Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vòng Tròn Đá Thiêng - Tập 1

Outlander - Vòng Tròn Đá Thiêng - Tập 1 Outlander - Vòng Tròn Đá Thiêng 1 là cuốn đầu tiên trong bộ tiểu thuyết lịch sử xuyên thời gian của Diana Gabaldon. Bà đã dệt nên một câu chuyện đầy ma lực đan xen giữa lịch sử và thần thoại, nó chứa đầy những đam mê mãnh liệt và sự táo bạo. Năm 1945, sau khi Chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, Claire - một nữ y tá quân đội - vừa được trở về đoàn tụ cùng chồng là Frank Randall sau tám năm xa cách vì chiến tranh. Họ quyết định hưởng tuần trăng mật thứ hai tại vùng cao nguyên Scotland huyền bí. Một lần tình cờ, Claire dạo chơi lên ngọn đồi tiên nơi có vòng tròn đá cổ xưa và bị kéo về quá khứ tới năm 1743. Ở đó, cô bị các phe phái nghi ngờ là gián điệp, bị mắc kẹt trong những âm mưu ngấm ngầm và cuộc chiến giữa các lãnh chúa vùng cao nguyên với quân Anh. Claire bị ép buộc kết hôn với một chiến binh trẻ người Scot để có được sự bảo vệ và an toàn. Claire bị giằng xé giữa hai cuộc hôn nhân, giữa lòng chungthủy và những khao khát đam mê, giữa hai người đàn ông khác xa nhau về mọi mặt trong hai cuộc đời không thể dung hòa… *** Thoạt đầu nhìn tên của cuốn sách Outlander, được để nguyên không dịch ra tiếng Việt, cứ nghĩ cuốn sách thuộc dòng sách khoa học viễn tưởng, du hành ngoài không gian gì đó. Hóa ra không phải. Cuốn sách không mới - tác phẩm của Diana Gabaldon xuất bản lần đầu năm 1991, suốt 26 năm qua luôn là một trong những bộ tiểu thuyết lãng mạn hấp dẫn nhất của thời hiện đại, được dịch ra 40 ngôn ngữ với hơn 25 triệu bản in. Bản dịch tiếng Việt mới xuất hiện năm 2017. Sau 26 năm kể từ khi ra đời, Outlander luôn là một trong những  bộ tiểu thuyết lãng mạn nhất Trong một thời buổi hễ cứ nhìn thấy nhiều chữ là nhức đầu, cuốn sách phần nào làm người ta ngại: nó dày lắm, nặng trịch, dịch chưa hết nhưng đã tới tập 4 rồi, mỗi tập đều gần 500 trang, chữ không là chữ!   Nhưng đọc rồi, nhận ra cuốn sách cũng như một vòng tròn đá thiêng bí ẩn, người đọc mở trang đầu tiên là như đã ngã vào trong cánh cửa đá ấy, bị cuốn vào một không gian hun hút, mê đắm, dữ dội, và không muốn quay về. Outlander là một thông điệp nữ quyền ở dạng quyến rũ nhất, đàn bà nhất, thực tế trần trụi nhất, và do đó, cũng đẹp đẽ khó quên nhất.  Sau chiến tranh thế giới thứ hai, năm 1945, một nữ y tá người Anh đang cùng chồng hưởng lại tuần trăng mật sau thời gian vợ chồng bị chiến tranh chia cắt, tại một vùng nông thôn cao nguyên Scotland. Một buổi bình minh trên ngọn đồi có một vòng tròn đá cổ xưa, cô được chứng kiến một nghi lễ ngợi ca mặt trời của những người đàn bà trong vùng. Ngày hôm sau, cô quay lại đó, khi chạm tay vào một phiến đá, cô bất ngờ bị hút vào quá khứ, rơi thẳng xuống thế kỷ XVIII với nghèo đói, lạc hậu, bệnh tật, chiến tranh và tình yêu. Cuộc hành trình bắt đầu, giữa hai cuộc sống là khoảng cách 200 năm, cô vẫn phải sống tiếp vì không thể quay trở về thời hiện đại. Với cuộc hôn nhân đầu tiên ở thế kỷ XX, cô là người vợ mất tích một cách bí ẩn; với thế kỷ XVIII và lãnh địa của dòng Mackenzie, cô mãi mãi là một người ngoài.  Những cuộc chinh phục của nhân loại thường được tiến hành về phía tương lai, phía những vùng đất mới, cùng với nam tính mạnh mẽ, thống trị. Trong khi cuộc du hành này được thực hiện ngược chiều kim đồng hồ, một cuộc trở về quá khứ, chuyến đi bất đắc dĩ của một người đàn bà mỏng manh. Kỳ lạ thay, cuộc trở về ấy giúp người ta hiểu rõ hơn bao giờ hết lịch sử và con người, tình yêu và thù hận, từ khởi đầu thụ động của chuyến đi, người đàn bà ngoại tộc ấy - mà xét cho cùng, người đàn bà nào chẳng là “người ngoại tộc”, đã chủ động, quyết liệt trong chọn lựa của mình, tồn tại, chữa lành, yêu và sống, tranh đấu và chiến thắng. Cô gái có tên Claire, nhưng cái tên ấy không ấn tượng bằng cái tên “Sassenach”, cũng là “Outlander”, chữ được dùng để gọi một người “ngoại tộc”. Chẳng phải không có dụng ý gì khi để cho một người ngoại tộc làm người xới lật lại lịch sử gia tộc và hơn thế nữa, đi ngược chiều phả hệ để hiểu và trải nghiệm: những kẻ ngoại tộc có con mắt quan sát và bản năng tìm hiểu để thích nghi, tồn tại. Đây là hành trình mang tính biểu tượng của một người đàn bà. Đây cũng chính là ý nghĩa sâu xa của thông điệp mang màu sắc nữ quyền ở tầm bản chất: chính người ngoại tộc ấy đã kết nối những thế hệ tổ tiên với con cháu của mình, chẳng phải thế sao? Nếu không có người đàn bà ngoại tộc ấy, những người đàn ông gieo hạt giống của mình ở đâu để có những vụ mùa kế tiếp? Sassenach có cuộc hôn nhân thứ nhất, và ở cuộc đời thứ hai này, cô có một người chồng nữa. Cô yêu cả hai. Một người đàn bà có thể yêu cả hai người đàn ông, một cách nào đó chung thủy với cả hai người, không phải chọn lựa, được không? Câu trả lời của cuốn sách này là: được. Cô đã đeo trên hai bàn tay mình hai chiếc nhẫn, chiếc nhẫn vàng từ người chồng trong cuộc hôn nhân thứ nhất, và chiếc nhẫn bạc của người chồng trong cuộc hôn nhân thứ hai. Không thể loại bỏ cái nào. Hai chiếc nhẫn, một vàng một bạc, là bí ẩn của nguồn cội sức mạnh của cô. Nó nhắc rằng phải có quá khứ, quá khứ phải diễn ra theo cách của nó, thì mới có hiện tại. Hiện tại ấy được quyết định từ trong quá khứ, và cho dẫu biết trước những đau thương, mất mát, cũng không thể tùy tiện thay đổi quá khứ để mong xếp đặt một hiện tại khác.  Claire, với khát vọng ban đầu cháy bỏng là trốn thoát khỏi thế kỷ XVIII để trở về với thế kỷ XX, trở về với cuộc đời hiện đại của cô, đã dần thay đổi: cô chọn ở lại với thế kỷ XVIII, với cuộc sống thiếu tiện nghi và lạc hậu, với sự mông muội hoang dã. Cô dùng khả năng của một nữ y tá để trị thương, để giúp đỡ mọi người, giảm thiểu những thiệt hại trong cái thất bại của tương lai mà cô biết trước. Đứa bé là món quà từ quá khứ gửi vào hiện tại, là dấu hiệu bất tử của tình yêu, kết nối những thế hệ ruột rà máu mủ khác nhau thông qua xương thịt của một người ngoại tộc. Và đứa bé là con gái.  Cô ở lại vì tình yêu của mình, thứ tình yêu hoang dã, bản năng, gắn chặt với cuộc tồn sinh khó nhọc. Trách nhiệm với quá khứ, với lịch sử đã được chuyển thành ý thức cá nhân. Cô góp sức lực nhỏ bé của mình để phần nào làm cho cuộc sống của những người tốt xung quanh cô tốt hơn, thanh thản nhẹ nhàng hơn. Quyết định cuối cùng của Sassenach, một lần nữa dấn thân xuyên qua vòng tròn đá, trở lại thế kỷ XX, là một quyết định không vì cô, mà vì đứa con trong bụng. Đứa trẻ đã thay đổi ý nghĩa cuộc sinh tồn của cô, thay đổi quyết định của cô. Thiên chức làm mẹ chiến thắng. Thông điệp của tính mẫu, của nguyên lý mẹ có thể nhìn thấy ở đây. Đứa bé là món quà từ quá khứ gửi vào hiện tại, là dấu hiệu bất tử của tình yêu, kết nối những thế hệ ruột rà máu mủ khác nhau thông qua xương thịt của một người ngoại tộc. Và đứa bé là con gái. Câu chuyện về hổ phách lại là một ẩn dụ mang tính biểu tượng nữa: những giọt nhựa cây ứa ra trong veo, nước mắt của loài thông, qua hàng ngàn năm kết tinh thành hổ phách. Con chuồn chuồn nhỏ bé, mỏng manh đông cứng trong mảnh hổ phách ấy, không hiểu sao cứ gợi người ta nghĩ đến những thân phận đàn bà. Chuồn chuồn hổ phách và sự bất tử mong manh mà nó chọn cũng chính là nước mắt của người phụ nữ, gói giấc mơ của mình - được bay lượn tự do giữa trời, trong sự hy sinh đã gần như là định mệnh.  Cuốn sách nói với người ta rằng: hiện tại là quan trọng, nhưng quá khứ chưa bao giờ là thứ chỉ ngủ yên, chỉ là những dòng lịch sử sách vở vô hồn. Quan trọng hơn, cuộc sống hiện tại của mỗi người thực ra đã được quyết định bằng chính quá khứ của họ, dù có khi họ không hay biết. Con đường để mình hiểu và đến với những người khác quanh mình nằm ở bên trong mỗi một con người, ở tầm bản lai diện mục, là sự chia sẻ mạnh mẽ của những tình cảm nguyên thủy cổ xưa, mà đôi khi, những thứ màu sắc hiện đại của ngày hôm nay vô tình che lấp. Thế giới đang toàn cầu hóa. Lúc nào đó, cách nào đó, mỗi con người đều có thể là một người ngoại tộc. Những cánh cửa mở ra không ngừng. Thế giới thay đổi mỗi ngày, công nghệ vùn vụt phát triển, nhưng nỗi băn khoăn tìm hiểu về chính bản thân mình, hiểu được người thương yêu của mình, hiểu để chia sẻ và sống cùng nhau trong tình yêu dưới một mái nhà… luôn luôn là nỗi băn khoăn hiện hữu. Con người chưa bao giờ thôi tự nhìn vào nguồn cội của mình, bản chất của mình. Theo cách đó, Outlander không viết về quá khứ theo kiểu tiểu thuyết lịch sử. Outlander viết về quá khứ như một cuộc du hành viễn tưởng, lãng mạn, thú vị, gai góc. Con người hiện tại muốn thực sự hiểu về quá khứ cần phải dấn thân vào cuộc du hành ấy. Lịch sử nằm trong chính trải nghiệm của mỗi con người. Hoàng Mai - phunuonline.com.vn *** Ở nơi bờ Tây Scotland năm 1945, khi Thế chiến thứ hai kết thúc, đôi vợ chồng Frank và Claire gặp nhau sau bao năm xa cách, trao nhau những lời ân ái ngọt ngào. Nhưng 200 năm trước, chính tại nơi đây, trên ngọn đồi Craigh na Dun, những chiến binh dũng mãnh nhất đấu đá nhau trong cuộc chiến tranh giành vương quyền. Trong một lần dạo chơi quanh những vòng tròn đá thiêng cổ xưa tọa lạc trên đồi, Claire đã bị kéo từ hiện tại ngược dòng quá khứ về với Scotland thế kỉ 18. Từ một nữ y tá quân đội, giờ đây Claire trở thành kẻ ngoại tộc – Sassenach, như cái cách đầy yêu thương mà chàng chiến binh Jamie dùng để gọi cô. Chính nơi đây, thời đại này, với chút kiến thức y học về thảo dược của mình, cô đã tìm cách ngăn cản cuộc chiến đẫm máu nơi đầm lầy Culloden mà sử sách ghi chép, để bảo vệ người đàn ông của đời mình. Liệu một cô gái đến từ tương lai có thể thay đổi quá khứ? Hay chính cô là tác nhân khiến cho dòng chảy lịch sử được khơi thông? Sau 26 năm kể từ khi ra đời, Outlander luôn nằm trong top 10 bộ tiểu thuyết lãng mạn nhất mọi thời đại. Là người hiện đại, nhưng Claire lại thích nghi nhanh chóng với cuộc sống rong ruổi trên lưng ngựa. Nhưng điều quan trọng hơn, cô đã rơi vào tình yêu mãnh liệt, nồng cháy với Jamie dẫu cho trong trái tim vẫn luôn khắc khoải và day dứt về Frank. Nếu ở trong tình cảnh của Claire, bạn sẽ lựa chọn bên nào, một quá khứ bấp bênh hay hiện tại rạn vỡ? Claire có thể đeo hai chiếc nhẫn, một vàng của Frank, một bạc của Jamie. Cô cũng có thể bảo vệ cả hai, như cái cách cô đặt bàn tay trái nơi có chiếc nhẫn vàng lên che chở chiếc nhẫn bạc nơi bàn tay phải. Hay cách cô cầu xin Jamie, khiến anh chấp nhận hy sinh linh hồn mình cho sự sống của Frank. Và cách cô dùng những hiểu biết và kiến thức lịch sử của Frank để giúp đỡ và giữ mạng sống cho Jamie. Thế nhưng với ngăn cách thời gian và không gian, cô không thể nào có được cả hai người đàn ông, dẫu cho họ đều yêu cô với một trái tim chân thành và thuần khiết. Như một quy luật tất yếu của tự nhiên, khi ánh vàng rực rỡ mặt trời lùi về phía bờ tây, ánh bạc dịu dàng và huyền bí mặt trăng sẽ chiếm ngự bóng tối. Và ngược lại. Cũng như con người ta không thể khiến bản thân mình vừa có thể sống với hiện tại rạn vỡ nhưng thực tế, lại vừa có thể sống ở quá khứ bấp bênh nhưng tươi đẹp. Định mệnh trớ trêu bắt buộc Claire phải lựa chọn. Và dù lựa chọn thế nào, đau đớn vẫn là một kết quả chắc chắn. Bóng hình của người đàn ông còn lại vẫn mãi khắc ghi nơi tận cùng linh hồn, thỉnh thoảng lại cứa vào lòng cô những vết cắt khiến trái tim rỉ máu. Nếu ở trong tình cảnh của Claire, bạn sẽ lựa chọn bên nào, một quá khứ bấp bênh hay hiện tại rạn vỡ? Có một truyền thuyết kể rằng, hổ phách được hình thành nên từ nước mắt của mẹ và chị gái của Phaethon - con trai thần Mặt trời - khi Phaethon bị thần Zeus đánh chết. Còn chuồn chuồn, loài côn trùng nhỏ bé với đôi cánh mỏng manh yếu ớt nhưng lại có sức hút diệu kì, ẩn chứa nguồn sức mạnh phi thường để phá kén, chuyển cuộc sống trong bọc kén thành cuộc sống tự do nơi bầu trời cao rộng- hệt như một sự thoát khỏi quá khứ và hướng đến tương lai. Sống trong tình yêu của Jamie, Claire như con chuồn chuồn nhỏ đang tung cánh giữa thiên nhiên tươi đẹp và trời xanh rộng lớn. Nhưng khi cô buộc phải bước qua những vòng tròn đá lần nữa để trở về thực tại, những giọt nước mắt thấm đẫm bờ mi và khuôn mặt cô, như những giọt hổ phách kia. Con chuồn chuồn Claire vẫn mãi bị giữ chặt và giam cầm trong chính miếng hổ phách đã được kết tinh ấy, mãi chẳng thể nào bay xa được. Claire đã lựa chọn. Tôi cũng đã có quyết định cho riêng mình. Vậy, sao bạn không thử lựa chọn? Giữa Frank với Jamie, giữa quá khứ và hiện tại. Outlander là bộ tiểu thuyết về du hành xuyên thời gian lãng mạn bậc nhất do Goodreads bình chọn. Kể từ lần đầu xuất bản năm 1991, 8 tập truyện Outlander của tác giả Diana Gabaldon đã dịch ra hơn 40 ngôn ngữ với hơn 25 triệu bản in. Bộ phim chuyển thể từ tác phẩm cũng đã được kênh truyền hình Starz (Mỹ) phát sóng từ năm 2014. Chỉ trong vòng 1 năm sau khi phim ra mắt, ước tính doanh thu sách đã thu về 6 triệu USD - gấp 2 lần con số mà quyển thứ 8 của Outlander bán được từ năm 2010. Tú Văn - vietnamnet.vn Mời các bạn đón đọc Vòng Tròn Đá Thiêng - Tập 1 của tác giả Diana Gabaldon & Khánh Vân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thanh Kiếm Và Lá Chắn
Cuốn tiểu thuyết tình báo Thanh kiếm và lá chắn của nhà văn - phóng viên chiến trường Vadim Kozhevnikov nói về số phận chìm nổi của Aleksandr Belov - một chiến sĩ tình báo Xô Viết từng hoạt động ở Đức trong những năm chiến tranh Thế giới II. Thanh kiếm và lá chắn là bộ tiểu thuyết có chủ đề sắc bén viết về thời kỳ chiến tranh Liên Xô - Đức (1941-1945), khi Đức Quốc xã đang ở đỉnh cao sức mạnh quân sự của chúng, sau khi đã chiếm đóng hầu hết châu Âu và lăm le tấn công lấn chiếm Liên Xô từ phía Đông, trong tác phẩm có xung đột kịch tính cao độ khắc họa những mâu thuẫn sâu sắc giữa hai thế giới đối kháng nhau. Một bên là những người lính trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, một bên là bọn đế quốc phát xít, những kẻ xâm lược. Người chiến sĩ tình báo xô-viết không chỉ phải vượt qua ranh giới về mặt địa lý để tiến sâu vào lòng địch mà còn phải vượt qua cả ranh giới vô hình, những khác biệt về văn hóa, tâm lý, phải hóa thân thành kẻ thù đối mặt với Tổ quốc, đồng bào mình. Anh đã phải vượt qua những thử thách ấy như thế nào, bằng cách nào, khi những tin tức của anh chuyển về có ý nghĩa trọng đại với Tổ quốc? Thanh kiếm và lá chắn là một tác phẩm đặc sắc của văn học Nga mà chúng tôi muốn giới thiệu đến các bạn. *** Lời Giới Thiệu Trước ngày nổ ra cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, chiến sĩ tình báo Xô Viết Alexander Belov không những chỉ vượt qua biên giới địa lý giữa hai nước mà còn vượt qua cả giới tuyến vô hình ngăn cách thế giới của chủ nghĩa xã hội với bọn đế quốc phát xít đế chế thứ ba. Người chiến sĩ Xô Viết sẽ phải trở thành một người Đức tên là Johann Weiss: Và không phải là một người Đức bình thường. Nhiệm vụ của Belov là phải đeo cái mặt nạ của kẻ thù đối với Tổ quốc mình. Lối sống và cách suy nghĩ của anh về bề ngoài không được khác với lối sống và đạo đức của bọn kẻ cướp lớn hoặc nhỏ của nước Đức Hitler. Đây là một thử thách nặng nề đối với Belov, nhưng anh đã biết khắc phục và vượt qua được những thử thách đó. Những tin tức của anh đã có nhiều ý nghĩa trọng đại đối với Tổ quốc. Weiss Belov đã lần lượt sống qua những cuộc sống của các tầng lớp xã hội quốc xã. “Thanh kiếm và lá chắn” là một tác phẩm đặc sắc. Đây là bộ tiểu thuyết tâm lý xã hội có chủ đề sắc bén, có xung đột kịch tính cao độ, khắc họa nên những mâu thuẫn sâu sắc giữa hai thế giới đối kháng. “Thanh kiếm và lá chắn” đã được dựng thành phim cùng tên và đã được khán giả Việt Nam nhiệt liệt hoan nghênh. Xin trân trọng giới thiệu với toàn thể bạn đọc. *** Mùa hè năm 1940 một công dân Xô Viết quốc tịch Đức bị giết hại ở Riga. Các cán bộ công an điều tra của Latvia xác định rằng: kẻ giết người đã dùng một loại súng đặc biệt có lắp các ống đựng chất kali xyanua, khi các ống bị vỡ sẽ xuất hiện một loại hơi tập trung làm chết người ngay tức khắc và không gây tiếng nổ. Mặc dù nhiều đồ vật quý giá của nạn nhân như nhẫn cưới, đồng hồ, tiền bạc bị cướp mất, nhưng sau đó người ta tìm thấy một số các đồ vật đó gói lại quẳng xuống đáy cống. Điều này gạt bỏ giả thuyết cho rằng đây là một vụ giết người cướp của. Thế là chỉ ít lâu sau có thể đoán được ngay là một thủ đoạn khủng bố có tổ chức. Nạn nhân là kỹ sư Rudolf Schwarzkopf, một chuyên gia nổi tiếng trong ngành vô tuyến điện. Con trai nạn nhân là Heinrich Schwarzkopf, sinh viên trường Đại học Bách khoa Riga, bàng hoàng trước cái chết của cha, không cung cấp một dẫn chứng nào cả. Johann Weiss, thợ nguội kiêm thợ máy xưởng sửa chữa ô tô của Friedrich Kunz, bị gọi đến cơ quan công an điều tra. Theo các tài liệu điều tra vào ngày xảy ra vụ án mạng, Weiss đã có mặt rất lâu trong nhà Schwarzkopf để chữa những dụng cụ gì đó của kỹ sư đặt làm. Ngoài ra Weiss còn có quan hệ bạn bè với con trai Schwarzkopf đang rất ham mê môn đua mô tô. Weiss là một thợ máy có tài, đã giúp Heinrich hoàn thiện chiếc mô tô nhãn hiệu Zundap, nên mới đây Heinrich đã đoạt giải. Người ta còn biết rằng Weiss đã nghiêm chỉnh tham dự các cuộc họp của “Hội liên hiệp kiều dân Đức vùng Baltic” đã sửa chữa không công một chiếc xe hơi của luật sư Sebastian Funk, liên khu trưởng Hội này, thời giờ nhàn rỗi Weiss còn làm lái xe cho viên luật sự này nữa. Trong thời gian bị hỏi cung, Weiss tỏ ra biết kiềm chế mình, và trả lời hơi lung tung. Khi anh cán bộ công an Latvia bực tức trách Weiss là không muốn giúp đỡ việc điều tra, mặc dù nạn nhân là người cùng dân tộc với anh, Weiss đáp là không có gì đáng ngạc nhiên cả vì nạn nhân lại là người Đức như anh. Bởi vì bây giờ người Latvia đối xử với người Đức không có gì là thân thiện cả. Điều này làm người thẩm phán tức giận. Anh trách Weiss là một công nhân trẻ mà lại không thấy xấu hổ khi nói năng như vậy. Lẽ nào Weiss lại không hiểu rằng lúc này hơn lúc nào hết tình đoàn kết vô sản phải liên hiệp tất cả mọi công nhân lại không kể dân tộc nào hay sao? Weiss nghiêm chỉnh, chăm chú ngồi nghe, nhưng qua nét mặt lạnh lùng và bình thản của anh, khó mà hiểu nổi anh tiếp thu những lời người thẩm phán vừa nói như thế nào. Thẩm phán cũng là một công nhân trẻ, mới trở thành nhân viên cơ quan công an. Tổ chức Đảng nhà máy thủy tinh đã cử anh đến đây, mặc dù đối với nghề nghiệp mới mẻ này anh không có một bằng cấp nào cả, mà cũng không có khả năng gì! Về vấn đề này anh cũng nóng nảy nói với Weiss, nhưng vẫn không làm cho Weiss thông cảm. Ở cơ quan công an ra, Weiss đi đến hiệu cà phê. Anh mua bia, xúc xích rồi từ tốn ngồi ăn sáng. Cũng với dáng điệu bình tĩnh đó anh đi ra bến xe, bỏ lỡ một chuyến tàu điện và lên chuyến sau, dọc đường anh chỉ lãnh đạm nhìn qua cửa kính tàu điện. Tàu còn chưa chạy tới bến đỗ ở phía nhà luật sư Funk, trưởng khu “Hội liên hiệp kiều dân Đức vùng Baltic”. Weiss đã xuống và vội vã chạy về phía trước. Sebastian Funk là một người mập mạp, vai rộng, thân hình gần như vuông, bụng nở căng, đôi má nặng trễ xuống, sốt ruột dậm chân ở bên cửa ra vào nhà mình. Khi Weiss đánh chiếc xe “Adler” kiểu cổ đến cổng chính, Funk khó nhọc ngồi vào ghế sau và tức giận hỏi: - Tại sao tôi phải chờ xe mà xe không chờ tôi? Weiss trả lời ngắn gọn: - Xin lỗi ngài Funk, vì tôi có những chuyện không may. - Anh mà còn có những chuyện không may nữa kia à? - Funk lầu bầu khinh bỉ rồi bảo: - Hay là hôm nay tôi làm anh không may mắn? - Sau đó hắn động lòng thương hại hỏi Weiss: - Thế có chuyện gì xảy ra với anh? Nghe Weiss kể lại tỉ mỉ việc anh bị hỏi cung ở cơ quan điều tra, nét mặt Funk dần dần khoan dung hơn. Lão vỗ vai Weiss bảo: - Cũng không sao đâu nếu như họ có bỏ tù anh. Vì họ cần một thủ phạm người Đức. Mà anh là người Đức. - Nhưng, thưa ngài Funk, chắc ngài đã hiểu tôi. Tôi rất muốn nhờ ngài một việc, nếu cần xin ngài làm luật sư cho tôi. - Cũng chẳng cần đâu. - Funk chẳng cần suy nghĩ nói luôn - Anh là công nhân, mà họ thì không nghi ngờ công nhân đâu. - Công nhân cái gì ở tôi cơ chứ? - Weiss nóng nảy phản đối. - Ngài đã biết, tôi đang tính toán để trở thành một chủ trại. Tôi còn chưa rõ là trang trại có thuộc về cô tôi nữa hay không? - Phải, vì chính anh không biết điều đó nên suốt mấy tháng anh lo lắng chăm sóc bà cô ốm đau của mình khiến cả xã người ta khen ngợi anh là một thanh niên vô cùng đứng đắn. Đừng có ngạc nhiên, Weiss ạ. Tôi là khu trưởng, tôi có trách nhiệm phải biết tất cả về anh, thậm chí cả những điều bản thân anh cũng không biết về mình. - Nhưng tôi cũng yêu quý cô tôi, mặc dù tất nhiên thôi, chỉ rất giận một điều là chẳng nhận được của thừa tự gì cả. Funk lắc đầu. - Tôi cho rằng ở nghĩa địa anh đã khóc vì thương bà cô ngang với tiếc của thừa kế… - Rồi lão xẵng giọng. - Anh vẫn còn dao động chứ? Anh định về nước hay ở lại với bọn Bolshevik? - Thưa ngài, Weiss nói tiếp: - Bây giờ tôi đã quyết định trở về Đức càng sớm càng tốt. - Tại sao bây giờ mà không phải trước đây? - Hôm nay ở cơ quan điều tra tôi đã hiểu rằng, ở đây người ta đối xử với người Đức không tốt. Ngài Kunz hứa để lại cho tôi xưởng của mình để tôi trở thành chủ nhân hờ của xưởng. Tôi đã nghĩ là ở đây tôi có triển vọng lớn hơn ở bên nước. Nhưng bây giờ thì tôi đã rõ rồi, xưởng sẽ bị tịch thu. Và tôi buộc sẽ phải vào nhà máy như một công nhân bình thường. Tôi cho rằng làm một người lính ở bên nước mình còn hơn làm công nhân ở đây. - Cho tới bây giờ tôi mới nghe thấy giọng nói mang dòng máu Đức của anh: - Funk tán thưởng gật đầu. Chiều hôm đó, rửa xe xong, Weiss đang lau cửa kính xe bằng miếng da hươu, bỗng nhiên Funk đến gara (trước kia không bao giờ lão đến đây) và hỏi: - Hôm nay anh sẽ đến chia buồn với con trai ông Schwarzkopf chứ? - Vâng, ông Schwarzkopf đối xử với tôi rất tốt. - Điều đó tôi biết, - Funk tức giận nói tiếp, - nhưng tôi không thể hiểu nổi tại sao lại như vậy? - Bao giờ tôi cũng nghiêm chỉnh hoàn thành những việc làm theo yêu cầu của ông ấy. - Còn gì nữa? - Trong những lúc rỗi rãi tôi có giúp ông ta đôi chút, vì ông ấy là nhà phát minh. - Rất tiếc là tôi không đủ trình độ để hiểu nổi ông ấy nghiên cứu gì. - Phải, đầu óc anh thật ngốc nghếch, - Funk hạ thấp giọng nói với vẻ cương quyết và chắc chắn - Còn bây giờ thì thế này Weiss ạ, mặc dù anh đã quyết định về nước, song hoàn toàn chưa có nghĩa là anh sẽ được về, vì rằng chúng tôi còn chưa quyết định. Chúng tôi quyết định anh sẽ được về Đức nếu Heinrich về theo. Và muốn cho Heinrich về nước thì phải cho cậu ta biết rằng cha cậu ta cũng đã dự định như vậy. - Chẳng lẽ Heinrich lại không biết điều đó? - Cho đến nay cậu ta vẫn chưa biết. Cậu ta cũng chưa biết là mới đây ông Rudolf có gửi cho tôi một bức thư… Anh hãy bảo với Heinrich rằng tôi có bức thư đó. - Như vậy cho Heinrich xem bức thư đó thì tốt hơn, vì cậu ta vẫn thường làm những điều bố mình muốn. Funk nhăn trán, nhưng rồi dịu giọng ngay: - Weiss, tôi tin anh như tin đứa con trai tôi. Bức thư này tôi đánh mất rồi và tôi nghĩ là các tình báo Bộ nội vụ Liên Xô đã lấy cắp mất. Chúng cần Schwarzkopf vì ông ta là một kỹ sư có tài, hiểu biết rất sâu về kỹ thuật thông tin quân sự. Khi chúng biết Schwarzkopf chuẩn bị về nước, chúng bèn giết kỹ sư. - Funk cất giọng huênh hoang - Bây giờ nghĩa vụ của chúng ta phải đưa con trai Schwarzkopf trở về Tổ quốc. Chú của Heinrich hiện giờ mà một nhân vật quan trọng ở Đức. Ông ta muốn giang tay ôm chặt anh trai và cháu mình vào ngực, và tôi đã hứa với ông ta rằng sau khi về Đức gia đình Schwarzkopf sẽ có địa vị đặc quyền hơn chúng ta nhiều. Anh hiểu tất cả chứ? - Vâng, tôi sẽ nói với Heinrich rằng tôi sẽ là người trung thành nhất với anh ta nếu như anh ta đồng ý về nước trong một ngày gần đây. - Vấn đề là như thế, nhưng anh còn có nhiệm vụ đối với tôi, - Funk nhắc lại - Không được sự đồng ý của tôi anh không được bỏ nơi này. •º• Ngay cả chuyên gia có tài cũng không thể tạo cho nét mặt của Rudolf Schwarzkopf bị biến đổi vì sợ hãi một nét bình tĩnh trở lại. Người ta phủ lên quan tài tấm nhiễu đỏ. Những người Đức sống ở Riga hồi đó không mến phục Schwarzkopf vì tính tự cao đối với đồng bào bởi uy thế của mình, và vì sự thể hiện quá kính trọng giáo sư Goldblatt. Kết bạn với một người Do Thái, dù cho người này có tài đi nữa, cũng là một sự khiêu khích đối với xã hội.   Mời các bạn đón đọc Thanh Kiếm Và Lá Chắn của tác giả Vadim Kozhevnikov.
Xứ Mộng Hồn Hoa
Năm 2014, bạn đọc được làm quen với chàng trai trẻ trong thân hình của một cậu bé qua tác phẩm đầy xúc động: Con đến như một phép màu, viết cho con trai. Sau đó, Nam trở thành "hiện tượng" với Mật ngữ rừng xanh. Xứ mộng hồn hoa, cuốn sách mới nhất của Nam được xuất bản, là cuốn sách đẹp như những giấc mơ. Giấc mơ đó được tạo nên từ những màu nhiệm đơn sơ nhất, giản dị nhất. Xa Đà Lạt từ tuổi 12 để bước vào cuộc sống gần như trong bệnh viên Nhi Đồng 2 suốt thời thơ ấu, Nam đã không thể trở về lại phố núi vì lý do sức khoẻ, anh đã viết về Đà Lạt mộng mơ với những thước phim rực rỡ nhất trong cuộc đời mình, nơi anh tự nhận mình vừa là cố nhân, vừa là lữ khách, dù giờ đây Đà Lạt với anh chỉ còn là nỗi nhớ nhung luôn chực tuôn như tiếng thở dài. Với anh, hiện tại là Sài Gòn. Sài Gòn bao dung nhân hậu và đầy yêu thương; Sài Gòn là nơi đã ôm anh, giúp anh có đủ niềm tin, có đủ tình yêu, mang đến cho anh những giấc mơ bỏng cháy và cùng anh lớn lên. Đọc những tác phẩm của anh, người ta không khỏi ngạc nhiên trước sức sống, sức viết mãnh liệt của một người mang bệnh tim bẩm sinh mà chính bác sĩ cũng thừa nhận "được sống đã là một điều kỳ diệu". Trích đoạn "Và cứ thế Đà Lạt ùa về trong tâm trí tôi những hạt nắng đang hong khô bức tượng nơi nhà thờ, những cơn mưa vồ vập bên ngọn đồi hoang vu, gõ vào khung kính trên căn gác nhỏ một bản tình ca sơn cuớc, mà cõi lòng tôi không bao giờ quên." (Có những Đà Lạt trong tôi) "Tôi nằm trong căn phòng có tiếng ồn của chiếc quạt máy mà nghe tiếng gió rít qua đồi thông, tôi cầm lẵng hoa đất sét của cô bạn chợt thấy màu xanh của hoa móng rồng trên bờ tường của nhà hàng xóm, thấy lá thông cháy trong lửa, nghe tiếng láo nháo của bầy chim ăn dêm, nghe thấy tay mình lạnh cóng trong lớp túi mỏng, hít hà mùi dạ lan trong đêm, ngửi thấy mùi của lớp nhựa trạng nguyên. Tôi thấy mình đang ôm, đang hôn những ký ức Đà Lạt." (Hồn nhớ thương) "Sài Gòn với những con nguời lạ nhiều hơn quen, với con đường mới trải dài những ngọt ngào lẫn nghiệt ngã, với giấc mơ mới không bao giờ tắt. Của những kẻ khao khát tự do, tự do nơi chính thành phố trọn vẹn một cái tên: Sài Gòn đẹp - xấu." (Sài Gòn đẹp - xấu) Nhận định "Đà Lạt luôn ở sâu trong tâm khảm gợi nhớ những ký ức tuyệt vời, và Sài Gòn còn đó một lòng bao dung nâng đỡ bước chân tôi." Lê Hữu Nam đã khẳng định như vậy trong cuốn tản văn Xứ mộng hòn hoa của mình. Anh sinh ra ở Đà Lạt và lớn lên ở Sài Gòn. Đà Lạt trong mắt anh là đôi mắt trẻ thơ hồn nhiên. Sài Gòn trong mắt anh là đôi mắt của một thanh niên ưu tư. Đọc cuốn tản văn này, bạn sẽ không khám phá ra những danh lam thắng cảnh ở Đà Lạt và Sài Gòn. Nhưng bạn sẽ khám phá ra vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Đà Lạt và tấm lòng bao dung của người Sài Gòn. (Đoàn Thạch Biền) ***   Được viết bằng tâm hồn và trái tim nhạy cảm của một chàng trai tha thiết với quê hương xứ sở, Xứ mộng hồn hoa của Lê Hữu Nam là cuốn sách đẹp như những giấc mơ. Giấc mơ đó được tạo nên từ những nhiệm màu đơn sơ nhất, giản dị nhất. Những điều bé nhỏ, đơn sơ ấy, kì diệu thay, đã tạo nên những quyến luyến không thôi trong từng câu chữ mà bất kỳ ai đã từng cầm lên cũng khó lòng đặt xuống. Bởi vì khi đã yêu mến rồi, có điều gì còn có thể cách ngăn? Hữu Nam đã viết về những thước phim rực rỡ nhất trong cuộc đời mình: những thước phim về Đà Lạt mộng mơ, xứ mà anh tự nhận mình vừa là cố nhân, vừa là lữ khách. Đó là một Đà Lạt với bầu trời nắng vàng rực giăng đầy mây trắng, những con đường tràn ngập sắc hoa cùng tiếng chuông nhà thờ rộn vang. Đó còn là một Đà Lạt u buồn thống thiết với cơn mưa như giằng xé một khoảng trời thăm thẳm. Dù là thời khắc nào, anh cũng vẫn luôn yêu Đà Lạt bằng một tình yêu bỏng cháy. Tình yêu ấy cùng kỉ niệm đã nuôi anh lớn lên, tiễn anh đi và chắc chắn sẽ đón anh trở về. Bởi Mùi dã quỳ, Chiếc áo len xanh, Ngôi nhà trên đồi, Bánh căn phố núi… mãi mãi là những hoài niệm đẹp nhất trong anh về Đà Lạt. Anh viết tự nhiên như thể Đà Lạt chính là hơi thở, là tình yêu vẹn tròn của đời anh rồi, dù giờ đây, Đà Lạt chỉ còn là nỗi nhớ nhung luôn chực tuôn ra như tiếng thở dài. Và trái tim của anh còn đập mãnh liệt với một vùng đất khác: Sài Gòn với những con người cũ - mới song hành cùng anh trên con đường tuổi trẻ. Những con người nồng hậu đã nuôi dưỡng tâm hồn anh từ khi còn là một cậu bé được đặt giữa sự sống và cái chết, mang đến cho anh những giấc mơ bỏng cháy, cùng anh lớn lên và thành người. Và hơn hết, Sài Gòn chính là nơi đã ôm anh trong những ngày côi cút, giúp anh có đủ niềm tin, có đủ tình yêu để chờ đợi một ngày đón bước chân của chàng trai trẻ quay về bên cha nó, tìm về nơi đã sinh ra mình. Để không còn gì có thể chia cắt được những con người mang tâm hồn Sài Gòn. Sài Gòn trong anh là thế: bao dung, nhân hậu và đầy tình thương yêu với biết bao phận người đa đoan. Đằm thắm và nhiều suy tư, Xứ mộng hồn hoa đã gởi lại những tâm tình rất mực chân thành. Cứ thế, Đà Lạt – Sài Gòn trong những trang viết của Hữu Nam vừa gần gũi quen thuộc, vừa lạ lẫm mới mẻ. Và hơn hết, Xứ mộng hồn hoa ấy không còn là Đà Lạt, Sài Gòn của riêng mình Hữu Nam, đó sẽ mãi là những thành phố thân thương khác, bởi kỳ diệu như tên gọi, tập sách của anh đã là món quà quý giá để mỗi người yêu thêm nơi mình sinh ra và trưởng thành. BBT Phương Nam Book *** Mỗi người trong chúng ta đều có những kỷ niệm với nơi mình sinh ra cũng như lòng biết ơn với vùng đất đã nuôi dưỡng ta trưởng thành, bao bọc ta những năm tháng khó khăn trong cuộc đời, đưa ta đến những nơi chốn khó quên, gặp gỡ những con người nhân ái, mạnh mẽ. Tất cả truyền cho ta một nguồn năng lượng sống dồi dào, mà trong mọi thời khắc ta nguyện dùng nó để đốt cháy hết những đam mê và khát vọng. Tôi có những thước phim rực rỡ và quyến luyến về Đà Lạt trong chuỗi hành trình tìm kiếm kỷ niệm. Những năm tháng ngắn ngủi ở Đà Lạt và những lần trở lại sau đó là nguồn cảm hứng vô tận cho cuộc đời tôi. Những kỷ niệm và nguồn cảm hứng đó giúp tôi có một tinh thần hài hòa, lắng đọng ngay cả khi tôi phải rời xa nơi đây. Và cũng chính tại nơi này, Sài Gòn, tôi có những mẩu chuyện nhỏ với những con người cũ và mới, họ đang cùng tôi song hành với hành trang là tuổi trẻ. Tôi còn rất nhiều điều chưa thể viết ra, những câu chuyện chưa kịp kể, những cái tên chưa thể nhắc đến trong quyển sách nhỏ này, và như vậy đây chưa phải là tất cả những gì mà tôi hằng muốn viết để tri ân vùng đất này. Xin dành lời cảm ơn chân thành đến anh Kỳ Phong Dalatnm, Nora L, Hoàng Tùng, Như Toàn, những người bạn dù chưa một lần gặp nhưng đã nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn thành quyển sách này với những bức hình đẹp, đầy thơ mộng về Sài Gòn – Đà Lạt. Xứ mộng hồn hoa chỉ là góc nhỏ xuất phát từ trái tim tôi, nhưng sẽ vô cùng ý nghĩa đối với tôi nếu như ai đó còn nhớ đến nó với cái tên gần gũi: Tản mạn Đà Lạt – Sài Gòn. 11/11/2015 Mời các bạn đón đọc Xứ Mộng Hồn Hoa của tác giả Lê Hữu Nam.
Nhật Ký Phi Thường
Nhật Ký Phi Thường: - Tiểu thuyết tâm lý giới tính đầu tiên của sinh viên đại học Trung Quốc đương đại. - Cuốn sách cần đọc của thanh niên đương đại. - Một trong mười chủ đề nóng của các trường đại học Trung Quốc năm 2002. - Một trong các tác phẩm bán chạy được sinh viên yêu thích nhất năm 2002. - Một trong các gương mặt sách quen thuộc nhất của người Trung Quốc năm 2002. - "Nếu các tác phẩm như thế này ra đời sớm hơn, cùng với sự đánh giá và hướng dẫn của xã hội, những kẻ bi quan, kẻ tự ti, kẻ tự tử, kẻ thủ dâm sẽ giảm đi rất nhiều, trong đó bao gồm cả bản thân tôi, phương pháp giáo dục mở đã phát huy vai trò quan trọng như thế đối với sự hình thành của nhân cách lành mạnh và sự vun đắp thế giới tinh thần cao đẹp. Xét về ý nghĩa này, có lẽ Nhật Ký phi thường có thể giúp những con người tự ti lạc quan, yêu đời hơn rất nhiều" (Trích trong bài viết Phân tích tiểu thuyết tâm lí giới tính đầu tiên của sinh viên Trung Quốc đương đại - Nhật ký phi thường trên báo Thanh niên Bắc Kinh ra ngày 24 tháng 6 năm 2002). - "Nhật ký phi thường được giới xuất bản gọi là "tiểu thuyết tâm lý đầu tiên của sinh viên Trung Quốc", Bộ giáo dục Trung Quốc gọi nó là "Nỗi đau của chàng Werthwer mới". Tác giả mượn lời của tiến sĩ Tâm lý học Dư Vĩ mới du học từ Mỹ về, kêu gọi phải nhanh chóng tiến hành giáo dục giới tính cho sinh viên. Sau đó tôi mới đọc cuốn sách này và cảm thấy rất cảm động về sự can đảm và tinh thần trách nhiệm của tác giả. Vấn đề giáo dục giới tính cho sinh viên đại học đã được kêu gọi từ những năm 1980, hiện nay vấn đề này đã được coi trọng hơn, một số trường đại học đã có môn học giáo dục giới tính cho sinh viên. Trong này có công lao của Nhật ký phi thường" (Lời bình của giáo sư Lưu Đạt Lâm - nhà xã hội học, nhà tình dục học nổi tiếng của Trung Quốc). "Tiếu Nhân kể cho Dư Vĩ nghe một chuyện kì lạ. Ký túc xá nữ của cô gần đây liên tục xảy ra hiện tượng trộm cắp; quần lót, áo con của nữ nghiên cứu sinh vừa phơi ra ngoài là bị mất ngay. Cô cũng bị mất một chiếc áo con. "Thật ghê tởm! Lấy gì không lấy, lại đi lấy ba cái thứ đó của người ta!" Tiểu Nhân lắc đầu, cảm thấy không sao hiểu nổi. "Anh không nghĩ như thế. Hồi anh còn ở nước ngoài....." "Anh có thể không nói câu "Hồi anh còn ở nước ngoài" được không, nghe cứ thế nào ấy!" Tiểu Nhân càu nhàu. Đây là ngày thứ bảy sau khi họ quyết định chính thức yêu nhau. Quen nhau qua mạng được một tuần thì họ gặp nhau. Cả hai đều rất hài lòng. Điều duy nhất khiến Tiếu Nhân không thích là Dư Vĩ, cứ mở miệng ra lại nói câu "anh ở nước ngoài". Lúc đầu, cô cũng cảm thấy tự hào, hãnh diện, nhưng sau bạn bè cùng phòng nói Dư Vĩ giống nhân vật trong tiểu thuyết Vi Thành, cô lại thấy Dư Vĩ hơi buồn cười. Dư Vĩ cũng không giận, anh nói tiếp: "Ở nước ngoài, hiện tương này rất hay xảy ra, đặc biệt là ở các nước công nghiệp phát triển như Mỹ và một số quốc gia khác. Ý của anh không chỉ nói số vụ xảy ra nhiều hơn ta, mà còn muốn nói rằng họ coi trọng nghiên cứu và trị liệu vấn đề này hơn chúng ta. Anh đã từng tiếp xúc lâm sàng với rất nhiều đối tượng. Lúc đầu, anh cũng cảm thấy hành vi của những người này thật ghê tởm; song sau này anh không nghĩ như thế nữa. Chẳng qua họ bị mắc các chứng bệnh về tâm sinh lý, do không thể làm chủ được mình nên hành động như vậy." "Em không tin là họ không làm chủ được hành vi của mình. Em thấy đó là họ thiếu đạo đức, không biết thế nào là xấu hổ, hành vi của họ đủ để kết tội rồi đấy, cần phải trừng trị trước pháp luật." "Thế thì thật quá đáng. Em tưởng những người này không đau khổ hay sao? Em tưởng họ muốn như thế sao? Họ cũng biết làm vậy là không được, nhưng họ không thể làm chủ được mình. Hơn nữa, tại sao họ lại ra nông nỗi đó? Một trong những nguyên nhân là do sự trói buộc của đạo đức khiến họ mắc các chứng bệnh tâm lý, chẳng hạn chứng thị dâm - thích nhìn trộm ngực, cơ quan sinh dục của người khác giới, chứng phơi bày cơ quan sinh dục - em chưa bao giờ nghe thấy chứng phơi bày cơ quan sinh dục đúng không, tức là chuyện để lộ cái đó ra trước mặt bạn khác giới." Tiểu Nhân cười, mặc dù không trả lời Dư Vĩ, nhưng cô lại nhớ đến thời còn học cấp hai, hằng ngày phải đi xe bus. Trong lớp có mấy cậu bạn nghịch ngợm, cứ giờ giải lao lại tụ tập một chỗ, nói chuyện bậy bạ. Thực ra, có lúc họ cố ý nói cho bạn gái như Tiểu Nhân nghe. Bọn họ nói hay mấy gã đàn ông trên xe bus lôi cái đó ra ngoài và quệt lên người phụ nữ. Thật ghê gớm! Đám con gái hiếu kỳ, họ vừa không dám nhìn, vừa muốn xem thực hư ra sao. Cuối cùng cũng không nhìn thấy. Thời học đại học, trong khu ký túc xá nữ có một tầng dành cho nam sinh. Cầu thang nằm ngay bên cạnh nhà vệ sinh, có rất nhiều sinh viên nam, tối mùa hè thường cởi trần đi đi lại lại, thấy con gái đến là lại giở trò đó. Có mấy cô sinh viên cũng thích nhìn. Phòng Tiểu Nhân có một cô bạn, cứ tối đến lại kể chuyện về con trai. Thực lòng mà nói, mặc dù Tiểu Nhân cảm thấy ghê tởm, nhưng được nghe, kể ra cũng thích........." *** Tiếu Nhân kể cho Dư Vĩ nghe một chuyện kì lạ. Ký túc xá nữ của cô gần đây liên tục xảy ra hiện tượng trộm cắp; quần lót, áo con của nữ nghiên cứu sinh vừa phơi ra ngoài là bị mất ngay. Cô cũng bị mất một chiếc áo con. “Thật ghê tởm! Lấy gì không lấy, lại đi lấy ba cái thứ đó của người ta!” Tiếu Nhân lắc đầu, cảm thấy không sao hiểu nổi. “Anh không nghĩ như thế. Hồi anh còn ở nước ngoài...” “Anh có thể không nói câu “Hồi anh còn ở nước ngoài” được không, nghe cứ thế nào ấy!” Tiếu Nhân càu nhàu. Đây là ngày thứ bảy sau khi họ quyết định chính thức yêu nhau. Quen nhau qua mạng được một tuần thì họ gặp nhau. Cả hai đều rất hài lòng. Điều duy nhất khiến Tiếu Nhân không thích là Dư Vĩ, cứ mở miệng ra lại nói câu “anh ở nước ngoài”. Lúc đầu, cô cũng cảm thấy tự hào, hãnh diện, nhưng sau bạn bè cùng phòng nói Dư Vĩ giống nhân vật trong tiểu thuyết Vi thành1, cô lại thấy Dư Vĩ hơi buồn cười. Dư Vĩ cũng không giận, anh nói tiếp: 1 Tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Tiền Trung Thư, nhân vật chính Phương Hồng Tiệm là một du học sinh ở châu Âu về ‐ ND. “Ở nước ngoài, hiện tượng này rất hay xảy ra, đặc biệt là ở các nước công nghiệp phát triển như Mỹ và một số quốc gia khác. Ý của anh không chỉ nói số vụ xảy ra nhiều hơn ta, mà còn muốn nói rằng họ coi trọng nghiên cứu và trị liệu vấn đề này hơn chúng ta. Anh đã từng tiếp xúc lâm sàng với rất nhiều đối tượng. Lúc đầu, anh cũng cảm thấy hành vi của những người này thật ghê tởm; song sau này anh không nghĩ như thế nữa. Chẳng qua họ bị mắc các chứng bệnh về tâm sinh lý; do không thể làm chủ được mình nên đã hành động như vậy.” “Em không tin là họ không làm chủ được hành vi của mình. Em thấy đó là do họ thiếu đạo đức, không biết thế nào là xấu hổ, hành vi của họ đủ để kết tội rồi đấy, cần phải trừng trị trước pháp luật.” “Thế thì thật quá đáng. Em tưởng những người này không đau khổ hay sao? Em tưởng họ muốn như thế sao? Họ cũng biết làm vậy là không được, nhưng họ không thể làm chủ được mình. Hơn nữa, tại sao họ lại ra nông nỗi đó? Một trong những nguyên nhân là do sự trói buộc của đạo đức khiến họ mắc các chứng bệnh tâm lý, chẳng hạn chứng thị dâm ‐ thích nhìn trộm ngực, cơ quan sinh dục của người khác giới, chứng phơi bày cơ quan sinh dục ‐ em chưa bao giờ nghe thấy chứng phơi bày cơ quan sinh dục đúng không, tức là chuyên để lộ cái đó ra trước mặt bạn khác giới. Tiếu Nhân cười, mặc dù không trả lời Dư Vĩ, nhưng cô lại nhớ đến thời còn học cấp hai, hằng ngày phải đi xe bus. Trong lớp có mấy cậu bạn nghịch ngợm, cứ đến giờ giải lao lại tụ tập một chỗ, nói chuyện bậy bạ. Thực ra, có lúc họ cố ý nói cho các bạn gái như Tiếu Nhân nghe. Bọn họ nói hay gặp mấy gã đàn ông trên xe bus lôi cái đó ra ngoài và quệt lên người phụ nữ. Thật ghê tởm! Đám con gái rất hiếu kỳ; họ vừa không dám nhìn, vừa muốn xem thực hư ra sao. Cuối cùng cũng không nhìn thấy. Thời học đại học, trong khu ký túc xá nữ có một tầng dành cho nam sinh. Cầu thang nằm ngay bên cạnh nhà vệ sinh, có rất nhiều sinh viên nam, tối mùa hè thường cởi trần đi đi lại lại, thấy con gái đến là lại giở trò đó. Có mấy cô sinh viên cũng thích nhìn. Phòng Tiếu Nhân có một cô bạn, cứ tối đến lại kể chuyện về con trai. Thực lòng mà nói, mặc dù Tiếu Nhân cảm thấy ghê tởm, nhưng được nghe, kể ra cũng thích. Dư Vĩ cho rằng không nên có thái độ đối địch với những người đó; do bị mọi người xung quanh kì thị, khinh bỉ, do tính cách tự ti, và còn do cuộc sống bất hạnh trong gia đình nên họ mới như vậy. Đây không chỉ là lỗi của riêng họ. Nói thì như vậy, nhưng Tiếu Nhân vẫn cảm thấy rất bất bình. Nếu chuyện này xảy ra với người khác thì đã đi một nhẽ, đằng này lại xảy ra với chính cô, nên cô vẫn cảm thấy ấm ức. Để thuyết phục Tiếu Nhân, Dư Vĩ lại kể cho cô nghe các câu chuyện biến thái, ngông cuồng mà anh từng gặp; càng nghe Tiếu Nhân càng sợ. Cuối cùng, cô đã hiểu ra vấn đề, nhưng cô không dám tiếp tục ở trong ký túc xá nữa. Buổi tối, bố mẹ Tiếu Nhân muốn gặp Dư Vĩ. Dư Vĩ mời họ đến Trung tâm Âu Á ăn cơm. Bố Tiếu Nhân là một nhà văn, thuộc mẫu nhà văn nghiêm túc. Thời còn trẻ ông từng viết rất nhiều thơ trữ tình đậm màu sắc chính trị, sau đó ông còn sáng tác tiểu thuyết, chủ yếu viết về thời Cách mạng Văn hóa, về nông thôn lao động, tức là loại tiểu thuyết kết hợp cả đề tài nông thôn và đề tài thành thị. Ông luôn nghĩ mình có mặt trên thế gian này là để gánh vác một trách nhiệm nặng nề; mặc dù bản thân ông không có tác phẩm gì thực sự nổi tiếng, nhưng tinh thần của ông vẫn khiến Dư Vĩ cảm động. Ông là một người ôn hòa, nói nhiều, thích chuyện trò. Mục đích của câu chuyện cũng rất rõ ràng, đó là phát biểu ý kiến về mọi vấn đề của xã hội. Bố Tiếu Nhân rất phấn khởi, ông từng đọc khá nhiều bài viết của Dư Vĩ, kể cả luận văn Tiến sĩ Tâm lý học của anh. Dư Vĩ cũng là một người yêu văn học; thời đại học, anh theo khoa Văn, đã từng được đăng một số tác phẩm. Khi còn học tiến sĩ ở nước ngoài, anh cũng gửi rất nhiều bài cho các tạp chí trong nước và đều được đăng. Chỉ có điều những bài đó viết theo lối phát biểu cảm nghĩ, giá trị tư tưởng lớn hơn giá trị nghệ thuật. Trong bữa ăn, bằng một giọng hài hước, Tiếu Nhân đã kể cho bố mẹ nghe chuyện xảy ra trong ký túc xá của mình. Mẹ Tiếu Nhân phát hoảng, chỉ sợ sẽ có chuyện xảy ra với con gái. Bà là một công chức nhà nước, chưa nghe thấy những chuyện như vậy bao giờ. Tiếu Nhân kể xong, ông bố liền lớn tiếng chỉ trích đạo đức xã hội xuống cấp. Ông cho rằng không thể tha thứ hành vi đó, nhưng xét cho cùng là do xã hội gây ra. Ông nói: “Thời còn lao động ở nông thôn, tôi đã từng nghe vài chuyện tương tự. Cũng do môi trường xã hội dạo ấy không tốt, những kẻ làm việc đó đều là người chẳng ra gì. Nhưng khi lên đại học, tôi không còn nghe thấy những chuyện như vậy nữa. Làm sao chuyện này có thể xảy ra trong học đường? Mọi người cùng vùi đầu vào sách vở, học hành bận rộn, quý trọng thời gian, đâu như sinh viên bây giờ, suốt ngày chỉ nghĩ đến chuyện yêu đương, lãng phí tuổi trẻ. Bà xem, thật không thể ngờ lại có chuyện như vậy!” “Ông thì lúc nào chẳng nói thời đó tốt; môi trường xã hội bây giờ khác xưa rồi, đầu óc ông vẫn cổ hủ quá.” Mẹ Tiếu Nhân trách. Nghe vậy, bố Tiếu Nhân càng bực mình hơn. “Ông Chu, hàng xóm nhà mình – cái ông diễn viên kịch nói có thời đoạt giải Hoa Mai gì gì ấy, có một đứa cháu gái mới chín tuổi. Một hôm, ông bực tức kể đã gặp mấy đứa trẻ đứng ở cửa cầu thang đang bắt chước cảnh làm tình trên tivi, ông ấy không dám tin vào mắt mình. Ông ấy bảo rất lo cho đứa cháu gái, chỉ sợ xảy ra chuyện gì. Nhưng phòng tránh thế nào? Mình không thể theo sát nó ngày ngày, cũng không thể cấm nó tiếp xúc với xã hội. Thật đáng ngại quá!” Dư Vĩ nói: “Ở nước ngoài thì khác; ngay từ nhỏ người ta đã tiến hành giáo dục giới tính cho trẻ. Không chỉ nhà trường dạy các kiến thức đó, mà cả phụ huynh cũng không né tránh; thế nên suy nghĩ của họ rất cởi mở, không thần bí hóa, cũng không kiêng kị nó như chúng ta ở đây. Cần phải hiểu một tâm lý phổ biến của con người là: càng cấm lại càng muốn lao đến.” Dư Vĩ kể cho bố mẹ Tiếu Nhân nghe những chuyện mình được tận mắt chứng kiến ở nước ngoài, nhưng chắc bố Tiếu Nhân đã mất hứng từ lâu, ông ngắt khéo lời Dư Vĩ: “Thanh niên bây giờ, động một tí là lại nói nước ngoài, cứ như nước ngoài cái gì cũng tốt, còn ta cái gì cũng xấu.” Tiếu Nhân cũng lườm Dư Vĩ một cái. Dư Vĩ vừa ấm ức vừa ân hận, vội giải thích: “Dạ không phải thế, ý cháu muốn nói rằng, chuyện này ở nước ngoài là rất bình thường, nhưng ở trong nước thì mãi gần đây mới được mọi người chú ý. Thực tế ở nước mình, chuyện này không hiếm. Tuy nhiên từ trước tới nay, người ta mới chỉ nói về nó một cách bông đùa chứ chưa chú trọng nghiên cứu.” “Nghiên cứu thì được, để cho thoải mái thì không được. Lấy ví dụ ở nước ngoài nhé, từ nhỏ đã coi những chuyện đó như chuyện thường nhật, thanh thiếu niên mới tí tuổi đầu đã có quan hệ tình dục. Cháu bảo như thế có hay không? Nước ngoài có rất nhiều người đang nghiên cứu về vấn đề này, kết quả nghiên cứu ra sao? Càng mở cửa thì càng nảy sinh nhiều vấn đề.” Rõ ràng bố Tiếu Nhân cũng đang cố gắng kìm chế mình. “Nhưng mở cửa còn tốt hơn là không mở cửa.” Tiến sĩ Tây học không chịu nhường lời. “Chưa chắc. Việc gì cũng phải có cái “độ”’ của nó. Đạo trung dung mà tổ tiên chúng ta nói chính là ám chỉ ý đó.” “Chính vì phải chú trọng cái “độ” đó nên mới cần người nghiên cứu.” Không khí có phần căng thẳng. Cả hai người phụ nữ đều cảm thấy khó xử. Lần đầu gặp nhau đã tranh cãi, bảo vệ ý kiến của mình, có thể thấy tư tưởng không phải là thứ hay. Nhưng hình như đàn ông lại không nghĩ như thế, cứ đòi phải thắng bằng được đối phương về mặt tư tưởng.   Mời các bạn đón đọc Nhật Ký Phi Thường của tác giả Từ Triệu Thọ.
Chớ Gọi Tôi Là Người
Để rửa mối nhục thất bại của dân Trung Quốc trên đấu trường võ thuật quốc tế, một tổ chức dân gian tự xưng là Ủy ban Tổng động viên nhân dân toàn quốc, gọi tắt là Tổng hội, nỗ lực lần theo manh mối quyết tìm cho ra truyền nhân của phái Đại Mộng Quyền, tương truyền là môn phái thượng đình có thể mượn lực chế nhân, vô địch thiên hạ. Tình cờ, bọn họ nhận ra anh chàng đạp xe xích lô tên Đường Nguyên Báo ở ga Bắc Kinh chính là người thừa hưởng bí kíp võ thuật. Và thế là, vô số màn hoạt náo bi hài đã được bày ra dưới ngòi bút của ông vua "văn học lưu manh" Trung Quốc. Đầy ắp tính biểu tượng và những đặc trưng văn hóa, xã hội không kèm giải thích, cuốn sách là một thách thức với cả những độc giả đã trót say mê thế giới nghệ thuật độc đáo, kỳ dị của Vương Sóc. "Khác lạ đến mức khó chịu... Cốt truyện đơn giản, mặc dù nó đã lạc bước vào sự cường điệu hoang đường phóng túng đến độ đáng kinh ngạc..." - USA Today "Vương Sóc, được coi như 'Kerouac của Trung Quốc'... Vở hài kịch siêu thực này mang đến một kết thúc đậm tính khải huyền." - The Economist Người khác nhau ôm động cơ viết tiểu thuyết khác nhau. Đa số tiểu thuyết không cần phải nhìn nhận một cách nghiêm túc. nếu cứ khăng khăng muốn hỏi câu vì sao, chỉ càng khiến đầu óc mình rối loạn. Nói theo một ý nghĩa nào đó, tôi là người không có đầu óc, càng không phải kẻ dốc hết tâm sức, cần mẫn miệt mài. Thoạt tiên hiểu ra điểm này, mọi người mới có thể tránh việc tự mình dẳn vặt. Tôi đề nghị bạn hãy xem thứ này là một mớ càn xiên bát nháo." - Vương Sóc *** "Cuộc họp hôm nay có bốn vấn đề cần thảo luận.Vấn đề thứ nhất do đồng chí Trưởng Ban thư ký Ủy ban tổ chức giải thi đấu tự do Trung Quốc mở rộng Triệu Hàng Vũ trình bày về tình hình hoạt động của Ban thư ký trong giai đoạn trước với các cổ đông, vấn đề thứ hai là do trong các cổ đông có tồn tại một số ý kiến không tín nhiệm một vài lãnh đạo của Ban thư ký, để giải tỏa thắc mắc của các cổ đông, để chứng minh lần thi đấu này là thực sự cần thiết, chúng tôi đã tìm được một băng video ghi cảnh thi đấu ở Sapporo[1], sẽ phát cho các vị cổ đông xem trong thời gian giải lao. Vấn đề thứ ba có liên quan tới việc đổi tên cho Ủy ban tổ chức giải thi đấu tự do Trung Quốc mở rộng và cơ cấu thường trực của Ban thư ký. Vấn đề thứ tư là để công việc được tiến hành thuận lợi, chúng tôi thực hiện hoạt động nhận tiền quyên góp lần thứ ba - mong các vị cổ đông không ra về trước giờ tan họp." Đây là một nhà hát có súc chứa tới hơn nghìn người, hiện giờ các chỗ ngồi đều vắng tanh vắng ngắt. Trên sân khấu bày chiếc bàn tròn lớn, người tham dự cuộc họp ngồi chen chúc xung quanh, một luồng ánh sáng chiếu lên gương mặt người chủ trì. Đó là một thanh niên cực kỳ đẹp trai. Luồng ánh sáng chuyển động về phía người đàn ông đeo kính có gương mặt xanh xao, mái tóc bù xù đang ngồi cạnh người chủ trì, mắt kính phản quang khiến người ta gần như không thể nhìn thấy đôi mắt của ông ta. Xem cách nói gấp gáp cũng đủ nhận ra đây là người dễ bị kích động. Ông ta chính là Triệu Hàng Vũ, Trưởng Ban thư ký Ủy ban tổ chức giải thi đấu tự do Trung Quốc mở rộng. "Về công việc của Ban thư ký Ủy ban tổ chức giải thi đấu tự do Trung Hoa mở rộng, tôi xin trình bày bốn điểm. Sau khi trình bày xong mời các vị cổ đông đặt câu hỏi, hỏi trực tiếp hay đưa giấy cũng được, tôi xin lần lượt trả lời. Nếu có câu nào tôi không trả lời được thì những đồng chí khác trong Ban thư ký sẽ giải đáp. Trước tiên tôi cần phải nói rằng êkíp Ban thư ký đã làm việc rất tốt, công việc cũng có chút thành tích. Thứ hai là Ban Thư ký làm việc rất vất vả. Ở đây tôi có vài con số muốn nói cho mọi người biết, từ khi Ban thư ký bắt đầu làm việc, mọi nhân viên chúng tôi từ trên xuống dưới chưa từng được ăn ngon ngủ yên. Chặng đường đã đi vất vả như đường từ Bắc Kinh vượt qua Thái Bình Dương tới San Francisco vậy. Tổng cộng ăn hết hơn bảy nghìn gói mì tôm, hút hơn mười bốn nghìn điếu thuốc, uống tới hơn một trăm cân trà. Trong trương mục đã ghi rõ các khoản tiền, không một xu nào rơi vào túi riêng của tôi cả. Thứ ba, cá biệt có thể có đồng chí khi nấu mì đã ăn vài quả trứng chiên, khi làm đêm ngoài uống chè ra còn dùng thêm ít mật ong. Đối với những trường hợp chi vượt tiêu chuẩn như vậy, chúng tôi phát hiện một xử lý một, quyết không nương tay. Cũng xin hoan nghênh các đồng chí đã thẳng thắn phê bình. Sau đây tôi xin trình bày về tình hình công tác của Ban thư ký gần đây, cũng chính là điểm cuối cùng. Trong hội nghị cổ đông lần trước, chúng ta đã ra nghị quyết phải tìm truyền nhân của Đại Mộng quyền. Hội nghị vừa kết thúc, chúng tôi đã lập tức phái 9 đội đi khắp nơi tìm kiếm. Tính tới đêm qua đã có 8 đội trở về. 8 đội này đã đi khắp Tam Sơn Ngũ Nhạc nhưng đều trở về tay trắng. Giờ chúng ta chỉ có thể hy vọng vào đội thứ 9 mà thôi. Đội này do nữ nhân viên giỏi nhất của Ban thư ký là Bạch Độ dẫn đầu, trước lúc xuất phát tôi đã kiên quyết ra lệnh: Không tìm được truyền nhân Đại Mộng quyền thì đừng quay về gặp tôi! Tôi rất tin tưởng năng lực của đồng chí Bạch Độ, chỉ cần người đó còn sống thì dù phải đi khắp chân trời góc bể cô ấy cũng sẽ tìm được anh ta. Tuy nhiên có một sự thực khốc liệt đang bày ra trước mắt chúng ta, chúng ta không thể không nghĩ tới khả năng Đại Mộng quyền đã bị thất truyền. Nói cho cùng thì lần cuối cùng chúng ta nghe được tin tức về truyền nhân Đại Mộng quyền là hơn 90 năm trước. Chúng tôi nhận ra người tráng sĩ Nghĩa Hòa Đoàn[2] bị giải ra pháp trường trong bức ảnh năm đó chính là Chưởng môn nhân của Đại Mộng quyền." Triệu Hàng Vũ mở chiếc túi da đen đặt trên bàn, lấy ra một tấm ảnh đen trắng đã được phóng to. Trong ảnh là một đám dân đen áo quần rách rưới đang bị đội lính tuần tay cầm yêu đao giải ra pháp trường. Trong đó có một người đàn ông da đen mình trần, dáng người mập mạp, tóc tết đuôi sam quấn quanh cổ, bên cạnh có đánh dấu một mũi tên đen nho nhỏ. "Đây là do nhân viên tình báo của chúng tôi chụp lại trong điện Louvre ở Paris. Người đàn ông có mũi tên đen chỉ vào ở trong ảnh chính là Chưởng môn đương thời của Đại Mộng quyền, còn danh tính quê quán thì không có cách nào khảo cứu." Triệu Hàng Vũ đưa tắm ảnh cho người bên cạnh để mọi người truyền tay nhau xem, ai cũng nhìn đi nhìn lại người đàn ông thô kệch trong bức ảnh một cách hứng thú. "Giống gã đồ tể phải không?" Triệu Hàng Vũ châm điếu thuốc, hỏi người đàn ông gầy gò có dáng dấp như một vị giám đốc với mái tóc bóng mượt, mặc âu phục đeo kính gọng vàng đang chăm chú nhìn bức ảnh. "Anh nên hiểu điều này, chân nhân bất lộ tướng." "Các anh làm thế nào để biết đây là Chưởng môn của Đại Mộng quyền?" Người đàn ông gầy gò hỏi lại. "Chúng tôi có bốn bằng chứng để chứng minh điều này." Triệu Hàng Vũ gẩy gẩy tàn thuốc, chậm rãi nói. "Đầu tiên chúng tôi tra trong hồ sơ lưu trữ của nhà Thanh, và đọc một số lượng lớn ngoại truyện dã sử có ghi chép về các hoạt động chiến đấu của Nghĩa Hòa Đoàn suốt một dải từ Bắc Kinh đến Thiên Tân. Tất cả các ghi chép đều cho thấy rằng, năm đó, khi Nghĩa Hòa Đoàn hoạt động mạnh mẽ nhất, dưới quyền của Tào Phúc Điền ở huyện Tĩnh Hải thành phố Thiên Tân có viên đại tướng giỏi dùng Đại Mộng quyền, mượn lực chế nhân, súng đạn Tây dương không động đến được một sợi lông của người đó. Cuộc chiến tại tô giới Tử Trúc Lâm và giáo đường North Cathedral anh ta đều tham gia, giết chết vô số người Tây. Sau khi khu vực Bắc Kinh, Thiên Tân bị chiếm đóng, có người trong đội quân của Lưu Thập Cửu ở thôn Cao Gia còn nhìn thấy anh ta. Sau đó, vị hảo hán này cùng bị bắt với Đại Đao Vương Ngũ ở Bắc Kinh, bị chém ở Thái Thị Khẩu[3]. Đó là điểm thứ nhất. Thứ hai, thông qua bức ảnh này, chúng tôi đã tìm được con cháu của người tuần bổ dẫn đầu trong ảnh. Người lính tuần này đã tự sát vì sợ tội trong Cách mạng văn hóa, nhưng chúng tôi tìm được 'Đại Mộng quyền phổ' trong nhà ông ta. Căn cứ vào lời kể của Quế Lôi Thanh, cư dân ở số 125 ngõ Thái Lai, phố Tiểu Quách Trang, quận Hà Đông thành phố Thiên Tân, cha anh ta có được cuốn quyền phổ này khí xử trảm tù binh Nghĩa Hòa Đoàn năm đó, rốt cục là vị nào thì không thể biết được. Người của Nghĩa Hòa Đoàn bị bắt không nói rõ danh tính, chỉ luôn miệng nói: 'Sau hai mươi năm nữa lại làm một trang hảo hán'. Có một điểm có thể khẳng định, cha anh ta chỉ tham gia hành động sát hại các tráng sĩ của Nghĩa Hòa Đoàn một lần. Mà là do lính Tây bắt đi và bị chụp ảnh lại. Bởi vậy, cuốn quyền phổ này phải là của những người trong bức ảnh. Chúng tôi cũng tìm được ngài Boll Per là con cháu của vị giáo sĩ truyền giáo người Pháp Bo 11 Per - người đã chụp lại bức ảnh này, hiện nay đang làm tùy viên của Đại sứ quán Pháp tại Trung Quốc. Ngài ây đã rất nhiệt tình kê khai cho chúng tôi danh sách những người bạn của ông nội đã từng đến Trung Quốc hồi đó. Cuối cùng chúng tôi đã tìm được viên hạ sĩ quan chỉ huy quân Pháp trước kia nay ở thành phố Toulouse phía Nam nước Pháp tên là Radu, chính là người châu Âu mặc quân phục đứng cuối hàng trong bức ảnh. Ông cụ đã hơn một trăm tuổi, nhưng vẫn còn tráng kiện, ký ức về những việc đã xảy ra trong cuộc viễn chinh đến Trung Quốc vào cuối thế kỉ trước cũng còn rất rõ, đương nhiên bây giờ ông có quan hệ rất hữu hảo với nhân dân Trung Quốc. Sau khi biết ý định của chúng tôi, ông Radu đã lập tức chỉ cho chúng tôi người đàn ông mà mũi tên chỉ vào, nói anh ta chính là 'bậc kỳ nhân có thể làm thay đổi hướng bay của đạn'. Theo lời kể của Radu, ông đã từng chiến đấu với người này, khi đó một hàng người nhằm vào anh ta cùng bắn, nhưng tất cả đạn bắn ra đều bay ngược trở lại làm chết một loạt lính Tây ngay tại đó. Trong lúc hoảng loạn, ông Radu đã nhắm bắn lên trời, không ngờ phát súng lại bắn trúng vào người đó, thế là bọn họ ùa đến bắt anh ta lại, còng tay giải đi." "Đáng tiếc, đáng tiếc!" Tất cả cùng than thở. "Nhân tiện nói thêm, ông Radu cảm thấy rất hối hận về những gì mình đã làm khi còn trẻ, luôn miệng nhờ chúng tôi chuyển lời xin lỗi của mình đến nhân dân Trung Quốc." "Tôi có bốn vấn đề muốn hỏi đồng chí Trưởng Ban thư ký." Một vị chủ doanh nghiệp nông sản da mặt đen sạm, dáng vẻ thông minh hỏi Triệu Hàng Vũ: "Thứ nhất, nếu việc có hay không truyền nhân của Đại Mộng quyền còn chưa xác định được, vậy chúng ta có cần tiếp tục lãng phí tiền bạc và nhân lực để tìm kiếm hay không? Các môn phái võ lâm của nước ta đầy đủ cả, lẽ nào lại không thể sánh với Đại Mộng quyền hay sao? Anh sống chết theo đuổi cuộc tìm kiếm này phải chăng là vì một mối quan hệ cá nhân nào đó? Thứ hai, người Tây đã khôi phục lại quan hệ hữu hảo với nước ta, vì hòa bình thế giới, chúng ta có cần thiết gây chiến như vậy không? Thứ ba, nhân viên của Ban thư ký chỉ vẻn vẹn có hơn mười người, công việc cũng mới bắt đầu được một tuần, thế mà đã ăn hết bảy nghìn gói mì tôm, uống tới hơn một trăm cân trà, thực quá phí phạm. Nếu cứ tiếp tục như vậy, tôi khó lòng gánh vác được, cho dù có khó hạ thấp thêm tiêu chuẩn thì cũng nên bãi bỏ việc ăn uống quá ngon, nghiện thuốc quá nhiều đi, chung quy lại, không phải chúng tôi mời người ta đến ăn uống. Thứ tư, các anh đi Pháp điều tra, sao không sắp xếp để đại biểu cổ đông dẫn đầu?" "Tôi xin được trả lời bốn câu hỏi mà vị đại biểu này đã nêu." Triệu Hàng Vũ nghiêm túc nói. "Cũng là bốn điểm. Thứ nhất, chúng tôi không chuẩn bị để chết treo trên một cái cây là Đại Mộng quyền. Đồng thời với việc tìm kiếm truyền nhân của Đại Mộng quyền, chúng tôi cũng tiến hành liên hệ với truyền nhân của các phái như Đại Bằng quyền, Ưng Trảo Hầu quyền. Một khi chứng minh được Đại Mộng quyền đã thất truyền thì sẽ mời họ xuống núi. Ngoài ra, về hứng thú của cá nhân tôi với Đại Mộng quyền thì chỉ là muốn khống chế địch giành thắng lợi mà thôi, không hề có động cơ cá nhân nào trong đó. Đại Mộng quyền mượn lực chế nhân thực sự là tuyệt chiêu đúc kết nghìn năm tính túy của nước ta, chờ lát nữa xem video các vị sẽ biết. Nếu đem so thể lực với sự hung tợn thì những dàn tộc ăn rau quả như chúng ta khó có thể thắng được các chủng tộc ăn thịt - như bản thân tôi, nếu tính về mười đời trước thì cũng là môn đệ thư hương. Thứ hai, những người Tây già cả không phải lo, nhưng bọn Tây trẻ vẫn hung hăng sừng sộ. Nhìn thế giới ngày nay, chúng ta khó có thể tranh với người khác, đánh nhau không lấy được một cái huy chương vàng, sĩ diện của tổ tông coi như đã bị lũ con cháu hèn kém chúng ta làm cho mất hết rồi." "Cả nước cùng tiến lên rất khó," người chủ trì xen vào. "Hơn một tỷ người phục vụ một người nổi trội nhất thì còn có thể. Để tôi nói, thứ mà tổ tông để lại ngoài ăn ra thì còn có đánh nhau." "Tôi vẫn chưa nói hết." Triệu Hàng Vũ bất mãn lườm người chủ trì một cái, nói với mọi người. "Không làm như vậy không được, nỗi sỉ nhục hơn một trăm năm nay không tìm người thay chúng ta thì không thể được. Tôi bất chấp tất cả, ai có thể giúp được chúng ta, tôi sẽ móc cả trái tim mình ra trao cho người ấy. Anh chưa nghe người nước ngoài nói: 'Một người Trung Quốc là một con rồng, một nhóm người Trung Quốc là một ổ giòi."' "Đây là nói quá về chúng ta."   Mời các bạn đón đọc Chớ Gọi Tôi Là Người của tác giả Vương Sóc.