Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khu Trại Trong Thảo Nguyên

Bộ tiểu thuyết Sóng Hắc Hải - Valentin Kataev gồm 4 phần: Phần 1: Cánh buồm trắng cô độc Phần 2: Khu trại trong thảo nguyên Phần 3: Gió mùa đông Phần 4: Đường hầm Ô đét xa   KHU TRẠI TRONG THẢO NGUYÊN trong bộ bốn tập - “SÓNG HẮC HẢI” Năm 1910, trên báo “Người đưa tin Ôđexxa” - xuất hiện bài thơ đầu tiên của cậu bé Valia1 mười bốn tuổi - bài thơ “Mùa thu”. Ở đây dường như có điều gì báo trước về một nhà văn tương lai có tâm hồn thơ mộng, sớm gắn bó lòng mình với thiên nhiên. Bài thơ đầu tay là những suy tưởng trữ tình, những nét phác họa về mùa thu, về thiên nhiên Nga tươi đẹp. Mùa hè năm 1913, lần đầu tiên nếm hương vị thành quả văn chương, khi nhận được giấy mời của một tờ báo nhỏ ở Ôđexxa mời các nhà thơ trẻ tham gia câu lạc bộ văn nghệ địa phương, nhà văn tương lai ấy đã đắn đo suy nghĩ: “Liệu một học sinh trung học 16 tuổi đầu đã có thể coi mình là “trẻ”? Với dăm ba bài thơ đăng trên báo hàng ngày liệu đã có thể coi mình là “nhà thơ”?. Nhưng anh vẫn lên đường đến câu lạc bộ. Ở đây việc kết nạp hội viên phải thông qua đầu phiếu. Nhưng trong số những người đã từng đọc thơ mình ở đây chỉ có hai người được hưởng cái vinh dự lớn là được mời thẳng lên đoàn chủ tịch mà không phải bầu bán gì cả. Đó là V. Kataep và E. Bagrixki2. Khi trở thành nhà văn nổi tiếng, V. Kataep đã nhắc lại sự việc trên trong truyện ngắn “Gặp gỡ”. Cái thuở ban đầu ấy có cái gì đã kết tinh, không thể hòa tan mà sau này bạn đọc vẫn còn gặp lại trên nhiều trang sách của nhà văn, đó là nụ cười châm biếm, có khi nhân hậu, có khi cay độc như một nét riêng của miền duyên hải Ôđexxa, bắt nguồn từ quá khứ xa xưa: từ người dân chài trên bãi biển, từ anh công nhân lam lũ, từ người lính thủy can trường hay ở những em bé đồng biển với nước da đen sạm vì sóng gió Hắc hải và mặt trời phương nam. Cũng như nhiều nhà văn khác thuộc thời kỳ này, V. Kataep bước vào làng văn qua lối chiến hào bằng những bản tin và bút ký mặt trận. Tiếp theo là những ngày sôi nổi của Cách mạng. Trong những giờ phút gay go và căng thẳng, con người thường trưởng thành sớm hơn tuổi tác, nhất là nhà văn, và chính trong cơn lốc cách mạng ấy tài năng của nhiều nhà văn, trong đó có V. Kataep đã nảy nở một cách mau lẹ và vững chắc. V. Kataep đã trưởng thành trước khi ông từ giã tuổi thiếu niên. Thế nhưng đối với V. Kataep ngay cả khi tuổi niên thiếu đã qua rồi, ông vẫn còn giữ được rất lâu tâm hồn khát khao được quay lại đầm mình trong tuổi niên thiếu, và quả thực nhà văn đã trở lại sau những lần “trở về” ấy. V. Kataep là một trong những người trong khi vẫn vui vẻ tiếp nhận tuổi đời và say sưa với những công việc của “tuổi tác mình” nhưng vẫn háo hức sống với những năm tháng đã qua, có khi là những tháng năm xa xôi tưởng như chẳng mấy ai còn nhớ tới nữa - những năm tháng có khi vui tươi, đầy mơ ước háo hức, song cũng có khi buồn. Vào những năm thứ hai mươi, khi tuổi đời và tuổi nghề của nhà văn chưa có bao lăm, các nhân vật trong sáng tác của ông thường là những kẻ nhàn tản vô vị: người ta chơi cờ, chơi bài, người ta đùa với tình yêu và dỡn trong đủ mọi quan hệ. Thế nhưng ông chưa có đủ ngay lòng căm thù với những kẻ thù của nhân dân để hành động và chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng, đấu tranh với bản thân để đưa ông đến “Cái giếng thần” (1966), thì lòng căm thù trong ông mới chín muồi, mới trở nên sôi sục, và được sử dụng không đến nỗi uổng phí. Nhà văn đã thấy được mình viết cho ai và chống ai. Lúc này trong sáng tác của ông thể hiện rõ khuynh hướng bi hùng và châm biếm: “Trong thành phố bị bao vây” (1922); “Bút ký về cuộc nội chiến” (1924). Tuy nhiên người ta vẫn thấy trong sáng tác của ông phảng phất “cái thứ triết lý của anh tiểu tư sản, cái thứ triết lý của những người không muốn xây dựng lại cuộc đời, văng vẳng tiếng thở dài mệt mỏi trong cuộc đấu tranh chống đói nghèo, dốt nát...”. Vào những năm 30, khi nhân dân Liên Xô náo nức hưởng ứng dự định táo bạo của Đảng CSLX: xây dựng trong thảo nguyên hoang vu “Pugatsep” một nhà máy: liên hợp luyện kim, V. Kataep đã say mê với cái nhà máy “Magnitka” tương lai ấy và viết tiểu thuyết thời sự “Thời gian ơi, tiến lên!”, tác phẩm này của ông cũng mới mẻ và táo bạo như bản thân cái công trường xây dựng kia vậy. Cuốn tiểu thuyết đã từng làm cho nhiều bạn đọc ngạc nhiên. Cuốn sách ca tụng những con người chỉ tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống trong sự nghiệp xây dựng lại cuộc đời, đấu tranh với đói nghèo, dốt nát, những con người không biết tới khoái lạc tầm thường ngoài lao động quên mình - lao động là nhu cầu sống còn số một. Trong tiểu thuyết, lối văn châm biếm với cái giọng nhát gừng, đầy sức sống kết hợp với lối văn nhanh gọn của báo chí và ngôn ngữ đanh thép, chính xác của các quy phạm công vụ, tạo nên một lối văn phong hỗn hợp, độc đáo mà vẫn gắn bó hữu cơ - người đương thời gọi là phong cách thời đại. Trong cuốn sách đầy nhiệt tình tiến lên phía trước: lao động, lao động vượt mức kế hoạch, tiến trước thời gian! Con người ở đây hăng say lao động như một cơn lốc, cơn lốc của một điệu Vanxơ vui tươi và phấn kích... Lúc này V. Kataep cộng tác với báo “Pravda” và nhiều báo khác, ông có dịp lăn lộn trên khắp các ngả đường của đất nước, viết nhiều bài thơ cổ động phục vụ những nhiệm vụ cấp bách của Đảng, cả trong thời chiến cũng như trong lúc xây dựng hòa bình. Công cuộc lao động xây dựng đất nước đã mang lại cho ông nhiều cảm nghĩ vui tươi, nụ cười của ông trở nên lạc quan và châm chọc đúng chỗ. Ông viết những vở kịch vui “Hình vuông của hình tròn”, “Một triệu nỗi khổ cực”, “Con đường hoa” - ông tiếp tục chế giễu tên tiểu tư sản; mặc dù ông đã nhiều lần đọc điếu văn bên nấm mồ của hắn, vậy mà hắn vẫn ngoan cố, thay hình đổi dạng trở về bằng đủ mọi cách. Ông biểu lộ niềm sung sướng trước thắng lợi của cuộc sống mới, trước những đổi thay ngày một tốt đẹp hơn trong nhiều quan hệ giữa người với người bằng những sáng tác kịp thời. Đến đây bỗng nhiên ta thấy thêm một đổi thay bất ngờ. Khi ông đang say sưa bám sát thời gian và sáng tác theo nhịp độ của công trường, tìm thấy ở đấy những nguồn cảm hứng không bao giờ cạn, đang tiếp tục cười nhạo báng tất cả những gì lạc lõng, sai với nhịp bước của điệu Vanxơ thời đại kia, thì bỗng nhiên cuốn tiểu thuyết “Cánh buồm trắng cô độc” (1936) xuất hiện như một hành trình đường đột, bí mật quay lại thời thơ ấu xa xưa tưởng như đã lu mờ sau khói bụi của công trường và nhà máy - thời gian. Uống nước nhớ nguồn. Cái hôm nay đã bắt đầu từ đâu và bắt đầu như thế nào?! Ông quay lại quá khứ không phải “đơn giản” như người ta tưởng, và sự ra đời của cuốn “Cánh buồm trắng cô độc” cũng không phải là một “bỗng nhiên”, vì một nhà văn nghiêm khắc viết về quá khứ không thể là “bỗng nhiên”. Cuộc sống của ông diễn ra theo hai chiều đối nhau: chạy nhanh lên phía trước sánh bước với thời gian và đồng thời quay lại suy tư về những cái đã qua, đó quả là một quá trình lao động gian khổ: thu thập tư liệu, xác định tâm trạng - cái quyết định sắc thái của cuốn sách. Chính V. Kataep đã xác nhận rằng từ lâu ông vẫn hằng mong ước được hồi tưởng lại thời thơ ấu của mình: - Năm 1905, một ngày tháng sáu oi bức. Trên kè đá bờ biển Ôđexxa chật ních người. Bầu không khí trầm lặng đầy vẻ lo âu, rùng rợn. Một chú bé tám tuổi, trố mắt ra vì kinh ngạc, cố lách mình qua đám đông, len lỏi đến tận hàng rào sắt. Chú bé nhìn thấy chiếc chiến hạm ba ống khói “Pôchômkin” với lá cờ đỏ tung bay trong gió đã nổi dậy và giờ đây đang tiến gần về phía bờ biển Ôđexxa, Và ông kể lại rằng: “Cả thành phố vui mừng chào đón tin nổi dậy của chiến hạm. Và từ giờ phút ấy trong tôi bắt đầu nhen nhóm một ý thức. - Hình ảnh kỳ diệu của con tầu “nổi loạn” cứ bám riết theo nhà văn trên mọi nẻo đường sáng tạo của ông. Nhưng thời thơ ấu ấy không phải chỉ là sự hồi tưởng cá nhân đầy xúc động, mà còn là một giai đoạn lịch sử đẫm máu. Về cái bi tráng của tháng năm này ông đã viết truyện ngắn “Rôđiôn Giukốp” (1926). Rôđiôn Giukốp là một trong 700 thủy thủ của chiến hạm “nổi loạn” “Pôchômkin” đã đổ bộ lên bờ biển Rumani. Sau đó họ tản đi khắp thế giới và không mấy ai biết đến số phận của họ ra sao nữa. Nhưng Rôđiôn Giukốp là một người không thể sống xa tổ quốc, biết là nguy hiểm anh vẫn tìm cách trở về. Anh đã trở về và sau nhiều ngày đêm lang thang trong thảo nguyên Ukrain: ốm yếu, đói khát với tâm trạng phấp phỏng lo âu, anh dốc nốt đồng 50 kôpếch cuối cùng để mua tấm vé tầu trở về Ôđexxa, nhưng anh đã bị bắt ngay trên bến cảng. Truyện được tả lại bằng lối văn thích hợp với đề tài, không cường điệu và phô trương. Nhưng trong, đó dường như vẫn vấn vương một điều gì chưa giải quyết xong, nó tựa hồ như một hạt giống nếu gặp môi trường ắt sẽ nảy sinh. Vào những năm 20, rõ ràng nhà văn không hề nghĩ tới cuộc đời thứ hai của Rôđiôn Giukốp, ông cho rằng nói thế là đủ rồi. Nhưng khi ông có ý định quay về với thời thơ ấu, trở lại năm 1905 thì những cái tưởng đã phai mờ lại sống lại trong ký ức của ông dưới một nhãn quan khác, tinh tường hơn, trong đó có Rôđiôn Giukốp. Khi ông viết “Cánh buồm trắng cô độc” kể về những người bạn ấu thơ giãi dầu trong sóng gió Hắc hải và cháy sạm dưới mặt trời phương nam, thì cái chất bi tráng của câu chuyện mà ông đã viết về Giukốp không thật thích hợp với sắc diện của cuốn sách nữa. Nhưng Giukốp vẫn trở lại, anh trở thành cái cầu để đưa Pêchya và Gavrik đến với cuộc cách mạng đang sinh sôi và phát triển. Trong bộ bốn tập “Sóng Hắc hải”, tuy là nhân vật quan trọng, song Rôđiôn Giukốp vẫn chỉ đứng ở bình diện thứ hai. Từ câu chuyện cũ, chỉ vài ba tình tiết được chọn lọc dựa vào bộ tiểu thuyết bốn tập này, Giukốp con người thực đã nhường chỗ cho Giukốp tượng trưng và Giukốp biểu tượng cho bối cảnh đấu tranh cách mạng đầy nguy hiểm của thời kỳ bí mật. Đối với trẻ em, nhất là đối với cậu học sinh hay mơ mộng Pêchya Batsây, thế giới này đầy những bí ẩn hấp dẫn: những nhiệm vụ bí mật, những cuộc gặp gỡ đáng ngờ văng vẳng những câu nói nghe lạ tai... Ở đây tính lãng mạn nhiều màu sắc vốn có của biển khơi được nâng lên thành tính lãng mạn mộc mạc, kín đáo của cuộc cách mạng. Sự kết hợp hài hòa ấy đã làm cho câu chuyện vừa êm ái, thơ mộng vừa có cái không khí oi nồng, tức tối của lúc trời sắp nổi cơn giông. Ở đây không còn thấy cái nhịp điệu hối hả, dồn dập của bao sự kiện trong tiểu thuyết “Thời gian ơi, tiến lên!”, không còn cái sắc thái bông đùa riễu cợt của những truyện ngắn thuở xưa. Ở đây đã hình thành một phong cách mới - một lối văn xuôi điềm tĩnh, trầm mặc với những sắc thái muôn hình muôn vẻ, một lối viết súc tích cổ điển, chú ý nhiều đến những chi tiết tưởng như vụn vặt, chẳng có gì quan trọng, nhưng lại là chất liệu tạo ra nội dung mềm mại của câu chuyện. Đó là những tình tiết hết sức thông thường và đồng thời cũng rất bất ngờ. Biển ở đây cũng sống một cuộc sống gắn bó với các nhân vật nhỏ bé và với những sự kiện vĩ đại. “Khi thì biển yên tĩnh, xanh biếc màu da trời, đôi chỗ có những dải nước lặng, trăng trắng như những con đường nhỏ. Khi thì nó rực lên một màu xanh lơ bừng chói lấp lánh. Khi thì nó dập dờn như những đàn cừu tung tăng đùa dỡn. Khi thì một làn gió mát thoảng qua, làm nó bỗng nhiên ngả sang màu chàm xẫm và xù lên như lông cừu bị vuốt ngược. Khi thì bão ập tới, biển thay hình đổi dạng nom đến đáng sợ. Một trận cuồng phong rồ lên một đợt sóng lớn. Trên bầu trời màu than chì, những con hải âu vừa bay vừa kêu la ầm ĩ. Những làn sóng hung cuồn cuộn đi và quăng quật dọc bờ biển một cái xác cá heo bóng nhẫy. Phía trên nhưng đám mây nâu của cơn bão biển, chân trời màu lá mạ sáng chói dựng lên như một bức tường lởm chởm. Những con sóng nhào đầy bọt hệt như tấm đá khổng tước chằng chịt những đường vân rộng trắng xóa, đâm xô vào bờ, vỡ tan ra, làm dội lên những tiếng ầm ầm như tiếng súng đại bác. Tiếng dội âm vang ngân lên trong bầu không khí đầy tiếng động inh tai. Bụi nước bắn lên, tạo thành một làn sương mù mỏng mảnh, rủ xuống như một tấm sa mỏng phơ phất trên suốt chiều cao đồ sộ của những bờ dốc đang rung chuyển. Nhưng vẻ mê hoặc chủ yếu của biển là trong khoảng không bao la của nó bao giờ cũng giữ kín một điều gì bí mật. Ánh lân quang của biển chẳng phải là điều bí mật sao, khi mà trong một đêm tháng sáu không trăng, bàn tay ta dúng xuống làn nước ấm đen sì bỗng sáng rực lên, lấp lánh những tia sáng xanh. Hay những đốm lửa chuyển động của những con tàu vô hình và những luồng sáng nhợt nhạt, bừng lên một cách chậm chạp của ngọn hải đăng chưa từng biết? Hay số hạt cát mà trí tuệ con người không thể nào đếm xuể? Cuối cùng là hình ảnh kỳ ảo của chiếc thiết giáp hạm nổi loạn có lần đã xuất hiện ở ngoài khơi xa tắp, chẳng phải là một điều hoàn toàn bí ẩn sao?” Đọc những đoạn văn trên đây ta có cảm tưởng rằng đó không thể là ký ức của nghệ sĩ dù là một nghệ sĩ từng trải và có tài, mà phải là cặp mắt trong sáng và tinh tường của một đứa bé mẫn cảm mới chộp nổi. Ngay từ những dòng đầu của tập I, “Sóng Hắc hải” đã được viết theo một phong cách khác hẳn, tạo nên một tâm trạng khác tất cả những gì ông đã viết, nhất là tiểu thuyết “Thời gian ơi, tiến lên!” Lối văn mô tả chậm rãi, dẫn dắt người đọc đi vào suy tư và hồi tưởng, trong đó hứa hẹn một cái gì chân xác và trữ tình. Chất thơ thấm vào các trang sách và tô điểm cho chúng bằng những màu sắc êm ái, làm cho chúng trở nên hấp dẫn và độc đáo: lúc vui, lúc buồn nhưng bao giờ cũng là sự chân xác lãng mạn. Trong hành động của hai đứa trẻ Pêchya và Gavrik tính tự nhiên không phải chỉ do logic nội tâm mà còn do cả logic cuộc sống riêng của chúng tạo nên: mỗi đứa một vẻ. Song đó cũng là cái logic, và tâm lý thông thường: trẻ con ở tuổi đó thường muốn bứt mình ra khỏi người lớn, muốn sống một cuộc sống độc lập, nhất là trong những hành động hấp dẫn của trẻ con, không muốn cái khôn ngoan chán ngắt của người lớn can thiệp vào. Càng nguy hiểm càng hấp dẫn, càng là việc làm vô cùng thích thú. Bí mật là cái gì đè nặng lên con tim đến ngạt thở, nhưng ngọt ngào xiết bao, cái hương vị của khám phá. Do đó chúng đã bị lôi cuốn vào cuộc cách mạng như tham gia vào một trò chơi thích thú đang tiếp diễn ở giai đoạn gay go, căng thẳng. Bị thua trắng tay trong cuộc chơi uski, Pêchya trở thành “nô lệ” của Gavrik và nó phải theo “hầu” ông chủ, tha cái túi nặng đầy tài sản uski lang thang khắp thành phố giữa lúc hỗn mang, chui rúc qua các ngõ hẻm heo hút và rùng rợn. Thoạt tiên Pêchya không biết cái túi nó mang trên lưng là đạn và việc luồn lánh qua các ngõ ngách kia là làm nhiệm vụ tiếp vận đạn dược cho những người khởi nghĩa đang chống cự với cảnh sát và quân lính chính phủ. Nhưng khi đã vỡ lẽ, nó lại hồ hởi tiếp nhận thêm nhiệm vụ mới. Bây giờ cố nhiên thằng bé đã hiểu rõ nó mang thứ uski gì. Giá vào lúc khác thì có lẽ nó đã vứt tuốt và chạy về nhà. Nhưng hôm ấy, mê say với cái công việc nguy hiểm nhưng hấp dẫn này; niềm mê say còn mãnh liệt gấp trăm lần những lúc ham chơi, nó nhất định không chịu bỏ bạn một mình. Nhưng ngay trong trường hợp này tác giả cũng không quên tuổi đời của nhân vật, tính hiếu danh trẻ con vốn có của lứa tuổi đó. “Hơn nữa, - nhà văn viết thêm, - nó không thể từ bỏ cái vinh quang của Gavrik. Chỉ riêng một ý nghĩ rằng sau này nó sẽ không có quyền kể lại những chuyện mạo hiểm của mình, đã lập tức buộc nó phải coi thường nguy hiểm”. Ở đây bộc lộ cái năng khiếu quan sát tinh tường của nhà văn: ông thận trọng quan sát, không bỏ sót một chi tiết nhỏ để nhận ra những tính chất mới, quan điểm mới đang hình thành trong tâm hồn thằng bé Pêchya, trong khi cuộc sống xung quanh hầu như vẫn bình thường. Tuổi thơ là tuổi của những tìm tòi, khám phá, và quả thực những khám phá vĩ đại đều bắt đầu ngay từ những bước đi đầu tiên, những tiếng nói đầu tiên trong đời người. Mỗi đứa trẻ đều tìm ra một châu Mỹ của mình, và tạo ra cho nó - cái châu Mỹ ấy, một cuộc sống riêng theo ý mình. Những cuốn sách về tuổi thơ là những cuốn sách về tìm tòi và khám phá cái mới - khám phá thế giới. Tuy nhiên bất kỳ một khám phá nào cũng đều xảy ra trong những giờ phút nhất định của lịch sử và trong những tình huống nhất định. Khi nhận ra cái túi nó mang trên lưng là đạn, Pêchya hiểu rõ rằng việc làm của nó và Gavrik không còn là trò chơi trẻ con nữa. Trong hai tập đầu của bộ sử thi “Cánh buồm trắng cô độc” và “Khu trại trong thảo nguyên” sự khám phá thế giới trong tâm hồn cậu bé diễn ra dưới ánh sáng của ngọn lửa cách mạng đang cháy lan ra khắp nước Nga. Thế giới hiện lên trong sự đổ vỡ khốc liệt của năm 1905. Những biểu tượng tưởng như không gì lay chuyền nổi của tuổi thơ về nước Nga, về Sa hoàng, về Thượng đế và về người bố thế là bắt đầu sụp đổ. “... Thì ra nước Nga là một nước bất hạnh, và ngoài bố ra còn có những người ưu tú nào đó đang chết mòn ở những nơi làm việc khổ sai. Thì ra Sa hoàng là thằng ngốc và một tên nát rượu, lại còn bị người ta dùng gậy tre đánh vào đầu. Ngoài ra, các bộ trưởng là những kẻ bất tài, các tướng tá là những kẻ bất tàỉ, và té ra không phải nước Nga đánh bại nước Nhật - điều mà cho đến nay không ai mảy may nghi ngờ - mà là nước Nhật đánh bại nước Nga. Và điều chủ yếu nhất là bố và bác đều nói về việc đó. Tuy nhiên, chính Pêchya cũng đã đoán được đôi điều. Trong bót cảnh sát, người ta nhốt những người hoàn toàn tử tế, không say rượu, thậm chỉ nhốt cả một ông già tuyệt diệu, mà còn đánh cả ông cụ nữa chứ.” Lưng đeo cái xắc cốt nặng, ngoan ngoãn theo Gavrik đi khắp hang cùng ngõ hẻm, lần đầu tiên Pêchya nhìn thấy cái cảnh bần cùng vừa đáng kinh sợ, vừa nên thơ của những khu phố nghèo của Ôđexxa, nhìn thấy cái tử thi có bộ mặt vàng ệch như sáp ong trong trận chiến đấu mà Pêchya có cảm tưởng như một trò chơi trẻ con. V. Kataep là một nhà văn hay viết về trẻ em và hai tập đầu của bộ bốn tập “Sóng Hắc hải” là những cuốn sách viết về niềm sung sướng đầu tiên của bản tính trẻ em và những đau khổ đầu tiên khi tiếp cận với sự thật. Trong cuộc đời của một đứa trẻ, và nhất là của một đứa trẻ mơ mộng, lãng mạn như Pêchya, thì liệu có những tấn bi kịch nào có thể so sánh được với những thất vọng đầu tiên, với việc phải đánh giá lại những giá trị đã ăn sâu trong ý niệm của nó! Cuộc sống không thương tiếc những ảo mộng. Đó là quá trình tất yếu, nhưng lại diễn ra khác nhau tùy theo môi trường của mỗi cá nhân và ảnh hưởng của lịch sử. Ở đây nhà văn phải dựng lại toàn bộ bối cảnh lịch sử và không khí xã hội của những năm ấy một cách chính xác: hoàn cảnh gia đình ông giáo Batsây, quanh cảnh đường phố Ôđexxa và tất cả những gì tạo nên môi trường vật chất và đạo đức của Pêchya. Nhưng tuổi thơ của Gavrik là căn lều nghèo nàn của ông lão đánh cá, ở đây không có chỗ cho những ước mơ và viễn tưởng rực rỡ. Viễn tưởng lãng mạn là cái cốt do môi trường của Pêchya tạo nên. Một chú bé được nuôi dưỡng trong môi trường chính trực, liêm khiết và yêu cái thiện, nó sẽ hướng về cái thiện, cái công bằng. Khi vào đời, cái sức mạnh vốn có của cái ác, mà cái ác bao giờ cũng có khuynh hướng chà đạp lên cái thiện sơ khai của con người, mới bắt đầu tác động đến con người. May mắn thay, vừa bước chân ra khỏi cửa, Pêchya đã gặp ngay Gavrik, một người bạn đường đáng tin cậy, một đứa trẻ nghèo mà tâm hồn trong sáng, ý chí thông minh, bản năng chiến đấu vượt lên trên những thiếu niên cùng lứa tuổi. Do hoàn cảnh gia đình, ngay từ tấm bé, Gavrik đã phải lăn lộn với thiên nhiên để kiếm sống và phải va chạm với đủ loại người, nó sớm trưởng thành và là một đứa trẻ tháo vát, có đầu óc thực tế. Ý thức đoàn kết và công bằng xã hội đã ăn sâu trong tâm khảm nó ngay từ tấm bé. Khi đưa Pêchya. đến tiếp xúc với những người lao động nó không quên giới thiệu: “Đây là con trai ông giáo Batsây” và “đó là một gia đình không có gì làm giàu sang, hiện đang gặp khó khăn.” Như một người lớn, chín chắn không phải do tuổi đời song Gavrik vẫn là một thủ lĩnh tí hon tinh nhanh và nghịch ngợm, nó luôn luôn tự hào với vai trò của mình trong đám trẻ con trên đường phố, nó cũng ham chơi, nhiều khi quên cả công việc. Sắc thái đó làm cho nhà văn có thể mang vào câu chuyện chút ít hài hước, làm cho “chú Gavrôs Tênarđiê của Ôđexxa” có sức cảm hóa đặc biệt. Gavrik tháo vát, đảm đang và chu đáo, Pêchya mơ mộng mà ngờ nghệch trước việc đời. Do đó trong tình bạn của chúng có cái gì thiếu bình đẳng. Những cái mà đứa con của đường phố Ôđexxa nhận thức một cách dễ dàng và chắc chắn thì đối với Pêchya - đứa con của một gia đình trí thức, một học sinh trường quốc lập, lại là một điều bí ẩn. Pêchya chỉ có mỗi một ưu thế là thầy dạy tiếng la tinh cho Gavrik. Tuy vậy Gavrik cũng không xem thường cái khôn ngoan thông thái của nhà trường. Đối với nó những kiến thức sách vở không phải là điều thích thú, nhưng nó hiểu được giá trị thực tiễn của kiến thức đó: cần học, học vẫn là điều bổ ích. Viết về tình bạn của hai đứa trẻ có cá tính khác nhau, được giáo dục trong những môi trường khác nhau, nhưng vẫn giữ được tình thân ái, ngay cả khi chúng đã khôn lớn, là một khó khăn lớn: tình bạn đó rất dễ rơi vào tình trạng gượng gạo, nhưng ở đây tác giả đã khắc phục được khó khăn ấy một cách tài tình. Cái khôn ngoan của Gavrik thường có giá trị thực tiễn hơn kiến thức sách vở của Pêchya, nhất là khi vấp phải những vấn đề không hề có trong giáo trình. Ở đây nhà văn đã giải quyết khá tốt vấn đề khác biệt giữa đôi bạn: dù ảnh hưởng của Gavrik đến Pêchya có mạnh đến mấy, dù tâm hồn của chàng thiếu niên mơ mộng và lãng mạn này có ngây thơ và trong trắng thế nào, dù Pêchya có hướng đến cái thiện, cái công bằng đến mấy thì nó vẫn là một đứa con cưng của một gia đình trí thức đang dao động; hoang mang trước thời cuộc. Mỗi đứa có một thế giới nội tâm riêng của mình. Khi nói đến gia đình Batsây, đến người chủ gia đình ấy, ngay cả khi họ đang gặp khó khăn như trong “Khu trại trong thảo nguyên”, V. Kataep vẫn tả với nụ cười vốn có của ông - nụ cười nhân từ, thấu hiểu, rộng lượng và có cái gì như ái ngại. Thực ra trong cái chất Đôngkisốt của Vaxili Pêtrôvits Batsây có cái gì vừa tức cười vừa cảm động, cũng như trong tình trạng tuyệt vọng của bà bác Tachyana Ivanôvna, khi phẫn nộ bà thốt ra một tràng những lời phỉ báng có tính chất chính trị của bà. Trong gia đình Batsây không phải tất cả bao giờ cũng rõ ràng và luôn luôn nổ ra những cuộc tranh cãi. Ở đây chủ nghĩa duy tâm không phải như một hệ thống triết học mà là một loạt những nguyên tắc sinh hoạt gọi là vô tư, trung thực, lề thói, những ý niệm cao cả về người trí thức và bổn phận, của nó. Với Vaxili Pêtrôvits hai tiếng “chính trị” cũng làm ông e ngại chứ đừng nói tới giai cấp và đấu tranh giai cấp. Thế nhưng trong gia đình ông hầu như người nào cũng thấy rõ cái ranh giới xã hội đã được bàn tay vô hình vạch ra giữa những con người: “Pêchya biết rằng chính ở đây, ở phía trên, bên kia đại lộ Nicolai là cái khu phố rực sáng, ồn ào, vô cùng quyến rũ, cao sang, huyền ảo mà trong gia đình Batsây người ta thường nói đến với một vẻ vừa kính trọng, vừa khinh bỉ là “Khu trung tâm”. Dĩ nhiên là gia đình Batsây không ở “khu trung tâm”. Ở đấy là “những người giàu có”, tức là những người đặc biệt, đi tàu bay hay xe đều đi vé hạng nhất, ngày nào cũng có thể đi xem hát, và không hiểu tại sao mãi bẩy giờ tối mới ăn trưa...” Nhưng không phải vì ghen tức mà ông bất mãn, ông Vaxili Bátsây vốn có thái độ ôn hòa, bất đối kháng, lý tưởng hóa cuộc sống - cái thái độ cố hữu của trí thức Nga. Nhất là ông, một con người nhân từ, đa cảm trong giọng nói thường nhiều nước mắt hơn là sắt thép. Nhưng khi phải đi đến quyết định: chỉ cần tỏ thái độ đầu hàng hay nhượng bộ trong phút chốc thôi để giữ cho cuộc đời yên hòa và sung túc, thì trong con người ông lại bộc lộ cái thái độ cứng rắn trước mọi thứ dọa dẫm và mua chuộc vì sự thánh thiện của đạo lý và vì lòng tự trọng. Cuộc sống nghiệt ngã, những bất công và đau khổ đã mở cho tầm mắt ông nhận ra cái bản chất của thứ uy lực tối thượng mà ông đang thờ phụng. Sau lần xung đột với thượng cấp, lần đầu tiên trong đời ông hiểu: “Ở nước Nga một khi đã ra làm việc Nhà nước thì không thể làm một con người ngay thẳng, không khom lưng cúi đầu được. Chỉ có thể là một quan chức đần độn của Sa hoàng, một viên chức không có ý kiến riêng của mình, chỉ biết tuân lệnh, tức là tuân lệnh quan trên, cho dù đấy là những mệnh lệnh bất chính và tội lỗi đi nữa. Với Vaxili Pêtrôvits, điều khủng khiếp nhất là tất cả cái đó lại bắt nguồn chính từ uy lực tối thượng của người đã được thượng đế ban cho ngai vàng để cai quản nước Nga”. Những giây phút tỉnh ngộ ấy hiếm hoi và quý giá vô cùng. Nó đã hướng ông Batsây đi vào một cuộc đời mới. Khác với gia đình ông Vaxili Batsây, trong xóm Cối xay Gần, ở cái thế giới người nghèo này của Gavrik, tất cả đều được thực hiện một cách dứt khoát, nhanh chóng, chắc chắn và không khoan nhượng. Ở đây, người ta không thừa nhận những cảm lụy, suy tư và dao động, ở họ - những người lao động bao giờ cũng sẵn sàng một quyết định hành động và ai cũng biết rõ là phải thực hiện quyết định đó như thế nào. Đối với V. Kataep, thì Rôđirôn Giukốp, Terenti, Tsernoivanepko, Gavrik và những chiến hữu của họ đều là những anh hùng. Trong “Khu trại trong thảo nguyên” ảnh hưởng của Gavrik đối với Pêchya quá rõ ràng và cụ thể. Nhà văn đã bám sát đôi bạn của mình lang thang đi khắp chốn: trên bãi biển, trên đường phố và chui cả vào những ngõ ngách của Ôđexxa. Đối với Gavrik thì bãi biển, đường phố, xó chợ... chỗ nào cũng thân thuộc như trong căn lều rách nát của ông nó trước đây và ngôi nhà lụp xụp của anh nó hiện nay. Việc kiếm sống đã dạy cho nó tính tháo vát, khôn khéo, đôi khi ranh mãnh và tính thận trọng, đã khơi lên lòng căm thù. Do đó thái độ của nó rất dứt khoát: một lần thôi và suốt đời. Pêchya luôn luôn khâm phục cái khôn ngoan mà bạn nó đã học được trên đường phố. Và tất cả “những gì ở nhà đối với nó đều trở nên chán ngắt và vô vị, mặc dù nó rất yêu bố và bà bác “bướng bỉnh” của nó. Khi đến xóm Cối xay Gần, ở đây cái gì đối với nó cũng mới mẻ và mỗi lúc một khác. Nhưng nó không quay lưng lại với gia đình. Ngôi nhà, bầu không khí gia đình, những ảo tưởng của bố và lòng bất mãn cao thượng của bác là một dòng tư tưởng, những câu chuyện của anh Terenti, tấm gương của Rôđiôn Giukốp, những hoạt động của Gavrik lại là một dòng khác. Và hai dòng tư tưởng đó thoạt nhìn mới trái ngược làm sao. Trong cả bộ sử thi “Sóng Hắc hải” Pêchya luôn luôn là điểm xoáy của các luồng gió từ bốn phương thổi tới. Cuộc đời Pêchya: tham gia cách mạng, tham gia nội chiến và sau này tham gia cuộc chiến tranh yêu nước luôn luôn là sự tiếp diễn và phát triển của điểm giao lưu của các luồng tư tưởng đó. * * *       “Khu trại trong thảo nguyên” là tập thứ hai của bộ “Sóng Hắc hải” đã được mở đầu bằng cuốn tiểu thuyết mang cái tên thơ mộng “Cánh buồm trắng cô độc”, bắt nguồn từ chủ nghĩa lãng mạn trong sáng tô điểm cho những bước đi ban đầu ít nhiều có suy nghĩ của nhân vật trung tâm là Pêchya Batsây và tình bạn của nó với Gavrik Tsornôivanenko. Trong “Khu trại trong thảo nguyên”, vẫn thông qua cuộc sống của hai gia đình ông giáo Batsây và anh công nhân Tsornôivanenko mà tiêu biểu vẫn là Pêchya và Gavrik. V. Kataep tái hiện lại một cách chi tiết cuộc sống của Ôđexxa, của nước Nga và phong trào cách mạng Nga vào những năm 1910 - 1915, cũng như phong trào dân chủ trên quy mô thế giới, thông qua chuyến du lịch của ba bố con Batsây qua một số nước. Sau thất bại của cuộc cách mạng 1905, chính phủ Nga hoàng tăng cường đàn áp phong trào công nhân và truy lùng những người hoạt động cách mạng, Đảng rút vào hoạt động bí mật, đồng thời kết hợp với hoạt động công khai: sự ra đời của tờ báo “Sự thật” và việc chuẩn bị đưa người ra tranh cử vào viện Đuma. Chính việc kết hợp giữa hoạt động hợp pháp với hoạt động bí mật là nét đặc trưng của giai đoạn cách mạng này giai đoạn chuẩn bị điều kiện cho một cuộc cách mạng mới, - cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong những chương đầu của “Khu trại trong thảo nguyên”, vốn là một người trí thức Nga trung trực, một con chiên ngoan đạo, một người yêu nước theo kiểu thánh đường và hết mực tin yêu Sa hoàng, ông giáo Batsây ra sức bảo vệ nhà thờ và nhà nước với tấm lòng chân thiện của một nhà sư phạm mẫu mực. Ông làm ngơ trước mọi hoạt động của những người cách mạng, tuy không chống đối nhưng cương quyết không tham gia và cũng không để họ lợi dụng mình vào mục đích “chính trị” của họ. Hai chữ chính trị bao giờ cũng làm ông bối rối, ông xa lánh nó như người ta xa lánh những kẻ nhiễu sự. Ông không muốn ai quấy rầy cuộc sống “lương thiện” và yên hòa của gia đình ông. Nhưng sự thật đã không như ông tưởng! Trước cái tang lớn của nước Nga - nhà văn vĩ đại Lep Tônxtôi từ trần, ông đã đọc bài diễn văn tưởng niệm - “Mặt trời của nước Nga đã tắt” trước học sinh. Nhưng việc làm trung thực của ông lại trái với “nghĩa vụ” của người viên chức nhà nước, lại là hoạt động chống đối chính phủ. Giữa L. Tônxtôi và nhà nước thì chân lý ở đâu? Một câu hỏi hiện lên và niềm tin của ông bắt đầu lung lay. Còn nhà thờ ư? Sau lần tiếp xúc với lão linh mục đại diện cho nhà thờ ở nghĩa trang, bên nấm mồ của vợ ông, ông thấy rõ đó chẳng qua cũng chỉ là trò xảo trá! Và niềm tin của ông tiêu tan. Sau câu nói “kháng cự” đầy công phẫn: “Ngài làm nhục tôi!” ông bắt buộc phải thôi việc. Sau lần tống cổ tên hối lộ Blagienxki ra khỏi nhà, ông trở nên thất nghiệp và lần này thì vô phương cứu chữa. Ông hiểu ra rằng chẳng qua mình chỉ là một “tên nô lệ”. Tiếng ấy đúng nhất. “Thoạt đầu tôi là tên nô lệ của Bộ giáo dục nhân dân mà đại diện là Xmôlianinôp, đốc học ty giáo dục và y đã đuổi tôi như đuổi một con chó, bởi vì tôi đã cả gan có ý kiến riêng về Tônxtôi. Sau đó tôi trở thành nô lệ của Faigơ, kẻ cải đạo và là kẻ đầu óc thô thiển, y cùng đuổi tôi như đuổi con chó, bởi vì lương tâm tôi không cho phép tôi ghi điểm ba cho Blagienxki, một tên dốt đặc và ba hoa, trong khi người ta muốn tôi cho hắn điểm ba chỉ vì một lý do duy nhất hắn là con trai một nhà triệu phú. Tôi muốn nhổ toẹt vào mặt cả Xmôlianinôp lẫn Faigơ, và đồng thời phỉ nhổ cả toàn bộ chính phủ Nga! Và nếu ở nước Nga ta không thể không làm nô lệ cho kẻ khác, thì thà tôi làm một tên nô lệ bình thường, còn hơn làm tên nô lệ trí thức. Ít ra thì tôi còn giữ được sức sống cho tâm hồn tôi...” Theo sáng kiến của bác Tachiana Ivanôvna - gia đình Batsây thuê khu trại trồng cây ăn quả trong thảo nguyên với ý định cứu sống gia đình bằng lao động của mình. Nhưng trong một xã hội mà quan hệ giữa người với người là chó sói, thì gia đình ông làm sao tránh khỏi tai họa khánh kiệt. Ở đây lại xuất hiện mụ Xtôrôgienkô, một nhân vật hắc ám, ngày xưa buôn hàng cá, đã cướp cơm của ông cháu Gavrik và bao người khác, giờ đây lại chuyển sang buôn trái cây, đang ra sức dìm giá vườn quả của gia đình Batsây với ý định cướp trắng cả vụ trái cây lẫn khu trại. Nhưng mụ đã vấp phải kẻ thù cố cựu của mình: Gavrik. “Có điều hồi xưa nó bé tí và bất lực, mụ muốn làm gì nó thì làm, nhưng giờ đây nó đã hoàn toàn khác, và do bản năng mụ đánh hơi thấy nó có sức mạnh nguy hiểm chưa rõ đến mức nào”. Phải chăng đó là sự lớn mạnh của phong trào cách mạng, đã đến lúc làm cho kẻ thù kiêng nể. Những cuộc tìm kiếm để xây dựng cuộc sống điền viên, những lo âu và xung đột của Vaxili Batsây rút cục cũng có cái gì giống với tính chất lãng mạn tích cực của những người trong ủy ban bí mật. Giữa ông giáo Batsây và họ có những cái giống nhau: họ có chung một kẻ thù. Trong lúc gia đình Batsây đã bó tay trước sự chèn ép của cái xã hội “cá lớn nuốt cá bé”, mọi người đã an phận chờ đợi cái tai họa phải đến, thì vào một buổi sáng đẹp trời anh em công nhân ở Xóm Cối xay Gần đã đến giúp gia đình Batsây thu hoạch vụ trái cây theo lệnh của ủy ban bí mật. Ở đây có một cái gì rất cảm động, phóng khoáng như một khúc ca đồng nội. Và để trả công, - theo nguyên tắc có đi có lại, ông giáo Batsây giảng cho anh em công nhân một số bài học phổ thông về lịch sử, địa lý, văn học... Sau cái phút tỉnh ngộ kia giờ đây đã đến lúc ông dậm chân quật vào mặt bọn cảnh sát khi chúng ập đến muốn phá rối cuộc sống điền viên của ông “Tôi yêu cầu những người lạ mặt đêm hôm không được xộc vào trang trại của tôi”. Phút tỉnh ngộ đã đưa đến bước ngoặt lớn là sự giác ngộ tư tưởng của ông. Hành động đó làm ta liên hệ tới hành động của ông cách đấy mấy năm (“Cánh buồm trắng cô độc”): chính ông đã che chở cho anh lính thủy của chiến hạm Pôchômkin là Rôđiôn Giukốp thoát khỏi sự truy nã của cảnh sát - lúc này, hành động của ông mới xuất phát từ lòng nhân từ. Về Rôđiôn Giukốp khi anh ra đi thì “Thuyền ai thấp thoáng lẻ loi cánh buồm!” (“Cánh buồm trắng cô độc”) và giờ đây anh trở về thì mặt biển nhộn nhịp những cánh buồm. Khi ra đi anh chỉ là anh lính thủy quả cảm được ông cháu Gavrik cứu sống, giờ đây anh trở về với tư cách là đại diện của Ban chấp hành Trung ương Đảng công nhân xã hội dân chủ. Còn ông giáo Batsây thì đứng nghe anh nói chuyện về “tình hình chính trị” một cách chăm chú đến nỗi Pêchya đi ngang qua và chạm vào người ông cũng không hay. Và trong mỗi mắt kính của ông “lấp lánh một đốm lửa nhỏ”. Chính những tình tiết này làm cho câu chuyện dịu dàng và hấp dẫn về đôi bạn tâm giao trở thành câu chuyện về sự tất yếu của cách mạng, về sự hấp dẫn tất nhiên của cách mạng đối với những tinh hoa của xã hội và của mỗi con người dù đó là cậu học sinh hay ông giáo trung học. Trong cả hai tập “Cánh buồm trắng cô độc” cũng như “Khu trại trong thảo nguyên”, thời đại được quan sát và mô tả một cách xúc động dưới con mắt của những người sống trực tiếp trong các sự kiện. Trong “Khu trại trong thảo nguyên” gia đình Tsornôivanenko hầu như không có gì thay đổi, ngoài việc Gavrik bỏ nghề đi biển và sau khi đã làm đủ nghề để cuối cùng trở thành thợ sắp chữ học nghề. Việc vào nghề in của nó cũng là do yêu cầu của cách mạng. Ở đây thông qua việc mô tả sinh hoạt của gia đình Tsornôivanenko và quan hệ của Terenti để nói lên phong trào công nhân và ngư dân Ôđexxa. Trong trường học nhân dân của ông giáo Batsây, ngoài Terenti ra, còn thấy bác lính thủy già Fêđia, anh Akim Perepelitxki. Và ở đây việc xuất hiện thêm một nhân vật mới: bà quả phụ Pavlôpxkaia, làm cho trường học của ông Batsây trở thành như một nhóm nghiên cứu chủ nghĩa Mác trong phong trào công nhân. Khi Rôđiôn Giukốp nhảy lên con thuyền nhỏ nhoi một mình một bóng vượt biển khơi thì Pêchya mới lên tám. Vào năm Lép Tônxtôi qua đời Chương mở đầu của “Khu trại trong thảo nguyên” Pêchya đã 13 tuổi, nó đã có những hồi tưởng. Những sự kiện rối ren nó không thể nào gỡ ra được. Trong đầu nó đã có nhiều điều đáng suy nghĩ hơn là cuộc chơi uski thua lỗ. Nhìn cảnh tượng thành phố trong những ngày có tang bỗng nhiên quá khứ trở về xâm chiếm tâm hồn nó: “bầu không khí lo âu và rùng rợn của “năm thứ năm”, Nỗi lo âu đó khi tỏ, khi mờ đã xuyên suốt cuốn tiểu thuyết thứ hai “Khu trại trong thảo nguyên”. Không gian đã mở rộng ra ngoài phạm vi Ôđexxa. Đi du lịch ra nước ngoài ba bố con ông Vaxili Batsây tiếp xúc với thế giới bao la đủ màu sắc, với nhiều dân tộc và tiếng nói khác nhau, sức tưởng tượng vô hạn và không biết mệt của tuổi thơ bừng lên trước vẻ đẹp của thiên nhiên hùng vĩ và đầy rẫy những cái bất ngờ hiện lên sau khung cửa tàu xe. Vẫn với nụ cười nhân hậu, nhưng cũng rất hóm hỉnh, tác giả mô tả tình cảm của Pêchya với cô bé người Nga mà nó vừa nhác thấy trên sân ga nước người. Tình cảm say đắm ấy nảy sinh có lẽ vì đã lâu nó chưa được gặp người bạn gái nơi quê nhà. Chúng ta đã mấy ai không có một thời muốn giấu đi “cái đuôi trẻ con” bằng cách cố làm ra vẻ mình là người lớn: từ lời ăn tiếng nói đến dáng điệu, nhất là khi tiếp xúc với bạn nữ. Những cảm giác mơ hồ nhưng vấn vương bồi hồi, khi ta đi bên bạn ở chỗ vắng người, những cảm xúc làm bật ra những ý thơ tuyệt vời mà cho đến lúc đã làm người bố ta vẫn còn thấy xốn xang mỗi khi nhớ lại. Những cảm giác thơ ngây, trong trắng ấy - vào cái thuở chuẩn bị làm người lớn ấy, ta cứ thích gọi là “tình yêu”. Có thể đó sẽ là tình yêu, nhưng không hẳn. Ở đây ta lại thấy nụ cười của V. Kataep khi ông mô tả những xúc cảm yêu đương của cậu học sinh mơ mộng Pêchya Batsây với Môchya và Mariana. Nhưng đối với cậu thiếu niên Gavrik không được học như trẻ khác vì hoàn cảnh gia đình thì lại khác. Niềm khao khát của cậu là được học. Cậu sẵn sàng bỏ những đồng Kôpếch rất khó kiếm và cũng rất cần để nuôi sống gia đình, để trả tiền học phí. Cậu cũng muốn tỏ ra mình là người lớn, nhưng khác với Pêchya, cậu muốn mình là người lớn để làm được những việc lớn hơn. Chính Gavrik đã quắc mắt tống cổ mụ Xtôrôgienko ra khỏi trang trại của ông giáo Batsây. Tuy nhiên, đối với Pêchya trong số những tình tiết dịu dàng và vui vẻ, trong cái ống kính vạn hoa các ấn tượng cứ luôn luôn thay đổi một cách nhanh chóng, qua cả một dòng ngôn ngữ xa lạ đầy huyên náo trên đường du lịch, đôi khi vẫn thoáng hiện lên nỗi lo âu mơ hồ, những phong thanh về đời sống của nước Nga xa xôi và khuất nẻo. Nỗi hốt hoảng của Pêchya khi nó bỏ quên ở tiệm cà phê chiếc mũ lính thủy mà b&a

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thạch Trụ Huyết - Nguyễn Trần Bé
Dưới ngòi bút của nhà văn Nguyễn Trần Bé cuộc đời của bạo chúa khát máu Sùng Chứ Đa hiện lên vừa đáng thương vừa đáng sợ, một minh chứng cụ thể về cơn mê quyền lực của con người. Nguyễn Trần Bé là nhà văn sở hữu lối viết rất đa dạng, từ bút ký đến thơ thiếu nhi ông đều có thể sáng tác. Văn chương của cây viết lão làng này thường mang tính phổ quát cao, dễ đọc, dễ tiếp nhận nhưng cũng vô cùng đẹp đẽ hướng tới cái chân, thiện, mỹ ở đời. Để hoàn thành tác phẩm Thạch trụ huyết, tác giả đã phải vất vả trong suốt bảy năm vừa viết vừa lao động, tìm hiểu, quan sát cuộc sống sinh hoạt của bà con đồng bào người Mông. Tác phẩm với cái tên ấn tượng này đã đem về cho ông giải ba trong cuộc thi viết tiểu thuyết lần thứ thứ tư của Hội Nhà văn Việt Nam. Thạch trụ huyết là câu chuyện kể về cuộc đời của tên bạo chúa Sùng Chứ Đa. Sinh thời hắn vốn là một chàng trai khôi ngô, tuấn tú, có tố chất trở thành thủ lĩnh thâu tóm một vùng thiên hạ. Nhưng người đời vẫn nói, trẻ sinh giờ thiêng hoặc thành kỳ nhân hoặc thành ác nhân. Chứ Đa là con của trời, nó có sự dũng cảm bản lĩnh hơn người nhưng cái ác trong máu cũng mạnh mẽ hơn bất kỳ ai. Ở nơi mù sương, xám đá này từ một thanh niên tay trắng mà hắn đã lập nên cả một cơ nghiệp với đội quân Đại Thạch khét tiếng chỉ bằng con đường điều chế và bán thuốc phiện. Người dân bị khủng bố tinh thần bằng bạo lực, bị tàn sát không thương tiếc. Nơi vó ngựa Chứ Đa đi qua cỏ không mọc nổi. Đỉnh điểm của sự tàn bạo độc tài ấy là việc tên bạo chúa cho xây dựng một cột trụ đá để hành hình những kẻ chống lại mình. Nạn nhân sẽ phải chịu đau đớn, giày vò cả thể xác lẫn tinh thần cho đến chết. Máu của kẻ xấu số tưới đẫm cột thành những mảng loang lổ như một con quái vật kỳ dị đang ngấu nghiến nuốt trọn con mồi. Nhưng ngồi trên tháp ngà tự phong Chứ Đa không hề hay biết một cuộc cách mạng đang âm thầm diễn ra và kẻ lãnh đạo lại chính là đám bạn thân thiết thủa hàn vi của hắn. Họ là Seo Lử, Mí Vư, Tháo Mỷ, A Pẩu… những người con chiến đấu vì nhân nghĩa, vì đạo làm người, giải thoát chúng sinh, bá tánh khỏi cảnh thống khổ, lầm than.   Truyền thống Đông phương thường khuyên con người ăn ở sao cho hợp lẽ đời, đừng tạo nghiệp để tránh tai ương. Giáo lý nhà Phật khuyên chúng ta hãy cố gắng tu tập hướng đến mục tiêu chính là cuộc sống hướng thiện, giải thoát, tự tại. Người nào đạt được những điều trên, kẻ ấy hạnh phúc nhất thế gian. Thật tiếc Chứ Đa lại nằm ngoài số đó. Vì thế dù cố gắng nhưng y cũng không thể kháng được mệnh trời. Khi cái ác bị đẩy lên tới tận cùng đương nhiên sẽ xuất hiện sự phản kháng, cách mạng. Bản chất dã man, thú tính của Chứ Đa được miêu tả sắc bén tới nỗi chính quân binh dưới trướng cũng không thể chịu nổi. Họ đã bật khóc trong bất lực, vụng trộm giấu kín đi hàng nước mắt xót thương cho những kiếp người bị bạo chúa hành hình. Bằng một lối viết nặng miêu tả, tác giả khéo léo dẫn dắt, xuyên suốt các sự kiện khiến người đọc bị thuyết phục. Thiện ác đối đầu, không một chi tiết thừa thãi, tạo cho mạch chuyện một sự chắc chắn, hoàn chỉnh về thuyết nhân quả cõi đời. Bên cạnh đó nội tâm của các nhân vật cũng được phơi bày, đặc tả kỹ càng, tường tận nhất có thể. Nếu như Sùng Chứ Đa làm người đọc kinh hãi, căm hờn bằng những hành động không thể dung thứ thì cái tình, cái lý, sự đùm bọc nơi chốn hoang vu giữa người với người lại khiến độc giả cảm thấy ấm lòng mà rưng rưng nước mắt. Cái thiện vẫn chưa bị tận diệt, luôn song hành chờ ngày phản kháng. Seo Lử được tạo ra như một thế đối trọng với Chứ Đa, không quá lời nếu ví chàng trai Mông này sống trọng tình như Lưu Bị trong Tam Quốc diễn nghĩa. Cũng chính sức mạnh ấy mà anh được buôn làng tin theo, cầm vũ khí cùng Seo Lử chống lại kẻ thù. Trong Thạch trụ huyết không có ai là kẻ ác mãi mãi. Tác giả đã thể hiện góc nhìn nhân đạo với tất cả các nhân vật từ đó để cho họ một đường lùi để cải tà quy chính. Đọc văn mà như thấy được khuyên răn, tự nhủ trong lòng sống tốt, đời sẽ không đãi bạc người lành. Thạch trụ huyết miêu tả khá nhiều về các trận đánh của Chứ Đa. Một yếu tố khiến cuốn tiểu thuyết trở nên đáng đọc. Tài cầm quân và đầu óc đầy tham vọng, mưu lược đã giúp hắn chiếm được hết các vùng đất, bày binh bố trận không thua kém mưu sĩ năm xưa. Vậy tại sao một kẻ tài giỏi như vậy lại sa ngã, lầm lạc? Đây sẽ câu hỏi khiến người đọc phải suy nghĩ, thậm chí là ám ảnh để rút ra câu trả lời của riêng mình. Những thứ Chứ Đa hướng tới như tài sản, quyền lực, thuốc phiện chỉ là phù du hư ảo, một ngọn lửa thiêu sẽ xóa sạch mọi sự tồn tại của y. Hắn đã ỷ vào sức mạnh để hà hiếp chèn ép mọi người mà quên đi con người thật của mình, mặc cho chất độc gặm nhấm, mục nát tận bên sâu trong tâm hồn. Một hồi chuông cảnh tỉnh cho ai đang sa đà, u mê. Nếu tất cả chỉ lo làm giàu về của cải vật chất mà sống không có đạo đức thì sẽ tạo ra mầm họa lớn cho xã hội. *** Tác giả Nguyễn Trần Bé sinh năm 1960 tại Hoa Lư, Ninh Bình. Từ những năm 1980 ông tham gia sáng tác văn học (viết truyện ngắn, kịch bản, ký và thơ). Thời kỳ đầu chủ yếu cộng tác với Báo Tân Trào (Hội VHNT Tuyên Quang) và báo Tuyên Quang; đồng thời có gửi tác phẩm cho một số báo khác của Trung ương.  Ông có khá nhiều tác phẩm được đăng trên các báo và đọc trên Chương trình Văn nghệ của Đài Tiếng nói Việt Nam. Nổi bật là các tác phẩm: Xanh mướt đồng ngô, Hương của đất (bút ký), Tạo vốn ăn chơi, Em và tôi (truyện ngắn); Mẹ không cô đơn, Thơ viết ở vùng chè (thơ), Sự tích rùa vỡ mai, Nỗi oan của chim sâu (thơ thiếu nhi)… đăng trên báo Tân Trào; Hoa hướng dương (truyện ngắn) đăng trên báo Tiền Phong; Dòng sông có một chuyện tình (truyện ngắn) đăng trên tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam... Một số tác phẩm nổi bật của ông được chọn in trong các tuyển tập; có truyện được trích đưa vào sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 2… *** Đã nhiều đêm già làng Nỏ Pó trăn trở không sao ngủ được. Ông già lắm rồi, sướng khổ đã có đủ. Nhưng ông chưa thể thanh thản an hưởng tuổi già vì còn có một chuyện vướng bận trong lòng. Thâm tâm ông nghĩ, việc này mà không lo xong thì không thể nào yên tâm nhắm mắt. Nghĩ đến đấy già làng Nỏ Pó vùng dậy, với cây gậy song đã nhẵn bóng, in đậm dấu tay, lật đật chống sang nhà Seo Lử. Ông đi xiêu vẹo, chuệnh choạng, chốc chốc lại phải đưa tay ôm ngực để nén cơn ho. - Hầy dà, cái chân không muốn bước nữa rồi! - Nỏ Pó buông cây gậy ngồi phệt xuống vệ đường đầy đá xám để nghỉ lấy lại sức. Ông đưa mắt nhìn về phía cái cột đá gớm ghê đã từng là nỗi ám ảnh của biết bao gia đình ở cái thung lũng đá Sủng Pả này. Cứ nghĩ đến những chuyện bà con trong bản kể về cái cột đá làm hại dân lành một cách nửa hư, nửa thực ông lại thở dài. Như có một sức mạnh vô hình, già làng Nỏ Pó cầm gậy đứng lên, bước xăm xăm về phía ngôi nhà tộc trưởng Seo Lử. Seo Lử nhìn thấy già làng từ xa, vội chạy xuống đón. Đưa đôi tay rắn chắc đỡ vị già làng đáng kính, Seo Lử bảo: - Sao già không cho người nhà gọi tôi đến mà phải tự đi cho khổ? - Chuyện này chưa xong thì không thể để lộ ra ngoài được! - Già làng Nỏ Pó nói trong tiếng thở dốc. Seo Lử dìu ông già chậm chạp bước vào nhà, mời ngồi lên chiếc phản gỗ đen bóng. Seo Lử vào buồng trong bê ra một bình rượu ngâm cao xương dê núi và rễ cây thuốc, rót ra hai chiếc chén làm bằng ống tre. - Mời già chén rượu quí! - Seo Lử thân mật đưa chén rượu tre cho Nỏ Pó. - Hầy dà! Rượu ngon đấy, mới ngửi đã thấy thơm, thấy say rồi! - Rượu này ngâm cao xương dê núi, cùng mấy chục loại rễ cây thuốc quý và các hương liệu ở núi đá Sủng Pả đấy già ạ. Người già uống vào khoẻ ra nhiều lắm. Sau vài tuần rượu, đến khi đã lâng lâng, Nỏ Pó nói với Seo Lử: - Seo Lử à, cái cột đá vẫn ác quá! Chủ nhân của nó chẳng còn nữa mà sao nó vẫn cứ làm hại dân lành? Già nghe dân bản kể, người chửa đi qua cái cột đá ấy bị sảy thai; trai gái yêu nhau đi qua cột đá sẽ sinh ra ghét nhau rồi bỏ nhau; người làm nương đi qua cột đá thì cây ngô, cây đậu không sai quả, mẩy hạt; trâu, bò, dê, ngựa đi qua cột đá sẽ sinh bệnh mà chết!... - Già có tin vào những chuyện đó không? - Seo Lử hỏi. - Ta thấy thật khó tin. Nhưng dân bản lại bảo những chuyện đó là có thật. Và họ muốn đập bỏ cái cột đá khủng khiếp ấy. - Vậy ý già làng thế nào? - Theo ta, để dân bản không phải lo nghĩ nhiều thì tộc trưởng cứ cho người đập bỏ cái cột đá ấy đi. Già như ta mà nhìn thấy nó còn sợ, huống chi là dân bản! Ngẫm ngợi hồi lâu, Seo Lử nói: - Tôi cho rằng những chuyện đồn đại ấy là do nỗi ám ảnh từ cái cột đá sinh ra. Chừng nào cái cột đá ấy còn đứng đó thì những nỗi khiếp đảm sẽ còn ám ảnh trong tâm trí mọi người. Có lẽ cần phải kéo đổ nó xuống. Chỉ kéo đổ thôi, chứ không đập đi đâu. Cái cột đá ấy không có tội, bởi nó chỉ là cái thứ để những kẻ mặt người dạ thú thỏa mãn cơn tàn sát cuồng điên của chúng. Vì thế phải giữ cái cột đá ấy lại để chúng ta và con cháu đời sau luôn nhớ đến tội ác của bạo chúa Sùng Chứ Đa. Nhớ đến nó để mà sống tốt hơn, thương yêu nhau hơn. Phải thế không già? - Tộc trưởng nói phải lắm! Thế là già này yên tâm nhắm mắt được rồi! - Nỏ Pó cười một cách khó nhọc, đôi mắt mờ đục của ông rớm nước. ... Mời các bạn đón đọc Thạch Trụ Huyết của tác giả Nguyễn Trần Bé.
Hoa Hồng Sa Mạc
Có điều gì gắn kết một tay cướp biển đã chết cách đây 600 năm, một người Argentina quyết cứu rừng vùng Patagonia, một thầy giáo lưu vong vẫn mơ về ngôi trường của mình và thức giấc với bụi phấn trên ngón tay, một người vùng Bengal yêu những con tàu và trên đường đưa chúng tới nghĩa trang tàu thì kể chuyện cho chúng nghe? Từ khắp mọi ngóc ngách, những số phận nhỏ bé ấy được xâu chuỗi dưới ngòi bút của Luis Sepúlveda trong một hành trình đặc biệt: hành trình chống lại sự vô danh, chống lại quên lãng. Bằng ngôn ngữ đầy chất thơ như tiếng sóng dồi của biển cả hay ngọt ngào như thịt một loại quả nhiệt đới, bằng ngòi bút đầy nhân văn, Sepúlveda kể lại câu chuyện của những người bạn, những con người chẳng ai biết tới nhưng lại trở thành những anh hùng theo cách của họ, như chính những bông hồng nở giữa sa mạc Atacama.  *** #Review HOA HỒNG SA MẠC | LUIS SEPULVEDA Cùng là một bông hoa nhưng người thì thấy đẹp, kẻ lại chê kém sắc. Cùng là một tác phẩm nhưng người thì say mê, kẻ lại bảo khó đọc. Với Hoa hồng sa mạc của nhà văn Luis Sepulveda cũng thế. Nhưng rõ ràng một tác phẩm nhận được nhiều luồng ý kiến đánh giá khác nhau thì tác phẩm đó mới có giá trị cao. Luis Sepulveda được nhiều đọc giả yêu quý với những tác phẩm giàu tính nhân văn như Chuyện con mèo dạy hải âu bay, Chuyện con ốc sên muốn biết tại sao nó chậm chạp… Nhưng theo đánh giá chủ quan, tôi thích thú nhất là cuốn Hoa hồng sa mạc. Bởi ở đó, tôi bắt gặp sắc màu của nhân văn, làn gió của ngôn từ, và đặc biệt là sự phong phú của tri thức. Có đọc giả bảo khó đọc, khó tiếp cận nhưng theo tôi, nếu dấn thân hết mình vào tác phẩm, nếu chậm rãi lần hồi theo mạch truyện, bạn sẽ cảm nhận rõ những nét đẹp sắc cạnh của viên kim cương Hoa hồng sa mạc này. Tác giả đã khéo léo phết thêm sự long lanh, óng ánh cho những con chữ giàu sức gợi “Sự kháng cự yếu ớt của ánh sáng ban ngày êm ái buông lơi trước vòng xâm chiếm của bóng tối”, “Màn đêm đang ép mọng nước trái cây, đánh thức đam mê ở côn trùng, làm dịu nỗi bất an của chim chóc, làm mát da lũ bò sát, truyền lệnh nhảy múa cho đám đom đóm”… Đến với tác phẩm, đầu tiên, ta sẽ mãn nhãn với ngôn từ, cách liên tưởng, ví von đầy mê hoặc, gợi cảm vô cùng. Đó là thứ gió thuận làm cánh buồm căng phồng, rướn thân trắng giong ra biển chữ phía trước. Nơi biển chữ ấy, ta mê mẩn với vẻ đẹp của thiên nhiên, núi, rừng bao la, trầm trồ trước sự kì vĩ, đa dạng sinh học chưa kịp bị con người tàn phá với bàn tay nhơ nhuốc tội lỗi và tính hám lợi. Phép tả thực cùng sự thích thú, tình yêu thiên nhiên đã quyện hòa tạo nên những bức tranh tuyệt bích. Tôi say sưa trong từng đoạn văn như thế này “Trên những thân cây nổi lập lờ mặt nước, lũ rùa mời gọi nhàn tản ngắm nhìn hai mươi nghìn loài bướm của rừng Manu, bởi nơi đây là mảnh đất của sắc màu, và không chỉ có loài bướm làm minh chứng mà còn có theobroma, một loại phong lan đỏ tươi, phát lân quang lúc hoàng hôn… hoặc như môi nàng hôn phu, một loại phong lan khác màu xanh biển toả hương vani. Ta còn thấy hương sắc trong từng Manu khơi gợi vị giác như hương sắc của trái tabernamontana mời gọi khách khát nước uống múi nước mọng màu cam và thơm mát của mình”. Cảm nhận tinh tế, nội dung giàu ý nghĩa, cách viết đầy nghệ thuật đã tạo nên những câu văn mềm mại như dải lụa vắt ngang mặt song như thế. Đặc biệt, tác giả còn cung cấp cho người đọc một kiến thức mang tính thời sự khi đề cập đến một hiện tượng có thật đầy thú vị: Sa mạc Atacama ở Chile, một trong những sa mạc khô cằn nhất trên thế giới, đã phủ hồng sắc hoa sau khi đắm mình trong những cơn mưa. Sa mạc cũng trở nên đầy sức sống với vẻ đẹp của thiên nhiên. Nơi nào thiên nhiên mơn mởn, căng tràn thì nơi ấy nhịp sống lại cựa quậy mạnh mẽ biết bao. Song song đó là nỗi đau xót, là cái trừng mắt lên án của nhà văn trước những hành động huỷ hoại thiên nhiên như tên quý tộc lập dị Fitzcarraldo dấn thân vào rừng sâu để tàn phá cây cối, rồi sự kiện xây dựng nhà máy thuỷ điện ở Laponia lấy đi bao diện tích rừng, nạn huỷ diệt tài nguyên rừng của vùng Patagonia thuộc Chile dưới tay những công ty gỗ Nhật Bản… Những sự kiện được dẫn ra khiến ai cũng phẫn nộ. Đặc biệt trong giai đoạn môi trường đang kêu cứu thảm thiết như hiện nay thì cuốn sách càng có ý nghĩa hơn nữa. Nó là một đóm lửa góp vào ngọn lửa đấu tranh chống lại sự huỷ hoại môi trường. Nó là tiếng gọi khẩn thiệt hãy giang tay cứu lấy thiên nhiên. Đan xen điều đó còn có những câu chuyện của những người bạn, những con người chẳng ai để ý đến được vinh dự đặt chân lên những trang viết của Luis. Ông kể chậm rãi, nhịp điệu nhẹ nhàng, trong mỗi câu chuyện được kể, ta như được đặt chân đến những miền đất xa xôi khác nhau. Mỗi người trong tác phẩm của ông đều có một câu chuyện riêng làm ông lay động. Ông xâu chuỗi lại để những số phận nhỏ bé ấy không bị lãng quên. Biết đâu họ còn là điển hình cho những phận người trong cuộc sống này? Tính nhân văn cứ như thế tự nhiên lấp lánh như ánh sáng đàn đom đóm đêm, lung linh, huyền ảo và đẹp vô cùng. Đặc biệt, cuốn sách tuy mỏng nhưng giá trị lại lớn bởi những kiến thức nhà văn đem lại. Những tên người, những địa danh, những khuynh hướng chính trị… mà ông dẫn ra đã đủ khẳng định vốn tri thức phong phú và sự mày mò, tìm hiểu của một danh nhân. Bìa sách xanh mát thật sự phù hợp với chủ đề thiên nhiên xanh và con người mãi xanh mà Luis Sepulveda chuyển tải đến người đọc. - TRẦN THỊ THÚY DIỄM - sachnhanam.com -   *** Luis Sepúlveda sinh ngày 4/10/1949 tại Ovalee, Limari, Chile. Ông là một nhà văn, đạo diện, nhà báo và nhà hoạt động chính trị. Sau khi học Trung học ở Santiago, ông học ngành sản xuất phim tại Đại học quốc gia Chile. Ông hoạt động chính trị cùng đoàn thanh niên cộng sản từ năm 1961. Tác phẩm tiêu biểu: Lão Già Mê Đọc Truyện Tình - Luis Sepúlveda Chuyện Con mèo dạy Hải âu bay - Luis Sepúlveda Chuyện Con Ốc Sên Muốn Biết Tại Sao Nó Chậm Chạp - Luis Sepúlveda Chuyện Con Chó Tên Là Trung Thành Chuyện Con Mèo Và Con Chuột Bạn Thân Của Nó Kết thúc thế giới  Bóng tối của quá khứ chúng ta Hoa Hồng Sa Mạc ... Giải thưởng: Ông già mê đọc chuyện tình – giải thưởng Premio Tigre Juan, một giải thưởng văn học cho các vấn đề sinh thái.  Giải Premio France Culture Etrangêre (1992), Premio Terra (1997), Premio de la Crítica en Chile (2001). Kết thúc thế giới: giải Premio Juan Chabás Chuyện con mèo dạy hải âu bay: giải Bernard Award Versele label (1998), 3rd Prize Salicornia Animals Book Festival for Youth (1998), Price Gabler Youth Book Fair 1997 in Concarneau Năm 2009: giải thưởng Premio Primavera de Novela cho tiểu thuyết La sombra de lo que fuimos (Bóng tối của quá khứ chúng ta) Mời bạn đón đọc Hoa Hồng Sa Mạc của tác giả Luis Sepúlveda.
Bay Quanh Mặt Trăng - Jules Verne
Bạch Lan dịch Tựa khác: Lên Cung Trăng (Trúc Đỳnh dịch) Tiếp theo cuốn Từ Trái Đất lên Mặt Trăng, Barbicane, Ardan và Nicholl quyết định làm một chuyến bay quanh Mặt Trăng. Nhưng trước tiên họ phải đến được Mặt Trăng đã. Liệu chuyến đi của họ có thành công hay không? Họ có đến được Mặt Trăng không, có quay trở về được không, thu hoạch được gì từ Mặt Trăng? Bản dịch từ nguyên bản tiếng Pháp của Nguyễn Thành Thống, với sự hiệu đính của Cung Giũ Nguyên. *** Jules Gabriel Verne sinh ngày 8 tháng 2 năm 1828 tại Pháp và được coi là cha đẻ của thể loại Khoa học viễn tưởng. Để theo đuổi việc viết văn, Jules Verne đã bỏ học luật, nghề cha ông định hướng. Cuốn tiểu thuyết đầu tay thành công Năm tuần trên khinh khí cầu (1863) đã mở đầu cho hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng về sau của Jules Verne như Cuộc Thám Hiểm Vào Lòng Đất (1864), Hai vạn dặm dưới biển (1870), 80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới (1873)… Các  tác phẩm của ông được dịch khắp nơi trên thế giới. Jules Verne mất ngày 24 tháng 3 năm 1905. Sau khi ông qua đời, nhiều tiểu thuyết chưa in của ông vẫn được tiếp tục xuất bản. - Ông là nhà văn Pháp nổi tiếng, được coi là người khai sinh ra thể loại văn học Khoa học viễn tưởng. - Tác phẩm của ông được dịch nhiều thứ ba trên thế giới và được chuyển thể thành phim nhiều lần. - Danh tiếng ấy chắc hẳn đã là đẹp đẽ lắm rồi. Tuy nhiên ông còn xứng đáng được nhiều hơn thế. Và thật không công bằng khi chúng ta kể lại lịch sử văn học của thời đại này mà không đặt tiểu thuyết gia có lẽ là có tính sáng tạo bậc nhất vào một vị thế đúng đắn. - Ông đã dùng phòng thí nghiệm và kính viễn vọng để viết tiểu thuyết phiêu lưu. Ông không chỉ ghi lại quá trình các nhà bác học tạo nên những phát minh lớn, mà còn tiên đoán chúng. Đọc những tác phẩm cùa ông, ta có thể nhận thấy những mâu thuẫn vì trong số những ý tưởng khoa học còn có những kiến phát chưa thể xác minh. Và bỗng dưng năm sau, hoặc vài năm sau, những giả thuyết mà ông đặt ra mà đôi khi thậm chí ông còn không tin, đã trở thành sự thật, một cách hoàn toàn chính xác. Những nhà bác học đã hoàn toàn đồng tình với ý tưởng của ông, hay nói cách khác, ông đã đi trước họ!.. - Trước đây, người ta vẫn đặt câu hỏi liệu khoa học thực sự có đi ngược hướng với trí tưởng tượng văn chương hay không. Các nhà triết học thì đồng tình, lules Verne chứng minh điều ngược lại qua hành động. Ông dùng chất liệu khoa học để xây dựng nên những câu chuyện hấp dẫn, những cuộc phiêu lưu lôi cuốn. Mời các bạn đón đọc Bí Mật Đảo Lincoln của tác giả Jules Verne. Mời các bạn đón đọc Bay Quanh Mặt Trăng của tác giả Jules Verne.
Balzac Và Cô Bé Thợ May Trung Hoa - Đới Tư Kiệt
Tại vùng núi "Thiên Phụng" hoang vu, có hai trí thức trẻ được đưa về cải tạo trong cuộc đại cách mạng văn hóa. Giữa những người dân lần đầu nhìn thấy vĩ cầm hay một chiếc đồng hồ có con gà trống sặc sỡ, họ tìm thấy một người bạn-người tình xinh đẹp: cô thợ may Trung Hoa, giữa những tháng ngày tăm tối và vô vọng, họ tình cờ có được những tác phẩm nổi tiếng của văn học phương tây. Vậy là đủ cho những cuộc phiêu lưu! Mặc kệ những ngày lao động cực nhọc, mặc kệ những thành kiến, mặc kệ những âu lo về tương lai mờ mịt... họ đắm mình trong cảm giác yêu đương hoang dại mới mẻ, đắm mình trong những tác phẩm cổ điển của Balzac, Duyma. Có thể nói, văn chương đã cứu vớt, an ủi, xoa dịu tâm hồn hai chàng trai trẻ, đưa họ tới gần hơn cô bé thợ may xinh đẹp, nhưng cũng chính văn chương đã đưa cô rời xa họ, bởi những tác phẩm của Balzac đã làm cô hiểu ra "sắc đẹp của người đàn bà là một kho tàng vô giá". Sức hấp dẫn của Balzac và cô bé thợ may Trung Hoa đến từ những trang viết sinh động, hài hước và cay đắng về hiện thực cải tạo của cả một thế hệ thanh niên Trung Hoa trong cuộc đại Cách mạng văn hóa, từ văn phong đẹp, từ những chi tiết đặc sắc giàu tính điện ảnh của nhà văn-đạo diễn Đới Tư Kiệt, và đặc biệt, từ cái kết bất ngờ làm người đọc phải ồ lên ngỡ ngàng vì tác động nhiều chiều của văn chương. Tất cả đã đem lại cho Balzac và cô bé thợ may Trung Hoa nét riêng bên những tác phẩm cùng viết về thân phận con người trong một giai đoạn lịch sử Trung Quốc đầy biến động.  Nhận định về tác phẩm:   "Có rất ít cuốn sách làm tôi xúc động như cuốn này. Tôi đánh giá nó rất cao. Bản thân tôi cũng bí mật làm quen với văn hóa phương Tây nhờ văn học trong Cách mạng Văn hóa khi tôi lần đầu tiên được đọc bản chép tay bản dịch tiếng Trung cuốn Jane Eyre của Bronte. Đới Tư Kiệt đã trình bày kinh nghiệm này một cách tuyệt vời. Bất cứ ai muốn hiểu văn học nghệ thuật phương Tây ảnh hưởng thế nào đến Trung Quốc đều nên đọc sách này " - Anchee Min - nhà văn, tác giả Đỗ quyên đỏ, Làm vợ Mao "Một câu chuyện như thôi miên, cổ điển và hiện đại, một chủ nghĩa hiện thực vừa ngụ ngôn vừa bạo dạn, đầy chi tiết quý giá, lay động sâu xa đến trí tưởng tượng và trái tim tôi" - Amy Tan-nhà văn, tác giả Phúc Lạc Hội, Con gái thầy lang "Một câu chuyện đơn giản, với lối kể quyến rũ...Điều khiến truyện nổi bật chính là cách nó đề cập và khơi dậy vẻ đẹp của những trải nghiệm nhân tính vượt khỏi khung cảnh một vùng đồi núi ở miền tây Trung Quốc" - Justin Hill, Times Literary Supplement "...Một tiểu thuyết vui vẻ, cảm động, tinh quái và trên hết là làm ta say mê...Dù thấm đẫm sự dí dỏm và hài hước, "Balzac và cô bé thợ may Trung Hoa" vẫn là một khúc lãng mạn, một  tiểu thuyết về sức mạnh của nghệ thuật trong việc mở rộng cánh cửa của trí tưởng tượng, dù hoàn cảnh có thế nào đi nữa... " - Micheal Dirda - The Washington Post Book World *** Nếu bạn từng đọc “Rừng Na Uy” hoặc xem bộ phim cùng tên thì tác phẩm của Đới Tư Kiệt sẽ làm bạn cảm thấy có nhiều nét tương đồng hoặc ngược lại. Đọc “Rừng Na Uy” ta gặp nhiều “người quen” trong “Balzac và cô bé thợ may Trung Hoa”.   Thứ nhất là mật độ của sex khá dày, thứ hai là không khí chán chường bế tắc của thanh niên. Bởi Đới Tư Kiệt chọn bối cảnh Trung Quốc thời kì cách mạng văn hóa để đưa vào câu chuyện của mình. Câu chuyện hồi tưởng của nhân vật xưng tôi về khoảng thời gian khi chưa tới tuổi 20,  và một người khác tên Lạc, được đưa đến để "tự cải tạo" năm 1971. Ở đó, cô bé thợ may hiện ra trước họ tựa "nàng công chúa của núi Thiên Phụng đi đôi giày màu hồng nhạt bằng vải mềm". Cô tự học viết, học đọc từ người cha thợ may của mình và viết bức thư đầu tiên gửi Lạc.   Và Lạc - mang cơn sốt rét, cùng "căn bệnh ma quỷ" từ hầm mỏ tìm đến nhà cô. Cô chạy ra suối hái một loại thảo dược có bông từa tựa cánh hoa đào để chữa bệnh cho anh. Đêm đến, những sơn dân tận cùng miền sơn cước Trung Hoa lẳng lặng đến nhà cô thợ may để nghe Lạc kể chuyện.   Anh kể rất hay. Đến nỗi khi kết thúc truyện Cô hàng hoa bé nhỏ, tất cả đều thút thít, khóc vì xúc động, gió núi dường cũng xao xuyến, thổi tắt ngọn đèn duy nhất, để trong bóng tối, cô bé thợ may cúi xuống trao cho Lạc một nụ hôn. Về sau, hai người đã thành thân và âu yếm nhau như vợ chồng, dưới cây bạch quả to lớn, đẹp lộng lẫy, trồng ở cuối thung lũng phía đông ngôi làng của cô bé, nơi mà Lạc gọi là: Thung lũng Tình yêu. Nơi ấy, họ lén đọc những dòng nên thơ trong tiểu thuyết Balzac chép trên mặt áo da cừu và trải những ngày thắm thiết, bay bổng khỏi vòng cấm kỵ... Ở một thời kì bị cấm đoán ngặt nghèo, thanh niên thành phố bị đưa về vùng quê để cải tạo vụng trộm từ việc đọc những tác phẩm của Balzac cho tới ngắm trộm người đẹp ở bên sông. Nếu đọc một lần, bạn sẽ hơi bực mình và nghĩ sex trong truyện là thứ đưa vào để câu khách rẻ tiền. Nhưng ngẫm hơn một chút, ta nhận ra đó sự tàn nhẫn. Tàn nhẫn khi đưa những thanh niên chưa trưởng thành về vùng quê khi họ còn mờ tịt các vấn đề giới tính, mọi hành động chỉ ở dạng bản năng từ việc thủ dâm cho tới làm tình với một cô gái còn ở tuổi vị thành niên.   Đới Tư Kiệt đã chọn vẻ đẹp thuần khiết của diễn viên Châu Tấn cho vai cô bé thợ may. "Cô bé thợ may có đôi mắt đẹp nhất huyện Vĩnh Cảnh sống trong một thôn nghèo heo hút, cheo leo, trên đỉnh Thiên Phụng".   Trần Khôn được chọn vào vai Lạc trong bộ phim được chuyển thể từ tác phẩm ăn khách của ông. Nhưng Trần Khôn lại phong trần hơn so với vai diễn của thanh niên tuổi ngoài 20 với đầy sự tò mò về cuộc sống xung quanh, sự bất mãn khi bị kìm kẹp bởi luật lệ cứng nhắc. Bằng giọng kể trần thuật ngắn gọn, xúc tích, Đới Tư Kiệt mang tới cho người đọc một câu truyện mang tính nhân văn sâu sắc gói gọn trong cuốn sách mỏng.   Những hình ảnh được miêu tả sống động từ vẻ đẹp cơ thể của những thanh niên mới lớn cho tới thiên nhiên của vùng quê thanh bình nhưng đầy rẫy sự biến động bên trong. Ngôn ngữ đa nghĩa của Trung Quốc được truyền tải hoản hảo bằng tiếng Pháp, thứ ngôn ngữ mang nhiều sự châm biếm, tinh thâm của phương Tây.   Một cuốn sách thực sự có chiều sâu giữa rất nhiều tác phẩm mì ăn liền do văn học mạng Trung Quốc tạo ra. *** Đới Tư Kiệt sinh năm 1954 tại Trung Hoa. Từ 1971 tới 1974 ông bị đi học tập cải tạo như mọi thanh niên khác trong thời Cách mạng Văn hoá. Ông rời Trung Hoa sang Pháp năm 1984 và sống ở đó cho tới nay. Balzac et la Petite Tailleuse chinoise là tiểu thuyết đầu tay của ông, do Gallimard xuất bản năm 2000 tại Pháp, và trở thành tác phẩm bán chạy nhất trong năm với 5 giải thưởng, và đã được quay thành phim do chính ông đạo diễn. Bản tiếng Việt Balzac và Cô Bé Thợ May Trung Hoa sau đây dịch theo bản tiếng Anh, Balzac and the Little Chinese Seamstress, của Ina Rilke, Alfred A. Knopf xuất bản năm 2001 tại New York.   Mời các bạn đón đọc Balzac Và Cô Bé Thợ May Trung Hoa của tác giả Đới Tư Kiệt