Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Miền Đất Dấu Yêu

Tặng các bạn thích các chuyện tình lãng mạn nhẹ nhàng để qua thời gian stay home chán ngắt trong mùa dịch Covid-19. (Truyện này Sẻ dịch đã lâu và đăng trên trang nhà, định edit xong rồi mới phổ biến ebook. Nhưng bây giờ, tình hình bận rộn và lửa nhiệt tình đã khô cạn nên thôi đành bỏ cuộc.) Nếu các bạn bỏ qua cho một số lỗi khi dịch vội vàng thì đây là một chuyện tình rất dễ thương, đủ để giải trí cho một buổi chiều rảnh rỗi. *** Những lời hứa ngọt ngào… Những mưu chước thâm hiểm… Summer mắt tím chỉ là một cô bé khi cô nghe những lời hứa hẹn ngọt ngào… em sẽ lớn lên, cô gái mùa hè, và rồi anh sẽ đến và đưa em về nhà… Bây giờ cô đã trở thành một vẻ đẹp kiêu hãnh và đã về nhà an toàn giữa những ngọn đồi hoang dã ở vùng biên giới Texas,… ở nhà cùng Slater McLean, một chủ trại đẹp trai khao khát nỗi đam mê trong sự hăng hái ngây thơ của cô… Nhưng một phụ nữ thâm hiểm đã quyết định tiêu diệt tình yêu của họ, chiếm đoạt khỏi Slater những mẫu đất giàu có nhất của vùng Texas. Một phụ nữ với một vũ khí bí mật : một bức thư sẽ khiên Summer ô nhục mãi mãi… *** Dorothy Garlock là một trong những tác giả bestseller của NEW YORK TIMES, USA TODAY, WASHINGTON POST... Với trên 50 tác phẩm chủ yếu viết về mảnh đất miền Tây hoang đã được dịch sang 18 thứ tiếng, xuất bản ở 36 quốc gia cùng 20 triệu bản in trên toàn thế giới, Dorothy Garlock được mệnh danh là “Tiếng nói của đất mẹ Mỹ - The voice of America’s heart”. Bà đã đạt được hơn 21 giải thưởng danh giá trong sự nghiệp văn chương đồ sộ của mình. *** Ngày thứ Sáu cuối cùng cũng đến. Nó theo sau năm ngày khốn khổ nhất trong cuộc đời của Summer. Hôm nay, vào buổi trưa, nàng sẽ bắt chuyến xe khách sẽ đưa nàng rời khỏi Hamilton mãi mãi. Vào lúc sợi nắng đầu tiên của bình minh vươn đến, nàng ngồi dậy và thay quần áo rồi ngồi bên cạnh cửa sổ. Sau đó, nàng ăn điểm tâm, để lại chiếc khay ngoài hành lang, nàng đóng gói lại hành lý và quay về ô cửa sổ, nơi nàng có thể nhìn thấy Jesse, gã sẽ đến và đưa nàng đến trạm xe khách.   Jesse đã ghé thăm nàng hai lần trong năm ngày vừa qua. Nàng nghĩ nàng sẽ mất trí nếu không có những cuộc ghé thăm của gã. Gã là một người khác biệt hoàn toàn với những gì mà thoạt đầu nàng đã tin. Nàng phát hiện ra gã là một người thật cô độc. Nàng có thể hiểu bằng cách nào Ellen thu phục được nhiều tình yêu và lòng trung thành đến thế từ gã. Cho dù gã không kể với nàng, nàng biết cái chết của Ellen đã cho gã tự do để yêu Sadie. Gương mặt gã thường có nét cười, mang vẻ thiết tha khi gã nói về chị ấy và Mary.   Gã kể với Summer đôi chút về kế hoạch của gã về tương lai. Slater, gã giải thích, giờ đã là chủ nhân của Rocking S. Hắn chắc chắn rằng đó là cách toà sẽ phân xử, vì Slater là người thừa kế duy nhất còn sống trong chừng mực bất kỳ ai biết. Khi mọi thứ đã ổn định, gã và Sadie sẽ kết hôn và bắt đầu xây dựng một nơi chốn ở đâu đó.   “Slater sẽ muốn ông ở lại.” Summer nói.   “Đã đến lúc tôi bắt đầu xây dựng thứ gì đó cho riêng mình,” là lời đáp đơn giản của gã.   Summer tựa đầu vào thành cửa sổ. nàng biết mỗi inch của con đường bên dưới, mỗi mắt gỗ trên vách toà nhà đối diện. Nàng chẳng có gì khác để làm trong năm ngày trống trải ngoại trừ nhìn chằm chằm ra ngoài ô cửa sổ. Nàng không bước ra khỏi phòng, chỉ gặp người chủ khách sạn một lần và đó là khi hắn đặt chiếc khay bên ngoài cánh cửa và nàng nghĩ hắn đã đi rồi, những hắn đang đứng ngoài hành lang đợi nàng ra ngoài để có thể nhìn thoáng qua nàng. Không hiểu sao, vẻ dâm đãng của hắn khiến nàng cảm thấy tội lỗi và không trong sạch.   Bóng đổ trên toà nhà đối diện nói với nàng rằng sẽ không còn lâu nữa đến khi mặt trời ở trên đỉnh đầu. Nàng bắt đầu cảm thấy lo âu. Jesse đã nói gã sẽ đến đây và gã sẽ làm, nàng tự nhủ. Tuy vậy, thời gian như bị kéo dài trong lúc nàng quan sát. Nỗi lo âu khiến nàng xoắn chiếc khăn tay vòng vòng trên những ngón tay, và ngay lúc nàng nhìn thấy gã quành vào góc phố và hướng đến khách sạn, chiếc khăn đã ướt đẫm. Với một cảm giác hết sức nhẹ nhõm, nàng đứng lên và đội nón, ghim nó cẩn thận vào mái tóc bới cao của nàng để gió sẽ không hất nó bay khỏi đầu. Jesse chưa lên ngay và nàng đoán gã sắp xếp với người chủ khách sạn. Nàng lấy tiền mà Slater đã đưa cho nàng ra sẵn và đợi.   “Summer?” Giọng của Jesse.   Nàng mở khoá cửa, “Hello, Jesse.”   “Tiền khách sạn đã được trả rồi, hãy cất tiền của cô đi. Cô sẽ cần nó. Tôi đã có vé cho cô đến Austin, và Bill nói ông ấy sẽ coi chừng cho cô. Đi thôi, ông ấy đang đón khách rồi.” Khi Summer phản đối chuyện tiền nong, gã nói, “Ồ, để sau đi. Sadie và tôi có lẽ sẽ sang Austin. Chúng tôi có thể tìm thấy cô ở đâu?”   “Tôi quyết định sử dụng tên của mẹ tôi. Wheeler. Tôi sẽ để lại lời nhắn tại trạm bưu điện.”   Summer hếch cằm cao lên một chút và vươn thẳng lưng khi họ đi bộ vào trong ánh nắng ban trưa. Jesse nhấc rương hành lý lên vai và đặt một bàn tay bên dưới khuỷu tay nàng. Khi họ đến trạm xe khách, nàng nhận thức rõ về những đôi mắt hiếu kỳ đuổi theo sau họ, và gương mặt nàng bừng cháy. Nàng buộc bản thân chuyển ánh mắt khỏi con đường đầy bụi và nhìn thẳng về phía trước, gương mặt nàng dịu xuống, những cảm xúc như đã bị chôn nén bên trong nàng.   Bill, người đánh xe đã đưa nàng và John Austin đến Hamilton, đang đợi bên cạnh chiếc xe khách. Ông đón hành lý của Summer từ Jesse và nhấc nó lên cho người phụ lái để ràng chúng vào giá để hành lý.   Vì đã đến lúc phải ra đi, Summer muốn níu chặt lấy Jesse. Đọc được suy nghĩ của nàng, vẻ đau đớn trên gương mặt nàng, gã siết chặt cánh tay nàng và khom xuống thì thầm trấn an :   “Rồi sẽ tốt đẹp thôi mà, Summer. Nhớ nhé, nếu mọi thứ chẳng ra sao, hãy viết cho đại uý Slane tại pháo đài. Ông ấy sẽ gởi cho tôi. Nào, cô sẽ làm điều đó chứ?”   Chiến đấu kềm lại nước mắt, nàng gật đầu. “Cám ơn ông.” Nàng thì thầm qua đôi bời môi run rẩy.   Jesse xoay người và nhấc nàng vào trong khoang hành khách, gương mặt của chính gã cũng đang khoác một chiếc mặt nạ để che dấu cảm xúc. Summer ngồi xuống bên cạnh một phụ nữ Mexican ôm một em bé đang ngọ nguậy. Khoang xe đã đầy hành khách; ba người đàn ông và một phụ nữ ngồi bên cạnh người phụ nữ đang ôm đứa bé. Những người đàn ông có vẻ cáu kỉnh vì sự chậm trễ, và nhìn chằm chằm vào nàng với vẻ bực bội. Chiếc roi ngựa quất vun vút, khoang xe tròng trành và bắt đầu lăn bánh. Summer, ngồi ở phía sau cùng, chú mục vào Jesse cho đến khi không còn nhìn thấy gã nữa. Đường mòn chuyển vào một khúc quanh, một đám mây bụi tung mù phía sau họ, và để lại thị trấn phía sau lưng.   Có vẻ như với Summer, nàng chỉ có một mình trong một thế giới cô đơn. Thật ra, nàng chưa bao giờ từng thấy cô độc như nàng đã trải qua năm ngày vừa qua. Trên đường rời khỏi Piney Woods, nàng có John Austin để chăm sóc. Trong chuyến xe tương tự họ đã đi đến Hamilton tìm Sam McLean. Họ đã tìm thấy ông, thật vậy, Sammer chua xót nghĩ.   Sức nóng thiêu đốt bên trong khoang xe. Summer gỡ nón để quạt mát bản thân và luồng gió nhẹ tạo ra đã giúp làm đứa bé im lặng. Nàng cầu nguyện rằng dạ dày của nàng sẽ giữ yên được. Bình thường vào buổi trưa nó sẽ dịu xuống, nhưng hôm nay, nàng đã quá lo lắng khi chờ đợi Jesse đến mức nàng đã lên tục nuốt xuống để giữ cho miệng nàng không lấp đầy nước miếng.   Nàng quan sát những ngọn đồi đang mờ dần nhường chỗ cho màu sắc của ánh dương và bầu trời; quan sát thảo nguyên mênh mông trải dài đến vô tận. Nàng nhìn chằm chằm trở lại đường mòn cho đến khi ánh mặt trời bắt lấy giọt nước ở khoé mắt nàng. Một con đại bàng chuyển động theo đường xoắn ốc bay vút lên trời, vươn thẳng đến vầng thái dương cho đến khi nó chỉ là một chấm nhỏ trong khoảng không bao la. Ồ! để trở thành một cánh chim bằng!   Phần tồi tệ nhất trong nỗi đau của nàng bị vùi sâu phía sau tâm trí và nàng cương quyết không để nó nổi lên bề mặt. Rồi sẽ có tất cả thời gian, bên lề những ảo tưởng, để hành hạ nàng, nhắc nhở nàng.   Họ làm băn toé nước băng ngang qua một con lạch nông và lăn bánh vào trong một điểm dừng. Vì trời quá nóng, Bill nói họ sẽ mất thêm vài phút sau khi những con ngựa mới được móc vào, nếu như có ai muốn được ra ngoài xe. Mọi người đều xuống xe ngoại trừ Summer. Nàng ngồi và đợi, hầu như không nhận thức được rằng lưng váy nàng đã ướt sũng mồ hôi và một dòng suối nhỏ đã chảy giữa đôi bờ ngực. Người phụ nữ Mexican ẵm đứa bé đã mang cho nàng một môi nước. Summer uống một cách khao khát, tham lam và cám ơn người phụ nữ bằng những từ đẫm lệ.   Chiếc xe lăn bánh trở lại, Bill khua vun vút chiếc roi và hét vang với nhóm người mệt mỏi để bắt kịp những phút đã mất. Buổi chiều chậm trôi. Không ai nói chuyện. Đứa bé đã ngủ. Chiếc xe giống như một lò lửa. Summer cảm thấy đầu nhẹ bẫng, giông như nàng đang trôi nổi. Chuyến xe đày ải khiến mọi inch trên con đường để lại dấu vết cơ thể đau nhức của nàng. Nàng tựa đầu ra phía sau và nhắm mắt, trí óc nàng quá kiệt sức để có thể suy nghĩ.   Khi chiếc xe chậm lại và đến một điểm dừng, nàng không bận tâm nhấc đầu lên hoặc mở mắt ra cho đến khi giọng nói của người đàn ông ngồi đối diện bùng nổ.   “Giờ đến chuyện quái gì nữa đây? Chúng ta không bao giờ đi đến nơi với tốc độ như thế này.”   Summer nhìn ra ngoài cửa sổ, nheo nheo mắt lại, nghĩ rằng nàng nhìn thấy Jack đang ngồi trên con ngựa màu nâu đỏ to lớn và nói chuyện với người đánh xe. Nàng chớp mắt vài lần và nhìn lần nữa. Ông ấy vẫn ở đó. Với một ngày cực nóng như hôm nay, trên chuyến xe nóng hầm hập này, nàng cảm thấy một cơn rùng mình ớn lạnh đến mức phải nghiến chặt quai hàm để giữ cho đôi hàm răng nàng không khua lách cách. Làm sao điều này có thể xảy ra? Ông ấy không thể biết nàng ở trên chuyến xe này được. Nàng lùi sâu vào trong chỗ ngồi, giữ chiếc nón phía trước như thể để che gương mặt nàng khỏi ánh mặt trời. Nàng cảm thấy chiếc xe đu đưa khi Bill nhảy xuóng khỏi chỗ ngồi trên cao, nghe thấy tiếng cánh cửa khoang hành khách mở ra.   “Thưa cô,” Bill đang nói với nàng, “Jack đây nói rằng ông ấy đến để mang cô ra khỏi xe.”   “Không! Tôi đã trả tiền vé của tôi rồi. Tôi sẽ đến Austin.”   “Điều đó tuỳ thuộc vào cô, thưa cô, cho dù cô muốn đi hay ở lại.” Bill nói cương quyết, và đóng sầm cánh cửa.   Một vài phút trôi qua, và cánh cửa mở ra lần nữa. Jack đứng đó nhìn xuống Summer. Nàng muốn chết cho xong.   “Summer, hãy ra ngoài ngay, để những cư dân này còn đi tiếp. Tôi đến để mang cô về và tôi sẽ không rời đi mà không có cô.”   “Không! Tôi sẽ không ra đâu. Ông không có quyền can thiệp vào.”   “Quỷ thật, không, ông không có quyền. Cô gái không phải đi nếu cô ấy không muốn.” Lời nói vang đến từ một người đàn ông bên trong chuyến xe.   Jack phớt lờ ông ta. “Tôi sẽ bớt được cả đống rắc rối nếu cô chịu bước ra. Hãy làm điều đó, hoặc là những cư dân đây sẽ phải đợi cùng với cô.”   “Hãy để tôi một mình, Jack. Tôi sẽ không trở lại đâu, vì thế hãy đi đi và để tôi một mình.” Cơn giận và sự bẽ mặt khiến nước mắt tuôn chảy như suối từ mắt nàng.   Jack bước lui và ra hiệu cho Bill rời khỏi xe. Khi họ quay lại đối mặt với nhau, khẩu súng lục của Jack chỉa thẳng vào bụng ông ấy.   “Cái gì… cái gì thế này?”   “Tôi chắc chắn rất ghét làm điều này, Bill, nhưng chẳng còn cách nào khác hết. Có một người đàn ông đang đến chỉ còn cách đây vài dặm. Cậu ấy ở trên một chiếc xe thồ, bị xóc nảy ngang qua những vệt lún bánh xe và những lỗ chó thảo nguyên từ hai giờ trước khi trời rạng đông. Cậu ấy có hai lỗ đạn trên người, vài rẻ xương sườn bị gãy và đôi bàn tay chẳng thể tự ăn được trong một tuần. Cậu ấy đang đến để gặp cô gái đó và ông sẽ không đi đâu hết cho đến khi cậu ấy đến đây.”   “Ông biết là ông đang đưa bản thân vào rắc rối khi chỉa một khẩu súng vào tôi, Jack. Công việc của tôi là đưa chuyến xe này đến Austin. Nếu cô gái bé nhỏ đó và người đàn ông của cô ấy hục hặc thì đó chuyện của họ. Pháp luật có thể giáng xuống khó khăn thật sự trên ông đấy, Jack, vì tội đã chặn chuyến xe.”   “Vậy thì cứ làm đi, bởi vì tôi sẽ chặn xe ông ở đây cho đến khi Slater đến. Không lâu lắm đâu. Tôi đã thấy đám bụi mù của họ kia rồi.”   “Các ông đang làm gì vậy? Băng ngang vùng quê ư? Đó là một chuyến đi địa ngục.”   Jack cười toe toét. “Hãy nói người phụ xe kéo chiếc xe đến chỗ bóng râm trong lúc chúng ta đợi.” Với khẩu súng của mình, ông ra hiệu về hướng cây hồ đào trải rộng mà một trong số chúng vươn dài theo con đường không chút bóng mát.   “Kéo xe qua bên dưới bóng cây đi, Gus. Chúng ta sẽ đợi một lúc nếu quý cô này không đổi ý, thế thôi. Các hành khách có thể bước ra ngoài và duỗi chân tay.”   Người phụ xe nghiêng người qua để gọi Summer, rồi hét lại với Bill. “Người phụ nữ nói không, Bill.” Chiếc xe di chuyển đến bóng râm.   “Phụ nữ chết tiệt! Rất mừng là tôi đã không cưới ai.” Bill nguyền rủa, lấy chiếc mũ đầy bụi của ông ta xuống và đập đập nó vào đùi.   “Điều đó sẽ không kéo dài đâu, Bill. Ông và Slater sẽ phải dịu xuống thôi. Hẳn là có gì đó sai với cái miệng của cậu ấy rồi. Chưa bao giờ nghe nhiều lời nguyền rủa như thế tuôn ra từ nó trước đây. Cơn choáng của cậu ấy đã bị nén lại kể từ khi cậu ấy nghe được chính Jesse đã đặt cô ấy lên chuyến xe khách. Chuyến đi xóc này chẳng làm cho tâm trạng của cậu ấy tốt lên được chút nào, ngay cả khi chúng tôi đã cố định sợi dây treo trên chiếc xe thồ và đặt chiếc giường lông vũ vào đó.”   Ba người đàn ông và người phụ nữ ra khỏi xe, để lại Summer một mình với người phụ nữ có đứa bé. Những cánh cửa để mở và luồng gió nhẹ có phần làm mát họ đôi chút. Summer lau gương mặt nàng bằng chiếc khăn tay ướt sũng. Người phụ nữ giơ một bàn tay rụt rè chạm vào đầu gối nàng. Hành động thương cảm ấy khiến nàng ngước đầu lên. Jack không có quyền bắt họ phải đợi như thế này, khi cho rằng nàng sẽ đổi ý. Nàng đã bảo ông như thế. Nàng nhìn quanh để có thể thấy ông và nghĩ rằng hẳn là nàng đã mất trí. Có phải Jack đang chỉa súng vào người đánh xe không? Chúa lòng lành, ông ấy đã làm thế! Điều gì đang xảy ra? Thế giới điên hết rồi sao?   “Jack! Jack, ông đang làm cái gì thế?” Nàng trèo ra khỏi xe, gần như vấp ngã vì vội vàng. “Hãy để ông ấy đi. Ông không có quyền giữ ông ấy! Để tôi nói…”   Mời các bạn đón đọc Nơi Trái Tim Trở Về của tác giả Dorothy Garlock.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chuông Gọi Hồn Ai - Ernest Hemingway
Ernest Hemingway (1899 - 1961) là nhà văn, nhà báo người Mỹ. Ông từng tham gia chiến đấu trong Chiến tranh thế giới lần thứ Nhất, sau đó ông được biết đến qua "Thế hệ đã mất", nhận được giải thưởng báo chí Pulitzer năm 1953 với tiểu thuyết Ông già và biển cả, và giải Nobel văn học năm 1954. Hemingway để lại ấn tượng sâu sắc đối với bạn đọc qua nguyên lý tảng băng trôi, văn phong của ông được mô tả bởi sự kiệm lời nhưng có nhiều tầng ý nghĩa, phải suy nghĩ thật sâu mới có thể hiểu hết được những gì tác giả gửi gắm. Nhiều tác phẩm của ông hiện nay được coi là những tác phẩm kinh điển của nền văn học Mỹ. Từ nhỏ Hemingway đã không thích học đàn mà thích đấu võ quyền Anh, bản tính chuộng chủ nghĩa cá nhân đã thể hiện nơi con người Hemingway bằng các phản kháng nhỏ nhặt, để rồi trong cuộc đời sau này, đã hiện ra bằng các hành động trên tầm vóc lớn hơn. Ngay từ khi còn học ở trường trung học, ông đã bắt đầu viết văn và tham gia vào các hoạt động báo chí của trường. Năm 1917, ông rời trường trung học và thay vì đi học đại học ông tời thành phố Kansas làm phóng viên cho tờ báo Star. Nhưng nghề phóng viên không hấp dẫn ông được lâu, do ưa thích mạo hiểm Hemingway đã tình nguyện đăng ký vào Hội đồng thập tự Hoa Kỳ và qua miền bắc nước Ý là tài xế xe cứu thương. Năm 1918, khi chưa tròn 19 tuổi ông bị thương nặng ở chân trong khi đag cõng một người lính Ý mang tới địa điểm chỉ huy. Ông được chữa trị tại bệnh viện Milan và được tưởng thưởng huy chương anh dũng. Những trải nghiệm trong cuộc chiến này đã cung cấp cho ông những hiểu biết để viết nên tác phẩm "Giã từ vũ khí" (1929), một tiểu thuyết nổi danh nhất đề cập tới chiến tranh. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, ông trở lại Hoa Kỳ sinh sống và tiếp tục viết văn. Nhưng ông cùng một số nhà văn khác tự nhận mình là "thế hệ lạc lõng" - từ để ám chỉ một thế hệ sau chiến tranh, đặc biệt là các nhà văn trẻ khi cuộc sống và niềm tin của họ đã bị tổn thương vì chiến cuộc, vì các tham lam vật chất đang dần dần trở nên một thực tại khiến cho cuộc sống hóa vô nghĩa. Trong thời gian làm phóng viên tại Paris, Ernest Hemingway đã đi khắp châu Âu, phỏng vấn các nhân vật danh tiếng như Lloyd George, Clemenceau và Mussolini… rồi vào năm 1925, cuốn tiểu thuyết quan trọng đầu tiên của Hemingway được xuất bản tại New York với tên là "Trong thời đại của chúng ta" (In Our Time). Cũng vào thời gian này, nhiều thú vui như trượt tuyết, coi đấu bò rừng, đi câu cá và đi săn… đã là từng phần của cuộc sống của ông và từ đó tạo nên nền móng của các cuốn tiểu thuyết sau này. Năm 1950, Hemingway xuất bản cuốn sách "Qua sông và vào trong rừng" nhưng không gây dấu ấn với độc giả. Năm 1952, cuốn tiểu thuyết "Ông già và biển cả" đã mang lại ngôi vị cho ông trên văn đàn, giúp ông nhận được giải thưởng báo chí danh giá Pulitzer năm 1953. Năm 1954 ông được viện Hàn lâm Thụy Điển trao tặng giải Nobel văn học vì thể văn mạnh mẽ dùng trong nghệ thuật kể chuyện mới lạ và thể hiện gần đây nhất qua tác phẩm "Ông Già và Biển Cả". Thời gian này người ta vẫn thấy ông đầy sức sống nhưng thực tế ông không hạnh phúc. Hemingway đã phải dưỡng bệnh dài hạn tại bệnh viện Mayo, ông bị ám ảnh vì cao huyết áp và suy sụp tinh thần. Tháng 7 năm 1961, ông thức dậy sớm và tự sát bằng một khẩu súng săn tại một nơi vắng vẻ của thị trấn Ketchum, Idaho. Ông ra đi mà không để lại lời trăn trối nào ngoài hình ảnh của các nhân vật trong nhiều cuốn tiểu thuyết mà ông đã sáng tạo ra. • Các Tác Phẩm Đã Xuất Bản Tại Việt Nam Ông già và biển cả (2000) Chuông nguyện hồn ai (Chuông gọi hồn ai) (2001) Giã từ vũ khí (2001) Hạnh phúc ngắn ngủi của Mác Cômbơ (2003) Truyện ngắn - Ernest Hemingway (2004) Truyện cực ngắn của Ernest Hemingway (2004) Hội hè miên man (2004)  *** “Chuông gọi hồn ai" là một bản anh hùng ca về cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân Tây Ban Nha chống lại bọn phát xít Franco bảo vệ chế độ cộng hòa, một cuộc chiến kéo dài từ năm 1936 tới năm 1939. Nhân vật chính là Robert Jordan, một chiến sĩ người Mỹ chiến đấu trong Lữ đoàn quốc tế, tham gia cuộc chiến tranh vĩ đại chống lại sự bành trướng toàn cầu của chủ nghĩa phát xít. Trong kế hoạch tấn công nhằm giải phóng một vùng lãnh thổ Tây Ban Nha của Sư đoàn số 14 do tướng Golz người Nga chỉ huy, Robert Jordan được lệnh phối hợp với một nhóm du kích đặt mìn phá hủy một cây cầu để chặn viện binh và đường rút chạy của quân địch. Anh lên đường đến Villaconejos để tổ chức kế hoạch tấn công cây cầu. Tại đây, khi gặp cô du kích Tây Ban Nha xinh đẹp tên là María, mối tình sâu nặng và đồng điệu trong một lý tưởng chung giữa anh và cô nảy nở. Tình yêu đó đã giúp cho hai người nhận thức sâu sắc hơn ý nghĩa của cuộc sống và công việc họ đang làm. Nhưng bỗng Robert Jordan nhận thấy bọn phát xít đã đánh hơi được kế hoạch của cuộc tấn công và đang ráo riết tập trung quân bố trí phản kích. Anh cử ngay Andrés mang báo cáo về Ban chỉ huy Sư đoàn đóng ở Navacerrada đề nghị thay đổi kế hoạch tác chiến và cho ngừng ngay việc phá hủy cầu. Thế nhưng thật không may, do nhiều trắc trở và tính quan liêu của nhiều sĩ quan, lẽ ra đoạn đường chỉ cần đi trong ba giờ, Andret phải mất cả một ngày. Khi bức thư của Robert Jordan đến tay Gôndơ thì đã quá muộn, những chiếc máy bay ném bom đầu tiên mở màn cho trận đánh đã quần đảo trên bầu trời. Robert Jordan đành cho nổ mìn phá cây cầu theo kế hoạch đã định và dẫn đội du kích rút lui. Dọc đường, bom đạn quân thù khiến anh bị gãy chân, vết thương quá nặng, anh quyết định từ giã đồng đội và người yêu, ở lại ngọn đồi bên cạnh chiếc cầu bị phá nhằm chiến đấu cầm chân địch cho đội du kích rút lui an toàn. (Sau này cuộc chiến chống Phát Xít thất bại và tướng Franco cai trị đến tận sau Thế Chiến Thứ 2; thúc đẩy sự phát triển kinh tế của Tây Ban Nha.) • Giá Trị Tác Phẩm Thông qua nội dung miêu tả hoạt động của một nhóm du kích quân địa phương dưới sự giúp đỡ của một chiến sĩ cộng hòa người Mỹ, “Chuông gọi hồn ai" một mặt ca ngợi cuộc kháng chiến kiên cường của dân tộc Tây Ban Nha vì hòa bình tự do, mặt khác phản ánh tinh thần quốc tế cao quý của các chiến sĩ thuộc Lữ đoàn quốc tế đã cùng nhân dân Tây Ban Nha chiến đấu bảo vệ chính nghĩa, dập tắt ngọn lửa hung bạo của chiến tranh đang tràn ngập khắp nơi. Tác phẩm hé lộ mẫn cảm nhanh nhạy của tác giả trong việc nắm bắt vấn đề trọng tâm của nhân loại trong những năm 1930 của thế kỷ 20, đó là nguy cơ bành trướng của chủ nghĩa phát xít. Nó là lời tố cáo đanh thép tội ác man rợ của bọn Franco, lên tiếng đấu tranh chống lại chủ nghĩa phát xít khi nó vừa trỗi dậy. Đồng thời, bằng cách nhìn, cách nghĩ mới mẻ, Hemingway còn cố gắng giải quyết mối quan hệ giữa nhân dân và lịch sử cũng như những vấn đề về sự sống, cái chết, tình yêu, chỗ đứng và trách nhiệm của mỗi con người trong xã hội mà thực tế cuộc cách mạng Tây Ban Nha đã đặt ra. Về mặt nghệ thuật, “Chuông gọi hồn ai" là đỉnh cao phong cách trữ tình của Hemingway, một phong cách đã in đậm trong nhiều tác phẩm của tác giả như Mặt trời cũng mọc (The sun also rises, 1926), Giã từ vũ khí (A farewell to Arms, 1929), Ông già và biển cả (The old man and the sea, 1952)... Tác phẩm cố gắng đi sâu vào miêu tả vẻ đẹp tâm hồn các nhân vật, thể hiện được những con người cá nhân có nhiều suy tư, có cá tính, gây ấn tượng mạnh mẽ, biết hy sinh cuộc sống riêng tư cho lý tưởng hoặc biết chịu đựng một sự thất bại bên ngoài để đổi lấy sự chiến thắng về tinh thần bên trong. Những đoạn độc thoại nội tâm của các nhân vật và những dòng trữ tình ngoại đề trong cuốn sách khiến cốt truyện của “Chuông gọi hồn ai" tưởng như đơn giản lại trở nên sinh động, phong phú trong các tình tiết, nhuần nhuyễn và linh hoạt trong kết cấu, cuốn hút hàng triệu độc giả trên khắp thế giới khi tiếp cận tác phẩm. Mặc dù tư tưởng của nhà văn ít nhiều còn thiếu lạc quan khi biểu lộ cảm quan định mệnh phảng phất trong tâm lý của một số nhân vật chính, cũng như tính chất bi kịch đậm nét ở phần cuối câu chuyện ít nhiều làm giảm cảm hứng tích cực của người viết trong tác phẩm, nhưng “Chuông gọi hồn ai", cuốn tiểu thuyết ra đời trong máu lửa chiến đấu chính nghĩa của nhân dân Tây Ban Nha, vẫn là một trong những tiểu thuyết đặc sắc nhất của văn hào Hemingway cũng như của nền văn học hiện thực Mỹ thế kỷ 20. “Chuông gọi hồn ai" (For Whom the Bell Tolls) còn là tên 2 ca khúc do 2 ban nhạc nổi tiếng thế giới trình bày là Metallica (trong album Ride the Lightning) và ban nhạc anh em Bee Gees (trong album Size Isn't Everything) Mời các bạn đón đọc Chuông Gọi Hồn Ai của tác giả Ernest Hemingway.
Cánh Cửa - Szabó Magda
Cánh cửa được xem là cuốn tiểu thuyết xuất sắc của Szabó Magda, đã được dịch sang tiếng Việt. Tác phẩm này đã tạo nên một nhân vật nữ đặc biệt cá tính, bà già Emerenc. Hình tượng Emerenc chính là hình tượng đã làm nổi bật tư tưởng sâu kín trong những sáng tác của Szabo về tâm lý và thân phận của những nhân vật phụ nữ trong hầu hết các tiểu thuyết của bà. Mối quan hệ giữa con người với con người quả thật đáng sợ hơn rất nhiều những gì mà chúng ta có thể tưởng tượng. Niềm tin rồi sẽ bị bủa vây bằng lòng phản bội, dù đặt vào tình huống ra sao, sự phản bội ấy cũng xuất hiện như một thứ thuốc phiện khiến ma quỷ trỗi dậy xui khiến. Có lẽ nữ nhà văn sẽ không bao giờ nghĩ về, hay thử đối diện với cảm giác sự phản bội của chính mình, dù có dằn vặt, Szabo cũng không thể thấu suốt được cảm giác bị phản bội mà bà già Emerenc bị nhấn chìm vào đó. Cánh cửa đã đưa người đọc đến gần với một vùng văn học còn ít nhiều chưa gần gũi ở Việt Nam. Nó không chỉ khiến chúng ta nắm bắt được những bí ẩn trong mối quan hệ giữa con người với con người, nó còn là sự hiện diện về một mảnh đất Hungary xa xôi, đã từng oằn mình vì nhiều biến động trong lịch sự. Với biệt tài kể chuyện, và giải phẫu tâm lý con người bằng ngòi bút vừa sắc sảo vừa bao dung, Szabo Magda đã khiến Cánh cửa trở thành kiệt tác, tự bản thân nó đã toát nên một bầu không khí bí ẩn và mê dụ. Szabó Magda được xem là “người đàn bà viết” của văn học Hungary. *** Szabo Magda là nhà thơ, nhà viết kịch, nhà viết tiểu luận và nhà văn, sinh ra tại Debrecen Hungary năm 1917. Nhà văn Stuber Andrea từng viết về Szabo: “Bà là chứng nhân cho thấy dù sao vẫn có thể gìn giữ cho tới cuối đời sự kiên nhẫn, niềm tin, sự cởi mở, sự nồng hậu tâm hồn, những hồi ức tốt đẹp, nhân cách nhà văn và con người." Magda là một trong những người khổng lồ của văn học đương đại Hungary. Văn chương của bà thường tập trung vào khám phá những chủ đề phổ quát của con người và các hiện thực chính trị hiện đại thông qua các chân dung quan sát được trong cuộc sống riêng tư. Bằng một sự nghiệp văn chương đồ sộ, lưu tâm đến những bí ẩn sâu kín của con người, bà là nhà văn nhận được nhiều giải thưởng văn học uy tín trên khắp thế giới. Năm 1959 và 1972 bà được trao Giải thưởng József Attila, năm 1978 nhận Giải Kossuth, năm 2001 được trao Dây chuyền Corvin và năm 2003 bà nhận Giải thưởng Femina (của Pháp) dành cho các tác phẩm văn học nước ngoài, cho tác phẩm Cánh cửa (Az ajtó) dịch ra tiếng Pháp, sau đó bà đoạt Giải Prima Primissima. Năm 2007, nhân kỷ niêm 90 năm ngày sinh của bà, tổng thống Solyom László đã trao tặng bà Huân Chương Đại Thập (ngạch dân sự) của Cộng hòa Hungary (đây là huân chương cao quý nhất của Nhà nước Hungary). Mới trước đây ít ngày bà được trao tặng Giải thưởng Tổ Quốc tôi (Hazám-díj) Bà đã hai lần được Viện Hàn lâm Nghệ thuật Széchényi đề cử lên Ủy ban Nobel đưa vào danh sách xét tặng Giải Nobel Văn chương. Szabó Magda là công dân danh dự của thủ đô Budapest và thành phố quê hương bà là Debrecen. Szabó Magda mất năm 2007, tại quê nhà, thanh thản trong chiếc ghế bành, khi trong tay vẫn cầm một cuốn sách.   Mời các bạn đón đọc Cánh Cửa của tác giả Szabó Magda.
Đằng Sau Bức Tranh - Sri Boorapha
Đây là cuốn tiểu thuyết tình yêu kinh điển đã ăn sâu vào trái tim của nhiều thế hệ bạn đọc Thái Lan. Đằng sau bức tranh là câu chuyện tình đẹp và thuần khiết nhất giữa công nương Kirati và chàng trai trẻ Nopporn. Tình yêu xuất phát từ hai con người có rất nhiều chênh lệch, từ tuổi tác đến địa vị vừa thú vị lại nhiều khó khăn. Họ có quan điểm về tình yêu rất khác nhau. Chàng trai không đủ kiên định và dễ thay đổi. Trong khi đó, công nương Kirati dù chấp nhận số phận lấy một người chồng già. Không hiểu tâm tư của vợ, nhưng tình yêu mà cô dành cho Nopporn giống như một làn gió tưới mát tâm hồn khô héo, và làn gió ấy cứ thổi mãi trong lòng cô, cho đến tận lúc chết. Tình yêu của họ giống nhau ở chỗ đều sâu đậm và khắc ghi trong lòng. Tình yêu ấy không được trọn vẹn nhưng ít nhất, họ đã tìm được tình yêu của cuộc đời mình. Đằng sau bức tranh của Sri Boorapha hấp dẫn bởi cách dẫn chuyện chân thực, cốt truyện hay, góc nhìn, nghệ thuật sáng tác tài ba và đặc biệt là cách dùng ngôn ngữ điêu luyện của tác giả. Hay như các nhà phê bình văn học nổi tiếng của Thái Lan đã nhận xét: "Đây là cuốn tiểu thuyết không có tuổi, đa chiều, sâu hun hút, vừa đem lại cảm giác thư thái vừa không ngừng gợi mở cho ta tìm tòi những ý nghĩa đằng sau câu chữ đầy ngụ ý”. *** Sri Boorapha tên thật là Kulap Saipradit (1905-1974) là một trong những nhà văn nổi tiếng nhất trong nền văn học Thái Lan hiện đại. Sri Boorapha là một nhà phân tích, một cây bút viết báo sắc sảo và từng giữ chức Chủ tịch Hiệp hội báo chí Thái Lan.  Kho tàng các tác phẩm dưới ngòi bút của Sri Boorapha rất đa dạng, từ chính trị, tôn giáo, triết học, xã hội, tiểu thuyết, truyện ngắn, dịch thuật và sáng tác thơ ca. Trong đó, rất nhiều tác phẩm được tái bản lại nhiều lần, được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau trên thế giới và có sức ảnh hưởng mạnh mẽ cho tới tận ngày nay. Các tác phẩm tiêu biểu của ông gồm: Tiểu thuyết Đằng sau bức tranh, Người đàn ông, Chiến tranh cuộc đời, Cho đến ngày gặp lại... Sức mạnh nhân dân (thơ), Xin một chút sức lực (truyện ngắn) và nhiều bài nghiên cứu, dịch thuật có tầm ảnh hưởng lớn. *** Đã ba ngày trôi qua kể từ khi tôi đem bức tranh đó treo trong phòng làm việc, Pri mới để ý thấy. Nàng không thắc mắc gì nhiều, chỉ đứng nhìn một lúc rồi quay lại hỏi tôi: “Bức tranh vẽ nơi nào vậy, Mitake sao?”. Tôi thoáng giật mình, nhưng Pri không nhận ra. “Đây là một nơi có phong cảnh đẹp ở vùng ngoại ô Tokyo, người dân Tokyo thường thích tới đây du lịch vào những ngày cuối tuần”. “Vậy sao? Anh mua bức tranh này ở Tokyo à?”. Tôi cúi đầu, đọc tiếp cuốn sách còn dang dở trên tay từ trước khi Pri bước vào phòng. “Không, một người bạn của anh vẽ tặng”. Tôi cũng chẳng thích thú gì khi nghe chính giọng nói của mình lúc này, bởi nó giống như giọng của những diễn viên đang diễn kịch trên sân khấu vậy. “Em cũng nghĩ thế. Sẽ hơi lạ nếu anh là người mua bức tranh này bởi trông nó quá bình thường. Em cũng không nhìn thấy vẻ đẹp đặc biệt gì trong đó. Nhưng có lẽ con mắt nghệ thuật của em không đủ trình độ để nhìn ra nét đẹp của nó”. “Đối với việc xem tranh vẽ bằng màu nước như thế này, nếu nhìn quá gần sẽ không thấy được vẻ đẹp, nhưng nếu nhìn từ xa hơn một chút, em có lẽ sẽ thấy nó đẹp hơn”. Pri không định làm theo lời tôi nói, cũng không định hỏi thêm gì, điều này khiến tôi cảm thấy yên lòng. Bức tranh đó được đặt trong một chiếc khung màu đen thẫm, treo trên tường phía đối diện với bàn làm việc. Vì vậy, mỗi khi ngồi xuống làm việc, bức tranh sẽ ở phía sau lưng tôi. Trước kia, tôi định treo nó trước mặt để có thể ngắm mỗi khi muốn, nhưng về sau tôi đổi ý treo phía sau bởi tôi tin rằng, nếu như treo theo ý định ban đầu, bức tranh đó sẽ khiến tôi khó mà tập trung làm việc được. ... Mời các bạn đón đọc Đằng Sau Bức Tranh của tác giả Sri Boorapha.
Con Hoang - Lê Hồng Nguyên
Lại đêm nữa, bà đơn phương vùi khát thèm bằng trắng đêm giã gạo. Những đêm trăng quê yên tĩnh trải rộng miên man dài. Những đêm giã gạo toát mồ hôi, gió vừa đủ lạnh thấm lỗ chân lông gời gợi. Những đêm không chịu nổi, bà ôm chặt cái thân cối giã gạo, òa khóc cho hả lòng hả dạ, cho bớt tủi nhục cô đơn. Trong đêm, cái khúc gỗ nhãn làm thân cối giã gạo được bào nhẵn vuông tròn mịn màng hiển hiện như một thân thể đàn ông. Tại sao không cho bà được yêu thương, được ôm ấp, được giận hờn... *** Tôi là một đứa con hoang. Kỳ lạ, biết bao điều xảy ra, như một định mệnh, mãi tới đêm đầm Vạc hồng hoang đau khổ ấy, tạo hóa mới quyết định một sinh linh bé nhỏ là tôi được cấu thành, lớn dần trong bụng mẹ. Cảm ơn mẹ đã dũng cảm cho tôi làm người dù đời tôi, cũng như mẹ và cùng mẹ chịu biết bao đau khổ, thấp hèn. Tôi - đứa con hoang, nhìn chúng bạn có bố mà thèm. Tôi thèm lắm những buổi chiều từ trường mầm non trở về nhà được bố bế bổng, công kênh trên vai bi bô ríu rít suốt dọc đường. Tôi đắm đuối nhìn bố con thằng bạn, trông thấy nhau từ xa, họ mừng quýnh, khi tới gần, người cha giang rộng vòng tay nhấc bổng con lên hôn chíu chít. Tôi chúm miệng nói nhỏ một mình, bố, bố, bố ơi! Chẳng ai biết điều này. Nhưng mẹ tôi rất hiểu. Trưa tháng Mười, mùa gặt, bếp nhà ai cũng đỏ lửa, khói rơm tươi đen kịt mịt mùng phả đầy sân đầy ngõ. Tôi tha thẩn một mình bắt chuồn chuồn kim đang sưởi nắng xập xoè ở bờ dậu. Lũ học trò tan học xúm quanh tôi, đứa bẹo má, đứa xoa đầu, đứa nhìn soi mói, đứa thì thầm vào tai tôi: - Mẹ mày là đồ chửa hoang, chạy về bảo mẹ mày đi, ra đây bọn tao cho kẹo. Tôi sung sướng chạy nhanh vào nhà. Mẹ lúi húi trong khói bếp um tùm. Tối om, tôi chỉ nhìn thấy mờ mờ bóng mẹ đang thổi lửa. Tôi hớn hở bắc loa tay nói thật to với mẹ để đám học trò ngoài đường cùng nghe thấy, đám học trò cũng đồng thanh hét át cả tiếng tôi: - Cô Thắm chửa hoang... ... Mời các bạn đón đọc Con Hoang của tác giả Lê Hồng Nguyên.