã được kể trong Hảo Nữ Trung Hoa sẽ ám ảnh và làm day dứt tâm hồn của cả những con người cứng rắn nhất. Những người con gái, những người vợ, những người mẹ, đặt trong mối quan hệ giữa những người đàn ông và xã hội đã phải gánh chịu quá nhiều bất công đàn áp. Những cô gái bị cưỡng hiếp, bạo hành đến mức tâm thần không còn ổn định, những người vợ bị đối xử như một công cụ thỏa mãn sinh dục và những cái máy đẻ rệu rã, những người con gái bị tước đoạt tình yêu, những người mẹ phải tận mắt nhìn con mình lìa bỏ cuộc đời… Khi đàn ông là những kẻ vũ phu bội bạc, những tên cuồng dâm, những tên đội lốt Cách Mạng để làm những việc dơ bẩn, đớn hèn thì phụ nữ vẫn phải lặng im chịu đựng. Vì họ không có cách bảo vệ chính mình, và cũng không ai bảo vệ họ. Hàng nghìn số phận phụ nữ bị vùi dập và nhấn chìm dưới những quy định cổ hủ và tàn nhẫn của xã hội, trong những biến động lịch sử dữ dội của đất nước Trung Hoa, trong sự thờ ơ và bàng quan của nhân loại. Hân Nhiên đã đem nỗi đau của chính bản thân bà, và nỗi đau của những người phụ nữ khác, giãi bày qua từng trang giấy. Chính sự thật quá phũ phàng mới làm lòng người lay động mạnh mẽ vô cùng khi đọc Hảo Nữ Trung Hoa. Nhưng không chỉ có nỗi đau và niềm uất ức, Hảo Nữ Trung Hoa còn là bức tranh ghép đa màu về những khát khao tình yêu, quan niệm hạnh phúc và nhân sinh quan của phụ nữ, những đức tính tốt đẹp vô cùng của họ. Những trang sách đẹp nhất của Hảo Nữ Trung Hoa là những trang viết về những người mẹ. Người mẹ với một tình cảm mẫu tử thiêng liêng cao cả có thể làm tất cả chỉ mong cho con mình hạnh phúc. Người mẹ với kí ức đau thương sẽ không bao giờ phai mờ về đứa con đã mất. Những khổ đau lớp lớp của phụ nữ Trung Quốc qua lối kể mộc mạc và chân thực của Hân Nhiên gợi lên trong lòng người đọc một mỹ cảm vô cùng về vẻ đẹp trong tâm hồn mỗi người phụ nữ. Như chính bà đã từng phát biểu: Phụ nữ là lực lượng sáng tạo trong vũ trụ này. Họ đem đến cho cuộc sống cái đẹp, cảm xúc và sự nhạy cảm. Họ tinh khiết và trong sạch. Phụ nữ là những tạo vật tuyệt vời nhất… Hãy thật can đảm khi đọc Hảo Nữ Trung Hoa, vì trái tim bạn sẽ run rẩy và bị bóp nghẹt bởi sự thật phũ phàng và những đau đớn nghẹn ngào ẩn trong trang sách. Một bức tranh đa chiều được viết nên bằng máu và nước mắt, sẽ mãi khắc sâu ấn tượng với bất kì ai đã từng chiêm ngưỡng nó. Hảo Nữ Trung Hoa đã vẽ lại hình ảnh một đất nước Trung Quốc khác, không phải đất nước vĩ đại với hàng ngàn năm văn hiến, cũng không phải đất nước với những kỳ quan kỳ vĩ khiến thế giới ngưỡng mộ. Trung Quốc của Hân Nhiên đầy rẫy những mảnh đời bị bỏ quên, những Hảo Nữ vẫn đang sống từng ngày trong đau thương. Hân Nhiên (Xinran) sinh năm 1958 tại Bắc Kinh. Bà là nhà báo, người dẫn chương trình Khinh Phong Dạ Thoại của Đài phát thanh Nam Kinh. Khi làm chương trình, bà được lắng nghe những cuộc gọi đến của rất nhiều thính giả cũng như chia sẻ về câu chuyện cuộc đời họ. Hân Nhiên không chỉ trò chuyện mà còn gặp gỡ, thu thập tư liệu từ hàng ngàn phụ nữ bà đã phỏng vấn. Chương trình này đã đưa Hân Nhiên trở thành một trong những nhà báo thành công nhất của Trung Quốc. Năm 1997, bà tới Luân Đôn cùng con trai. Chính tại nơi đây, Hân Nhiên mới có thể viết lại những câu chuyện thành một pho sách gây nhức nhối và đầy ám ảnh. Đã từng nghe, phỏng vấn hơn 200 phụ nữ. Bà đã gom góp những cuốn sách bí mật trong từng gia đình, những nỗi đau riêng tư, những cam chịu đè nén trong đau thương và uất hận, những bi kịch thầm kín, từng chứng kiến trong 8 năm làm việc tại Trung Quốc. Tháng 7 năm 2002, lần đầu tiên những câu chuyện này xuất hiện tại Anh trong cuốn sách có tên Hảo Nữ Trung Hoa (The good women of China: Hidden Voices). Hiện nay, Hảo Nữ Trung Hoa đã đến tay bạn đọc trên toàn thế giới và được dịch ra trên 30 thứ tiếng. Hảo Nữ Trung Hoa là tập hồi ký mà nhà báo Hân Nhiên đã thay những người phụ nữ vô danh ở khắp nơi trên đất nước Trung Quốc rộng lớn kể lại cuộc đời họ với mọi đau đớn và bi thảm. *** Chín giờ tối ngày 3 tháng Mười một năm 1999, tôi đang trên đường về nhà sau buổi dạy tối ở Khoa Phương Đông và Châu Phi thuộc Đại Học Luân Đôn. Khi ra khỏi ga tàu điện ngầm Stamford Brook bước vào bóng tối của đêm thu, tôi nghe thấy có tiếng động hối hả ở phía sau. Tôi chưa kịp phản ứng thì đã có ai đó đập mạnh vào đầu và đẩy tôi ngã nhào xuống đường. Theo bản năng, tôi nắm chặt lấy chiếc túi xách đang đựng bản duy nhất của bản thảo tôi mới hoàn thành. Nhưng kẻ tấn công kia vẫn không bỏ cuộc. “Đưa tao cái túi,” hắn liên tục hét lên. Tôi chống trả với sức mạnh mà tôi chưa từng nghĩ mình lại có. Trong bóng tối, tôi không thấy một ai. Tôi chỉ biết rằng mình đang chiến đấu với hai bàn tay khỏe mạnh và còn vô hình. Tôi gắng tự vệ đồng thời đá vào chỗ mà tôi nghĩ có lẽ là háng của hắn. Hắn đá lại và tôi cảm thấy đau nhói ở lưng và cẳng chân, và vị mằn mặn của máu trong miệng. Những người đi ngang bắt đầu chạy về phía chúng tôi và hét lên. Một đám đông giận dữ nhanh chóng vây lấy gã đàn ông. Khi loạng choạng đứng lên, tôi thấy hắn cao hơn mét tám. Sau đó, cảnh sát hỏi tôi tại sao lại liều mạng chống trả chỉ vì một chiếc túi xách. Run rẩy và đau đớn, tôi giải thích, “Tôi để cuốn sách của mình trong đó.” “Một cuốn sách?” viên cảnh sát kêu lên. “Chẳng lẽ một cuốn sách còn quan trọng hơn mạng sống của cô sao?” Đương nhiên là tính mạng quan trọng hơn cuốn sách rồi. Nhưng ở nhiều khía cạnh, cuốn sách đó chính là mạng sống của tôi. Nó là lời chứng về cuộc sống của người phụ nữ Trung Quốc, là kết tinh của nhiều năm làm việc với tư cách nhà báo của tôi. Tôi biết mình đã thật dại dột: Nếu bị mất bản thảo, tôi vẫn có thể cố viết lại được. Tuy nhiên, tôi không dám chắc mình có thể vượt qua được những cảm xúc cực độ trào dâng lên khi tôi viết lại cuốn sách hay không. Trải nghiệm lại câu chuyện của những người phụ nữ tôi từng gặp quả là đau đớn, song sắp xếp các ký ức và tìm ra ngôn từ thích đáng để viết còn khó hơn. Khi chiến đấu để giữ bằng được chiếc túi, tôi đang bảo vệ cho những cảm xúc của mình và của những người phụ nữ Trung Quốc. Cuốn sách là kết quả của quá nhiều điều một khi mất đi sẽ không bao giờ có thể tìm lại. Khi bước vào ký ức của mình, bạn đang mở ra một cánh cửa dẫn tới quá khứ; con đường trong đó có rất nhiều ngã rẽ và mỗi lần đi lại là một lộ trình khác nhau. ... Mời các bạn đón đọc Hảo Nữ Trung Hoa của tác giả Hân Nhiên.
Skulduggery Vui Vẻ Phần 1: Thám Tử Xương Vui Tính - Derek Landy
Cuộc hành trình lôi cuốn giữa một vị thám tử vốn là một bộ xương di động cùng cộng sự là một cô bé 11 tuổi. Một câu chuyện kỳ bí về phép thuật, những bảo bối thần kỳ cùng những vụ ám sát và các phi vụ đen tối khác. Khi người bác đột ngột qua đời, Stephanie Edgley đã không nghĩ rằng mình sẽ được gặp một chú thám tử xương, nhưng chuyện phi thường đã xảy ra. Skulduggery đã mở ra trước mắt Stephanie một thế giới mới mà nó chưa từng nghĩ là có thật và bắt đầu dạy cho nó những gì anh biết, dẫn đến những cuộc phiêu lưu kỳ thú. Điều khiến tác phẩm này trở nên nổi bật so với những tác phẩm khác cùng thể loại chính là vì Skulduggery. Ngoài việc anh là một thám tử xương đầy quyền năng phép thuật - một điều quả là phi thường, những câu bông đùa, giễu cợt đầy sắc sảo và thông minh của thám tử xương vui tính sẽ lôi cuốn người đọc không thể rời mắt khỏi cuốn sách. *** Bộ sách Skulduggery Vui Vẻ gồm có: Skulduggery Vui Vẻ - Phần 1: Thám Tử Xương Vui Tính Skulduggery Vui Vẻ - Phần 2: Vờn Lửa Skulduggery Vui Vẻ - Phần 3: Những Kẻ Vô Diện Skulduggery Vui Vẻ - Phần 4: Những Ngày Đen Tối *** Cái chết bất ngờ của Gordon Edgley khiến cho mọi người không khỏi bàng hoàng – thậm chí chắc ông Gordon cũng bất ngờ không kém. Mới vài giây trước ông còn ngồi trong phòng làm việc, chỉ mới đọc được bảy chữ đầu dòng thứ hai mươi lăm trong chương cuối của cuốn tiểu thuyết Bóng Tối Bủa Vây mới phát hành. Vậy mà ông tắt thở ngay sau đó. “Một sự mất mát đau thương”, câu văn Gordon đọc trước khi chết vẫn còn vang trong tâm trí mê mụ khi ông lịm dần đi. Tang lễ có mặt gia quyến và người quen nhưng bạn bè thì ít lắm. Gordon không phải là mẫu người được ưa thích trong giới xuất bản, vì mặc dù những tác phẩm của ông – những truyện kinh dị về phép thuật và những điều dị thường – thường xuyên ló mặt trong bảng những sách bán chạy nhất, ông có một thói quen không thể khống chế đó là lăng mạ người khác mà không hề cố ý, và cười trên sự bàng hoàng của họ. Nhưng dù sao đám tang của Gordon cũng cho Stephanie Edgley có dịp lần đầu gặp người đàn ông mặc áo bành tô da nâu sậm. Anh đứng dưới bóng râm của một tán cây rộng, tách hẳn đám đông, chiếc áo khoác được cài nút kín mít dù trưa hôm đó khá nóng bức cộng thêm khăn choàng cổ quấn quanh che kín nửa mặt phía dưới. Và dù anh ta đứng cách xa mộ huyệt một quãng, Stephanie vẫn có thể thấy được những lọn tóc bù xù xoăn tít xòa dưới vành nón rộng sùm sụp sát cặp kính râm to tướng. Bị vẻ ngoài kỳ dị kích thích tính hiếu kỳ, nó không rời mắt khỏi anh ta. Như thể cũng biết mình bị theo dõi, anh quay lưng băng ngang qua những hàng bia đá, và biến mất dạng. Sau buổi lễ, Stephanie cùng bố mẹ quay về nhà ông bác, tọa lạc phía bên kia cây cầu cong cong trên một con đường nhỏ hẹp ngoằn ngoèo băng ngang nền đất rừng dày đặc. Cánh cổng to bè nặng nề mở toang, đón chào họ bước vào phía trong dinh thự, một căn nhà cổ khổng lồ đến lố bịch trên mảnh đất rộng mênh mông. Phòng khách nhà này có một cánh cửa phụ được ngụy trang trông giống một kệ sách. Hồi bé, Stephanie luôn nghĩ rằng không ai khác, ngay cả ông Gordon, biết có cánh cửa này. Đó là một con đường bí mật, hệt như trong những mẩu truyện nó từng đọc, và nó tự sáng tạo ra những cuộc phiêu lưu trong những ngôi nhà ma ám và những kho tàng bí mật được giấu kỹ. Con đường bí mật này sẽ luôn là lối thoát cho nó, và những kẻ gian ác tưởng tượng trong những cuộc phiêu lưu này sẽ phải kinh ngạc bởi sự biến mất đột ngột và kỳ bí của nó. Nhưng giờ đây cánh cửa mở ra con đường bí mật này mở toang cho dòng người chầm chậm bước vào. Stephanie cảm thấy buồn khi thấy chút phép mầu này bị tước đi. Tiệc nhẹ hôm nay ngoài trà còn có các loại đồ uống khác dùng chung với bánh kẹp nhỏ bày trên đĩa bạc được mang đi khắp phòng. Stephanie thấy có mấy người đi đưa ma thẳng thừng bình phẩm đồ đạc trong nhà. Nhưng chủ đề chính của cuộc bàn luận kín lại là bản di chúc. Khi còn sống, ông Gordon không có, thậm chí không hề tỏ ra đặc biệt yêu thích một ai, nên không ai đoán được người nào sẽ thừa hưởng gia tài kếch xù này. Stephanie không thể nhầm lẫn lòng tham vô độ hiện rõ trên cặp mắt ướt mèm của ông bác nhỏ thó khó ưa tên Fergus. Ông này gục gặc đầu vẻ sầu não cho hợp với tông điệu ảm đạm của buổi tang lễ, nhưng đôi tay tắt mắt sẵn sàng nhét túi một món đồ bạc bất kỳ khi không có ai để ý. Vợ của Fergus là một người phụ nữ có một vẻ ngoài hoàn toàn khó ưa cùng gương mặt góc cạnh tên Beryl. Bà ta lướt qua đám đông, đắm chìm trong nỗi âu sầu giả tạo, tìm kiếm các cuộc tán gẫu và sục sạo đào bới những vụ xì căng đan. Mấy đứa con gái của mụ thì làm như không có Stephanie trên đời. Carol và Crystal là chị em sinh đôi, mười lăm tuổi, cũng chanh chua và xấu bụng không thua gì bố mẹ chúng. Ngược với Stephanie tóc đen, cao, gầy và khỏe mạnh, chúng tóc vàng nhạt, thấp bè và mặc những bộ đồ khiến những nơi thiếu thẩm mỹ càng phình ra. Nếu không có đôi mắt nâu có lẽ không ai có thể nghĩ chúng có họ hàng với Stephanie. Cô bé thích màu mắt ấy. Đó thứ duy nhất của chúng mà nó thích. Không thèm chấp những cái lừ mắt đanh đá cùng những lời thì thầm cạnh khóe của chúng, nó quyết định đi dạo một vòng. Nhà ông Gordon có nhiều hành lang dài hai bên tường treo đầy tranh. Dưới chân Stephanie là ván sàn bóng lộn, và căn nhà toát lên một mùi cũ kỹ. Không hẳn là mùi mốc, mà là mùi của... trải nghiệm. Những bức tường và sàn nhà này đã chứng kiến nhiều sự kiện trong quá khứ mà so với chúng, Stephanie không hơn gì một tiếng thì thầm thoảng qua. Đến rồi lại đi trong phút chốc. Gordon là một người bác tốt. Kiêu ngạo và thiếu trách nhiệm, đúng là như vậy, nhưng cũng rất vui và trẻ con nữa, ánh mắt ông hiện lên một đốm sáng, một tia nhìn đầy nghịch ngợm. Trong khi tất cả mọi người còn lại đều nghiêm nghị với ông, Stephanie luôn để ý đến những cái chớp mắt và gật đầu và những nụ cười nửa vời ông luôn dành cho nó mỗi khi họ không để ý. Ngay cả khi còn là một đứa trẻ, nó cảm thấy nó hiểu ông hơn ai hết. Nó thích sự thông minh và tài ăn nói dí dỏm, cùng với cách ông không quan tâm đến những gì người khác nghĩ về mình. Ông còn là một người bác tốt. Khi còn sống, ông thường dạy bảo nó nhiều điều hay. Stephanie biết có thời điểm mẹ nó và bác Gordon từng “phải lòng” nhau (mẹ nó gọi đó là “tìm hiểu”). Nhưng lúc bác Gordon giới thiệu bà với em trai ông, thì đó đích thực là tình yêu sét đánh. Gordon thích kể lể về việc ông chưa hề được gì ngoại trừ một cái hôn nhẹ lên má, Nhưng sau đó ông rút lui một cách ôn hòa, và say sưa trong những cuộc tình nồng nhiệt với hàng tá phụ nữ xinh đẹp khác. Ông từng bảo đó là sự trao đổi khá công bằng, tuy nhiên người thiệt thòi vẫn là ông. ... Mời các bạn đón đọc Thám Tử Xương Vui Tính của tác giả Derek Landy.
Khoảng Trời Mênh Mông - Kirby Larson
Sách là chuyện về cô gái mồ côi cha mẹ, chưa từng đi khỏi nhà người bà con nơi cô tá túc. Nhưng một ngày, với 320 mẫu đất thừa kế từ cậu ruột, cô một mình tiến về miền Tây nước Mỹ, lập nghiệp với đôi bàn tay thiếu nữ. Từ khi chưa mọc răng sữa cho đến 16 tuổi, Hattie Brooks đều phải sống nhờ bà con xa, nay ở nhà này, mai sang nhà khác vì bố mẹ cô sớm qua đời. Cuộc sống thiếu thốn tình cảm, sự chăm bẵm từ đấng sinh thành khiến cô gái trẻ luôn khao khát được yêu thương, được thể hiện bản thân.  Một ngày kia, Hattie bất ngờ nhận được lá thư của cậu Chester từ Montana cho biết, trước khi qua đời, ông để lại cho cô cháu gái 320 mẫu đất, một con bò cái và con ngựa. Mừng rỡ như người sắp chết đuối vớ được phao, Hattie khăn gói lên đường tiến về phía Tây với một viễn cảnh huy hoàng vẽ ra trước mắt: những ruộng lúa bạt ngàn, cây trái sum suê, một căn nhà của chính mình và mãi mãi giã từ kiếp ăn nhờ ở đậu, lệ thuộc vào người khác. Hành trang mang theo trên chuyến tàu rời thành thị về vùng quê hẻo lánh của cô gái chưa đầy 17 tuổi, chưa hoàn tất những năm học ở trường phổ thông là sách dạy nấu ăn, dạy nghề nông và con mèo Whiskers, người bạn trung thành của cô. Nhưng niềm vui thoát khỏi kiếp sống bị ghẻ lạnh chưa kịp trọn vẹn, Hattie phải liên tiếp đối mặt với khó khăn vất vả. Đất đai trong tay cô bạt ngàn nhưng chúng chưa hẳn thuộc về cô. Thật ra, cậu Chester chỉ để lại cho cô quyền tiếp quản đất và cô có một khoảng thời gian để chứng minh với dân trong vùng, với chính quyền Montana cô phải có năng lực cai quản, canh tác. Cô phải thực hiện đầy đủ các tiêu chuẩn được đề ra mới có thể nộp hồ sơ lên chính quyền để xin đất công. Một mình sống trong căn nhà nhỏ tuềnh toàng, nằm lọt thỏm giữa bạt ngàn đồng cỏ, không ít lần Hattie định từ bỏ cuộc sống lao động nặng nhọc để quay về nơi mình ra đi. Thế nhưng, càng sống ở đây, càng gặp nhiều thử thách, Hattie dần nhận ra rằng, cô yêu quý mảnh đất nhọc nhằn. Ở đó cô có những người hàng xóm quê mùa nhưng tốt bụng. Họ sẵn sàng giúp cô khám phá những điều thú vị của nghề nông. Thiên nhiên hoang sơ và khoáng đạt cũng như tình cảm nồng hậu của người nông dân Montana nhen nhóm trong cô gái trẻ những tình cảm gia đình ruột thịt mà từ lâu cô bị mất đi. Tình cảm ấy mang lại cho cô gái nhỏ sức mạnh để còng lưng nhổ cỏ, nhặt đá trên đồng cỏ để gieo trồng cây trái; đóng hàng trăm cọc rào để khoanh ranh giới đất của mình. Dưới bầu trời Montana cao xanh lồng lộng, Hattie đương đầu với thời tiết khắc nghiệt. Vượt qua nhiều thời khắc khốn đốn, cuối cùng Hattie đã chứng minh được chủ quyền với 320 mẫu đất. Nhưng thử thách vẫn chưa kết thúc. Đổ máu, mồ hôi và nước mắt mới giành được đất, Hattie lại đành phải bán đi vì khốn khó vẫn dàn đầy trước mắt. Trong những trang cuối của cuốn sách, người bạn mà Hattie xem như ruột thịt mất đi, mảnh đất cô hằng khao khát cũng phải nhượng lại cho đối thủ, những thứ của nả cô nghĩ có thể gày dựng được trên đất Montana rốt cuộc chẳng còn là bao. Hattie lại đón chuyến tàu rời Montana tiếp tục đi về phía Tây, tìm kiếm cơ hội xây dựng cuộc đời mình... Tuy nhiên, Hattie không buồn. Bởi những tháng ngày đầy lo âu, đầy trải nghiệm ở vùng đồng cỏ Montana chính là tháng ngày mà Hattie yêu quý nhất trên đời. Những tháng ngày đó mở ra trước mắt cô gái trẻ "khoảng trời mênh mông" của niềm tin, nghị lực và của tình yêu. *** Arlington, Iowa Ngày 19 tháng Mười hai năm 1917 Charlie thân mến! Mỗi ngày, cô Simpson đều nhắc chúng em cầu nguyện cho anh và mọi quân nhân khác. Nhưng theo em, ta nên cầu nguyện cho vua Đức tội nghiệp: Ông ta sẽ phải khấn trời rủ lòng thương ngay khi giáp mặt anh! Hôm nay, em tình cờ gặp mẹ anh ở tiệm cậu Holt. Bà kể qua loa rằng, anh sẽ sớm đến Anh quốc, rồi từ đó sang Pháp. Từ lúc đó, em không đủ can đảm nhìn bản đồ phía sau cô Simpson vì nó bắt em nhớ giờ anh và Arlington đã nghìn trùng xa cách! “Ngài” Whiskers muốn nhắn anh rằng “ngài” vẫn mạnh! Mấy hôm nay trời lạnh cóng nên em cho nó ngủ trên giường em. Khi biết chuyện, mợ Ivy nổi cơn tam bành. Ơn trời, vì mợ bảo em lớn rồi, đánh mãi sẽ lì đòn. Nếu không, chắc bây giờ em chẳng còn chân mà đi. Anh không biết chứ mợ Ivy bây giờ khác lắm. Mợ tự may mũ màu trắngcó đắp dấu thập đỏ chói bằng vải ở vành. Mợ đội mũ ấy mỗi khi dự họp ở Hội Chữ Thập Đỏ. Chắc mợ muốn mọi người phải biết mình có góp tiền cho Hội này. Hồi này, mợ cư xử lạ lắm, thậm chí sáng nay còn hỏi em thấy trong người thế nào. Lần đầu tiên trong nhiều năm ròng, mợ hỏi em khỏe hay yếu. Lạ thật. Chắc nhờ tham gia Hội Chữ Thập Đỏ nên mợ dịu hiền hơn. Chị Mildred Powell đang đan đôi vớ thứ năm. Đừng vội mừng vì anh không được hưởng trọn cả năm đâu. Chị ấy đan cho Hội Chữ Thập Đỏ đấy. Hồi này, nữ sinh chúng em ai nấy đều bận rộn đan lát cho Hội. Tuy nhiên, em nghĩ rằng đôi đẹp nhất của chị là dành cho anh. Chắc anh phải cố gắng lắm mới ních được vào bộ quân phục nhỉ! Đúng là con lật đật (Hì hì). Đùa tí thôi chứ thật lòng em biết chắc anh sẽ khiến người thân và bạn bè được thơm lây. Mợ Ivy vừa đi họp về, đang gọi em đấy. Em phải dừng bút thôi, nhưng sẽ sớm viết thư sau gửi anh. Bạn cùng trường Hattie Inez Brooks Thấm mực xong, tôi nhẹ tay đẩy bức thư vào phong bì. Mợ Ivy sẽ không chần chừ đọc bất kì thứ gì lọt vào mắt bà, dù thứ đó trong phòng tôi, trên bàn riêng của tôi. ... Mời các bạn đón đọc Khoảng Trời Mênh Mông của tác giả Kirby Larson.