Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thiên Đường Tiền Xu Tập 3

Thiên đường Tiền xu có đối thủ cạnh tranh! Đó là điều chẳng ai ngờ tới, bởi bánh kẹo nơi đây mang sức mạnh thay đổi cả vận mệnh người sở hữu chúng. Nhưng Cửa hiệu Tai ương đã xuất hiện. Ma thuật hay không thì bánh kẹo ở đây cũng không hề kém cạnh. Chỉ có điều, trong khi bánh kẹo Thiên đường tiền xu đưa đường chỉ lối con người ta đến những gì tươi sáng, thì các món hàng của Cửa hiệu tai ương lại có thể khơi dậy những mảng tối sâu nhất trong tâm hồn mỗi người. Để rồi, một cuộc đấu kẹo vô cùng ly kỳ  bắt đầu, mở ra một thế giới ngỡ chỉ có trong mơ, ma mị và lôi cuốn ta tới tận trang cuối. *** Hiroshima Reiko, sinh tại tỉnh Kanagawa, Nhật Bản và là một tác giả sách thiếu nhi lừng danh. Năm 2005, bà đoạt giải Juniorboukenshousetsu với tác phẩm Suiyou no mori. Bà cũng là tác giả của vô số các tác phẩm văn học thiếu nhi, kỳ ảo nổi tiếng khác. jyajya, sinh tại Fukuoka, từng làm nhân viên cho một công ty phát triển các ứng dụng trên điện thoại. Năm 2011, jyajya bắt đầu ra làm thiết kế tự do và hiện đã lấn sân sang cả lĩnh vực vẽ minh họa. *** BÁNH XỐP CÓ NHÂN ĂN GIẤC MƠ Nobutaka đang ngồi trên xe buýt để tới bệnh viện. Ngay khi vừa nhận được điện thoại báo Marie phải nhập viện, Nobutaka liền phi ngay ra khỏi văn phòng. Nhưng giờ, cả khi đang tới chỗ con gái, lòng anh vẫn lo lắng khôn nguôi. Đối với Nobutaka, cô con gái Marie vừa tròn bốn tuổi là bảo bối không gì sánh nổi. Cô con gái rượu đáng yêu vô ngần của anh. Nhưng vài tuần nay, đêm nào Marie cũng bị những cơn ác mộng khủng khiếp hành hạ. Trong mơ, con bé bị những thứ đáng sợ rượt đuổi, bị ăn thịt, bị giày xéo. Đến bây giờ thì Marie vô cùng khiếp sợ mỗi khi phải đi ngủ. Nếu có ngủ con bé cũng lập tức hét lên rồi choàng dậy ngay. Sắc mặt Marie ngày một xanh xao, con bé gầy xọp cả đi. Lần này nhập viện chắc chắn cũng do thiếu ngủ. Nobutaka xót con lắm. Giá mà anh có thể chịu thay con thì tốt biết bao. Mà tại sao con bé lại suốt ngày gặp ác mộng vậy nhỉ? Đúng là sống trên đòi ai cũng một hai lần mơ thấy ác mộng, nhưng mơ thấy ác mộng hằng đêm như Marie thì kỳ lạ quá. Nghĩ thế nào cũng thấy lạ. Con bé chưa từng trải qua chuyện gì đáng sợ, anh cũng chưa cho con xem phim kinh dị bao giờ. Rốt cuộc là vì sao? Vì lo cho con gái mà gần đây Nobutaka không thể tập trung vào công việc. Hôm nay anh cũng phạm lỗi và bị sếp mắng. Phải làm gì đó thôi. Nhưng làm gì mới được chứ? Đúng lúc Nobutaka đang đăm chiêu suy nghĩ thì có ai đó tới bắt chuyện với anh. “Hình như anh đang gặp chuyện gì đó phiền lòng?” Nobutaka quay lại thì thấy ngồi ở ghế sau là một người phụ nữ vô cùng to lớn vận kimono. Mái tóc người này trắng muốt nhưng khuôn mặt lại trẻ trung, người phụ nữ vừa nở một nụ cười kỳ lạ vừa nhìn Nobutaka. Nobutaka giật mình. Chuyện gì thế này? Sao anh cứ có cảm giác như mình đang bị áp chế vậy. Người phụ nữ lại nhoẻn miệng cười tươi hơn nữa “Liệu anh có muốn hóa giải nỗi muộn phiền đó không? Nếu được hay là ghé cửa tiệm của ta đi? Sao, không tốn nhiều thời gian đến vậy đâu. Của tiệm của ta ở ngay bến xe buýt tiếp theo thôi.” “Khô... không, tôi đang đi tới bệnh viện...” Người phụ nữ nhìn Nobutaka chằm chằm. Nobutaka cảm thấy đầu óc trống trơn. Đến khi nhận ra anh đã thấy minh xuống xe mất rồi. Cứ vậy Nobutaka đi theo người phụ nữ vào một con đường nhỏ và tối. Ớ đó có một tiệm bánh kẹo nhỏ. Những món bánh kẹo bày la liệt, sáng lấp lánh. Hẳn Marie sẽ thích chúng lắm đây. Người phụ nữ quay người lại. “Chào mừng đến với Thiên đường tiền xu, vị khách may mắn của ta. Vậy quý khách đang phiền muộn vi điều gì thế? Dù là chuyện gì xin cứ nói với chủ tiệm Beniko ta đây.” Nobutaka chợt nghĩ. Không biết chừng ở đây lại có thứ mình muốn ấy chứ? “Có thứ gì xua đuổi được những cơn ác mộng không ạ?” Nobutaka rụt rè hỏi thử, vậy mà bà chủ tiệm gật đầu rõ mạnh. “Thế thì Bánh xốp có nhân ăn giấc mơ là hợp nhất rồi.” Nói đoạn, bà chủ tiệm lấy một chiếc bánh xốp từ cái thùng đặt trong góc ra. Chiếc bánh có hình đồng tiền cổ, trông vô cùng ngon mắt. Trên một mặt bánh màu nâu vàng còn có cả hình con thú kỳ dị. Con thú bốn chân hình thù thì giống chó lai sư tử đá gác cổng đền, nhưng mũi lại dài như mũi voi và còn có cả bờm sư tử nữa. “Đây là Bánh xốp có nhân ăn giấc mơ chứa đựng linh lực của thần thú Baku chuyên ăn ác mộng. Chỉ cần ăn bánh này vào, giấc mơ có đáng sợ hay tồi tệ cách mấy cũng sẽ bị đuổi đi hết.” Nobutaka nín thở. Là nó! Nó chính là thứ mình, à không, Marie cần lúc này! “Tôi, tôi mua!” Dù nó có giá một triệu yên mình cũng mua! Nobutaka dứt khoát lôi ví ra khỏi cặp, làm tấm ảnh Marie phất phơ rơi xuống. Bà chủ tiệm nhặt tấm ảnh lên. “Ôi chà, cô bé dễ thương làm sao.” “Cảm ơn chị. Con gái tôi đấy. Con bé vừa tròn bốn tuổi.” “Ồ, ra là vậy. Đúng độ tuổi đáng yêu nhất đấy nhỉ... Nhưng mà đáng thương thay...” “Chị nói vậy là ý gì?” “Cô bé đang bị nguyền rủa đấy.” “Sao cơ!” Nobutaka suýt nữa thì hét toáng lên “Tự nhiên chị nói cái quái gì vậy?” Song ngay khi nhìn thấy khuôn mặt bà chủ tiệm, anh chẳng cất nên lời nữa. Nobutaka chợt hiểu ra. Rằng bà chủ tiệm đang nói sự thật. “Chị bảo Marie nhà tôi đang bị nguyền rủa ạ?” “Đúng vậy. Nhìn bức ảnh này ta thấy có tà khí... Người hay gặp phải những giấc mơ đáng sợ có phải là cô bé này chăng?” “Vâng, đúng vậy. Gần đây bỗng nhiên con bé thường xuyên gặp phải ác mộng. Mà đêm nào cũng vậy mới khổ chứ! Nhưng... nhưng mà bị nguyền thì... Marie mới chỉ bốn tuổi thôi mà? Sao lại có kẻ nào ghét con bé đến thế được!” “Những oán hận, căm ghét của con người có thể trỗi dậy từ những chuyện khôn lường, gây hại cho người không ngờ tới đấy.” Giọng bà chủ tiệm nhẹ bẫng. “Với những kẻ đi nguyền rủa người khác, đối phương có là trẻ con hay không cũng chẳng có nghĩa gì đâu... Hừm, lời nguyền này không phải do kẹo của tiệm ta. Có lẽ là Bánh nướng búp bê nguyền rủa của Cửa hiệu tai ương, hoặc là...” Bà chủ tiệm bắt đầu lẩm bẩm nói chuyện một mình, song Nobutaka đã không còn nghe thấy gì nữa. Cơn giận trong anh đang dâng lên cuồn cuộn. Đứa nào! Đứa nào đã làm chuyện này! Lại dám nguyền rủa Marie của tao, không thể tha thứ được! Tao sẽ trả thù! Tao sẽ tìm ra mày rồi cho mày mất xác luôn! Nobutaka siết chặt nắm đấm. Ô, bà chủ tiệm lên tiếng vẻ thích thú. “Chuyện này hiếm đây. Có vẻ như quý khách đã có một mong ước mới nhỉ. Một ước muốn mạnh mẽ không hề thua kém ước muốn ban đầu... Giờ quý khách muốn trả thù sao?” “Dĩ, dĩ nhiên rồi ạ!” “...Ta cũng có thể giúp quý khách cả việc đó nữa đấy.” Bà chủ tiệm khẽ nói, đoạn lấy từ chiếc tủ lạnh nhỏ trong góc tiệm ra một chai thủy tinh. Cái chai trông giống chai nước soda chanh, bên trong sóng sánh thứ chất lỏng màu vàng. Bà chủ tiệm lắc nhẹ, trong chai liền nổi lên những bọt đỏ nhìn y như lửa cháy vậy. “Đây là Nước gừng có ga phục thù. Thứ đồ uống này sẽ giúp quý khách tìm ra kẻ đã tấn công mình và trả đũa lại hắn. Dĩ nhiên ta đảm bảo nó sẽ có tác dụng. Uống thứ này nhất định ước muốn của quý khách sẽ thành hiện thực.” Mắt Nobutaka sáng rực lên trước những lời thì thầm của bà chủ tiệm. Có thứ này rồi mình sẽ bắt kẻ đã làm Marie khổ sở phải trả giá! Dĩ nhiên anh phải mua cả món này rồi. Thế nhưng khi Nobutaka định vươn tay ra với lấy cái chai thì bà chủ tiệm lại bất ngờ nói. “Như vậy là quý khách chọn mua Nước gừng có ga phục thù chứ không phải Bánh xốp có nhân ăn giấc mơ đúng không?” “Hả?” Nobutaka chớp mắt lia lịa. Anh chẳng hiểu gì cả. Bà chủ tiệm chậm rãi nói tiếp. “Tiệm ta không bán hai món hàng cùng một lúc. Quý khách chỉ có thể chọn một trong hai, Nước gừng có ga phục thù hoặc Bánh xốp có nhân ăn giấc mơ thôi.” “Chuyện, chuyện này...” Nobutaka cuống lên. Anh thử nài nỉ xem có cách nào mua cả hai thứ không nhưng bà chủ tiệm dứt khoát từ chối. Nobutaka rên rỉ nhìn hai món đồ trước mắt. Nước gừng có ga phục thù và Bánh xốp có nhân án giấc mơ, mình buộc phải chọn một trong hai sao? Nước gừng có ga phục thù khiến Nobutaka không cưỡng lại được. Anh không thể kìm được ý nghĩ hung bạo muốn trả thù kẻ đã nguyền rủa Marie. Chỉ cần có Nước gừng có ga phục thù này, ước muốn đó sẽ thành hiện thực. Vậy nhưng... Nobutaka cố nén lòng căm hận, nhìn về phía Bánh xốp có nhân ăn giấc mơ. Thứ Marie cần là Bánh xốp có nhân ăn giấc mơ. Nước gừng có ga phục thù có thể thay mình trừng trị kẻ đã nguyền rủa Marie, nhưng chưa chắc đã giúp con bé hết gặp ác mộng. Phải mua Bánh xốp có nhân ăn giấc mơ thôi. Cuối cùng Nobutaka cũng hạ quyết tâm. “Cho tôi Bánh xốp có nhân ăn giấc mơ.” “Vâng. Nó có giá năm mươi yên. Xin hãy trả bằng đúng đồng năm mươi yên.” Nobutaka nhìn vào chiếc ví đựng tiền xu. Vừa hay chỉ còn sót lại đúng một đồng năm mươi yên, anh liền đưa nó cho bà chủ tiệm. “Đúng là đồng xu của ngày hôm nay rồi, đồng năm mươi yên năm Chiêu Hòa thứ sáu mươi. Ta xin nhận. Bánh này giờ là của quý khách.” Bà chủ tiệm gói món Bánh xốp có nhân ăn giấc mơ vào tờ giấy màu hoa anh đào tuyệt đẹp rồi đưa nó cho Nobutaka. Sau khi Nobutaka cẩn thận cất chiếc bánh xốp vào trong cặp, bà chủ tiệm liền nói. “Quý khách vẫn còn lưỡng lự gì chăng?” “Sao cơ ạ?” “Có phải quý khách vẫn hơi lăn tăn, lẽ ra mình nên chọn Nước gừng có ga phục thù thì hơn?” Bị nói trúng tim đen rồi. Bà chủ tiệm mỉm cười với Nobutaka đang đỏ bừng mặt. “Lời nguyền hoặc bùa chú một khi bị phá giải sẽ yểm lại chính chủ nhân của nó. Kẹo của tiệm ta nhất định sẽ phá giải được lời nguyền yểm lên con gái quý khách. Sau đó chuyện thế nào. Chắc quý khách cũng hiểu rồi chứ. “Ồ!” “Bánh xốp có nhân ăn giấc mơ là một sự lựa chọn đúng đắn rồi. Cảm ơn quý khách đã mua hàng ở tiệm ta.” Bà chủ tiệm vừa cúi đầu, nơi ấy chợt tối om. Rầm. Sau một cơn rung lắc nhẹ, Nobutaka tỉnh lại. Rồi anh giật mình. Thế nào mà anh lại đang ở trên xe buýt rồi. Vội nhìn ra ngoài cửa sổ, bệnh viện nơi Marie nhập viện đã ở trong tầm mắt. Vậy vừa rồi là mơ chăng. Tuy hơi thất vọng nhưng Nobutaka vẫn mở cặp ra xem thử. Song lần lày anh thật sự nhảy dựng lên. Trong cặp anh vẫn có gói nhỏ bọc giấy màu hoa anh đào. Đúng là Bánh xốp có nhân ăn giấc mơ rồi! Đó không phải là mơ! Vừa tới điểm dừng trước bệnh viện, Nobutaka liền phi xuống xe, phóng như bay tới phòng bệnh. Marie đang nằm rũ ra trên giường. Trông con bé còn tệ hơn cả sáng nay. Mắt con bé thâm tím lại, mặt thỉ trắng bệch như tờ giấy. Vợ anh, Sayomi đang ngồi bên cạnh dỗ dành con bé ngủ, song con bé mếu máo mà rằng “Con sợ ngủ lắm”. Nhìn thấy cảnh đó Nobutaka chỉ chực khóc. Song anh cố nặn ra một nụ cười rồi tới bên Marie. Vừa thấy Nobutaka, Marie liền tươi tỉnh hẳn lên. “Bố!” “Anh tới đấy à?” Sayomi cũng cất giọng như thể đã nhẹ nhõm được đôi phần. “Ừ, phải đến chứ. Marie, con ổn không?” “Ổn sao được! Họ tiêm con bé hai lần rồi đấy!” “Thế à, khổ thân con tôi quá. Nhưng không sao, bố mua bánh đến đây rồi. Một loại bánh vô cùng đặc biệt chỉ dành riêng cho Marie. Con ăn cái này rồi nhất định sẽ không gặp phải những giấc mơ đáng sự nữa.” “Bố nói dối.” “Thật đấy, bố hứa... Con cứ ăn thủ mà xem?” “... Vâng.” Nobutaka đưa Bánh xốp có nhân ăn giấc mơ cho Marie. Vừa cắn một miếng, mắt Marie đã sáng lên. “Ngon quá!” “Vậy hả. Tốt rồi. Của Marie cả đấy, con ăn hết đi.” “Cảm ơn bố ạ.” Marie nhồm nhoàm đầy một miệng bánh xốp, nức nở khen ngon quá, ngon quá. Lâu lắm rồi con bé mới lại ăn ngon miệng thế này... Nhìn bộ dạng ấy của cô con gái, Sayomi cũng phải tròn mắt. “Bánh gì... vậy mình?” “Bánh có phép thuật đấy. Nó chỉ dành riêng cho Marie thôi.” Marie nhanh chóng chén sạch cái bánh xốp. Thế rồi mắt con bé bắt đầu lờ đờ, chẳng mấy chốc đã nghe thấy cả tiếng ngáy khe khẽ. Cả Nobutaka và Sayomi đều nín thở nhìn con gái. Liệu con bé ngủ được bao lâu sẽ lại hét toáng lên, choàng dậy đây? Bao lâu nữa con bé sẽ lại vừa khóc vừa kêu la? Thế nhưng hai vợ chồng Nobutaka đợi mãi cũng không thấy động tĩnh gì cả. Marie vẫn ngủ ngon lành. Thỉnh thoảng con bé còn cười khúc khích, hẳn là đang mơ gì vui lắm. Sayomi bật khóc, nắm chặt lấy tay Nobutaka. “Con bé ngủ rồi! Marie đang ngủ kìa... Đúng là chiếc bánh có phép thuật sao? Chuyện này là thế nào vậy? Sao anh có được thừ đó?” “Anh mua đấy. Trả tiền hẳn hoi.” Nobutaka bảo với Sayomi sẽ kể đầu đuôi câu chuyện cho cô sau, rồi lại hướng mắt về phía Marie đang ngủ. Bây giờ anh chỉ muốn ngắm nhìn gương mặt say ngủ đó thôi. Marie được xuất viện ngay hôm sau. Nhờ ngủ được đẫy giấc nên má con bé đã hồng hào trở lại, quầng thâm dưới mắt cũng biến mất sạch. Chẳng những thế hình như con bé còn có một giấc mơ tuyệt vời lắm. Marie hào hứng kể cho Nobutaka. “Con được cưỡi lên một bạn thú hiền ơi là hiền rồi cùng bay trên trời đêm đấy! Bạn thú lạ lắm nhé! Bạn ấy có chiếc mũi như mũi voi nhưng lại không phải là voi, thân mình đầy lông màu vàng mềm mại lắm!” “Vậy sao. Giấc mơ tuyệt vời quá con nhỉ.” “Vâng! Thích lắm ạ! Bạn thú còn bảo từ giờ trở đi sẽ thường xuyên tới chơi với Marie trong mơ và bảo vệ Marie nữa cơ. Bạn ấy hứa vậy đấy!” Trước nụ cười của con gái, Nobutaka vừa vui mừng vừa nhẹ nhõm, cả người cả tim đều như muốn tan ra. Mọi chuyện chắc ổn cả rồi. Nobutaka yên tâm đi tới công ty. Anh vừa bước vào văn phòng, đồng nghiệp đã liên tục hỏi thăm. “A, anh Yokote. Hôm qua có chuyện gì thế?” “Con gái anh không sao chứ?” Mời các bạn đón đọc Thiên Đường Tiền Xu Tập 1 của tác giả Hiroshima Reiko.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Du Hành Cùng Herodotus - Ryszard Kapuściński
Bạn có thể đọc vội, lướt qua, nhảy cóc hay bỏ đoạn một cuốn sách nào đó, nhưng xin đừng làm vậy với Du hành cùng Herodotus. Bởi như vậy, nghĩa là bạn đã tự khép lại trước mắt mình một cánh cửa độc đáo mở ra thế giới, đã rút ngắn một con đường mà kẻ ham hiểu biết cần đi, đã góp phần lãng quên một sử gia cần được hồi sinh, và nhất là, đã tự dập tắt khao khát bản năng và cháy bỏng trong mỗi con người: khao khát được xê dịch và khám phá! Nước Ba Lan xã hội chủ nghĩa những năm 1950, nghèo nàn và phong bế, phóng viên trẻ Kapuscinski chỉ có một ao ước duy nhất: được bước sang bên kia biên giới. Và khao khát ấy đột ngột trở thành hiện thực khi một năm sau, Kapuscinski được tổng biên tập cử đi công cán tại Ấn Độ, quà tặng lên đường không gì khác là tập Sử ký của Herodotus. Mang theo cuốn sách của người cha của lịch sử, niềm hứng khởi vô bờ trong tim và khuôn mặt ngơ ngác của kẻ lần đầu bước ra thế giới, Kapuscinski bắt đầu cuộc hành trình kép của mình. Một bên là những miền đất trải dài theo đường kinh độ và vĩ độ, sông ngòi và thác lũ, biển cả và núi non, còn bên kia là con đường qua từng trang sách để tìm lại dấu chân một trong những triết gia vĩ đại trong lịch sử nhân loại: Herodotus. Nếu bạn là người thích nối liền hai khoảng thời gian quá khứ và hiện tại, hãy theo con đường thứ hai, nơi Kapuscinski, bằng niềm ngưỡng vọng dành cho bậc triết nhân từ nhiều thế kỷ trước, đã nêu lên những câu hỏi, phỏng đoán và suy ngẫm về cuộc đời, thân thế, triết thuyết của Herodotus. Còn nếu bạn là người thích nối liền những khoảng cách không gian, hãy khoác ba lô lên và đồng hành cùng Kapuscinski trên con đường lầm bụi thứ nhất. Đó là Italy nhìn từ trên cao như một dòng sông ánh sáng, và duyên dáng với những piazza lúc lại gần, là Ấn Độ với đoàn người áo trắng lặng lẽ hành hương về sông Hằng thiêng, nơi những bè hỏa táng đang cháy rực trong đêm tối, là Bắc Kinh nghiêm cẩn xa lạ, khác với vẻ hào hoa cổ kính của đất Thượng Hải kề bên. Và cái nóng như tắm lửa buổi ban ngày và rét thấu xương của sa mạc đêm khiến bạn không thể quên Ai Cập. Có hai điểm nổi bật trong cách tiếp cận và khám phá một vùng đất mới của Kapuscinski, đó là: tiếp cận đối tượng từ góc độ thời sự và văn hóa. Bằng lối trần thuật tỉ mỉ, khách quan không khí, nếp sống, những bất ổn chính trị, Kapuscinski đã truyền cho người đọc hơi thở mỗi vùng đất ông qua. Algiers đang trong tâm bão của cuộc đảo chính những ngày Kapuscinski tới, im lặng và căng thẳng! Ngọn lửa nồng nhiệt của ông hoàng nhạc jazz Louis Amstrong không đủ làm loãng không khí nghi kỵ đặc quánh tại Ai Cập, và chế độ đẳng cấp tồn tại nghìn năm ở Ấn Độ, hiện lên sinh động hơn qua chân dung những người kéo xe, hầu phòng khách sạn hay đuổi ruồi đời con nối tiếp đời cha trong dinh thự lãnh chúa. Chuyển tải một cách trung thực những sự kiện trên trong hoàn cảnh khó khăn và nguy hiểm, Kapuscinski xứng đáng được tôn vinh trong vai trò của một thông tín viên quốc tế. Và giúp người đọc nhìn nhận mỗi vùng đất từ khía cạnh khác: khía cạnh văn hóa, Kaspuncinski xứng đáng được tôn vinh trong vai trò một nhà văn hóa. Hơn nửa thế kỷ trước, con người của xê dịch và du hành ấy đã nhìn thấy bên cạnh một Châu Phi bạo động bất ổn, là một Châu Phi của bản sắc văn hóa, với những diễn viên đường phố, những điệu nhảy cuồng nhiệt cùng hàng nghìn mặt nạ độc đáo góp phần tạo nên một thế giới bí ẩn và khác biệt. Những dòng so sánh sắc sảo, thú vị và hóm hỉnh giữa Ấn Độ và Trung Quốc cũng là điểm đáng dừng lại và đọc kỹ trong cuốn sách “Người Hindu là một cá thể thoải mái, người Trung Quốc- cứng nhắc và cảnh giác. Đám đông người Hindu là không định dạng, trôi nổi và chậm chạp, đám đông người Trung Quốc được xếp thành hàng, trật tự và bước đều bước. Tôi cảm thấy trên đám đông người Trung Quốc có một vị chỉ huy, một người có uy quyền, trái lại trên đám đông người Hindu là hội đồng tối cao các thánh thần không đếm xuể và có phần dễ dãi…”. Cuốn sách có tên là Du hành cùng Herodotus, và chuyến du hành ngược dòng thời gian cùng sử gia Hy Lạp là một trong hai mạch chủ đạo của tác phẩm. Song song với việc tái hiện những điểm chính trong cuốn sử ký của Herodotus, Kapuscinski góp phần làm sống lại một trong những sử gia vĩ đại nhất qua những suy đoán về cuộc đời, cá tính, hành trình chép sử của Herodotus cũng như nhận định về văn phong, cách xử lý tư liệu của sử gia cổ đại này. Ở cuối chuyến đi, Kapuscinski đã tới thăm quê nhà của Herodotus, như một cuộc gặp gỡ sau hơn hai mươi thế kỷ, nhưng mỗi người đọc đều phần nào nhận ra rằng, hai con người này, dường như đã gặp gỡ từ những trang đầu của cuốn sách, bởi những địa điểm họ cùng đặt chân tới, bởi khả năng đi, nhớ, ghi chép, kể lại, và đặc biệt, bởi niềm tin rằng: có thể miêu tả được thế giới này. Những lời sau đây Kapuscinski dành để nói về Horodotus cũng là những gì người đọc muốn dành để nói về Kapuscniski - phóng viên đã góp phần nối liền không chỉ một thế giới: “Cuốn sách của Herodotus hình thành chính là từ những chuyến đi, đó là thiên phóng sự vĩ đại đầu tiên trong nền văn học thế giới. Tác giả của nó có trực giác phóng viên, tai và mắt phóng viên. Ông không biết mệt mỏi, phải vượt biển, băng qua thảo nguyên, đi sâu vào sa mạc- chúng ta trân trọng điều này. Ông làm chúng ta khâm phục vì sự dẻo dai của mình, không bao giờ than vãn mệt mỏi, không gì làm ông ngã lòng, ông chưa một lần nào nói rằng mình sợ hãi điều gì đó. Điều gì đã thôi thúc ông, để ông không mệt mỏi và không sợ hãi dấn thân vào cuộc phiêu lưu vĩ đại của mình? Tôi nghĩ đó là niềm lạc quan mà chúng ta, những con người hiện đại đã đánh mất từ lâu: niềm tin rằng có thể miêu tả được thế giới”. *** Vài nét về Kapuscinski và Herodotus: - Kapuscinski Ryszard Kapuscinski (1932-2007) học lịch sử tại Warsaw rồi làm báo, trở thành phóng viên, chuyên viết về phóng sự nước ngoài, trong khoảng bốn mươi năm phụ trách các khu vực châu Á, châu Phi và Mỹ Latin. Ông rất thành công trong sự nghiệp phóng viên với các tác phẩm về chế độ Shah ở Iran hay các chế độ độc tài. Những cuốn sách nổi tiếng nhất của ông gồm Du hành cùng Herodotus, Imperium, Gỗ mun... - Herodotus Sử gia người Hy Lạp, sống ở thế kỷ thứ năm trước Công nguyên, ông được coi là người cha của môn sử học trong văn hóa phương Tây. Herodotus là nhà sử học đầu tiên sưu tầm tài liệu một cách có hệ thống, tự kiểm chứng độ chính xác và sắp xếp thành những thể truyện sống động, hấp dẫn. Tên tuổi của ông gắn liền với tác phẩm Sử ký - một tài liệu ghi chép những tra cứu về nguồn gốc cuộc chiến tranh Ba Tư - Hy Lạp xảy ra vào giai đoạn 490 đến 479 trước công nguyên, cũng như phong tục của các sắc dân sinh sống tại Châu Á, Phi, Âu. *** Du ký là mảnh đất màu mỡ lúc xa xôi khi lạ lẫm vẫn là ấn tượng của con người vì thế giới rộng lớn bên ngoài. Tưởng chừng sự hoàn thành quá trình tìm hiểu cặn kẽ những miền đất lạ đã tước đi chỗ đứng của những nhà văn ưa phiêu lưu như Pierre Loti, Blaise Cendrars hay Rudyard Kipling, chấm dứt cái thời Paul Morand cảm khái mà thốt lên rằng: “Đi là chết một ít, nhưng ở lại là vỡ tan thành trăm mảnh” (Những cuộc du hành). Vậy nhưng, thế giới hiện đại của chúng ta vẫn còn những người như V.S. Naipaul và nhất là Ryszard Kapuscinski, một con người xê dịch, một thiên tài của quan sát và sự xâu chuỗi quá khứ với hiện tại. Nhà văn Ba Lan nhiều lần có tên trong danh sách ứng cử viên giải Nobel Văn học đã kể cho ta về châu Á, châu Phi trong một giọng văn đầy hứng khởi nhưng tỉnh táo và tỉ mỉ, mô tả con người ở khắp các ngóc ngách thế giới bằng một chủ nghĩa nhân văn được truyền lại theo con đường kỳ bí nào đó từ phần sáng chói của lịch sử nhân loại. Và không chỉ có vậy, ông còn mang trở lại cho chúng ta một sử gia Hy Lạp ít nhiều bị lãng quên: Herodotus. *** “Rất ít nhà văn viết được đẹp đến vậy về những điều không thể nói ra. Rất ít nhà văn có được sự can đảm của ông, gần như không ai sở hữu tài năng lớn như ông. Những cuốn sách của ông thay đổi cách thức mà nhiều người chúng ta thường nghĩ về phi hư cấu.” - The New York Times “Mỗi khi có biến cố nào xảy ra trên thế giới, ông lại muốn lẻn một chiếc máy bay để tới. Nếu nghe nói về một con đường không ai đi nổi mà sống sót, ông sẽ đi vào đó, chỉ để xem mình có vượt qua được hay không. Cách hiểu thế giới của ông là đi tới điểm nóng, nơi mọi thứ đang sôi sục lên. Và quả thực tôi nghĩ không ai tự đẩy mình vào vòng hiểm nguy nhiều như ông lại hoàn toàn bình thường cho được.” - Salman Rushdie “Dù thế nào đi nữa ông cũng vẫn là một thiên tài đặc biệt có một không hai ở thời hiện đại, có lẽ ngoai trừ Kafka.” - Jonathan Miller, Guardian   Mời các bạn đón đọc Du Hành Cùng Herodotus của tác giả Ryszard Kapuściński.
Trò Chuyện Trong Quán La Catedral
Trò chuyện trong quán La Catedral là một cuốn tiểu thuyết đặc biệt, chỉ bằng những câu đối thoại, những tình tiết đan xen như phong cảnh qua cửa sổ trên chuyến tàu lao vùn vụt, lịch sử đất nước Peru trong một thời kỳ nhiễu nhương hiện ra với tầm vóc đồ sộ và những chi tiết rung động tâm can. Santiago Zavalita, con trai của một kỹ nghệ gia giàu sang, đã từ bỏ tất cả cơ hội tiến thân để làm cho một tờ báo nhỏ, sau khi cảm thấy không cuộc sống nào thực sự dành cho mình – một luật sư thành đạt theo mong ước của gia đình, hay một thành viên nhiệt thành của Đảng cộng sản theo những người bạn cùng trường đại học. Một ngày, trong khi đi tìm con chó bị lạc, anh tình cờ gặp lại Ambrosio, người tài xế trung thành đã phục vụ cha của anh trong nhiều năm, giờ tay trắng, sống vất vưởng ở một góc thành phố Lima. Bên những chai bia trong quán rượu La Catedral, họ trôi theo dòng quá khứ của cả hai. Từ cuộc trò chuyện đó, không gian mở rộng cho những giọng nói của người sống và người chết thi nhau kể lại số phận nhỏ nhoi và những nỗi khổ đau ngỡ đã tan biến trong dòng thác lịch sử. Cuốn tiểu thuyết chứa đựng hàng loạt nhân vật đại diện cho các loại người, các tầng lớp trong xã hội Peru dưới thời tên độc tài Odría. Don Fermín, cha của Santiago, một kỹ nghệ gia có nhiều dính líu mờ ám đến chính quyền; Cayo Bermudez, giám đốc An ninh của chính quyền Odría, một kẻ đê tiện; bọn tay sai của Bermudez phục vụ cho những thủ đoạn chính trị dơ bẩn; Hortensia – người tình của Bermudez, đã bị giết vì nắm được bí mật của Don Fermín; Amalia, hầu gái của gia đình Santiago và sau đó là Hortensia, vợ của Ambrosio; Queta, gái điếm và người tình đồng giới của Hortensia... Mỗi người đều dường như không thể thoát ra khỏi tiến trình tha hóa và sụp đổ, tiêu biểu là Ambrosio, vừa là nạn nhân vừa là tội phạm, xuất thân là kẻ cùng đinh và cuối cùng mất tất cả. Ngay chính Santiago, một thanh niên thông minh, trong sáng và đầy nhiệt tâm, cuối cùng cũng vỡ mộng, chán nản kéo lê cuộc sống tẻ nhạt của một phóng viên vô danh, “không là luật sư và cũng chẳng là hội viên của Club Nacional, không là kẻ vô sản cũng chẳng là tay tư sản”. Dù không chịu trở về với gia đình để trở thành trưởng giả, anh đã đủ trưởng thành để thôi huyễn tưởng về những thứ đã chi phối cả tuổi trẻ mình: “Còn nếu mày gia nhập hôm ấy thì sao, Zavalita? hắn nghĩ. Phải chăng nhiệt tình tranh đấu sẽ lôi mày theo, càng lúc càng dấn sâu vào hơn, mày có sẽ trở thành một kẻ có niềm tin, một kẻ lạc quan, một kẻ trong trắng khác, bí hiểm và anh hùng?... Thay vì những bài xã luận chống chó dại trên La Crónica, mày sẽ viết cho những trang in nghèo nàn của Unidad… Mày sẽ tệ hại hơn hay cũng thế hay hạnh phúc hơn? Hắn nghĩ: ồ, Zavalita”. Đào sâu đến tận gốc rễ những mảng hiện thực ngổn ngang nhiều tầng lớp của Peru, Trò chuyện trong quán La Catedral như một cuốn biên niên ký vừa hiện thực vừa mang tính huyền thoại, khiến người đọc kinh ngạc vì sức mạnh và sức cuốn hút của nó. Toàn bộ tiểu thuyết là một dòng thác ngôn ngữ, không có một đoạn nào tách ra khỏi khung cảnh để suy tưởng độc lập. Từng chữ, từng chi tiết đều gắn với tâm trạng cụ thể hoặc mạch đối thoại của nhân vật. Những đoạn đối thoại cách xa về không gian và thời gian, được lồng vào nhau một cách tưởng như ngẫu nhiên, nhưng rất công phu – giống như những gì người ta nghe thấy trong một quán rượu ồn ào, mỗi lúc một câu, nhưng vẫn tìm được sự liên hệ. Ngôi nhân xưng thay đổi từ gián tiếp sang trực tiêp, từ đối thoại sang độc thoại, liên hệ với nhau bằng một logic ngầm xây dựng dựa trên các mối quan hệ, tính cách và hoàn cảnh của nhân vật. Những hình ảnh trái ngược gắn liền nhau một cách nhức nhối: lòng nhân hậu bên cạnh sự giả trá, tâm hồn đa cảm nằm trong sự thô lỗ, lòng vị tha đi đôi với tính ích kỷ… Ở đó, ranh giới thiện - ác bị xóa nhòa trước sự bất định của số phận, không cá nhân nào có quyền phán xét, không ai có quyền cho rằng mình nắm chân lý. Khổ đau của một xã hội – cũng là khổ đau của nhân loại – ngay cả cuộc đối thoại bất tận giữa nhiều thế hệ cũng không bao giờ đủ để nói hết về những con đường sai lầm mà người ta đã và đang đi… *** Mario Vargas Llosa (sinh 1936), người Peru, là một trong những nhà văn hàng đầu của Mỹ la tinh và thế giới. Tác phẩm nổi bật của ông gồm có La casa verde (1966), Conversación en la Catedral (1969), La tía Julia y el escribidor (Dì Julia và nhà văn quèn, 1977, đã dịch ra tiếng Việt), La guerra del fin del mundo (1981), La fiesta del chivo(2000), v.v. Ngoài tiểu thuyết, ông còn viết tiểu luận, phê bình, báo chí. Vargas Llosa được Viện hàn lâm Thụy Điển quyết định trao giải Nobel Văn chương năm 2010 *** Từ ngưỡng của tòa báo La Crónica, Santiago dửng dưng nhìn Avenida Tacna: những chiếc xe hơi, các tòa nhà cao thấp không đều và bợt màu, các khung bích chương lòe loẹt lơ lửng trong sương mù, buổi trưa xám xịt. Peru đã trở nên khốn khổ khốn nạn vào đúng khi nào? Bọn trẻ bán báo len lỏi ra vào giữa đám xe có dùng chờ đèn xanh trên đường Wilson, rao bán mấy tờ báo ra buổi chiều và hắn bắt đầu bước chậm rãi về phía Colmena. Hai tay xỏ trong túi, đầu cúi, hắn đi giữa những người cũng đi về hướng Plaza San Martin. Hắn cũng như Peru, Zavalita, hắn đã làm khốn khổ khốn nạn đời mình vào lúc nào chẳng rõ. Đối diện Khách sạn Crillón, một con chó tới liếm chân hắn: Đừng lây bệnh dại của mày cho tao, cút đi. Cả nước Peru khốn nạn, Carlicos cũng khốn nạn.mọi người đều khốn khổ khốn nạn. Hắn nghĩ: Vô phương cứu chữa. Hắn nhìn thấy một hàng dài ở bến tắc xi đi Miraflores, hắn băng qua quảng trường, và Norwin kìa, chào anh, ở một bản trong cha Bar, mời anh ngồi, Zavalita, anh ta đang vuốt ve một ly chilcano, giày của anh đang được đánh bóng, ' anh mời hẳn một ly. Anh chưa có vẻ say, Santiago ngồi xuống, bảo người đánh giày đánh bóng giày của hắn luôn. Dạ, thưa sếp, có ngay, thưa sếp, sẽ bóng như gương, thưa sếp.   “Lâu lắm rồi chẳng ai gặp anh, Ông Xã Luận,” Norwin nói. “Anh thích trang xã luận hơn cột tin địa phương hả?” “Ít việc hơn." Hắn nhún vai, có thể bữa đó lúc ông biên tập gọi hắn vào, hắn gọi một chai Crisral lạnht hắn có muốn thế chỗ của Orgambide không, Zavalita? Hắn nghĩ: đó là lúc mình làm khốn nạn đời mình. "Tôi tới sớm, họ đưa tôi đề tài, tôi bịt mũi ráng nhịn, rồi trong hai ba tiếng là xong hết, tôi tháo xiềng, thế thôi.”   “Cho hết cả tiền trên thế gian tôi cũng không viết xã luận,” Norwin nói. “Xã luận quá xa rời tin tức, mà nghề báo là tin tức, Zavalita, tin tôi đi. Tôi sẽ chấm dứt đời mình ở Cột tin cảnh sát, thế thôi. Ả này. Carlitos chết chưa?”   “Anh ra vẫn nằm bệnh viện, nhưng họ sẽ cho anh ta ra sớm," Santiago nói. “Anh ta thể lần này bỏ rượu. “   “Có đúng là một đêm kia lúc đi ngủ anh ta thấy gián và nhện không?" Norwin hỏi.   “Anh ta lật tấm trải giường lên, hàng ngàn con nhện lông và chuột nhào tới anh ta,” Santiago nói. “Anh ta trần truồng chạy ra đường la hét.” ... Mời các bạn đón đọc Trò Chuyện Trong Quán La Catedral của tác giả Vargas Llosa Mario.
Hãy Để Ngày Ấy Lụi Tàn - Gerald Gordon
“Hãy để ngày ấy lụi tàn”, tựa tiếng Anh Let the day perish của Gerald Gordon được ra đời năm 1952. Tác phẩm là sự lên án gay gắt cái thiên kiến màu da phi nhân tính tại Nam Phi đã đưa đẩy con người đến bên bờ vực thẳm. Gerald Gordon khơi gợi niềm thương cảm sâu sắc của mỗi người đọc dành cho những nạn nhân của chế độ Apartheid. Không đánh đập, không ngược đãi nhưng “Hãy để ngày ấy lụi tàn” là một loạt những khinh miệt rẻ rúng, sự hắt hủi xem thường của giới quý tộc đối với người da màu. Đến với một trong những thời kì đen tối nhất trong lịch sử loài người, “Hãy để ngày ấy lụi tàn” có sức chinh phục trái tim người đọc bởi hình ảnh cao đẹp, đầy tấm lòng vị tha của Steve luôn dõi theo bước anh trai Antoine, dù rằng anh đã quay lưng lại với dân tộc mình. Dưới ngòi bút của tác giả, tâm hồn và trái tim luôn hướng về cội nguồn của Steve – người em da màu dám hiên ngang ngẩng cao đầu đấu tranh, cất lên tiếng lòng của dân tộc mình – toả sáng hơn bao giờ hết… Có cay đắng, ngậm ngùi; có xót thương, day dứt, “Hãy để ngày ấy lụi tàn” đã khắc hoạ nỗi đau trong cuộc sống và bi kịch tình yêu mà hàng ngàn số phận bất hạnh đã nếm chịu trong xã hội oan nghiệt thời bấy giờ. Người phụ nữ da màu xinh đẹp nhưng khốn khổ Merry đem lòng yêu anh lính người Anh Geogio. Kết quả của cuộc hôn nhân không được ủng hộ này là 2 người con trai – Antoine, cậu bé da trắng khoẻ mạnh, và người em trai da đen của cậu bị xã hội lúc bấy giờ ruồng rẫy – Steve – lần lượt chào đời. Số phận trớ trêu đã buộc Steve không được học cùng trường với anh trai Antoine, bởi xã hội không chấp nhận em, bởi lẽ em là người da màu. Cái thiên kiến màu da độc địa kia đã chia rẽ gia đình họ, làm Merry quyết định đưa Steve theo mình rời xa Antoine. Hơn ai hết, cô biết rằng mình không thể mạo hiểm về tương lai của Antoine, đứa con da trắng đáng được hưởng những thứ tốt đẹp chứ không phải sự hắt hủi mà chính cô, chính màu da của cô đã mang lại cho cả gia đình. Con Steve ư, đứa con trai bất hạnh phải sống cuộc đời cay đắng như của cô ư? Không, cô không thể để cho Steve cản trở tương lai của Antoine. Antoine con cô. Antoine da trắng… Những đẩy đưa của cuộc sống khiến Antoine xa lánh mẹ và em, bỏ lại phía sau gốc gác đáng hổ thẹn của mình. Mỗi khi nghĩ về nó, anh luôn tìm cách chạy trốn chính con người của anh. Thế nhưng, như một trò đùa của số phận, anh gặp lại người con gái anh yêu Ren – đứa con của những người da trắng. Tình yêu với Ren ngày càng sâu đậm khiến Antoine không thôi nghĩ về nguồn gốc của mình. Định kiến da màu ngày nào quay trở lại trong anh, gặm nhấm, day dứt tâm hồn anh. Anh yêu Ren, họ sẽ lấy nhau ư? Liệu đứa con đầu lòng của anh sẽ may mắn giống bố mẹ nó, hay sẽ giống như Steve em trai anh? Bí mật đắng lòng về con người thực sự của anh sẽ vẫn mãi nằm trong bóng tối nếu không có một ngày… Antoine lỡ tay ngộ sát kẻ thù anh vì muốn che giấu Steve, che giấu thân phận của anh – trong cái đêm mà Steve đến thăm anh. Bên bờ vực thẳm, anh có hai lựa chọn, hoặc là bị kết tội trong thân phận giả dối bấy lâu nay của mình, hoặc chấp nhận em ruột Steve làm chứng cho anh; và “anh sẽ trắng án trong 1 phiên tòa hình sự, nhưng sự kết án của cuộc đời này là điều anh không thể tránh khỏi” Và Ren – người duy nhất anh tin tưởng rằng sẽ ủng hộ anh cho đến hết cuộc đời này cuối cùng cũng chỉ như bao người da trắng khác, cũng mang trong máu thịt mình sự khinh miệt rẻ rúng đối với người da màu, dẫu đó có là người cô yêu mãnh liệt, yêu tha thiết đi chăng nữa. Cuối cùng thì tình yêu chân thực vẫn không thắng nổi cái định kiến nghiệt ngã đã tồn tại từ bao đời nay. Anh, suy cho cùng, cũng chỉ là một đứa con da màu đã quay lưng lại với dân tộc. *** - Cho tôi rượu seri[1], thưa ông. Từ sau quầy bàn, Ôttô Hunđơ quan sát người đàn ông có nước da nâu sẫm vừa bước vào, y ra lệnh, giọng cộc cằn: - Bỏ mũ ra! - Ja[2], thưa ông chủ. - người khách hàng lúng túng bỏ mũ. - Tóc gã này xoăn tít mà. - Hunđơ vừa nói, vừa chỉ những vòng tóc xoăn dựng đứng, đặc trưng, nằm trên đầu người đàn ông đó. - Mày là một tên Caphia[3]. Tao không bán cho mày. Cút đi! Người đàn ông đưa mấy ngón tay vuốt đầu - Không phải thưa ông chủ, tôi là người da màu[4], không phải Caphia đâu. Thưa ông chủ, cho tôi mua một cốc seri. Ánh mắt mang vẻ van nài, người đàn ông đó đặt một đồng nửa silinh[5] lên mặt quầy. Hunđơ đảo mắt quanh quầy rượu. Y gọi to: - Giôn, lại đây! Một thổ dân cao lớn đặt chiếc cốc đang rửa xuống, bước tới chỗ chủ tiệm. Hunđơ trỏ khuôn mặt lo âu bên kia quầy rượu: - Nó là một tên Caphia hay một gã da màu? Giôn chột mắt chằm chằm nhìn người kia một lát. - Thưa ông chủ, một tên Caphia đấy. Chủ của hắn, vóc người to lớn, nét mặt cáu kỉnh, trông hãm tài, có bộ ria oai vệ nhìn trừng trừng một cách tàn nhẫn. - Tao không bán cho mày, xéo mau đi! - Hunđơ chỉ ra cửa. Người đàn ông đó đứng yên, vẻ cau có giận dữ thoáng qua trên mặt anh ta. Hunđơ cúi xuống nắm lấy chiếc roi da nặng trịch để giữa các chai rượu. Y giơ chiếc roi cao quá vai và đập đen đét trên quầy. Người đàn ông đó bước lùi lại, hai tay che mặt, miệng há hốc sợ hãi. - Xéo đi! - Hunđơ thét lên. - Này, cầm lấy tiền của mày, cút đi mau! Mắt vẫn theo dõi chiếc roi da đã lại vung lên, người đàn ông rón rén tiếng về phía trước, chộp lấy đồng tiền của mình và lui ra cửa, đến đây anh ta trừng mắt nhìn Giôn trước khi lén bước ra. Hunđơ ném lại chiếc roi da xuống dưới quầy. - Chắc hẳn chúng lại muốn giở trò! - Y càu nhàu với Giôn khi quay nhìn các khách hàng khác đang ở trong gian hàng dành cho khách không phải người Âu. Rót ra thứ rượu vang Kêp rẻ tiền, y nhăn mũi và quay đầu tránh cái hơi người ấm và ẩm của khách. Những người da màu không quan tâm đến thái độ khinh miệt của “ông chủ Hunđơ” đối với họ. Khi họ đứng đợi, háo hức, mắt thao láo và thèm khát nhìn rượu chảy ồng ộc vào các cốc thì điều quan trọng đối với họ là rượu khách sạn Đại Bàng này không có vị nhạt như pha nước lã. Khi họ đã trả tiền và ra về hết, Hunđơ mệt mỏi lui vào căn phòng của y ở phía sau quầy rượu. Y nói với mụ vợ cao kều, xương xẩu: - Bọn quỷ ấy bốc mùi hôi thối quá! ... Mời các bạn đón đọc Hãy Để Ngày Ấy Lụi Tàn của tác giả Gerald Gordon.
Điều Bí Mật - Julie Garwood
Cuối thế kỷ XXII, khi người Anh và người Scotland được sinh ra để làm kẻ thù của nhau... Cô tiểu thư xinh đẹp đáng yêu Judith Hampton lên kế hoạch rời khỏi ngôi nhà lạnh lẽo, ảm đạm ở nước Anh để dấn thân vào một cuộc hành trình đầy nguy hiểm đến Scotland. Cô quyết tâm thực hiện lời hứa với người bạn thân thiết từ thời thơ ấu, Frances Catherine, là sẽ có mặt vào thời điểm cô bạn sinh đứa con đầu lòng. Nhưng Judith còn mang trong mình một lý do đặc biệt khi đến với vùng đất cao nguyên: cô muốn tìm kiếm người cha lãnh chúa mà mình chưa từng được gặp mặt. Thế nhưng, Judith không hề được chuẩn bị tinh thần khi giáp mặt anh chồng của Frances Catherine, người chiến binh - vị lãnh chúa Scotland tự mình đến đất Anh để hộ tống cô đến với lãnh địa của mình. Lãnh chúa Iain là người đàn ông đẹp trai nhất, lôi cuốn nhất mà Judith từng gặp trong đời. Cuộc phiêu lưu của cô ở vùng đất cao nguyên càng lúc càng ly kỳ hơn với hàng loạt những sự kiện bất ngờ ngoài dự kiến. Đối với Iain, anh chưa từng gặp cô gái nào vừa ngang bướng lại vô cùng quyến rũ như cô gái của mảnh đất thù địch đang làm khách trên lãnh địa của mình. Những cuộc cãi vã, những cơn thịnh nộ chứa đựng đầy đam mê bùng nổ giữa họ ngay từ nụ hôn đầu tiên, rồi dần dần chuyển thành một tình yêu sâu đậm và mãnh liệt đến nỗi anh bắt đầu cảm thấy lo sợ cho tương lai của hai người... vì thân thế của cha Judith là một bí mật khủng khiếp có thể đập tan quan hệ liên minh táo tợn nhất giữa các thị tộc vùng cao nguyên, cũng như tàn phá mối tình đã trở nên son sắt giữa vị lãnh chúa trẻ tuổi và cô gái người Anh đầy cá tính. Bí mật trong "Điều bí mật” là nền tảng cho câu chuyện về tình bạn, tình yêu, tình thân gia đình, tình người trong xã hội với chất lãng mạn cổ tích làm cho tinh thần thư thái, như một luồng gió mới mát lành thổi vào cuộc sống còn đầy những hoài nghi, toan tính. Câu chuyện mang đến cho người đọc niềm tin mãnh liệt vào tình yêu lãng mạn và cái kết có hậu của những câu chuyện cổ tích không bao giờ kết thúc. *** Đôi điều về tác giả: Julie Garwood là một tác giả người Mỹ khá thành công ở thể loại tiểu thuyết lãng mạn với hơn 27 đầu sách, 35 triệu bản in được phát hành trên khắp thế giới. Các tác phẩm của Julie thường xuyên góp mặt trong danh sách best-seller của New York Times. Julie viết cả tiểu thuyết lịch sử - lãng mạn lẫn hiện đại lãng mạn pha trộn sự hồi hộp, gay cấn. Bên cạnh Gentle warrior (Chiến binh nhân từ); A girl named summer (Cô nàng mùa hè); Prince Charming (Hoàng tử trong mơ); các series: Crown's Spies (Những chàng điệp viên hoàng gia); Lairds' Brides (Những nàng dâu quý tộc); Highlands' Lairds (Những quý tộc miền cao nguyên)...The Secret (Điều bí mật) là một trong những tác phẩm xuất sắc của Julie Garwood. *** Sách đã xuất bản và dịch tại Việt nam: Món Quà Tình Yêu Lâu Đài Hạnh Phúc Thiên Thần Hộ Mệnh Danh Dự Huy Hoàng Cô Nàng Sư Tử Rebellious Desire Kẻ Phá Đám Điều Bí Mật Sizzle The Ideal Man Shadow Music *** “Judith, dậy thôi. Đến lúc lên đường rồi.” Iain nhẹ nhàng lay cô tỉnh dậy. Cô mở mắt và thấy chồng mình đang ngồi trên mép giường. Chỉ cần nhìn vào vẻ mặt tối sầm của anh là đầu óc cô ngay lập tức tỉnh táo. Cô ngồi dậy, kéo chăn lại quanh người và nhìn anh chằm chằm. “Lên đường?” Cô thì thào hỏi, cố hiểu ý anh. “Em sẽ lên đường bây giờ ư?” “Phải.” Giọng anh chắc nịch, vẻ mặt kiên quyết không kém. Sao anh lại tỏ ra lạnh lùng như vậy? Judith túm lấy tay anh khi anh đứng dậy. “Sớm thế này ư, Iain?” “Phải”, anh trả lời. “Trong vòng một giờ nữa, nếu được.” Anh gỡ tay cô ra, cúi xuống hôn lên trán cô, rồi đứng dậy và bước về phía cửa. Cô gọi với theo anh. “Em muốn nói lời tạm biệt với Frances Catherine.” “Không có thời gian đâu”, anh bảo cô. “Chỉ xếp một vali thôi. Đem nó ra chuồng ngựa. Anh sẽ gặp em ở đó.” Cửa đóng lại sau lưng chồng cô. Ngay lập tức cô òa lên khóc. Cô biết lúc này trông mình rất đáng thương, nhưng cô chẳng quan tâm, cũng chẳng thể suy nghĩ mạch lạc được nữa. Cô đã nói với Iain rằng mình không muốn ở lại đây. Anh chỉ đơn giản trao cho cô những gì cô muốn. Mẹ kiếp, làm sao anh có thể để cô đi được chứ? Anh không nhận ra cô yêu anh nhiều đến nhường nào sao? Judith làm vệ sinh cá nhân, rồi mặc vào chiếc váy dài màu lam sẫm. Cô chải đầu, xếp đồ vào vali, và cuối cùng khi đã sẵn sàng để lên đường, cô nhìn một lần cuối quanh căn phòng của mình. Chiếc áo choàng đang treo trên mắc ở gần cửa ra vào. Cô không muốn để nó lại, liền gấp tấm áo và nhét vào trong vali. Cô thôi không khóc nữa. Cô cũng thôi không cảm thấy thương hại bản thân mình nữa. Chúa ơi, lúc này cô đang đấu tranh với nỗi tức giận. Một người chồng thực sự yêu vợ sẽ không để cô ấy rời xa mình. Cô cần phải nói với Iain như thế. Anh thực lòng yêu cô. Cô không nghi ngờ chút nào về điều đó. Kể cả chuyện hành động của anh làm cô vô cùng khó hiểu cũng chẳng quan trọng. Cô sẽ chỉ bắt anh giải thích mình đang làm gì… và vì sao. Cô không thể hình dung ra cuộc sống không có anh. Judith chạy qua ngưỡng cửa và lao xuống cầu thang, chiếc vali giữ chặt trong tay. Graham đang đứng trên cửa ra vào, tay giữ cánh cửa. Judith có thể thấy đám đông rất lớn đang tập trung ở bên kia sân. Cô cố bước qua ông già mà không liếc nhìn ông. Ông chạm vào vai cô để làm cô chú ý. Cô dừng lại, nhưng bướng bỉnh giữ nguyên ánh mắt nhìn xuống. “Sao cô không nhìn tôi, cô gái?” Graham hỏi. ... Mời các bạn đón đọc Điều Bí Mật của tác giả Julie Garwood.