Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Chiếc Răng Cọp - Maurice Leblanc

Arsène Lupin là nhân vật huyền thoại của văn học Pháp, giống như Shelock Homlk của Anh. Cuốn sách này kể về những cuộc phiêu lưu của Lupin. Anh xuất hiện ở một vùng nào đó trong vai một người bạn hào hoa, rồi khám phá ra một vụ án mạng trong quá khứ, phá âm mưu tống tiền; lần khác anh cứu một người đẹp, giúp một tên nhà giàu tìm ra tên trộm nhưng lại cuỗm của hắn vật báu, làm hắn tức nghẹn họng mà vẫn phải cám ơn anh.... Trong những tác phẩm khác, Lupin còn vào vai cảnh sát trưởng để thoát khỏi sự truy lùng; dùng những mánh khóe thông minh vượt ngục... Tôi đã được nghe Arsene Lupin kể về tám vụ phá án này từ lâu trong đó anh nhường vai trò chính cho một trong những người bạn của mình - Hoàng tử Rénine. Với tôi đó như là đưa ra một cách xử thế, phương thức, những cử chỉ đẹp cũng như tính cách của một con người không có khả năng làm tôi lẫn lộn giữa hai người bạn, người này với người kia. Arsene Lupin là một người theo chủ nghĩa tuởng tượng cũng như có khả năng chối bỏ những cuộc phiêu lưu của chính mình bằng cách nhường một vài vụ mà trong đó anh không là nhân vật chính. Trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, Maurice Leblanc chú ý phân tích khía cạnh tâm lý, tình cảm dưới ánh sáng của một tư tưởng đạo đức tiến bộ. Những nhân vật giang hồ Arsène Lupin vẫn giữ được trong mình những tư tưởng tình cảm lành mạnh, vẫn giữ được tính nhân đạo và lòng căm ghét bạo lực. Và những tư tưởng tình cảm đó lại được tăng thêm giá trị bởi quan điểm đề cao óc nhận thức lý trí sâu sắc của tác giả. Nhân vật thám tử của ông ít khi phải sử dụng vũ lực mà là một chuyên gia phân tích, làm việc bằng những phương pháp khoa học chứ không phải bằng kỹ xảo của đôi tay Arsène Lupin là một nhân vật hư cấu xuất hiện trong loạt truyện thám tử, tiểu thuyết trinh thám của nhà văn Pháp Maurice Leblanc, cũng như một số phần tiếp theo và rất nhiều phim truyền hình, phim điện ảnh như Night Hood, Arsène Lupin, các vở kịch và truyện tranh phỏng theo.   Cùng thời với Arthur Conan Doyle, Maurice Leblanc (1864-1941) đã sáng tạo ra nhân vật Arsène Lupin, một nhân vật có tầm phổ biến rộng khắp và lâu dài ở các nước nói tiếng Pháp, giống như Sherlock Holmes  ở các nước nói tiếng Anh. Serie Arsène Lupin gồm hai mươi tập truyện được viết bởi chính Leblanc cộng thêm năm phần tiếp đã được ủy quyền cho nhóm viết của Boileau-Narcejac thực hiện, cũng như nhiều tác phẩm khác phỏng theo. Nhân vật Lupin được giới thiệu lần đầu trên tạp chí Je Sais Tout qua một loạt truyện ngắn, bắt đầu từ số thứ 6, ngày 15 tháng 7 năm 1905. Ban đầu nhân vật mang tên Arsène Lopin, nhưng vấp phải sự phản đối từ một chính trị gia trùng tên, kết quả là "Lopin" đã bị đổi thành "Lupin". Arsène Lupin là một siêu đạo chích có tài hóa trang, một tên trộm quý tộc chuyên trộm đồ của nhà giàu trong khi núp bóng quý ông lịch thiệp. Nhân vật Lupin giống với Marius Jacob nên có khi được cho là dựa trên hình mẫu này.xuất hiện trong 12 tập truyện ngắn đã cho thấy đây là một nhân vật có thể sánh ngang cùng với các nhân vật khác như Holmes cua Conan Doyle, Hercule Poirot cuả Agatha. Hình tượng Lupin đã được nhiều bộ phim nổi tiếng lấy làm mẫu nhân vật như Kaito Kid trong bộ manga nổi tiếng Thám tử lừng danh Conan. Dưới đây là một số tác phẩm của Maurice Leblanc được dịch và xuất bản tại Việt Nam: - Arsène Lupin - Cái chết rình rập - Arsène Lupin đối đầu Sherlock Holmes - Arsène Lupin - Sa bẫy địa ngục - Những cú siêu lừa của Arsène Lupin - Những cuộc phiêu lưu của Arsène Lupin - Tám vụ phá án của Arsène Lupin - Ngôi nhà bí ẩn - Báo Thù - Nữ bá tước Cagliostro - Hòn Đảo 13 chiếc quan tài - Hai Nữ Tướng Cướp - Tam giác vàng ma quỷ - Arsene Lupin và Hồi Ức Bí Mật - ... *** Maurice Leblanc Émile Marie (11/11/1864 - 6/11/1941) là một tiểu thuyết gia và nhà văn viết truyện ngắn người Pháp, được người ta biết đến chủ yếu là tác giả của nhân vật hư cấu tên trộm lịch lãm và thám tử Arsène Lupin, được so sánh là đối trọng với nhân vật thám tử Sherlock Holmes của tác gia người Anh Conan Doyle. Leblanc sinh ra ở Rouen, Normandy, nơi ông đã theo học tại Lycée Pierre Corneille. Sau khi nghiên cứu ở một số nước và bỏ học luật, ông định cư tại Paris và bắt đầu sáng tác tiểu thuyết tâm lý, tiểu thuyết trinh thám, tiểu thuyết phiêu lưu và khoa học huyễn tưởng. *** Một nhân vật trong Bản tuyên án, một thiên truyện tình của nhà văn Vlađimir Xôlôukhin, có tâm sự như sau nhân một lần phải đi nằm bệnh viện: «Mấy ngày đầu, chắc chẳng có gì đáng ngại; vì dẫu sao anh cũng đã trữ sẵn được ba tập trinh thám rất hấp dẫn rồi. Gay nhất có lẽ là những hôm chờ lên bàn mổ; chứ khi đã mổ xong thì chắc chẳng dại gì mà đi ngốn ba thứ sách lôi cuốn và dễ dãi kia”. Dề dãi  ! Tiếc thay, ngay cả những kẻ hâm mộ thể loại trinh thám (họ vốn thuộc đủ mọi nghề và đủ mọi giai tầng xã hội—học giả có, công nhân có, chính khách có, nghệ sĩ có, thậm chí còn gặp cả các nhà nghiên cứu văn học nữa  !), nhiều người vẫn cư xử với thể loại đó một cách khá kỳ quặc, đúng hơn là rất đáng bực mình, coi nó là loại sách dễ dãi, và vì thế, đã đẩy nó xuống hàng văn chương loại hai, thậm chí loại ba. Marietta Saghinyan (Nữ văn sĩ Nga xô-viết sinh năm 1888, người Armênva, Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm khoa học Armênya. Bà là tác giả của nhiều bộ tiểu thuyết, ký sự và công trình khảo cứu nối tiếng, từng được tặng Giải thưởng quác gia (1951) và Giải thưởng Lê-nin (1972). Bã mất năm 1982) tác giả của một trong những sáng tác trinh thám xô-viết đâu tiên là Messe— Maind (Truyện vừa, sáng tác vào những năm 1923 — 1925, để cổ động tinh thền yêu nước và khẳng định tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, ngay sau những ngày nước Cộng hòa Xô-viết vừa trải qua những năm nội chiến cực kỳ ác liệt.) có đưa ra một nhận định hơi ngược đời, nhưng đầy thú vị về thể loại này: chuyện trinh thám là loại sách có tính chất duy lý và có giá trị nhận thức sâu sắc nhất, nhưng lại ít có hại đến thần kinh và giúp bồi bổ sức khỏe nhiều hơn cả trong văn chương hiện thời... Truyện trinh thám là loại sách sở dĩ giúp hồi bổ được sức khỏe, vì đọc nó, bao giờ bạn cũng được một xác tin vững chãi sau đấy trấn an: cái ác nhất định rồi sẽ bị phanh phui, hung thủ sớm muộn gì rồi cũng bị trừng phạt, và cái thiện, cũng như lẽ phải tất sẽ chiến thắng. Dĩ nhiên truyện trinh thám tôi muốn nói ở đây là loại truyện chân chính, chứ không phải ba thứ sách rẻ tiền về mấy gã găng-xtơ huênh hoang, hoặc bọn điệp viên khoác lác, vẫn đang cố len lỏi vào dòng văn chương chính thống thường được gọi là “tiểu thuyết trinh thám... hình sự». Quả tình là gần đây người ta đã viết khá nhiều về truyện trinh thám, cả của Liên Xô, lẫn của nước ngoài. Sở dĩ có tình hình đó trước hết là vì các sáng tác loại đang bàn hiện được in ra với một số lượng lớn chưa từng thấy. Ở phương Tây đã xuất hiện nhiều nhà xuất bản lớn, chuyên ấn hành truyện trinh thám các loại. Dĩ nhiên, chi phí sản xuất rất cao; ấy là chưa nói đến loại «văn chương» được Marietta Saghinyan gọi bằng cái tên hết sức chính xác đã nêu — «sách rẻ tiền về mấy gã găng-xtơ huênh hoang hoặc bọn điệp viên khoác lác» — hiện được giới tuyên truyền tư sản sử dụng như một phương tiện mê hoặc đông đảo công chúng trình độ trung bình. Đã từng có biết bao nhiêu nhận định khác nhau, lắm khi hoàn toàn bài bác nhau, về truyện trinh thám  ! Có nhiều nhà phê bình coi truyện trinh thám là một thứ trò chơi, hơn nữa lại là thứ trò chơi chỉ chơi được vỏn vẹn một lần, và cho rằng: không thể đọc các sáng tác trinh thám quá hai lần là một đặc trưng hệ trọng của thể loại này. Có nhiều nhà phê bình khác nuôi khát vọng ấn truyện Trinh thám vào chiếc giường Prôcuxt của họ- -một thứ lược đồ gồm ba thành tố hợp nhất thành bất biến: bí mật của tội ác — điều tra — minh chứng cho sự thật. Nhà phê bình văn học Mỹ Willam Hattington, nổi tiếng dưới hút danh S.s.van Deine, thậm chí còn đề xướng ra “Hai mươi qui tắc cho các tác giả viết tiểu thuyết trinh thám. Nhà văn và nhà học giả Hulgari nổi tiếng là Bogumil Rainov, trong một khảo cứu về thể loại trinh thám được mệnh danh là “Sách Đen» (Série noire) đã đánh giá rất chính xác như sau về lô qui tắc vừa nêu: «Những qui tắc của Hattington, một mặt, là con đẻ của cách cư xử mang tính chất chính thuyết đối với văn chương, nhưng mặt khác, lại đặc trưng một cách hết sức rõ nét cho quan điểm thương mại đối với văn chương ở Mỹ... Cụ thể là, trong mỗi ngành sản xuất đều có một qui trình công nghệ nhất định, và muốn cho sản phẩm văn chương ăn khách, nhà văn không thể không nắm vững cái qui trình ấy». Một trong những qui tắc của van Deine có ấn định: «Truyện hình sự (Roman policier) cần tránh miêu tả dài dòng, tránh những đoạn phân tích tâm lý chi li và những phán xét khái quát. Tất cả những thứ đó chỉ gây cản trở cho tiến trình thuật lại câu chuyện mà mục tiêu chủ chốt của nó chỉ là: kể lại thật vành rọt diễn biến của tội ác và tiến trình dò tìm hung thủ». Các tác phẩm xuất sắc của thể loại trinh thám rõ ràng đã bác bỏ hoàn toàn qui tắc trên đây. Không, không thể đem qui truyện trinh thám vào bất cứ một thứ khuôn mẫu hình thức nào và càng không thể nhận định đơn thuần rằng mục tiêu chính của nó chỉ là phơi bày các loại tội ác, và người viết không được đặt cho mình một mục tiêu nào khác hơn, ngoài mục tiêu vừa nêu. Vì lẽ gì ta lại không nghĩ rằng trong trường hợp này hoặc trường hợp khác, người cầm bút sở dĩ tỏ ra tâm đắc hơn với thể loại trinh thám chẳng qua chỉ vì hình thái sáng tác này giúp anh ta thể hiện thành công hơn nhiệm vụ nghệ thuật đang khiến mình xúc động  ? Balzac chẳng hạn, từng tuyên bố rằng chủ đích thực của thiên tiểu thuyết «vẻ hào hoa và sự cùng khốn của đám kỹ nữ thượng lưu” là cuộc độc chiến giữa thám tử và hung thủ. Theo tôi hình dung, định nghĩa đúng đắn nhất, giúp hiểu được thực chất của truyện trinh thám, là định nghĩa do một nhà phê bình Xô-viết đưa ra mấy năm trước đây: «Một truyện trinh thám chỉ thành công, khi việc tạo dựng một cốt truyện hấp dẫn không phải chỉ là mục đích tự thân, mà bị chi phối bởi cách giải quyết những mục tiêu chung đặt ra cho toàn hộ ngành văn học đó”. Quả vậy, truyện trinh thám là một thể loại hoàn toàn bình đẳng với tất cả các thể loại văn chương khác, và phải đánh giá nó trên quan điểm những yêu cầu chung của toàn ngành văn học. Các tác phẩm ưu tú của thể loại văn chương, thiên về hướng tạo dựng các cốt truyện lôi cuốn, được đông đảo công chúng hâm mộ, bao giờ cũng rất coi trọng việc khảo sát những vấn đề hệ trọng và nghiêm túc của cuộc đời. Trong những vấn đề vừa nêu, có tầm quan trọng hơn cả chắc hẳn là vấn đề cái thiện và cái ác. Nội dung của những sáng tác trinh thám xuất sắc không phải chỉ đóng khung ở việc truy tìm đầy hấp dẫn một hung thủ tinh ranh và xảo quyệt, ở những phân định hợp lô-gich cực kỳ rắc rối của một vị dự thẩm hay một chuyên gia điều tra hình sự. Trước hết, nó phải là một nghiên cứu thấu đáo của nhà văn về những cội nguồn sâu xa của tội ác. Khi mời bạn đọc cùng nhân vật chính dự phần vào việc phanh phui những hành vi phạm tội rắc rối và nguy hiểm của một hung thủ, nhà văn đồng thời cũng tạo cho bạn đọc một mảnh đất màu mỡ chẳng những để giải quyết cái nhiệm vụ muôn thuở — Ai là thủ phạm gây nên vụ án mạng kia, mà còn để dò tìm những tình huống trong đó tội phạm đã xảy ra và hành động phạm tội của hung thủ, nhìn rõ mặt những kẻ tuy không trực tiếp nhúng tay vào tội ác, nhưng lại tạo cho tội ác một môi trường sinh sống thuận lợi, làm sáng tỏ những nguyên nhân xã hội của tội ác và bọn thủ phạm cùng những kẻ tòng phạm. Đó là những vấn đề đạo lý nghiêm túc mà nhà văn cần khảo cứu. Hơn nữa, bản chất của thể loại trinh thám vẫn mở ra cho nhà văn những cơ hội hết sức thuận lợi. Chính vì thám tử hoặc nhà dự thẩm, hoặc một loại người rất hay gặp trong văn chương phương Tây dưới danh hiệu thám tử tư—nhân vật chính tất yếu của bất cứ cuốn sách trinh thám nào —trong tiến trình truy tìm hung thủ, tất phải chạm trán với đủ mọi tầng lớp xã hội; khi thì sục xuống dưới đáy xã hội để nghe những lời bộc bạch buồn lòng của một gã lang thang, khi thì đi sâu vào những nghịch cảnh bi đát của một viên kí lục quèn bị mất chỗ làm và do đó, cũng mất luôn cả mọi sinh kế. Anh ta cũng phải chạm trán cả với cái môi trường đầy rẫy những tính toán tỉnh táo và những mối hằn thù được che đậy dưới những nụ cười giả tạo, ngự trị trong các tầng lớp thượng lưu, trong khi đi tìm nguyên nhân của một vụ án mạng rối rắm thường tình, và bỗng dưng phải chứng kiến một cảnh tượng đáng ghê tởm: «bị máu tham làm cho mờ mắt», những kẻ thừa kế cứ mê mải với những món lợi lộc do phần gia tài vừa được hưởng mang lại, mà chẳng hề ngượng ngùng một mảy may nào với cái thi hài còn chưa kịp nguội lạnh của người quá cố đang nằm chơ chỏng ở phòng bên. Có thể có đầy đủ cơ sở để nêu ra đây như một dẫn chứng sáng chói về truyện trinh thám đậm đà tính chất xã hội: những thiên tiểu thuyết của hai nhà văn Thụy Điển tài hoa là Per Valiê và Mai Sêval. Nhân thể cần nói thêm rằng ngay tại Thụy Điển, sự nghiệp của hai ông hiện được không ít người kế tục: trong các tác phẩm của mình, họ cũng vạch trần không thương tiếc sự bất công của xã hội tư sản hiện đại. Yếu tố xã hội trong truyện trinh thám nhiều khi bộc lộ rất rõ nét, bất chấp ý muốn của người viết. Tuy không tự đặt cho mình nhiệm vụ bóc trần những thói hư tật xấu của cái xã hội trong đó nhân vật hành động, anh ta vẫn tình cờ phô bày ra tất cả, nếu trong thâm tâm, nhà văn không cố tình nhắm mắt đeo đuổi những mục đích trái ngược, vì tội ác tự thân nó vốn là một hiện tượng xã hội. Cũng tương tự như con dao mổ trong tay nhà phẫu thuật dày dạn, thể loại truyện trinh thám, truyện điều tra hình sự, trong tay một nhà văn tài năng và trung thực có thể trở thành một công cụ đắc lực, giúp nhà văn phơi bày cho độc giả tất cả các thứ ung nhọt, các vết lở loét thối tha của xã hội mà nhà văn đang sống... Nếu bản thân độc giả cũng là người có óc quan sát tinh tường và thích nghiền ngẫm, thì khi lần giở các trang sách, anh ta cũng sẽ không chỉ đơn thuần theo dõi cái vỏ bề ngoài của cốt truyện tả ở đây, mà còn háo hức sát cánh với thám tử ra công truy lùng những gã hung thủ gian ngoan. Tiếc thay, hiện có không ít độc giả nhìn chung vẫn còn hơi thiên về cái hình thức bên ngoài, tuy rất hệ trọng đối với thể loại, nhưng không thể nào phản ánh thật đầy đủ cái thực chất bên trong của truyện trinh thám. Dù có ngã sang chiều hướng «nghiêm túc» chăng nữa, truyện trinh thám vẫn không mất đi tính lôi cuốn ; trái lại, nó vẫn giữ được những đặc tính tiêu biểu vốn có của thể loại: là những áng văn chuyên miêu tả những hành động diễn biến hết sức nhanh chóng và những đoán định lôgic nghiêm ngặt, có khả năng giữ người đọc trong trạng thái căng thẳng hồi hộp trong suốt tiến trình diễn biến của câu chuyện. Truyện trinh thám là thể loại có thể khơi dậy và bồi bổ nơi người đọc lòng kính trọng những con người đang ngày đêm gìn giữ pháp luật, nếu người viết biết nêu lên trong các sáng tác của anh ta cuộc chiến đấu quên mình, đầy hiểm nguy, vốn đòi hỏi một đức ngoan cường và lòng tận tụy tối đa để chống lại tội ác các loại, một cuộc chiến đấu mà nền tảng của nó là tư tưởng nhân đạo. (Đoạn trên đây viết dựa theo bài Tựa của Tuyển tập Truyện trinh thám nước ngoài, của Xergây Vưxốtxki, Nhà xuất bản «Đội cận vệ thanh niên», Moskova, 1984). Bây giờ, chúng ta hãy xét truyện «Những chiếc răng cọp» của Maurice Leblanc trong sự đối sánh với những chuẩn mực trên đây về truyện trinh thám. Những chiếc răng cọp là câu chuyện điều tra hình sự, tìm thủ phạm về một vụ án «gia tài». Tội ác bạo hành là một đặc thù của xã hội tư sản phương Tây. Thường tội ác phát sinh là do mâu thuẫn, máu chiếm đoạt của cải, lòng tham không đáy dẫn đến những thủ đoạn tàn bạo và dã man. Ở đây, câu chuyện xoay quanh cái gia tài cực kỳ lớn của dòng họ Fauvin. Từ đó dẫn đến những vụ án mạng thảm khốc và quá trình «phá án» của Acxen Luypanh. Acxen Luypanh là một nhân vật nổi tiếng về tài điều tra các vụ án ly kỳ, bí mật. Anh ta là nhân vật chính trong các truyện trinh thám của Maurie Leblánc: trong một số truyện (chẳng hạn, trong Les-confidences d’Arsene Lupin), ta thấy anh ta xuất hiện trong những vai «ăn trộm», (một cách “quân tử»), nẫng tay trên của cảnh sát, tiến hành những vụ điều tra thông minh, vượt qua bộ máy chuyên nghiệp. Tác giả luôn luôn lý tưởng hóa nhân vật nầy, cấp cho nó những đức tính có phần «siêu», một đôi khi nhân vật cũng tự vỗ ngực khoe khoang về tài đức của mình, làm ta khó chịu. Acxen Luypanh chẳng hề là một nhân vật hiện thực. Nhưng nó phản ánh trong nó một vài vấn đề của xã hội tư sản phương Tây. Cái bất lực của cảnh sát đẻ ra anh thảm tử tư “tài ba» này, một nhân vật trên tài các cơ quan an ninh, cảnh sát, còn giới triệu phú, quí tộc thì sợ và ghét. Rồi cũng chính cái xã hội thối rữa đó với những tội ác cơm bữa nảy ra yêu cầu bức xúc trừng trị điều ác. Acxen Luypanh, với những mặt lương thiện, nhiều khi vô tư là cái hy vọng cuối cùng của người đọc trong hoàn cảnh đó. Mặc dù cách làm và cách nghĩ của anh ta vẫn không thoát ra khỏi cách nghĩ cách làm của cái xã hội đã sinh ra anh ta. Người đọc cũng hồi hộp cùng với anh ta, khuyến khích anh ta, đồng tình với anh ta. Cuối cùng, cái bí mật ghê gớm của tội ác được phơi bày, cái Thiện thêm một lần chiến thắng cái Ác. Tác giả thiên về việc ra những tình tiết hết sức ly kỳ; lắt léo, quá nhấn mạnh và chạy theo yêu cầu hấp dẫn mà còn nhẹ về mặt phát hiện những vấn đề xã hội, nhân sinh. Do đó, chúng tôi không nghĩ như một số người đã nghĩ rằng, Acxen Luypanh đó là Sai-lốc Hôm của Cônan Đoy, mặc dù Cônan Đoy, đến lượt mình, cũng không vượt qua tầm xã hội mà ông sống với những ưu điểm và nhược điểm của ông. Dù sao Acxen Luypanh cũng là một thành tựu nổi tiếng của truyện trinh thám mà người đọc nước ta cũng nên làm quen. Ở Liên Xô, một số tác phẩm của Maurcie Leblanc đã được dịch (so với bản gốc tiếng Pháp có bỏ đi một số đoạn không cần thiết). Bản dịch tiếng Việt này cũng đã cẩn trọng tước bớt đi hoặc tóm lược một số đoạn dài dòng mà không làm ảnh hưởng đến toàn bộ diễn biến của câu chuyện. NHÀ XUẤT BẢN VĂN NGHỆ   Mời các bạn đón đọc Những Chiếc Răng Cọp của tác giả Maurice Leblanc.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thế Giới Kết Thúc Dịu Dàng Đến Thế
Câu chuyện bắt đầu từ khi đám mây xám trì xuất hiện phía trên một thị trấn hẻo lánh của Nhật, chiếu cột ánh sáng xanh lạnh xuống. Mọi vật bị ánh sáng xanh rọi vào sẽ đông cứng lại như đá hoa cương, lạnh ngắt và cũng tỏa ra sắc xanh lạnh. Dần dần, diện tích bị đóng băng lan rộng khắp trái đất. Mọi người cuống cuồng tìm về bên người thân yêu chờ đón giây phút cuối cùng. Yoshizawa cũng lên đường đạp xe đến nơi ở cách hàng trăm cây số của Shirakawa Yukino, người bạn học thân thương và cũng là mối tình đầu của cậu. Trên con đường ngày một lạnh lẽo và chết chóc, thứ duy nhất sưởi ấm cậu là những trang thư đã đọc đi đọc lại đến sờn giấy, là bức hình chụp chung mờ nhòe. Liệu cậu có kịp gặp được Yukino, hay nàng đã hóa thành pho tượng băng giá câm lặng vĩnh viễn? Chưa bao giờ sự kết thúc hay cuộc gặp mặt cuối cùng lại được nhà văn Ichikawa Takuji miêu tả dịu dàng và nâng niu đến thế. Bởi dù thế nào, “Yêu một ai đó là thế đấy. Trọn vẹn tất cả mọi thứ. Không kén chọn cái này hay cái kia. Dâng hiến cả cuộc đời mình. Tuyệt đối không nuối tiếc.” *** Có bao giờ bạn từng nghĩ về ngày tận thế của Trái Đất? Ngày mà con người chấm dứt sự sống, ngày giống như hàng vạn năm về trước của thế giới thuở hồng hoang. Chắc hẳn là có, nhưng đa số chúng ta hay nghĩ tới một cái kết đáng sợ như việc một thảm họa kinh hoàng xảy ra y hệt những bộ phim bom tấn. Nhà văn Ichikawa Takuji thì không như vậy, ông nghĩ tới tận thế bằng một đôi mắt lãng mạn và yêu thương nhất có thể. Đó chính là hạt giống đẹp đẽ nảy mầm lên cuốn sách  Thế giới kết thúc dịu dàng đến thế  _ tác phẩm gần đây nhất của ông. Cuốn sách lấy bối cảnh của thế giới những ngày đi vào hồi kết hay chính là tận thế. Chúng ta sẽ không thấy khói lửa, sóng thần hay bất cứ nạn dịch nào hủy hoại sự sống con người như trên màn ảnh nhỏ. Tận thế của Takuji đầy chất thơ _ thế giới kết thúc khi bị cột ánh sáng xanh bao phủ. …một khi đã bị ánh sáng ấy bao trùm, tất cả sẽ chấm dứt. Con người hay muông thú, chim chóc hay cỏ cây, đất đá và nước cũng vậy, mọi thứ đều ngừng chuyển động, rồi có lẽ sẽ chẳng có gì xảy ra nữa. Nhân vật chính là Yoshizawa Yuu, khi biết ánh sáng xanh đang lan tỏa trên diện tích rộng đồng nghĩa với việc thời gian sống ngày càng thu hẹp, anh quyết định lên đường đi tìm Shirakawa Yukino cô bạn gái anh yêu thương suốt 10 năm trời. Yuu đã từng hứa: Tôi đã hứa sẽ đi gặp nàng. Bất kể có chuyện gì xảy ra, tôi nhất định phải giữ lời đến cùng. Đó là kim chỉ nam cho hành trình của anh, cũng là hành trình xuyên suốt cuốn sách. Trên những bước chân đầu tiên của chặng đường dài, Yuu gặp Mizuki _ chàng trai cũng đang đi tìm gặp cô gái mà anh từng bỏ rơi chỉ để nói lời xin lỗi và được ở lại bên cô mãi mãi. Hai người là bạn đồng hành và trên chuyến đi của cả hai, tác giả lồng ghép những câu chuyện nhỏ. Mỗi câu chuyện là một mảnh ghép hoàn thiện cho bức tranh về lòng yêu thương trong một thế giới đang kết thúc. Cuối cùng thì Mizuki cũng trở về với Eriko, cô gái anh luôn mong muốn được ở bên. Yuu cũng tìm được Yukino và hạnh phúc bên nhau trong thời khắc cuối cùng. Tác giả để ra một kết thúc mở, tôi không nghĩ là vui khi mọi người đều biến mất, nhưng cũng không được coi là buồn khi mọi người đều cảm thấy hạnh phúc vì được ở bên nhau trong khoảnh khắc cuối cùng của sự sống. Sau tất cả, đọng lại trong tôi là giọt buồn man mác, là yêu thương đong đầy và những rung động trong veo như ánh xanh dịu dàng khắp câu chữ len lỏi vào từng ngõ ngách của trái tim. Tác phẩm xây dựng trên một khung cảnh siêu thực, một thế giới tưởng tượng như phong cách vốn dĩ của Takuji. Văn chương của ông lúc nào cũng ám ảnh tình yêu và chia ly, đan xen giữa nỗi buồn và cái đẹp gây một cảm giác rung động khó tả đối với người đọc. Truyện được kể đan lồng quá khứ - hiện tại với nhiều nhân vật, mang nhiều thông điệp khác nhau. Dưới đây là những gì tôi tổng kết được về ý nghĩa của cuốn sách.   Một thế giới tưởng tượng gần gũi với hiện thực mà ta đang sống. Standal từng viết “Văn học là tấm gương phản ánh đời sống xã hội”. Một tác phẩm văn học dù có viết về một thế giới tưởng tượng thì vẫn luôn đề cập tới các vấn đề xã hội. Thế giới kết thúc dịu dàng đến thế cũng không phải ngoại lệ. Nó là một tác phẩm lãng mạn, viết về một câu chuyện không có thực nhưng không đơn thuần chỉ để thỏa mãn trí tưởng tượng của con người. Đằng sau mỗi trang sách, chúng ta nhận thấy xã hội mà ta đang sống, thấy con người của hiện thực đi vào trong bóng dáng của các nhân vật. Một kênh chiếu hình ảnh chiến tranh ở nước nào đó, có cảnh một đứa trẻ khóc vì mất cha mẹ. Cuộc sống vốn đã chẳng dài lắm, thế mà nhiều người lớn cứ nóng lòng cướp đoạt cho bằng được. Đó chẳng phải là tin tức mà chúng ta đã từng xem hằng ngày hay sao? Những đứa trẻ tại vùng giao tranh hay nội chiến, chúng bị cướp đi quyền học tập, thậm chí là quyền được sống. Những em bé như vậy, không phải chỉ có trong sách vở mà đang từng giây từng phút chịu đau thương trong thế giới này. Một góc hiện thực khác gần chúng ta hơn, nói về đạo đức của con người hiện nay cũng được phản chiếu trong câu văn: Tài xế ô tô nhấn còi xua người đi bộ như lùa gia súc. Ông khách trung niên mắng mỏ người phục vụ làm thêm vì những sai sót nhỏ nhặt. Đám thanh niên thản nhiên xô đẩy người già yếu bước đi chậm chạp. Đường phố ngày nay, tôi thấy thực sự sợ khi đi trên vỉa hè không khác nào đi dưới lòng đường. Tại sao con người ta có thể vô liêm sỉ mà cướp đường đi của người khác, cướp đi sự an toàn của người đi bộ? Và những sự việc như vậy khiến chúng ta cũng phải thốt lên như các nhân vật trong câu chuyện: “Chẳng tử tế gì cả”. Takuji còn có thể nhìn thấy bản chất của xã hội mà đúc kết nên rằng: Trong thời đại ngày nay, vứt bỏ đồ đạc mới được coi là đức hạnh. Bởi có thế thì mới làm cho “kinh tế vận hành” được. Vì mục đích cao cả ấy mà cụm từ “mốt năm nay” được sinh ra, con người có thể an tâm mà bỏ đồ mua năm ngoái đi. Đó là việc con người sống quá nhanh, quá chóng vánh mà không biết trân trọng những điều nhỏ nhặt. Cứ thế, dòng người lướt qua ào ào trên những con xe từ sáng đến đêm, và trái tim họ cũng vụt qua như vậy. Yêu thương chẳng đủ ấm nồng mà hời hợt lướt nhanh. Tôi từng nghe câu thơ “Đủ nắng hoa sẽ nở/ Đủ yêu thương hạnh phúc sẽ đong đầy”. Phải chăng con người cứ kêu không hạnh phúc, chỉ vì họ sống chưa đủ yêu thương? Hiện thực trong cuốn sách đã phần nào đánh thức trái tim vẫn đang ngủ say trong tôi với những giấc mơ màu hồng, khiến tôi nhận ra mình cần trưởng thành hơn, cần phải nhìn thẳng vào sự thật vốn dĩ bề bộn và phức tạp.   Có những tình cảm nhân văn và dịu dàng đến thế. Có lẽ đây là điều tôi thích nhất ở cuốn sách. Một tác phẩm lãng mạn nhưng không sến súa, tình cảm cực kì nhân văn và trong trẻo. Thế giới dù có những góc tối tàn nhẫn nhưng ta vẫn yêu nó bởi cuộc đời vẫn còn vô vàn điều tốt đẹp. Mà đẹp nhất, còn gì khác ngoài “Người với người sống để yêu nhau”. Đó cũng chính là thông điệp lớn nhất tôi nhận từ cuốn sách.  Nếu đời người là một cuốn sách, tôi những muốn lấp kín các trang bằng những câu chữ đong đầy tình yêu thương. Tôi không muốn giở từ trang nọ sang trang kia mà chỉ thấy không có gì ngoài những lời phỉ báng nhiếc móc. Đúng như thế, Takuji đã lấp đầy từng con chữ bằng tình yêu thương cao đẹp. Đó là tình yêu trong sáng của Yuu và Yukino, thứ tình cảm chân thành có thể sẵn sàng hy sinh bản thân chỉ để người kia không bị tổn thương. Họ trân trọng nhau từ những điều nhỏ nhặt nhất, từ những kỉ niệm như chiếc máy chế tạo hoàng hôn, tấm ảnh chụp chung hay câu chuyện về những đám mây. Và tôi nghĩ tình yêu chỉ đơn giản thế thôi, đâu cần như thiên tình sử đau thương của Romeo và Juliet. Yuu là một chàng trai nhát cáy nhưng vẫn luôn bảo vệ Yukino đến cùng, dù thế giới có tận diệt cũng phải trở về bên cô bởi vì “Dù là những siêu nhân không mấy đáng tin cậy, mỗi chúng ta đều muốn bảo vệ người mình yêu”. Tình cảm cao thượng trong gia đình cũng được phản ánh một cách sâu sắc. Đó là ông bố hiền lành của Yuu, cả đời chưa bao giờ mắng cậu nửa lời, chỉ dùng sự dịu dàng vỗ về, chở che cho cậu đến giây phút cuối cùng. Ông từng nói với cậu: …khoảnh khắc con nằm trên giường, nhìn lại bố với ánh mắt ngây thơ, bố chợt nghĩ đứa trẻ này tin tưởng mình. Nó giao sinh mạng bản thân cho bố, chẳng chút nghi ngờ. … Không thể phản bội lại lòng tin này được. Bằng bất cứ giá nào cũng phải bảo vệ sinh linh này. Phải cho nó được vui sướng. Một trái tim vĩ đại ẩn sau dáng hình nhỏ bé của người bố, một tình yêu thương cao cả có thể hy sinh mạng sống chỉ để bảo vệ đứa con trai. Takuji đã cho chúng ta hiểu tình cảm gia đình quan trọng nhường nào. Mẹ của Yuu đã mất, nhưng bà vẫn luôn là động lực cho hai bố con sống tiếp. Người ta không được coi là biến mất hoàn toàn khi mà họ vẫn sống trong trái tim và kí ức của ai đó. Tình yêu, từ giây phút con người đặt chân lên mặt đất cho tới tận ngày diệt vong, nó vẫn luôn là nguồn sức mạnh kì diệu nâng đỡ tâm hồn con người. Nó trao cho ta ý chí, giúp ta làm những điều tưởng chừng không thể. Bởi vì có yêu thương, nên thế giới dẫu có kết thúc, ta vẫn thấy nó dịu dàng đến thế…   Hạt mầm của hy vọng sống. Khi biết Trái Đất đang đi đến hồi kết, Yuu từng nghĩ: Dẫu vậy, biết đâu trên hành tinh này vẫn còn một nơi mà ánh sáng xanh sẽ không bao giờ chạm tới và ở đó chúng ta có thể tiếp tục sống trong yên bình?
Latte Không Ngọt
“NEWTON VÌ NHÌN THẤY MỘT QUẢ TÁO RƠI MÀ PHÁT HIỆN RA LỰC HẤP DẪN LOÀI NGƯỜI CŨNG CHÍNH VÌ ĂN PHẢI MỘT QUẢ TÁO CÓ ĐỘC MÀ RƠI VÀO LÒNG LUẨN QUẨN” Latte không ngọt – món quà dành cho thanh xuân. Có lẽ rằng ai cũng mong một lần được quay trở lại tuổi trẻ với tình yêu ngây dại và đầy ngọt ngào đó. Và thanh xuân chẳng thể không có mối tình đầu. Với bạn mối tình đầu là gì với Latte Không Ngọt mối tình đầu của ai cũng đều có chút ngây ngô nó còn pha thêm cảm giác tuyệt vọng. Có mối tình đầu thanh xuân thêm dư vị Có mối tình đầu thanh xuân của cậu ngập tràn ánh nắng ấm áp *** [REVIEW SÁCH LATTE KHÔNG NGỌT] Thanh xuân ai cũng sẽ trải qua một lần trong đời, ký ức thanh xuân của mỗi người lại có những dư vị khác nhau, dẫu vậy ký ức nào cũng đẹp vô cùng. Đọc cuốn sách Latte không ngọt của tác giả Evon, lại thêm một lần nữa được bước vào vùng ký ức thăm thẳm của những người trẻ tuổi, để hoài niệm thời thanh xuân, cũng là trải nghiệm thêm một vị khác của thanh xuân. Latte không ngọt xoay quanh câu chuyện của bốn bạn trẻ Vương Đinh, Phương Sâm Đề, Ngô Lặc, Thi Khả Đệ tại Đài Loan. Họ là những người trẻ tuổi hiện đại, năng động luôn sẵn sàng dấn thân vào đời sống. Mỗi người một tính cách nhưng đã gặp gỡ và trở thành những người bạn thân thiết. Vương Đinh là người kể chuyện, cũng có thể xem là người dung hòa giữa các mối quan hệ trong tiểu thuyết. Anh đóng vai người hòa giải, quan sát, lắng nghe những câu chuyện của những người bạn. Dư vị đậm đà nhất trong ký ức thanh xuân của Latte không ngọt tình yêu. Mỗi người trẻ trong cuốn sách đều yêu say đắm, si mê. Xoay quanh vòng xoáy của tình yêu khiến mạch chuyện càng về sau càng lôi cuốn mạnh mẽ. Phương Sâm Đề là người hài hước, có tính cách mạnh mẽ nhưng khi đã bước vào tình yêu lại vô cùng nhẫn nại, dịu dàng, chung tình. Đem lòng yêu Phó Lỗi Nhã, cô bạn cùng lớp cấp ba thuở nào, rồi giữ mãi mối tình ấy, âm thầm theo dõi cô ấy, cho đến tận khi cô ấy nhận được thâm tình mà cảm động. Tưởng rằng tình yêu từ ấy đã viên mãn, hai kẻ yêu nhau say đắm có thể ở bên cạnh nhau mãi về sau, nhưng hóa ra ở bên cạnh nhau lại không thể chịu đựng được nhau. Sâm Đề từng kiên nhẫn chờ đợi đến thế lại không thể chịu đựng được tính khí ghen tuông ích kỷ của người yêu. Lỗi Nhã từng cảm động bởi sự chung tình của người yêu lại không thể đem lòng tin tưởng người mình yêu. Bởi thế nên chia tay, mệt mỏi, và đau khổ. Tình yêu thanh xuân thường gắn liền với những cảm xúc ngây thơ, trong sáng, có chút nổi loạn, nhưng tình yêu trong Latte không ngọt lại là vị đắng chát chất chứa nhiều đau thương và mất mát. Như Khả Đệ đã phải day dứt suốt đời vì không ở bên cạnh người yêu trong những giờ phút cuối cùng, ngược lại còn hiểu nhầm anh, ngỡ rằng anh đã thay lòng mà dày vò anh. Trong bộ phim Tro bụi thời gian, nhân vật Âu Dương Phong có một câu thoại rất hay rằng “nếu không thể có được thứ gì đó, hãy giữ nó trong ký ức”. Ký ức cũng bởi thế luôn mênh mang và thăm thẳm.Đến khi biết tin cái chết của người yêu, mới như sét đánh ngang tai, đau đớn tột cùng, tự nhủ trong nước mắt: “Em sẽ không bao giờ để bất cứ nỗi đau nào khiến mình trở nên đáng thương nữa, có một số việc… sẽ luôn được lưu giữ. Cho đến… mãi mãi”. Cũng giống như chàng thiếu niên đã rời khỏi cuộc sống này, nhưng sẽ mãi được lưu giữ trong tim người ở lại với nỗi lưu luyến day dứt. Khả Đệ là cô gái nhỏ nhắn, nhưng lại là người con gái dữ dội, quyết liệt. Khi rơi vào tình yêu đã yêu đến cuồng dại say đắm, khi đau khổ cũng mù quáng mà làm tổn thương bản thân. Nhưng Khả Đệ lại chính là hình dung sắc nét của tuổi thanh xuân, là khi ấy chúng ta còn quá trẻ để lý trí tỉnh táo, ta chỉ biết lao vào đời sống, yêu và sống cuồng nhiệt như nhau. Mỗi người trẻ, họ sống trong đời sống đi về mỗi phía khác nhau, hạnh phúc đau khổ trải qua trên đường sống khác nhau, nhưng thanh xuân có sự hiện hữu của nhau đã trở thành dấu ấn đẹp đẽ trong cuộc đời. Thanh xuân của họ giống như ly Latte nhưng đậm vị cà phê đắng hơn vị sữa ngọt ngào, nhưng lại có sức hấp dẫn khó cưỡng. Trong Latte không ngọt, thanh xuân gắn liền với những mối tình, đồng thời cũng từ tình yêu ấy tác giả đã khéo léo tạo nên bầu không khí hiện đại, trẻ trung của đời sống đương đại Đài Loan bằng lối viết dung dị, uyển chuyển, thấm đẫm chất thơ. Ở đó những người trẻ ngày ngày vẫn làm việc, mơ ước, đau đớn, và trưởng thành. Nhân vật Vương Đinh, là người quan sát và viết lại câu chuyện thanh xuân của những người bạn, sau cùng đã xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình. Theo anh cũng là cách lưu giữ ký ức và tự chữa lành cho chính bản thân mình. *** Tác giả Evon tên thật là Dư Dật Phàm, là nam tác giả trẻ trong giới văn học Đài Loan, đam mê nhiều thể loại sách như tình yêu, cuộc sống, lý luận, kinh dị, viễn tưởng… nhưng thể loại yêu thích nhất là tiểu thuyết kinh dị, đã từng cho ra mắt tác phẩm Câu chuyện kinh dị của Evon, là một tuyển tập các câu chuyện kinh dị ngắn - ở dạng sách điện tử. Tiểu thuyết tình cảm Latte không ngọt là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của anh được xuất bản dưới dạng sách giấy truyền thống. Cuốn sách đã được đông đảo độc giả trẻ Đài Loan yêu mến. *** GIỚI THIỆU NHÂN VẬT Vương Đinh: nam chính (người duy nhất kể chuyện theo vai “tôi”), nam cung Xử Nữ, hai mươi tuổi. Chiều cao trung bình, hơi gầy, tóc đen cột thành một chỏm đuôi ngựa ngắn, là mẫu người lịch thiệp, nước da trắng, thị lực khá tốt. Tính cách hướng nội, tinh tế, nhanh nhạy. Gặp phải chuyện gì đều phải trăn trở suy xét nhiêu lần, vì vậy mà thường khiến bản thân cảm thấy phiền muộn vô cớ, tự làm khổ mình. Tiểu thuyết “Latte không ngọt” là câu chuyện do chính anh viết về những trải nghiệm của bản thân cùng ba người bạn thanh mai trúc mã, được đăng tải trên mạng để mọi người cùng đọc. Hiện đang nuôi một chú chó Shiba Inu đặt tên là Tiểu Nặc. Là một người đặc biệt thích uống Latte đá. Phương Sâm Đề: nhân vật chính, nam cung Sư Tử, hai mươi tuổi, ngoại hình bình thường, hơi cao, dáng người tiểu chuẩn, tóc đen cắt ngắn, cách nói chuyện hài hước, thường hay tấu hài, từ nhỏ đã có năng khiếu lãnh đạo, rất giỏi trong việc giao tiếp với người khác, tính cách mạnh mẽ luôn tự tin vào chính mình. Thuộc phái hành động, một khi nghĩ ra cách giải quyết thích hợp cho chuyện gì sẽ hạ quyết tâm ngay lập tức, không bao giờ do dự. Mong muốn trở thành một giáo viên. Ngô Lặc: nhân vật chính, nam cung Thiên Yết, hai mươi tuổi, dáng người cao gầy, tóc đen, luôn để ngắn, lúc nào cũng đeo một cặp kính dày cộm, khi nói chuyện hay có thói quen đưa tay đẩy gọng kính để điều chỉnh lại vị trí. Gia đình giàu có, vô cùng thông minh, thành tích học tập và thể thao đều tốt, thuộc loại văn võ song toàn, miệng rất “độc”*, luôn một lời nói thẳng vào trọng tâm. Trong mắt người khác là một người rất lạnh lùng, nhưng khi đã quen biết sẽ nhận ra cậu ta rất quan tâm đến bạn bè. Quyết tâm trở thành một cảnh sát. Thi Khả Đệ: nhân vật chính (nhân vật nữ chính duy nhất), nữ cung Cự Giải, hai mươi tuổi. Dáng người nhỏ nhắn, hơi gầy, tóc đen dài mềm mượt xen lẫn vài sợi màu cà phê, gương mặt xinh đẹp, nước da trắng ngần, thân hình cân đối. Từ trung học đã sang Mỹ, tới đại học mới quay về Đài Loan, cũng chính vì thế nên có xu hướng suy nghĩ theo phong cách Mỹ. Vừa đi làm vừa học, hiện đang làm người dẫn chương trình cho một đài truyền hình địa phương. Có tính cách khá mạnh mẽ, vì quan điểm cá nhân, cách nhìn cuộc sống hoàn toàn trái ngược với Ngô Lặc nên thường hay đấu khẩu. • Nguyên văn: “Nhất châm kiến huyết”, chỉ lời nói thẳng thắn, sắc bén, nói trực tiếp vào vấn đề chính một cách tàn nhẫn. Mời các bạn đón đọc Latte Không Ngọt của tác giả Evon & Grant Zhan (dịch).
Chăn Gối
Chăn Gối - Alberto Moravia Lê Thanh Hoàng Dân, Mai Vi Phúc dịch Trẻ xuất bản năm 1973, Sài Gòn Alberto Moravia , bút danh của Alberto Pincherle , (sinh ngày 28 tháng 11 năm 1907, Rome , Ý - mất ngày 26 tháng 9 năm 1990, tại Rome), nhà báo, nhà văn viết truyện ngắn và tiểu thuyết gia người Ý nổi tiếng với những bức chân dung hư cấu về sự xa lánh xã hội và sự thất tình tình dục . Ông là một nhân vật quan trọng trong văn học Ý thế kỷ 20 . Moravia mắc bệnh lao xương (một dạng viêm tủy xương thường do Mycobacterium tuberculosis gây ra ) khi 8 tuổi, nhưng trong vài năm bị giam trên giường và hai năm trong viện điều dưỡng, anh đã học tiếng Pháp, Đức và Anh; đọc Giovanni Boccaccio , Ludovico Ariosto , William Shakespeare , và Molière; và bắt đầu viết. Moravia từng là nhà báo một thời gian ở Turin và phóng viên nước ngoài ở London. Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của anh ấy ,Glierencei (1929; Thời gian thờ ơ ), là một nghiên cứu thực tế gay gắt về sự bănghoại đạo đức của một người mẹ trung lưu và hai đứa con của cô ấy. Nó đã trở thành một cảm giác. Một số tiểu thuyết quan trọng hơn của ông là Agostino (1944; Hai vị thành niên ); La Romana (1947; Người phụ nữ thành Rome ); La disubbidienza (1948; Bất tuân ); và Il contista (1951; The Conformist ), tất cả đều về chủ đề cô lập và xa lánh. La ciociara (1957;Two Women ) kể về một sự thích nghi với cuộc sống của người Ý sau Thế chiến thứ hai. La noia (1960;The Empty Canvas ) là câu chuyện về một họa sĩ không thể tìm thấy ý nghĩa trong tình yêu hay công việc. Nhiều cuốn sách của Moravia đã được dựng thành phim chuyển động. Những cuốn truyện ngắn của ông bao gồm Racconti romani (1954; Roman Tales ) và Nuovi racconti romani (1959; More Roman Tales ). Racconti di Alberto Moravia (1968) là một tập hợp những câu chuyện trước đó. Các tuyển tập truyện ngắn sau này bao gồm Il paradiso (1970; "Paradise") và Boh (1976; Tiếng nói của biển và những câu chuyện khác ). Hầu hết các tác phẩm của Moravia đều đề cập đến sự khô cằn trong cảm xúc, sự cô lập, và sự thất vọng hiện sinh , đồng thời thể hiện sự vô ích của sự lăng nhăng tình dục hoặc tình yêu vợ chồng như một lối thoát. Các nhà phê bình đã ca ngợi văn phong rõ ràng, không trang điểm của tác giả, khả năng thâm nhập tâm lý, kỹ năng trần thuật và khả năng tạo nhân vật chân thực và đối thoại chân thực của tác giả . Nhận quyền truy cập độc quyền vào nội dung từ Phiên bản đầu tiên năm 1768 của chúng tôi với đăng ký của bạn. Đăng ký ngay hôm nay Quan điểm của Moravia về văn học và chủ nghĩa hiện thực được thể hiện trong một cuốn sách tiểu luận đầy kích thích, L'uomo come fine (1963;Người đàn ông như một kết thúc ), và cuốn tự truyện của anh ấy , Cuộc đời của Alberto Moravia, được xuất bản vào năm 1990. Anh ấy đã kết hôn một thời gian với tiểu thuyết gia Elsa Morante . *** Lê Thanh Hoàng Dân (sinh năm 1937) là một cựu giáo sư, nhà nghiên cứu và dịch giả người Việt Nam. Giáo sư sinh tại Sài Gòn (tên cũ của Thành phố Hồ Chí Minh). Trước năm 1975 ông là giảng viên tại các trường Đại học như Võ Trường Toản (Sài Gòn, từ khi thành lập đến năm 1965), Quốc gia Sư phạm Sài Gòn, Đại học Sư phạm Sài Gòn, Đại học Sư phạm Cần Thơ, Cao Đài, Hòa Hảo. Ông viết một số sách về tâm lý, giáo dục và liên quan đến các bậc học phổ thông. Tủ Sách Văn Học Thế Giới Chăn Gối NXB Trẻ 1973 Alberto Moravia Dịch: Lê Thanh Hoàng Dân, Mai Vi Phúc 196 Trang File PDF-SCAN *** Trước hết tôi cần phải nói ngay về vợ tôi. Yêu có nghĩa là, giữa bao nhiêu việc khác, tìm kiếm nét khả ái để nhìn ngắm và xét đoán người mình yêu. Và tìm kiếm nét khả ái không chỉ trong sự chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nàng, mà còn chiêm ngưỡng những khuyết điểm, dù ít hay nhiều. Ngay từ những ngày đầu của cuộc hôn nhân, tôi đã cảm thấy thích thú được nhìn ngắm Léda (tên nàng), được săm soi khuôn mặt và trọn cả con người nàng trong từng cử động nhỏ nhặt và từng nét mặt thoáng qua. Vợ tôi, ngày tôi cưới nàng, chỉ vừa hơn ba mươi tuổi. (Kể từ ngày đó và sau khi cho ra đời ba đứa con, một vài đường nét của nàng, tôi sẽ không nói là đã thay đổi, nhưng có biến đổi phần nào.) Tác người khá cao dù không thực sự cao lắm, trông nàng xinh đẹp, với một thân hình và một khuôn mặt khá hoàn mỹ. Khuôn mặt nàng dài và mỏng, có cái vẻ lẩn tránh, ngơ ngác, gần như khó dò được tình ý, mà một đôi khi những nữ thần cổ điển khoác lấy trong một vài bức tranh xưa cũ tầm thường, mà nét sơn phơn phớt bị sự meo mốc của thời gian khiến càng thêm phần mơ hồ. Cái vẻ độc đáo, vẻ đẹp khó nhận ra được nầy, tựa như một tia nắng phản chiếu lên một bức tường, hay một bóng mây trên mặt biển, mỗi lúc có thể mờ xóa đi, chắc hẳn là do mái tóc vàng màu kim khí, lúc nào cũng hơi rối, và những lọn tóc dài gợi lên nét vời vợi của niềm sợ hãi, sự trốn chạy, kể cả nét vời vợi của đôi mắt xanh lơ, bát ngát, hơi xếch lên, với con ngươi nở lớn và cái nhìn khép nép và phân vân, đã gợi lên, giống như mái tóc, một tâm trạng sợ sệt và bất chợt. Nàng có một sống mũi dài, thẳng và thanh tú, và một cái miệng rộng đỏ tươi, môi dưới viền rộng một cái cằm quá nhỏ, và nét môi quanh queo vô cùng gợi lên một nhục cảm đắm đuối và ám muội. Đó là một khuôn mặt không đều đặn và thế nhưng lại rất đẹp, một vẻ đẹp, như tôi đã nói, khó dò xét được tình ý, một vẻ đẹp mà trong một vài lúc nào đó và một vài trường hợp nào đó – như người ta sẽ thấy về sau – trở thành tiêu tán dần dần. Thân mình của nàng cũng giống như vậy. Nàng có một thân trên gầy ốm và thanh nhã của một cô gái, trái lại cái khối lượng, vẻ kiên cố, sự nở lớn của hông, bụng và hai chân để lộ ra một sức vạm vỡ và khêu gợi. Nhưng sự không tương xứng đó, giống như sự không tương xứng của khuôn mặt, biến mất dưới nét duyên dáng của một vẻ đẹp đã vây bọc lấy nàng từ đầu tới chân bằng một sự hoàn mỹ, giống như một điệu nhạc quen thuộc và thanh tao hay một ánh sáng đổi màu một cách huyền bí. Nói ra có vẻ lạ lùng, nhưng một đôi khi, nhìn nàng, tôi đâm ra nghĩ về nàng như nghĩ về một người với những đường nét và hình thể cổ điển, không khuyết điểm, hòa hợp nhịp nhàng, thanh tỉnh, cân đối. Tới mức cái vẻ đẹp đó, hãy gọi là vẻ đẹp tinh thần, vì không có một cách gọi nào khác, làm cho phấn khởi. Nhưng có lúc vẻ rực rỡ nầy bị rách đi và lúc đó tôi mới nhận thấy có nhiều sự thiếu đều đặn, vừa chứng kiến sự thay hình đổi dạng khổ sở của người nàng. Tôi khám phá ra được điều đó trong những ngày đầu tiên của cuộc hôn nhân và trong một giây lát tôi có cảm tưởng đã bị lừa gạt giống như một người lấy vợ vì quyền lợi nhưng hôm sau khám phá ra rằng của hồi môn của vợ quá nghèo nàn. Quả thực, một vẻ cau mày nhăn nhó và không thành lời, như để nói lên nỗi sợ hãi, niềm lo âu, sự ghê tởm và đồng thời một vẻ quyến rũ hững hờ một đôi khi làm cho khuôn mặt vợ tôi nhăn lại. Vẻ nhăn nhó đó có thể nói là nó đã làm nổi bẩn lên một cách mạnh mẽ sự không đều đặn tự nhiên giữa các đường nét, và tạo cho diện mạo của nàng cái vẻ gớm guốc của một mặt nạ quái dị trong đó những đường nét có thể bị thêm thắn tới mức trở thành một bức hoạt họa, bởi một trò khôi hài đặc biệt, khiếm nhã vừa khó chịu: nhất là cái miệng, kế tới hai lằn nhăn viền quanh nó và hai lỗ mũi và con mắt. Vợ tôi thoa rất dày trên môi một màu son đỏ chói, ngoài ra, vì nước da tái, nàng đánh phấn hai bên má. Khi vẻ mặt bình thản, những màu sắc nhân tạo đó không dễ nhận ra và chúng hòa hợp vối màu mắt, tóc và da nàng. Nhưng khi nàng nhăn nhó, chúng đột nhiên có vẻ sống sượng và lộ liễu, thế rồi trọn cả khuôn mặt, một phút trước đây rất đỗi thanh tỉnh, sáng láng và đẹp một cách cổ điển, giờ đây gợi lên những đường nét quái dị và bốc lửa của những mặt nạ vào dịp giả trang ngày lễ Carême, cộng thêm vẻ tục tĩu khó tỉa mà người ta có thể gọi, trong những lúc co giựt như vậy, đó là sự yểu điệu, mức nồng nhiệt và kích thích của xác thịt. Và thân mình của nàng, cũng giống như khuôn mặt, có riêng cho nó một cách thức khinh thường sức quyến rũ của vẻ đẹp để vặn vẹo một cách khó coi. Nàng co rúm người lại trong một cử động sợ sệt và ghê tởm, nhưng đồng thời, giống như một vài vũ công và diễn viên câm đã làm để khích động khán giả, nàng duỗi chân và tay trong một tư thế tự vệ và kháng cự, kế đó thân mình của nàng uốn thành cánh cung như để mời gọi hay khêu gợi. Lúc đó nàng có vẻ như lấy tay gạt tránh một mối hiểm nguy tưởng tượng, nhưng đồng thời sự co rúm kịch liệt của hai bên hông hình như chứng tỏ rằng mối hiểm nguy đó và sự tấn công đó không làm cho nàng khó chịu. Tư thế trông chướng mắt và, một đôi khi càng chướng thêm vì vẻ mặt nhăn nhó, khiến có lúc, người ta nghi gờ rằng nó thuộc về cùng một người mới đây rất đỗi giữ gìn, rất đỗi thanh tĩnh và đẹp khôn tả. Tôi đã nói yêu có nghĩa là âu yếm những nét xấu nơi đối tượng tình yêu của mình, nếu có cũng bằng như những vẻ đẹp. Những vẻ nhăn nhó, những sự co rúm đó, mặc dầu khá vô duyên, đối với tôi, cũng thân thiết mau chóng không kém gì nét duyên dáng, sự cân đối và vẻ thanh tĩnh của những lúc thơ mộng nhất. Nhưng yêu còn có nghĩa là không hiểu thấu, vì, nếu quả thực có một mãnh lực yêu thương bao hàm sự thông cảm thì đồng thời cũng có một mãnh lực khác, mê đắm hơn, khiến bạn trở thành mù quáng trước người mình yêu. Mù quáng thì tôi không có, nhưng tôi thiếu sự sáng suốt tinh thần của một tình yêu chịu nhiều thử thách và lâu đời. Tôi biết rằng trong một vài trường hợp vợ tôi trở thành xấu xí, điều đó đối với tôi như có vẻ quái gở nhưng lại dễ thương, giống như tất cả những gì liên hệ tới nàng, và tôi không muốn, cũng như không biết phải làm thế nào vượt quá nhận xét đó. Ngoài ra tôi còn phải nói rằng những chứng giựt gân đó xảy ra rất ít, và không bao giờ vào những lúc chúng tôi gần gũi nhau. Tôi không nhớ có một lời nào, một cử chỉ nào của tôi đã gây ra nơi nàng sự biến đổi lạ lùng đó của khuôn mặt trở thành mặt nạ và thân mình trở nên con vật múa rối. Trái lại, chính trong những lúc chăn gối nàng mới có vẻ như đạt tới cực điểm của vẻ đẹp huyền hoặc và không tả xiết của nàng. Lúc đó nơi con ngươi nở lớn của cặp mắt to lớn của nàng có một lời kêu gọi từ tốn, dịu dàng, nhu mì, nhiều ý tứ hơn mọi lời nói. Miệng nàng có vẻ như bày tỏ, qua vẻ gợi dục và nét quanh quẹo của đôi môi, một lòng nhân từ hay thay đổi và thông minh và nguyên cả khuôn mặt của nàng tiếp nhận những cái nhìn của tôi giống như một tấm kiếng huyền bí và khiến yên tâm, nơi mà những sợi tóc rối màu vàng bắt hình dùng ra một cái khung tương xứng với tấm kiểng. Thân hình tự nó như cố định trong hình dáng đẹp nhất của nàng, nằm sóng sượng một cách vô tội và uể oải, rũ rượi và trơ trơ, giống như một miền đất hứa trả rộng vài ối ra tận chân trời xa thẳm, với những cánh đồng, những dòng sông, những ngọn đồi và thung lũng dưới những cái nhìn đầu tiên. Trái lại, vẻ nhăn nhó và dám co rúm hiện ra trong những trường hợp bất ngời và vô lối nhất; tôi chỉ cần nhắc lại một vài trường hợp. Vợ tôi luôn là một độc giả say mê loại tiểu thuyết trinh thám. Nơi những đoạn mà tình tiết chắc hẳn trở nên hấp dẫn và hồi hộp hơn đoạn trước, tôi đã để ý thấy vẻ mặt của nàng dần dần trở nên khó coi dưới vẻ nhăn nhó và vẻ mặt này không biến mất trước khi chấm dứt cái đoạn đã kích thích nàng. Mặt khác, vợ tôi là một con bạc. Tôi cùng đi với nàng tới Campione, Monte-Carlo, San Remo. Không một lần nào, khi đặt tiền xong và khi bánh xe quay tròn, làm quả cầu nhỏ nhảy trên các con số, vẻ nhăn nhó làm cho xấu xí lại không biến khuôn mặt của nàng. Cuối cùng đôi khi chỉ cần nàng xỏ kim, hay trông thấy một đứa trẻ chạy dọc theo một miệng hố, có thể rớt xuống đó, hay chỉ cần nàng nhận phải một giọt nước lạnh trên ót là cử động co rúm đó vồ lấy nàng. Tuy nhiên, để xét cho tận tường sự việc, tôi muốn đề cập tới hai trường hợp mà sự biến đổi độc đáo của vợ tôi hình như, theo tôi, có những nguyên nhân phức tạp hơn. Một hôm, ở tại miền quê, trong khu vườn của biệt thự chúng tôi đang ở, tôi cố gắng nhổ một cây cỏ mọc lan, rễ già và cao nghệu, giống như một cây con đã mọc ngay chính giữa sân trước nhà, không hiểu bằng cách nào. Công việc không phải dễ dàng, vì cây cỏ xanh và ướt trơn tuột giữa hai bàn tay tôi và ngoài ra rễ của nó như đã ăn rất sâu dưới đất. Mải lo nhổ cây cỏ, ,tôi không hiểu tại sao tôi lại ngước mắt nhìn vợ tôi, và tôi đã sửng sốt trông thấy khuôn mặt và thân hình của nàng bị biến đổi hoàn toàn bởi sự co rúm dị thường chỉ riêng có nơi nàng. Cùng lúc đó cây cỏ bị sức nặng của tôi nhổ lên, đã bứng rễ và còn dính với lớp đất bằng một cái rễ dày và dài, và tôi té ngửa ra phía sau, may thôi đầu tôi đập lên mặt xi-măng trải quanh biệt thự. Một lần khác chúng tôi mời vài người bạn tới dùng cơm tối tại nhà chúng tôi ở La mã. Trước khi khách tới, vợ tôi bận áo tiệc, đánh phấn thoa son và đeo nữ trang, muốn đi xem qua một vòng nơi nhà bếp để coi mọi sự được như ý không. Tôi đi theo nàng. Chúng tôi trông thấy chị bép đang kinh hoảng lên vì con tôm hùm, một con vật to lớn với hai càng dữ tợn và còn thoi thóp, chị ta không dám bắt nó và quăng vô chảo. Một cách rất giản tiện, vợ tôi bước gần bàn, nắm lấy cái lưng con tôm hùm và nhúng nó vô nước sôi. Để làm việc đó, nàng phải đứng cách xa cái lò cũng như con tôm, thì cũng được đi. Nhưng sự thận trọng đó chỉ cắt nghĩa một phần nào thôi vẻ nhăn nhó của khuôn mặt, xấu và thô, và cử động của thân mình, trong một lúc, làm uốn éo một cách khêu gợi hai bên hông dưới lớp tơ sáng chói của áo tiệc. Tôi tưởng tượng rằng nhiều lần, và trong những trường hợp khác nhau, vợ tôi đã phải nhiều phen trải qua sự giựt gân co rúm đó. Dù sao cũng có một vài sự kiện vẫn còn xác thực: không khi nào khuôn mặt và thân mình của nàng lại co giựt trong khi ân ái. Ngoài ra, những lần co giựt đó bao giờ cũng tiếp theo bằng một sự im lặng âm thầm, lơ lửng, giống với tiếng kêu được nén lại hơn là một sự câm nín hoàn toàn. Cuối cùng, những lần co giựt đó bao giờ cũng hình như phát sanh nỗi lo sợ một biến cố bất ngờ, đột ngột, sấm sét. Một nỗi lo sợ, như tôi đã nói, pha trộn đầy nét quyến rũ. Mời các bạn đón đọc Chăn Gối của tác giả Alberto Moravia.