Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hội Chợ Phù Hoa (William Makepeace Thackeray)

William Makepeace Thackeray sinh ngày 18 tháng 7 năm 1811 tại Calcutta, Ấn Độ. Ông là con một viên chức của Công ty Ấn Độ, lãnh chức vụ tài phán ủy viên. Năm Thackeray lên 4 tuổi, cha ông từ trần, mẹ ông tái giá. Ông theo mẹ về nước Anh, được gửi theo học trong một trường tư thục ở Chiswich HamSơ. Lối giáo dục nghiệt ngã trong trường này khiến ông không chịu nổi, đã có lần ông phải bỏ trốn. Ta còn thấy dấu vết trường học này trong chương đầu cuốn Hội chợ phù hoa (Vanity Fair). Năm 18 tuổi, ông theo học luật khoa tại Đại học đường Cambridge, nhưng không tốt nghiệp. Ông tỏ ra có khuynh hướng châm biếm ngay từ hồi còn ít tuổi. Trong thời gian theo học tại trường đại học Cambridge, ông dành nhiều thì giờ cộng tác với những tờ báo trào phúng, thí dụ tờ Timbutoo, tờ Người học làm sang (The Snob) hơn là để trau dồi những kiến thức mà ông thấy vô ích.

Rời nhà trường, ông chính thức bước vào làng văn với những bài báo và những truyện ngắn có tính chất châm biếm. Nhờ gia sản của cha để lại, được hưởng một món lợi tức đồng niên khá dồi dào, ông có điều kiện du lịch nhiều nơi tại Âu châu. Ông có sống tại Weima (Đức) một thời gian để tìm hiểu phong tục địa phương và nghiên cứu về thi hào Goethe. Rải rác trong tác phẩm của ông, ta còn thấy một số chi tiết miêu tả sinh hoạt của giới quý tộc Đức, thí dụ đoạn tả tiểu triều đình Pumpernickel trong Hội Chợ Phù Hoa. Ông cũng đã sống tại Paris một thời gian khá lâu để theo học nghề hội họa. Trong lĩnh vực văn học cũng như trong lĩnh vực mỹ thuật, sở trường của ông rất thống nhất: ông có biệt tài về loại tranh biếm họa, đã một thời sinh nhai về nghề này tại Paris. Cũng tự tay ông đã vẽ những “vi-nhét” và những tranh minh họa in kèm tác phẩm Hội chợ phù hoa lần xuất bản thứ nhất. Kết quả của những cuộc du lịch ấy là những tập ký sự có tính chất châm biếm như Tập ký họa thành Paris (The Paris Sketch Book, 1840), Tập ký họa xứ Ai len (The Irish Sketch Book, 1843)v.v…

Hồi còn thanh niên, Thackeray sống một cuộc đời phong lưu, có dịp tiếp xúc nhiều với những người thuộc tầng lớp tư sản và quý tộc, nhân đó ông đã thu lượm được những tài liệu thực tế rất phong phú về cuộc sống vật chất và tinh thần của những hạng người này để đưa vào tác phẩm của mình. Người ta còn nói rằng vì vợ ông mắc bệnh loạn trí nên ông sinh ra chán đời, việc ấy có thể phần nào cũng ảnh hưởng tới cái nhìn bi quan của ông đối với cuộc sống, và khiến cho ngòi bút châm biếm của ông thêm chua chát, tàn nhẫn; tuy nhiên đó không phải là nguyên nhân chủ yếu. Thackeray sang Mỹ hai lần để diễn thuyết về văn học, đặc biệt là về vấn đề Những nhà văn trào phúng nước Anh thế kỷ thứ 18. Trở về nước, ông ứng cử vào Hạ Nghị viện, nhưng thất bại. Từ 1859 ông làm chủ bút một tờ báo lớn, tờ Tuần báo Cornhin (The Cornhill Magazine) được vài năm. Do làm việc quá nhiều, sức khỏe suy giảm, ông mất năm 1863 vì bệnh xung huyết não thọ 52 tuổi.

Văn nghiệp của Thackeray có tính chất khá thuần nhất. Ông viết nhiều loại truyện, cả truyện nhi đồng và truyện lịch sử, nhưng hầu hết văn phẩm của ông đều có tính chất châm biếm, nhằm đả kích xã hội tư sản quý tộc Anh đương thời. Trong số ấy, nổi tiếng nhất là những tác phẩm Cuốn sách của các ông học làm sang (The Book of Snob); Hội Chợ Phù Hoa; Truyện Penđennix (Pendennis)… Những tác phẩm này đã gây ra một dư luận sôi nổi - người tán thưởng nhiều mà kẻ ghen ghét dĩ nhiên cũng lắm - và nâng ông lên hàng những tiểu thuyết gia hiện thực ưu tú nhất trên văn đàn nước Anh. Đó là những tác phẩm bộc lộ đầy đủ nhất bản sắc tư tưởng của tác giả. Tác phẩm đầu tiên rọi ánh sáng vinh quang vào cuộc đời sáng tác của ông là cuốn Truyện các ông học làm sang nước Anh do một người trong bọn kể lại (The Snobs of England by One of themselves) in năm 1846; tác phẩm này gồm những bài tiểu luận có tính chất luân lý và chính trị, nội dung nhằm đả kích một cách cay độc những cái rởm đời và thối nát trong xã hội và chính giới nước Anh đương thời. Năm sau, ông cho xuất bản cuốn Hội Chợ Phù Hoa. Năm 1848 ông lại cho in cuốn Pendennis. Ngay từ cuốn Truyện các ông học làm sang nước Anh do một người trong bọn kể lại… nhiều người đã tỏ ý bất bình vì những nét đen thẫm trên những bức tranh biếm họa của ông; tới khi cuốn Pendennis ra đời, thì sự khó chịu biến thành sự thù ghét, vì rất nhiều người thuộc các tầng lớp trên cảm thấy hình như tác giả muốn ám chỉ chính họ. Thackeray gặp khá nhiều khó khăn trong việc ấn hành những tác phẩm này.

Hội Chợ Phù Hoa được coi là một kiệt tác của chủ nghĩa hiện thực trong văn học Anh thế kỷ 19; đó là một trong năm tác phẩm nổi tiếng nhất của văn học Anh-cát-lợi. Mới đầu cuốn truyện được mang tên là Những bức ký họa về xã hội nước Anh (Sketches of English Society) về sau tác giả đổi là Hội Chợ Phù Hoa; cái tên có tính chất tượng trưng này thích hợp với nội dung hơn vì bao hàm cả thái độ phủ định của Thackeray đối với xã hội đương thời. Lần ấn hành thứ nhất, ngoài bìa có ghi câu “Một cuốn truyện không có nhân vật tiêu biểu cho một hạng người, một thói xấu, hoặc một tầng lớp xã hội; toàn bộ tác phẩm là một bức tranh toàn cảnh miêu tả xã hội nước Anh đương thời, do đó các nhân vật có địa vị quan trọng như nhau, không phân biệt chính phụ”. Thật ra cuốn tiểu thuyết vẫn có những nhân vật chính, và một nhân vật trung tâm là Rebecca Sharp. Tìm mua: Hội Chợ Phù Hoa TiKi Lazada Shopee

Nội dung chủ yếu của Hội Chợ Phù Hoa xoay quanh việc “làm nên” của Rebecca, một thiếu nữ “con nhà hà tiện”, cha là một họa sĩ trác táng, mẹ là một vũ nữ người Pháp. Thiếu giáo dục từ nhỏ, nhưng nhờ có sắc đẹp, lại thông minh và tài hoa, từ chỗ bơ vơ côi cút, bị khinh rẻ, cô ta trở thành con dâu của gia đình Crawley, một gia đình quý tộc thôn quê. Dựa vào địa vị nhà chồng, và nhờ những mánh khóe xảo quyệt riêng, dần dần Rebecca len lỏi được vào giới thượng lưu quý tộc nước Anh và nước Pháp, trở thành một bậc mệnh phụ, danh vọng lẫy lừng, được triều kiến cả hoàng đế George đệ tứ. Song chính những thủ đoạn đê tiện Rebecca dùng để mưu danh lợi về sau đã làm hại cô ta; Rebecca ngoại tình với một hầu tước để lợi dụng y; việc vỡ lở; cô ta bị quẳng ra khỏi xã hội thượng lưu một cách tàn nhẫn. Cô gái sớm hư hỏng ấy trở lại cuộc đời tăm tối cũ; bị cái giới thượng lưu thanh cao một cách giả dối kia ruồng bỏ, càng ngày cô càng chìm sâu xuống vũng bùn trụy lạc. Khi đã luống tuổi, chán cảnh lăn lộn vô ích, Rebecca đành sống cuộc đời tầm thường như mọi người; và nhờ số tiền kiếm được một cách bất chính, Rebecca cũng được thiên hạ kính trọng như một người có đạo đức. Xen vào câu chuyện lên voi xuống chó của Rebecca là những mẩu phim linh hoạt trình bày cuộc sống và tâm lý của nhiều hạng người khác nhau thuộc giai cấp quý tộc, giai cấp tư sản, tầng lớp trung lưu trong xã hội nước Anh đương thời: gia đình ông Sedley, một người làm nghề buôn cổ phiếu, bị cuộc chiến tranh Napoléon làm cho phá sản, lâm vào cảnh khốn cùng, nhưng vẫn luyến tiếc thời kỳ còn ôm giấc mộng làm giàu, gia đình lão Osborne, nhà tư sản buôn sáp, với một nền luân lý đặc biệt của khu City thành Luân Đôn, lấy đồng tiền làm tiêu chuẩn, gia đình Crawley, một gia đình quý tộc lâu đời ở thôn quê với đủ những cái thối tha lục đục trong nội bộ, gia đình Gôn mà người cầm đầu là hầu tước Xtên, với mâu thuẫn trắng trợn giữa cái bề ngoài đầy uy thế của một nhà đại quý tộc và thực chất bất nhân phi nghĩa của một tên lưu manh… tất cả lồng vào câu chuyện tình vừa lãng mạn vừa tức cười của bộ ba Amelia, George Osborne, và Dobbin.

Thế kỷ thứ 19, chế độ tư bản nước Anh đang trong giai đoạn phát triển cực thịnh; năm 1875, tính ra bốn phần năm dân số Anh sống về công nghiệp. Lợi nhuận bóc lột được của công nhân trong nước và vơ vét được tại các thuộc địa tạo điều kiện cho giai cấp tư sản và giai cấp quý tộc tư sản hóa sinh hoạt hết sức xa xỉ. Bề ngoài xã hội Anh đương thời có một bộ mặt phồn vinh; việc kinh doanh dễ đem lại những món lợi lớn; địa vị của giai cấp tư sản trong xã hội được nâng cao; sự cấu kết giữa giai cấp phong kiến và giai cấp tư sản càng chặt chẽ hơn. Giai cấp quý tộc đi vào con đường kinh doanh tư bản để thu lợi nhuận, hoặc liên kết với giai cấp tư sản để lấy tiền mạ vàng lại huy hiệu của dòng họ; ngược lại, giai cấp tư sản cũng muốn quý tộc hóa đồng tiền của mình bằng cách kết liên với giai cấp phong kiến, đồng thời đó cũng là một cách nhờ hơi hướng địa vị của giai cấp này nhằm bước vào lĩnh vực hoạt động chính trị dễ dàng hơn. Trong ngai vàng ngư trị xã hội, có hai thế lực cùng ngồi song song, là đồng tiền và danh vọng. Đó là hai thế lực có tác dụng nhào nặn tâm lý con người đúc theo một cái khuôn chung, và biến cuộc đời thành một cái chợ trong đó mọi thứ quan hệ đều có tính chất “tiền trao cháo múc”. Cuộc chạy đua theo đồng tiền và danh vọng lôi cuốn tất cả các tầng lớp từ bậc trung lưu trở lên. Tôn giáo bị giảm bớt hiệu lực, vì một nền luân lý mới có tính chất thực tiễn hơn đã hình thành: hạnh phúc tối cao của cuộc đời là có địa vị sang trọng và có thật nhiều tiền, vì thiên hạ đang xô nhau vào mà quỳ lụy, bợ đỡ, sợ hãi kính phục kẻ có của và có địa vị. Đạo đức và tài năng trở thành những thứ đồ cổ bị gạt ra bên lề cuộc sống, bởi lẽ trong một xã hội thương mại chỉ có hai thần tượng được người ta phụng thờ là đồng tiền và uy thế của dòng họ; kẻ có tài nhưng nghèo túng và xuất thân tăm tối của mình. Văn hào Stendhal[3] đã có một nhận xét lý thú: “Trí thông minh và thiên tài đặt chân lên nước Anh là mất ngay hai mươi lăm phần trăm giá trị”; ông muốn nói tới cái “Tinh thần chiết khấu” đặc biệt thương mại thấm nhuần trong mọi quan hệ của xã hội Anh.

Một mặt khác, đời sống của quần chúng lao động rất cực khổ. Sau chiến tranh chống Napoleon (kết thúc năm 1815), nông thôn tiêu điều xơ xác vì giá lúa mì sụt kinh khủng đến nỗi nhiều nông dân đốt cả cối xay bột; đạo luật khoanh đất cướp ruộng vẫn tiếp tục thi hành; tầng lớp trung gian ở nông thôn giảm đi trông thấy; họ lũ lượt kéo ra thành thị và bị vô sản hóa, hoặc biến thành tá điền làm thuê cho địa chủ. Công nghiệp không dùng hết người, vì kỹ thuật phát triển đòi hỏi tương đối ít nhân công; lại thêm số binh lính quá đông không cần thiết trong thời bình trở thành một gánh nặng cho ngân sách; chính phủ quyết định thải hồi tất cả dân vệ. Do đó thành thị đầy dẫy những đoàn người thất nghiệp; nạn bần cùng lan tràn khắp nơi. Những mâu thuẫn xã hội trầm trọng đến mức sắp nổ ra những vụ bạo động lớn (thí dụ ngày 23-2-1820 sở mật vụ khám phá ra một cuộc âm mưu giết toàn bộ chính phủ, do Thistlewood cầm đầu, tức là: Vụ án phố Ca- tô Chính mâu thuẫn xã hội này giải thích sự phát triển đặc biệt của phong trào “Nghiệp đoàn” (Trade-Unions) và sự ra đời của tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng do Owen đề xướng (1833); về mặt văn học, nó là động lực thúc đẩy sự phát triển của khuynh hướng hiện thực manh nha từ thế kỷ 18, trở thành xu hướng văn học chủ yếu dưới triều đại Victôria thế kỷ 19. Hai đại diện ưu tú của văn học hiện thực thời kỳ này là Thackeray và Đickenx. Tuy cùng chung một thái độ phủ định đối với xã hội đương thời, nhưng đối tượng miêu tả của hai người khác nhau.

Thackeray khác Dickens ở điểm ít quan tâm nêu những mâu thuẫn giữa các tầng lớp xã hội đối kháng, cũng như ít chú ý đến vào việc đả kích các tầng lớp thống trị, và có con mắt quan sát tâm lý thấu đáo hơn.

Khuynh hướng trào phúng nảy nở trong văn học Anh từ giữa thế kỷ 18. Những người đại diện của khuynh hướng đó là Smolett và Jonathan Swift[4]. Đó là tiếng nói phản kháng lại những sự bất công trong xã hội; khuynh hướng ấy được kết tinh ở Thackeray. Ông đại diện cho tài năng chân chính bị miệt thị; trong tiếng cười cay độc của ông có phần nào sự phẫn nộ của quần chúng. Chủ nghĩa hiện thực ở Thackeray mang mầu sắc luân lý rõ rệt; ông muốn đứng trên quan điểm đạo đức mà soi mói cuộc đời và rút ra những bài học về cách xử thế.

Chủ đề của Hội chợ phù hoa - như tên cuốn truyện cũng cho ta rõ một phần - là sự vô nghĩa, sự phù phiếm của cuộc đời, một tấn hài kịch lớn, trong đó mỗi con người sắm một vai trò mà không tự biết, hoặc một cảnh hội chợ hỗn tạp, trong đó chỉ toàn là những sự phô trương mua bán, và mọi thứ đều là những món hàng. Tác giả tự coi vừa là một anh hề sắm vai trò để mua vui cho thiên hạ, vừa là nhà đạo diễn cô lại hình ảnh của cuộc sống trong một màn kịch múa rối. Khuynh hướng vạch những nét “mặt trái đời” toát ra trong toàn bộ tác phẩm từ chương đầu đến chương cuối. Tác giả muốn rút ra một bài học luân lý; tác phẩm có tính chất như một bài ngụ ngôn dài. Tất cả những cái gì gọi là cao quý, tốt đẹp, mà thiên hạ hằng khao khát và thiết tha gắn bó, thực ra chỉ là những chuyện hết sức vô nghĩa, thí dụ như danh vọng, tiền tài, những cái vẫn gọi là những đức tính, và ngay cả những tình cảm thiêng liêng như tình cha con, tình bè bạn, tình vợ chồng… nhiều khi cũng chỉ là câu chuyện khôi hài.

Dưới mắt tác giả, đạo đức vẫn khoác tấm áo thêu kim tuyến lộng lẫy như cũ, nhưng lật lên chỉ thấy những tình cảm đê tiện trần truồng: sự tính toán vị kỷ, lòng vụ lợi, thói giả nhân giả nghĩa, tính phô trương rởm đời, sự lường gạt kèn cựa. Mỗi nhân vật trong tác phẩm tiêu biểu cho một thói xấu, một giai cấp; mỗi người mỗi vẻ, nhưng tất cả đều mang trên mình con dấu chính của thời đại, tức là hình ảnh dục vọng hung hãn đè nén và tiêu diệt thiên lương; do đó con người ta ở đời không nên phí sức mà tranh danh đoạt lợi, hãy nên biết tiết chế dục vọng của mình.

Nhà luân lý Thackeray đã nhìn xã hội nước Anh - đúng hơn là xã hội thượng lưu trưởng giả nước Anh - với con mắt rất bi quan, hoài nghi, nhưng không thờ ơ, trái lại hết sức soi mói; do đó những chi tiết nêu lên trong tác phẩm có một giá trị hiện thực lớn.

Mũi nhọn đả kích của tác giả chĩa thẳng vào những tầng lớp đang chễm chệ ngồi trên cổ quần chúng lao động.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hội Chợ Phù Hoa PDF của tác giả William Makepeace Thackeray nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Nhật Ký Người Điên (Lỗ Tấn)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Nhật Ký Người Điên PDF của tác giả Lỗ Tấn nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Nhật Ký Kẻ Mị Tình (Soren Kierkegaard)
Bước vào Nhật ký kẻ mị tình là bước vào một biển mơ, đắm đuối trong bầu không khí Tình, ngụp lặn trong Tình, tưởng chừng như con người sống chỉ có một mục đích duy nhất là tình, không có gì cưỡng lại nổi mối tình đang ngày một lớn lên ấy. Johannes vừa là kẻ mị tình, vừa là kẻ bị tình mị, là kẻ đi cám dỗ rồi để bản thân mình bị cám dỗ, lưu đày tâm trí trong cõi yêu đương. Ẩn sâu trong biển tình ấy, tài năng của Kierkegaard còn những kiến thức về văn hóa, triết học, lịch sử bằng một hệ thống ngôn ngữ văn chương thơ mộng. Đó cũng là mầm mống cho những phát triển tư tưởng triết học nghệ thuật của Kierkegaard sau này, và là điểm đặc biệt khiến Kierkegaard luôn được xem là một người làm nên nền triết học chủ quan và nặng tính thẩm mỹ. Kierkegaard được sinh ra tại Copenhagen, Đan Mạch trong một gia đình dòng dõi giàu có. Ông thừa hưởng tính khí u sầu từ cha mình và trải qua một tuổi trẻ bất hạnh. Cả cuộc đời ông chưa từng làm bất kỳ một công việc nào, chỉ tập trung vào sự nghiệp văn chương và triết học. Cả đời Kierkegaard mang trong mình mối si tình lãng mạn với Regine Olsen, nhưng khi đã hứa hôn, ông lại rơi vào trạng thái hoang mang và xin từ bỏ hôn ước, mặc dù cả hai thừa nhận vẫn còn yêu nhau tha thiết. Regine Olsen đi lấy chồng, và Kierkegaard mang trong mình nỗi sầu khổ vĩnh viễn về mối tình dang dở này.*** Soren Kierkegaard sinh ngày 05/05/1813 tại Copenhagen, Đan Mạch. Ông là con út trong một gia đình có 7 người con. Khi S. Kierkegaard ra đời thì cha đã 56 tuổi và mẹ đã 45 nên ông thường nhận mình là một đứa con nít trong một gia đình già. Tìm mua: Nhật Ký Kẻ Mị Tình TiKi Lazada Shopee 1830 - 1841: Thời gian học Đại học Copenhagen vật vã kéo dài trong 11 năm, mãi đến năm thứ 10, Kier mới vượt qua được kỳ thi tốt nghiệp môn thần học. Trong thời gian này, lần lượt cha mẹ và 3 anh chị khác trong gia đình Kier qua đời. 1841 từ hôn Regine Olsen và cũng là năm hoàn thành luận văn “On the Concept of Irony with constant reference to Socrates” (Om Begrebet Ironi med stadigt Hensyn til Socrates). Hàng loạt các tác phẩm ra đời bắt đầu từ đây. 1843: Xuất bản “Cũng - Hoặc: Một quãng đời” (Either-Or: A Fragment of Life/Enten-Eller. Et Livs-Fragment). Ý kiến Kierkegaard chính thức về đời thể hiện lần cuối qua “Khoảnh khắc” (The Instant/jeblikket) với 9 chương, chương thứ 10 đang sẵn sàng đem công bố thì Kierkegaard gục ngã trên đường phố. Ông được đưa đến bệnh viện và chết ngay sau đó trong tình trạng kiệt lực vì công việc. Hôm đó là ngày 11 tháng 11 năm 1855, Soren Kierkegaard hưởng dương 42 tuổi. Lúc còn sống, không mấy ai biết về ông. Kierkegaard chỉ được nhìn nhận là “Socrate của Đan Mạch”, là thủ lĩnh Anti-Hégel sau khi đã qua đời. Toàn bộ sự nghiệp của Kierkegaard có gần 30 tác phẩm triết học, thần học, tâm lý học cùng khoảng 10 quyển truyện ngắn. Kierkegaard đã làm một cuộc cách mạng về lý luận chống cái “phổ biến”, ‘hệ thống” bằng một sự thể hiện đa dạng và phức tạp về những khao khát và cảm xúc cá nhân. Tuy nhiên khi còn sống, những đóng góp của Kierkegaard về chính trị và xã hội chẳng được xem trọng. Kier là một nhà tư tưởng phi chính trị, những va chạm của Kier với các hệ thống quyền lực chưa đủ sức gây nên sóng gió trong xã hội như các hậu bối sau này của triết thuyết Hiện sinh. Những va chạm với hệ thống giáo quyền Tin lành Đan Mạch không hề ảnh hưởng đến việc một anh trai của Kier: P.C. Kier trở thành một giám mục. *** Không, tôi không thể che giấu với chính mình nỗi lo âu khó bề kiềm chế đã bám riết lấy tôi vào giây phút này, khi tôi quyết định vì lợi ích của riêng mình mà viết lại lần nữa cho chính xác và dễ đọc cái bản sao ngày trước tôi có được nhờ chép lại một cách cực kỳ vội vàng và trong trạng thái hết sức bất an. Giờ thì cũng giống như trước đây, tôi vẫn cảm thấy không yên lòng chút nào và như bị ai đó chê trách. Trái với thói quen, anh ta đã không khóa tủ bàn giấy; nhờ vậy mà mọi thứ trong đó tôi có thể tùy nghi sử dụng. Nhưng có ích gì đâu khi muốn che đậy hành vi không mấy hay ho này của tôi bằng cách nhắc nhở trong đầu là tự mình đã không mở ra ngăn kéo nào cả. Một ngăn kéo đã mở sẵn đó mà: cả một đống giấy tờ rời rạc nhưng nằm bên trên là một quyển khổ bốn được đóng rất đẹp. Trang bìa được trang trí với một họa tiết màu trắng, trên đó chính tay anh ta đã viết: Commentarius perpetuus [13] số 4. Thế nhưng, thật vô ích khi tôi cố gắng tự dối mình bằng cách nghĩ rằng, nếu bìa trước của nó không nằm ở trên, và nếu cái tựa đề nổi bật đó không cám dỗ tôi, thì tôi hẳn đã không sa ngã hay ít ra tôi đã chống chọi lại sự cám dỗ đó. Cái tựa đề tự nó đã là kỳ lạ, song lại còn kỳ lạ vì những thứ xung quanh nó hơn là chính nó. Chỉ cần liếc mắt nhìn vội qua các tờ giấy rời rạc đó tôi biết ngay là chúng bao gồm những ấn tượng đến từ các tình cảnh gợi dục, những lời lẽ gợi ý về mối quan hệ nào đó, những bức thư cùng một loại đặc biệt mới được thảo ra mà sau này tôi trở nên quen thuộc với phong cách của chúng, hờ hững, vô tình một cách có tính toán, và lại được viết có nghệ thuật nữa chứ. Vào giây phút này đây, sau khi thấy hết cái tâm địa ưa bày mưu tính kế của tên đàn ông bại hoại này, khi tôi nhớ lại cái hoàn cảnh đó, đôi mắt mở to cảnh giác với mọi ngón nghề xảo trá, ấy là nói như vậy, khi lại gần cái ngăn kéo đó, tôi có cảm giác giống như một người cảnh sát hẳn phải có khi ông ta vào phòng một tên làm giấy tờ giả, xem xét kỹ đồ này, thứ kia của hắn, và tìm ra trong ngăn kéo một đống giấy tờ rời rạc từng được dùng để viết nháp, vẽ nháp; trên tờ này thì có một hình vẽ trang trí nhỏ, trên tờ kia, hai chữ viết lồng nhau, và trên tờ thứ ba, một hàng chữ viết ngược. Tất cả các thứ này dễ dàng chỉ ra là ông ta đang theo đúng hướng tìm, và ông ta thì vừa thấy thích thú thực sự, vừa thấy thán phục mơ hồ trước những nỗ lực và sự cần cù hiển nhiên ở đây. Vì không quen với việc phát hiện các tội ác và không trang bị với phù hiệu cảnh sát, tôi hẳn sẽ phản ứng khác với ông ta. Cái cảm tưởng mình đang dấn vào một việc bất chính hẳn sẽ đè nặng lên lương tâm tôi. Vào lúc đó, tôi thấy mình thiếu hụt ý tưởng bao nhiêu thì cũng thấy mình thiếu hụt chữ nghĩa bấy nhiêu, thường thường là như vậy đó. Ta bỗng nhiên thấy kinh sợ khi có một cảm tưởng nào đó cho đến khi sự suy nghĩ trong đầu ta được khai thông thêm một lần nữa, và bằng những sự vận động đa dạng và khéo léo, nó trò chuyện, vỗ về người xa lạ không ai biết đó rồi nó len lỏi vào tâm trí người đó. Sự suy nghĩ này càng khai triển hơn thì nó tự trấn tĩnh càng nhanh chóng hơn; tương tự như một viên chức kiểm tra hộ chiếu khách nước ngoài ở cửa khẩu, sự suy nghĩ trở nên quen thuộc với những khuôn mặt hay tính cách lạ lùng nhất, khó tin nhất, đến mức không dễ gì làm cho nó bị ngỡ ngàng nữa. Mặc dù sự suy nghĩ của tôi, thực tình mà nói, là đã phát triển cao độ, thế mà ban đầu tôi cũng bị ngạc nhiên quá cỡ. Tôi nhớ rất rõ là mình đã tái mặt, gần như ngất xỉu, và bởi vậy, tôi đã lo sợ biết bao. Giả dụ là anh ta về nhà lúc này, thấy ra tôi nằm bất tỉnh dưới đất mà tay còn cầm cái ngăn kéo - a! một lương tâm bứt rứt, quả thật, thì có thể làm cho cuộc đời trở nên lý thú đó.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Nhật Ký Kẻ Mị Tình PDF của tác giả Soren Kierkegaard nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Nhật Ký Của Những Kẻ Chán Đời (Xù Coke)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Nhật Ký Của Những Kẻ Chán Đời PDF của tác giả Xù Coke nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Nhật Ký Á Thần (Rick Riordan)
Cuốn ngoại truyện 3.5 của bộ Percy Jackson và các vị thần trên đỉnh Olympus.Nhật Ký Á Thần là phần phụ kèm theo của series truyện Percy Jackson và các vị thần trên đỉnh Olympus, vẫn đem đến cho người đọc sự lôi cuốn, hồi hộp và không kém phần gây cấn với những câu chuyện phiêu lưu giả tưởng cùng những nhân vật huyền bí. Những mẩu truyện ngắn trong cuốn sách này thật sự rất thú vị và tràn ngập tình yêu dành cho các á thần. Cả tập truyện bao gồm 4 câu chuyện nhỏ như: Nhật ký của Luke Castellan, Percy Jackson và cây trượng của thần Hermes, Leo Valdez và cuộc tìm kiếm đến Buford và Đứa con của pháp thuật. Với giọng văn hài hước và đầy bất ngờ, Rick Riordan đã dẫn chúng ta tới những cuộc phiêu lưu đầy kì thú, tuy không gắn liền quá sâu sắc với cốt truyện chính của toàn bộ Series nhưng phần này giúp chúng ta hiểu rõ hơn nhiều chi tiết trong truyện. ***Rick Riordan là tác giả có sách bán chạy nhất do tờ New York Times bình chọn cho bộ truyện dành cho trẻ em: Percy Jackson và các vị thần trên đỉnh Olympus và bộ Tiểu thuyết trinh thám dành cho người lớn Tres Navarre. Ông có 15 năm giảng dạy môn tiếng Anh và Lịch sử ở các trường trung học cơ sở công và tư ở San Francisco Bay Area ở California và Texas. Ông cũng từng nhận giải thưởng Giáo viên ưu tú đầu tiên của trường năm 2002 do Saint Mary’s Hall trao tặng. Rick Riordan hiện đang sống ở San Antonio, Texas cùng vợ và hai con trai. Ông dành toàn bộ thời gian cho sáng tác. Tìm mua: Nhật Ký Á Thần TiKi Lazada Shopee Bộ tiểu thuyết Percy Jackson và các vị thần trên đỉnh Olympus đã bán được hơn 30 triệu bản trên toàn thế giới, chiếm 153 tuần trong danh sách Sách bán chạy nhất trên New York Times cho thể loại sách thiếu nhi. Bộ sách đã bán bản quyền cho 35 nước. Trong Các vị thần Hy Lạp của Percy Jackson, con trai của thần Poseidon đã đưa thêm tài thuật của mình vào những câu chuyện kinh điển - và bỏ qua kiểu châm biếm mỉa mai. Cậu giải thích cách thế giới này được tạo thành, rồi chia sẻ với bạn đọc cảm nhận của bản thân về thần này thần kia ở thời cổ đại, từ Apollo cho đến Zeus. Percy chẳng kiêng dè giữ kẽ gì. “Và nếu các bạn thích đủ các loại dối trá, trộm cắp, chơi xấu, ăn thịt người, thì hãy đọc tiếp nhé, bởi vì đây nhất định là Thời đại hoàng kim cho mấy trò này.” Cuốn sách sẽ mang đến cho bạn đọc những kiến thức sâu xa về thế giới của các vị thần Hy Lạp.***TÊN TÔI LÀ LUKE. Thành thật mà nói, tôi không biết liệu mình có thể tiếp tục duy trì cuốn nhật ký này không nữa. Cuộc sống của tôi khá điên rồ. Nhưng tôi đã hứa với ông lão đó sẽ cố hết sức. Sau những gì đã xảy ra trong ngày hôm nay… ừm, tôi mang ơn ông ấy. Hai tay tôi đang run rẩy khi tôi ngồi đây thực hiện nhiệm vụ canh gác. Tôi không thể vứt bỏ các hình ảnh khủng khiếp đó ra khỏi đầu mình. Tôi còn vài tiếng cho đến khi các cô gái tỉnh dậy. Có lẽ nếu viết ra, tôi sẽ quên được câu chuyện đó. Chắc tôi nên bắt đầu với chuyện con dê có phép thuật. Trong ba ngày, Thalia và tôi đã đi theo một con dê khắp Virginia. Tôi không rõ lý do vì sao. Với tôi, con dê đó trông chẳng có gì đặc biệt, nhưng Thalia vô cùng kích động, trước đây tôi chưa bao giờ nhìn thấy cô ấy như thế. Cô ấy thuyết phục tôi rằng con dê là kiểu dấu hiệu nào đó từ cha cô ấy, thần Zeus. Ừ, thế đấy, cha cô ấy là một vị thần Hy Lạp. Cha tôi cũng vậy. Chúng tôi là các á thần. Nếu bạn nghĩ điều đó nghe thật bảnh thì hãy nghĩ lại đi nhé. Á thần là các nam châm thu hút quái vật. Tất cả những con yêu quái gớm ghiếc của Hy Lạp cổ xưa như Ba Nữ thần Báo Thù, các yêu quái mình người cánh chim cũng như các gorgon vẫn còn tồn tại và chúng nhận ra các anh hùng như chúng tôi từ cách xa hàng dặm. Vì điều này nên Thalia và tôi, vì sự sống còn của chính mình, đã dành hết thời gian để mà chạy trốn. Cha mẹ có năng lực siêu nhiên của chúng tôi thậm chí còn không thèm nói chuyện với chúng tôi chứ đừng nói gì đến chuyện giúp đỡ. Tại sao ư? Nếu giải thích, ắt tôi sẽ phải viết đầy cuốn nhật ký này mất, vậy nên tôi sẽ kể tiếp về con dê đây. Dẫu sao thì con dê đó hẳn là đã xuất hiện một cách ngẫu nhiên, luôn ở phía xa xa. Mỗi một khi chúng tôi cố đuổi bắt, con dê sẽ biến mất và tái xuất hiện ở nơi xa hơn, như thể nó đang dẫn chúng tôi đến một nơi nào đó. Nếu là tôi, nhất định tôi sẽ mặc kệ nó cho rồi. Thalia sẽ không giải thích lý do cô ấy nghĩ việc đuổi theo con dê là chuyện quan trọng, nhưng cô ấy và tôi đã cùng nhau phiêu lưu đủ lâu để tôi có thể tin vào sự phán đoán của cô ấy. Vì thế chúng tôi đi theo con dê đó. Một sớm nọ, chúng tôi đuổi sau nó đến Richmond. Chúng tôi lê bước qua cây cầu hẹp bắc ngang một con sông nước màu xanh lục chảy lờ đờ, băng qua các công viên cây cối rậm rạp và các nghĩa trang Nội Chiến. Khi đến gần trung tâm thành phố hơn, chúng tôi len lỏi qua các khu dân cư im lìm với những ngôi nhà ở liên kế(1) có mái ngói đỏ nằm san sát, những mái hiên có cột trắng và các khu vườn nhỏ xíu xiu. Tôi hình dung ra cảnh tất cả các gia đình bình thường đang sống trong những ngôi nhà ấm cúng ấy. Tôi tự hỏi việc có một ngôi nhà, biết nơi dừng chân ăn bữa ăn kế tiếp của mình ở đâu, và không phải lo lắng về việc sắp bị những con quái vật xơi tái mỗi ngày là như thế nào. Tôi đã bỏ nhà đi khi tôi chỉ mới lên chín - cách đây năm năm. Hầu như tôi không nhớ cái cảm giác được ngủ trên một chiếc giường thật sự là sao nữa. Sau khi đi thêm một dặm nữa, chân tôi như rũ hết cả ra trong giày. Tôi hy vọng chúng tôi có thể tìm thấy nơi nghỉ tạm, hoặc có lẽ có được ít thức ăn. Thế nhưng, chúng tôi lại bắt gặp con dê nọ. Con đường chúng tôi đang đi kéo dài đến tận một công viên hình tròn thật lớn. Các biệt thự xây bằng gạch đỏ đứng đối diện với bùng binh một cách oai vệ. Nằm ở tâm vòng tròn, phía trên bệ đá cẩm thạch trắng cao sáu mét, là bức tượng một người đàn ông đang cưỡi ngựa bằng đồng. Con dê đó đang gặm cỏ cạnh bệ tượng. “Nấp đi!” Thalia kéo tôi vào phía sau một luống hoa hồng. “Chỉ là một con dê thôi,” tôi nói lần thứ một triệu. “Sao…?” “Nó đặc biệt lắm,” Thalia khăng khăng. “Một trong số các con vật thiêng của cha em. Tên nó là Amaltheia.” Trước đây cô ấy chưa bao giờ nhắc đến tên con dê. Tôi tự hỏi vì sao giọng cô ấy lại căng thẳng đến thế. Thalia hiếm khi sợ thứ gì. Cô chỉ mới mười hai tuổi, nhỏ hơn tôi hai tuổi, nhưng nếu nhìn thấy cô đi trên phố, nhất định bạn sẽ nhường đường cho. Cô mang đôi bốt da màu đen, vận quần jeans đen và áo khoác da sờn cũ có nút áo mang đậm phong cách rock. Mái tóc đen được cắt tỉa lởm chởm y hệt lông thú hoang. Đôi mắt xanh thẫm nhìn xoáy vào bạn như thể đang cân nhắc cách tốt nhất để đánh bạn nhừ tử. Nếu có thứ gì khiến cô sợ hãi, tôi phải nhìn nhận thứ đó một cách nghiêm túc. “Vậy em từng nhìn thấy con dê đó rồi sao?” tôi hỏi. Cô miễn cưỡng gật đầu. “Ở Los Angeles, vào cái đêm em bỏ nhà đi. Amaltheia đã dẫn đường cho em ra khỏi thành phố. Và sau đó, cái đêm mà anh và em gặp nhau ấy… nó đưa em đến gặp anh.” Tôi trố mắt nhìn Thalia. Theo như tôi biết, cuộc gặp gỡ của chúng tôi là một sự tình cờ. Thật vậy, chúng tôi đã đâm sầm vào nhau trong một cái hang rồng phía ngoài Charleston, và trở thành một đội với mục đích sống còn. Thalia chưa bao giờ nhắc đến con dê. Thalia không thích kể về cuộc sống lúc trước của cô ở Los Angeles. Tôi tôn trọng cô nên không hỏi gì nhiều. Tôi biết mẹ cô từng phải lòng thần Zeus. Cuối cùng thần Zeus đã bỏ rơi bà ấy, như các vị thần vẫn thường làm. Mẹ cô tức giận đến mức mất cả lý trí, cứ say xỉn và làm những việc điên rồ - tôi không biết rõ chi tiết - cho đến khi Thalia quyết định bỏ nhà ra đi. Nói cách khác, quá khứ của cô khá là giống của tôi. Cô ấy run rẩy hít thật sâu. “Anh Luke này, mỗi khi Amaltheia xuất hiện là sẽ có chuyện quan trọng sắp xảy ra… chuyện gì đó nguy hiểm. Nó giống như một lời cảnh báo từ thần Zeus, hoặc là một chỉ dẫn.” “Về cái gì?” “Em không biết… nhưng nhìn kìa.” Thalia chỉ tay về phía bên kia đường. “Lần này nó sẽ không biến mất. Ắt hẳn chúng ta sắp đến gần nơi nó đang dẫn lối.” Thalia nói đúng. Con dê chỉ đang đứng yên đấy, cách nơi họ nấp chưa đến một trăm mét, nhàn nhã gặm cỏ cạnh bệ đài tưởng niệm. Tôi không rành về gia súc gia cầm, nhưng trông Amaltheia đúng thực là kỳ lạ khi chúng tôi ở khoảng cách gần hơn. Hai sừng trên đầu nó xoắn như sừng cừu đực, nhưng bầu sữa lại căng tròn y hệt của dê cái. Và bộ lông xám bờm xờm kia nữa… có phải nó đang phát sáng không? Những dải ánh sáng hình như đang lượn lờ quanh con dê như một đám mây làm từ đèn nê-ông, khiến nó trông mờ mờ ảo ảo và đầy vẻ ma quái. Có hai chiếc xe đi vòng quanh bùng binh, nhưng chẳng ai chú ý đến con dê phóng xạ cả. Điều đó không làm tôi ngạc nhiên. Có vài kiểu ngụy trang ma thuật khiến con người không nhìn thấy diện mạo thật sự của lũ quái vật và các vị thần. Thalia và tôi không chắc sức mạnh đó được gọi là gì và hoạt động như thế nào, nhưng nó có tác động khá mạnh. Người phàm có thể nhìn con dê thành một con chó đi lạc, hoặc có thể họ chẳng thấy gì cả. Thalia chụp lấy cổ tay tôi. “Đi thôi. Chúng ta thử nói chuyện với nó đi.” “Đầu tiên là chúng ta trốn con dê,” tôi nói. “Giờ em muốn đi nói chuyện với nó sao?” Thalia lôi tôi ra khỏi bụi hồng và kéo tôi băng qua đường. Tôi không kháng nghị. Khi Thalia có ý tưởng nào đó trong đầu, bạn chỉ còn cách nhất trí tuân theo mà thôi. Cô ấy luôn làm theo ý mình. Ngoài ra, tôi không thể để cô đi một mình. Thalia đã cứu mạng tôi rất nhiều lần. Cô ấy là người bạn duy nhất của tôi. Trước khi chúng tôi gặp nhau, tôi một mình đi đây đi đó trong nhiều năm, cô độc và khổ sở. Thỉnh thoảng tôi có kết bạn với người phàm, nhưng hễ tôi kể cho họ nghe sự thật về mình, họ đều không hiểu. Tôi thú nhận rằng mình là con trai của thần Hermes, sứ giả đưa tin bất tử với đôi giày xăng-đan có cánh. Tôi giải thích rằng quái vật và các vị thần Hy Lạp là có thực và vẫn hiện hữu khắp nơi trong thế giới hiện đại. Sau đó những người bạn trần tục của tôi sẽ nói, “Nghe bảnh nhỉ! Tôi ước gì mình cũng là một á thần!” Như thể chuyện tôi kể là một kiểu trò chơi nào đó. Tôi luôn kết thúc bằng việc bỏ đi.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Rick Riordan":Bóng RắnCác Vị Thần Hy Lạp Của Percy JacksonChiếc Vương Miện PtolemyĐịa Cung Rực LửaKim Tự Tháp ĐỏLăng Mộ Bạo ChúaNgai Vàng LửaNhật Ký Á ThầnSấm Truyền Bí ẨnĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Nhật Ký Á Thần PDF của tác giả Rick Riordan nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.