Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lời Tiên Tri Hắc Ám

Làm sao để trừng phạt một vị thần bất tử? Bằng cách biến vị thần ấy thành kẻ phàm trần. Sau khi khiến cho cha mình - thần Zeus nổi giận, Apollo bị tống cổ khỏi đỉnh Olympus. Yếu ớt và mất phương hướng, thần giáng xuống thành phố New York trong bộ dạng một cậu thiếu niên tầm thường. Giờ đây, thiếu những quyền năng thần thánh, vị thần bốn ngàn năm tuổi phải học cách sống sót trong thế giới hiện đại cho tới khi tìm được cách nào đó lấy lòng Zeus trở lại. Nhưng Apollo có quá nhiều kẻ thù là các vị thần, lũ quái vật và cả những kẻ phàm trần. Tất cả đều ao ước được thấy cựu thần Olympus bị tiêu diệt mãi mãi. Apollo cần được giúp đỡ, và thần chỉ biết có duy nhất một nơi để tìm đến…một vùng đất của các á thần hiện đại có tên gọi Trại Con Lai. Bộ sách Những thử thách của Apollo gồm có: Sấm Truyền Bí Ẩn Lời Tiên Tri Hắc Ám Địa Cung Rực Lửa Lăng Mộ Bạo Chúa ,,, *** Rick Riordan là tác giả có sách bán chạy nhất do tờ New York Times bình chọn cho bộ truyện dành cho trẻ em: Percy Jackson và các vị thần trên đỉnh Olympus và bộ Tiểu thuyết trinh thám dành cho người lớn Tres Navarre. Ông có 15 năm giảng dạy môn tiếng Anh và Lịch sử ở các trường trung học cơ sở công và tư ở San Francisco Bay Area ở California và Texas. Ông cũng từng nhận giải thưởng Giáo viên ưu tú đầu tiên của trường năm 2002 do Saint Mary’s Hall trao tặng. Rick Riordan hiện đang sống ở San Antonio, Texas cùng vợ và hai con trai. Ông dành toàn bộ thời gian cho sáng tác. *** Bắt đầu từ một trại “khác” dành cho các con lai và kéo dài đến tận vùng đất ngoài tầm kiểm soát của các vị thần, phần 2 giới thiệu cho độc giả các á thần mới, hồi sinh các con quái vật đáng sợ nhất và khắc họa các sinh vật đặc biệt. Tất cả được xác định sẽ đóng một vai trò nào đó trong Lời Tiên Tri về Nhóm Bảy. PERCY BỐI RỐI. Khi cậu tỉnh dậy sau một giấc ngủ dài, cậu không biết bất cứ điều gì ngoài tên của cậu. Bộ não xoắn tít của cậu chỉ còn lại một ít, ngay cả sau khi con sói cái Lupa nói rằng cậu là một á thần và huấn luyện cậu cách chiến đấu với cây bút/thanh kiếm trong túi quần cậu. Dẫu sao cậu cũng đã đến được trại dành cho các con lai, mặc dù cậu phải tiếp tục giết các con quái vật không chết đang quấy rầy cậu trên đường đi. Nhưng trại cũng chẳng gợi cho cậu chút quen thuộc nào. Điều duy nhất cậu có thể nhớ lại từ quá khứ của mình là một cái tên khác: Annabeth. HAZEL ĐƯỢC CHO RẰNG LÀ ĐÃ CHẾT. Khi cô còn sống trước đây, cô đã làm sai một điều. Dĩ nhiên, cô là một cô con gái biết nghe lời, ngay cả khi mẹ cô bị ám ảnh bởi tham lam.  Nhưng đó là vấn đề - khi Giọng Nói chiếm lấy cơ thể mẹ cô và ra lệnh cho Hazel sử dụng “quà tặng” của cô với mục đích xấu xa, Hazel không thể nói không với bà. Giờ, vì sai lầm của cô, tương lai của thế giới đang gặp phải nguy hiểm. Hazel ước gì cô có thể chạy trốn tất cả chuyện đó trên con ngựa xuất hiện trong các giấc mơ của cô. FRANK LÀ MỘT NGƯỜI VỤNG VỀ. Bà ngoại cậu nói rằng cậu là hậu duệ của các anh hùng và có thể trở thành bất cứ ai cậu muốn, nhưng cậu chẳng thấy được điều đó. Cậu thậm chí còn không biết cha mình là ai. Cậu vẫn hy vọng thần Apollo sẽ thừa nhận cậu, vì thứ cậu duy nhất cậu thành thạo là môn bắn cung – mặc dầu không đủ giỏi để giúp cho Đội quân Số Năm dành chiến thắng ở trò đánh trận. Cơ thể to lớn và lực lưỡng khiến cậu có cảm giác mình như một chú bò vụng về, đặc biệt là khi cậu ở trước mặt Hazel, người bạn thân nhất của cậu ở trại. Cậu hoàn toàn tin tưởng cô, thậm chí, đủ để chia sẻ bí mật mà cậu để gần với trái tim cậu. *** Lester (Apollo) Vẫn là con người; Cám ơn vì đã hỏi Chúa ơi, ta ghét cuộc sống này Khi CON RỒNG CỦA BỌN TA khiêu chiến tại Indiana, ta biết đây sẽ là một ngày thật tồi tệ. Bọn ta đã di chuyển về phía tây trong sáu tuần và Festus chưa bao giờ có thái độ thù địch như vậy đối với bất cứ một bang nào. New Jersey, mặc kệ. Pennsylvania, dường như khá thích thú, mặc dù đã có một trận chiến với Cyclopes của Pittsburgh ở đó. Ohio, đã cố kiềm chế, ngay cả sau cuộc gặp gỡ với Potina, nữ thần đồ uống thời thơ ấu của La Mã, người đuổi theo bọn ta dưới hình dạng một bình rượu khổng lồ màu đỏ hình mặt cười. Tuy nhiên, vì một lý do nào đó, Festus chẳng hề thích Indiana, nó hạ cánh trên đỉnh vòm của tòa nhà bang, vỗ nhẹ đôi cánh kim loại của mình và khạc ra một tia lửa đốt rụi quốc kỳ ngay lấp lựng. "Woww, anh bạn", Leo kéo dây cương con rồng," chúng ta đã nói về điều này rồi, không phá hoại di tích công cộng". Ở đằng sau, trên xương sống con rồng, Calypso đang bám chặt vào vảy Festus để giữ thăng bằng "Này, chúng ta có thể xuống dưới được không, lần này thật nhẹ nhàng nhé?" Đối với một nữ phù thủy bất tử đã từng điều khiển các linh hồn gió, Calypso chẳng thích bay cho lắm. Gió thổi mái tóc màu nâu hạt dẻ của cô ta tấp vào cả mặt và miệng, làm tôi chớp mắt và phun nước bọt. Thật đấy, bạn đọc ạ. Ta, hành khách quan trọng nhất, đã từng là vị thần vinh quang Apollo, giờ phải ngồi đằng sau lưng rồng. Ôi bao nhiêu phẫn nộ tôi phải chịu từ khì Zeus tước đi quyền hạn thiêng liêng của ta, cũng chẳng bằng việc bây giờ ta là một thằng nhóc phàm nhân 16 tuổi với cái bí danh ghê rợn Lester Papadopolus. Chẳng đủ để ta phải lao xuống trái đất làm nhiệm vụ anh hùng cho tới khi tìm được cách trở về với ông cha thần thánh, có lại được những ân sủng tốt đẹp, hoặc là khuôn mặt đầy mụn, thứ mụn mà chẳng hề phản ứng với thuốc zit kê đơn. Mặc dù tôi sở hữu một tấm bằng lái xe từ tiểu bang New York, Leo vẫn không tin tưởng giao cho ta quyền cầm lái con chiến mã trên không của mình. Móng vuốt Festus đã phải cào cấu khắp nơi để đứng vững được trên cái mái vòm xanh lá, thứ mà quá nhỏ so với kích thước một con rồng đồng. Ta bỗng nhiên hồi tưởng về cái lần tối cố gắng gắn bức tượng Calliope to bằng người thật vào cỗ xe mặt trời, sức nặng của bức tượng làm mui xe chúi xuống và lao vào giữa Trung Quốc tạo nên hoang mạc Gobi. Leo liếc nhìn lại:"Apollo, ngài có cảm nhận được gì không?" "Tại sao ta lại cảm nhận được gì chứ, tà chỉ là một vị thần tiên tri.." " Ngài là người đã nhìn thấy cảnh mộng", Calypso nhắc nhở, " Ngài đã nói có thể Meg đang ở đây". Việc nghe thấy tên Meg làm tim ta đau nhói: " Điều đó không có nghĩa là ta có thể xác định vị trí của con bé, Zues đã tước đi quyền truy cập GPS của ta" "GPS?" Calypso hỏi "Hệ thống định vị thần thánh" "Nó không có thật" "Mọi người, bình tĩnh nào", Leo vỗ cổ con rồng, "Apollo, hãy cố nhớ lại xem nào, đây có phải cái thành phố mà ngài đã thấy trong mơ không?" Ta quét mắt về phía chân trời, Indiana là một vùng đất bằng phẳng, đường cao tốc bắc ngang qua một vùng đồng bằng nâu sẫm, bóng của những đám mây trôi lơ lửng trên trời tạo thành những vệt đen lỗ chỗ trên thành phố, xung quanh chúng tôi mọc lên tựng cụm nhà cao tầng khẳng khiu đan xen bởi những lớp tường gạch và cửa kính trông như những bó cam thảo đen và trắng. (chẳng phải loại cam thảo ngon lành gì, cả đen và trắng, cái loại kinh khủng mà đã ngự trong bát kẹo trên bàn cà phê của mẹ kế bạn trong hàng niên kỉ. Phải, Hera đấy, tại sao ư? Ta sẽ kể cho ngươi sau). Từ sau khi rơi xuống trái đất ở New York, ta cảm thấy Indiana thật vắng vẻ và thanh bình, một người hàng xóm thích hợp của New York - Như một thành phố trung tâm đã bị kéo giãn ra bao phủ toàn bộ vùng Manhattan sau đó giảm hai phần ba dân số và bị rửa trôi sạch sẽ. Ta chẳng thể hiểu nổi lý do gì khiến bộ ba hoàng đế La Mã ác quỷ lại để ý một nơi như thế này, cũng chẳng hiểu tại sao Meg McCaffrey lại được cử đến để tóm cổ ta tại đây. Giờ mọi thứ đã rõ ràng, ta đã nhìn thấy đường chân trời này, ta đã nghe thấy kẻ thù cũ Nero ra lệnh cho Meg: Hãy đi về hướng Tây, bắt lấy Apollo trước khi hắn kịp tìm thấy Oracle tiếp theo, nếu không thể bắt sống thì hãy kết liễu đời hắn. Điều đó thật đáng buồn nhỉ? Meg đã từng là một người bạn tốt, cô bé còn có thể trở thành sư phụ á thần của ta, nhờ khiếu hài hước của Zeus. Chừng nào ta còn là người phàm, Meg có thể ra lệnh cho ta làm bất cứ thứ gì, thậm chí là tự sát. Ôi ôi, đừng nghĩ tới những điều như vậy chứ. Ta loay hoay trên cái ghế kim loại của mình, sau nhiều tuần di chuyển, cả người ta mệt mỏi và đau nhức, ta muốn tìm một nơi an toàn để nghỉ ngơi và đây chẳng phải một nơi như thế. Có cái gì đó trong thành phố làm ta bồn chồn y như cảm giác của Festus. Than ôi, đây lại chính là nơi bọn ta muốn đến. Cho dù nguy hiểm đến mức nào, nếu được gặp lại Meg, ta sẽ lôi con bé tránh xa tên cha dượng độc ác của mình, ta phải cố gắng. "Chính là nơi này", ta nói, "trước khi mái vòm này sụp đổ, có lẽ chúng ta nên xuống dưới" Mời các bạn đón đọc Những thử thách của Apollo Tập 2: Lời Tiên Tri Hắc Ám của tác giả Rick Riordan.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trong Ánh Lửa Thù - Uyên Thao
Nhà văn Uyên Thao tên thật là Vũ Quốc Châu, sinh năm 1933 tại Hà Nội, bắt đầu viết văn từ năm 1952. Vào Saigon năm 1953, ông cộng tác với nhiều tờ báo cũng như những tập san văn học nghệ thuật. Sở trường của ông là sáng tác và phê bình văn học nghệ thuật. Tác phẩm của nhà văn Uyên Thao gồm đủ thể loại trong đó có những tác phẩm đã in trên báo và xuất bản như hai cuốn tiểu thuyết “Những Con Cọp Cháy Móng” đăng trên Tạp chí Sinh Lực-Sài Gòn từ năm 1959 đến 1961, “Trống Trận” đăng trên Nhật báo Tin Sáng vào năm 1964 và cuốn dã sử tiểu thuyết “Trong Ánh Lửa Thù” đăng trên Nhật báo Người Việt California từ năm 1996 đến 1997, và tập thơ viết trong tù “Không Tên” 1992. Ông cũng là nhà phê bình văn học với hai tác phẩm “Thơ Việt Hiện Đại 1900-1960” gồm 6 tập do Nhà Xuất Bản Hồng Lĩnh ấn hành tại Sài Gòn năm 1970 và “Các Nhà Văn Nữ Việt Nam 1900-1970” do Nhà Xuất Bản Nhân Chủ ấn hành tại Saigon năm 1973. Ông cũng sáng lập và điều hành nhật báo Sóng Thần từ năm 1970 đến 1974. Ngay từ khi đặt chân lên đất Mỹ vào cuối năm 1999, nhà văn Uyên Thao đã nghĩ đến chuyện thành lập Tủ Sách Tiếng Quê Hương. Nhà văn Uyên Thao cho biết thêm là Tủ Sách Tiếng Quê Hương nhận được sự cộng tác của rất nhiều bạn bè ngay từ khi ông khởi xướng việc này. “Tôi sang đây hơi trễ nhưng ngay khi mình nghĩ tới tủ sách này thì tôi viết thư cho tất cả những người bạn cũ tôi có được địa chỉ thì hầu như ai cũng sẵn sàng tiếp tay, ai cũng sẵn sàng ủng hộ. Chính vì vậy mình mới có thể thành lập được tủ sách.” Tủ Sách Tiếng Quê Hương được thành hình vào đầu năm 2000 vài tháng sau khi nhà văn Uyên Thao đặt chân lên nước Mỹ và tác phẩm đầu tiên được phát hành vào tháng 9 cùng năm là tập truyện ngắn “Thân Phận Ma Trơi” của Nguyễn Thụy Long. *** S áu năm sau đêm Trung Chính đẫm nước mắt cầm kiếm lệnh phóng ngựa như điên rời Thăng Long, đại quân Thát Đát tràn qua bắc thùy. Giữa mùa đông năm Tỵ, Ngột Lương xua quân từ Quí Châu, Vân Nam tiến vào đất Đại Việt. Kỵ binh Thát Đát xoài vó dọc dẫy Tượng Sơn theo tả ngạn sông Thao ào ạt tiến về xuôi. Các cứ điểm phòng thủ của quân Đại Việt từ Ngã Ba Hạc tới Phù Lỗ bị tràn ngập mau chóng trước sức tấn cônc) như vũ bão. Cuộc chiến đấu giữ nước được chuẩn bị gần mười năm vẫn không ngăn nổi quân Thát Đát tiến thẳng về Thăng Long. Triều đình bỏ kinh thành cho Thát Đát chiếm đóng. Thế nước chông chênh như bánh xe đang lăn trên bờ vực. Nhà vua băn khoăn hỏi Quốc Sư Thủ Độ: - Tình thế này liệu còn cách nào vượt khỏi nguy vong chăng? Vị lão thần nghiêng mái đầu bạc trắng về phía nhà vua. Cặp mắt trĩu ưu tư của ông quắc lên. Giọng ông trầm trầm nhưng quyết liệt, nhấn rõ từng lời: - Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin Bệ Hạ đừng lo! Hơn một tháng sau, quân Đại Việt từ các lộ Hông, Khoái, Trường An, Thiên Trường dồn về phản công địch tại Đông Bộ Đầu, khôi phục kinh thành. Ngột Lương chuyển quân qua hữu ngạn sông Thao, gom lực lượng tại Qui Hoá, chuẩn bị mở đợt tấn công thử nhì về Thăng Long. Các thám tử Thát Đát trong vùng được lệnh cấp tốc về gặp chủ tướng Ngột Lương để tường trình về địa thế và quân tình Đại Việt. Cùng lúc Ngột Lương cho dựng trại chờ hội quân, chủ quán Quốc Oai khách điếm một mình một ngựa băng rừng tiến sâu vào miền tây bắc Qui Hoá, hướng về căn cứ Khau Pho. Hai ngày sau đó, kỵ binh Thát Đát nhận chịu một cuộc tấn công chưa hề gặp trên khắp các chiến trường từng in dấu chân ngựa của họ. Trong lúc cánh quân triều đình của viên tướng trẻ Trần Quốc Tuấn từ lộ Quốc Oai vượt Trung Ha tiến lên, nghĩa binh lộ Qui Hoá dưới sự dắt dẫn của thủ lãnh Lý Trung Chính xuất hiện như tiếng sét bất ngờ nổ giữa trời trong, cắt nát kỵ binh Thát Đát thành từng toán nhỏ. Cuộc phối hợp giữa quân triều đình và nghĩa binh Qui Hoá dồn lực lượng Thát Đát vào thế bị động hoàn toàn từ phút khởi đầu trận đánh. Lần đầu tiên đoàn kỵ binh bách thắng khắp hoang mạc Bắc Á vừa xéo nát đế quốc Ba Tư và chinh phục Đại Lý lâm cảnh tan vỡ kinh hoàng. Những chiến sĩ áo chàm chập chờn biến hiện như những bóng ma và dũng mạnh như một bầy sư tử. Ngột Lương phải ra lệnh mở đường máu thoát thân, cuốn vó chạy dài về phương bắc dưới sự truy sát bén gót của quân Đại Việt. Những ngày cuối cùng của mùa đông năm Tỵ cũng là những ngày cuối cùng của ba vạn chiến binh Thát Đát vừa hung hăng vượt bắc thùy Đại Việt ít ngày trước đó. Ngột Lương chỉ còn vài chục thân tùy cắm đầu chạy không kịp thở, cố tránh thật xa đoàn quân áo chàm của chàng trai có cặp mắt như bốc lửa và cánh tay gươm không hề mệt mỏi. Vào lúc chờ nghĩa binh thu dọn chiến trường để tập hợp về xuôi, Lý Trung Chính trầm ngâm trên yên ngựa nhớ lại những người từng sát cánh bên chàng. Chàng nhớ tới người chú họ Lý Bảo Tuấn hầu như không lúc nào rời chàng nửa bước. Với tuổi già bảy chục, ông vẫn giữ nguyên khí phách của viên tướng trẻ lừng danh Trung Dũng Hầu thuở trước. Luôn luôn xông xáo trên đầu các hàng quân, ông chỉ chịu ngưng khi nhận một mũi tên Thát Đát cắm suốt qua tim. Trung Chính thở dài nhủ thầm: - Dù sao thì chú cũng hài lòng vì đã dự phần làm sống lại trận Như Nguyệt ngày xưa. Mời các bạn đón đọc Trong Ánh Lửa Thù của tác giả Uyên Thao.
Những Dấu Chân của Mẹ - Hà Khánh Linh
“Những dấu chân của mẹ là tập 3 trong bộ ba tiểu thuyết Người kinh đô cũ (NXB Hội Nhà văn, 2004), Lửa kinh đô và Những dấu chân của mẹ (…). Hai nhân vật chính là Nguyễn Phúc Bửu Toàn và Đoan Thuận đã xuyên suốt tác phẩm. Bửu Toàn là một vương gia Tây học, làm Chánh văn phòng Tòa khâm sứ Trung Kỳ nhưng bí mật hoạt động cách mạng đã góp phần cùng nhân dân Huế và cả nước làm nên Cách Mạng Tháng Tám. Đoan Thuận là nữ sinh Đồng Khánh, nữ sinh Khải Định (thời đó trường Đồng Khánh chưa có ban tú tài), cô giáo trường Việt Anh đã tham gia cách mạng với lòng yêu nước thiết tha và nhiệt tình cháy bỏng của tuổi trẻ” (LTS của tạp chí Sông Hương). *** Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị  là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải Phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, thư ký toàn soạn rồi phó tổng biên tập tạp chi Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức… cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Campuchia… đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú. Trong khoảng 40 năm cầm bút cho đến nay chị đã xuất bản tám tập tiểu thuyết, bảy tập truyện và ký, hai tập thơ. Chị là một nhà văn trưởng thành trong chiến tranh chống Mỹ nên đề tài chiến tranh là đề tài được chị quan tâm nhiều nhất (…). Mấy năm gần đây chị mở rộng đề tài. Chị muốn tái hiện lại một số giai đoạn lịch sử quan trọng của Huế qua các tác phẩm dài hơi như tiểu thuyết Người Kinh Đô Cũ (dày 576 trang), Con gái người cung nữ … Về mảng đề tài này chị cũng đã có những thành công nhất định (…) Hà Khánh Linh là một nhà văn làm việc không biết mệt mỏi. Chị đã vượt qua mọi chông gai, thử thách trên đường đời để tự khẳng định mình. Tôi rất đồng tình với điều mà chị tâm niệm: “Viết là một cách sống, một thái độ ứng xử trước cuộc đời” *** Đi thăm cô Minh Lý về gần ngót hai tháng rồi mà Anh Thi vẫn chưa vơi được cảm giác bàng hoàng lâng lâng bay bổng rất thực mà lại như mơ. Nhất là những ngày bên cô Minh Lý tâm trạng Anh Thi lúc nào cũng chao đảo giữa hai thái cực: hạnh phúc và đau khổ, vui mừng và tuyệt vọng, thỏa mãn và bức xúc... Thậm chí, trong niềm thương yêu kính trọng vào cùng vào hạn đối với mẹ thỉnh thoảng lại cộm lên một chút giận hờn. Rồi giận ba, giận anh Vĩnh Tuấn và giận cả chính mình. Từ sau khi có được Anh Thi - đứa con yêu quý mà Đoan Thuận gửi cho - quan ngài Nguyễn Phúc Bửu Toàn cứ ở nhà đợi Đoan Thuận, chứ không hề cất công đi tìm kiếm như buổi ban đầu Đoan Thuận bỏ nhà ra đi... Vì sao ba hành xử như vậy hở ba? Còn anh Vĩnh Tuấn, những ngày anh ở Sài Gòn, cự ly giữa anh với “dì Đoan Thuận” rất gần mà anh không hề hay biết. Những lần anh qua lại trên đại lộ Lê Lợi thênh thang cái biển hiệu mỹ viện Phúc Toàn ít nhất cũng một lần đập vào mắt anh, mà anh không hề có một chút suy nghĩ liên tưởng gì sao? Chưa bao giờ anh có ý định đi tìm gặp “dì Đoan Thuận” hoặc mơ gặp “dì Đoan Thuận” giữa Sài Gòn hoa lệ một thời sao?!... Khi những câu hỏi này được bật nên lời, thì anh Vĩnh Tuấn suy nghĩ một hồi lâu rồi cất giọng chậm rãi, rành mạch, mắt hơi trừng một chút với cô em gái Anh Thi - như thuở nào cô còn bé bỏng vậy: - Chúng ta ai cũng thương nhớ, mong chờ, day dứt, đau đớn, khắc khoải... không biết dì Đoan Thuận còn hay đã mất, nếu còn thì đang ở đâu? Như thế nào? Ra sao?... Có thể nói mấy chục năm qua không khí gia đình ta chưa có lấy một ngày vui thật sự, vì tâm trạng ấy luôn đè nặng lên tâm thức của mỗi người. Còn dì Đoan Thuận thừa biết tất cả những tình cảm ấy của mỗi một người trong chúng ta dành cho dì, thừa biết chúng ta đang ở đâu, làm gì... Nhưng dì đã chẳng hề coi trọng điều đó. Đối với dì thì những nguyên tắc của Tổ chức là cao nhất! Phương thức sống mà dì chọn lựa là tốt nhất! Dì sống vì lý tưởng mà dì đã chọn, vì ước mơ mà dì đã đạt được, vì nghĩa vụ mà Tổ quốc đã tin tưởng giao phó cho dì... Tất nhiên thiếu dì Đoan Thuận cách mạng vẫn thành công, nhưng chính dì muốn trong bản đại hợp xướng chiến thắng của dân tộc phải có sự góp mặt của dì. Chính dì đã từng nói với ba là dì có thể chết được rồi sau khi ba tiếp nhận tình yêu của dì. Con người khôn ngoan ấy đã không muốn chết bình yên trên chiếc giường của mình, trong ngôi nhà của mình. Con người ấy muốn sống một cuộc đời bằng nhiều cuộc đời cộng lại, nếu không muốn nói là nhân lên! Dì Đoan Thuận là như thế đó! Nếu anh không nhầm thì ngoài hai mươi tuổi ít nhất có một lần dì Đoan Thuận xác định đi vào chỗ chết, nhưng vẫn không chết. Đó là khi dì quyết định gửi em về Huế cho ba nuôi. Lời thư của dì viết cho ba anh đã thuộc lòng, và hẳn là em còn thuộc và nhớ hơn cả anh “... Sắp sửa vào chiến dịch mới. Tôi sợ lần ra đi này có thể không trở về, nên tôi đành phải gửi con tôi cho ngài nuôi dạy giúp...” Đó là mùa hạ năm 1948. Dì xác định mình có thể hy sinh. Nhưng ông trời còn để cho dì sống trên đời hai mươi năm nữa. Dì đã đi du học - như ước nguyện của ba ngày xưa mà vì quá yêu ba, nên dì không rời xa ba để đi học được. Dì học một ngành khoa học để làm đẹp cho bao người đàn bà con gái khác không được đẹp như dì. Cùng lúc, dì trở thành một cán bộ cách mạng hoạt động hợp pháp giữa thủ đô hoa lệ Sài Gòn trong một thời gian dài mà kẻ địch không hề hay biết. Thông minh, từng trải, đầy năng lực và dày dặn kinh nghiệm, hẳn là dì đã hoàn thành nhiều nhiệm vụ quan trọng được giao, để rồi cùng với đồng chí đồng bào làm nên một tổng tấn công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 lịch sử. Ngày kết thúc chiến dịch, một tay dì đã cứu sống hai thương binh bị thất lạc, rồi sau đó tự tay đưa các anh ra vùng an toàn, khi trở về dì mới bị địch bắt. Dì mãn nguyện lắm rồi, em không biết đó thôi! Em trách anh ở Sài Gòn lâu sao không nhìn thấy biển hiệu Phúc Toàn, và nếu đã nhìn thấy sao không có chút suy nghĩ, liên tưởng, tìm tòi... Nói thật với em, dạo đó - và cả về sau này - thỉnh thoảng nhìn thấy chỗ của các bà các cô lui tới để làm đẹp, là anh vội vã tránh xa ra! Có thể nói đàn bà con gái cứ mãi lo trau chuốt cái dung nhan cho lắm vào, thì đầu óc càng rỗng tuếch!... Hẳn là dì Đoan Thuận hàng ngày đều có đọc báo Sài Gòn, anh luôn ký tên thật dưới các bài báo, lẽ nào dì không nhận ra? Sao dì không chủ động đến tòa soạn tìm anh? Em biết không, khi em lặn lội cả năm trời đi tìm dấu tích của mẹ - từ tập nhật ký của mẹ để lại - cho đến những vùng miền mẹ đã từng qua, anh thương em lắm, vừa thương ba không còn nữa để biết được tin về mẹ. Nhưng bây giờ anh nghĩ khác. Nếu ba còn sống đến ngày nay để biết tất cả những sự ứng xử như thế của dì Đoan Thuận, chắc chắn ba sẽ buồn lắm. Thà ba không biết được những điều đó. Thà ba nửa tin nửa ngờ rằng dì Đoan Thuận đang còn sống ở đâu đó, hoặc đã hy sinh vào cuối cuộc kháng chiến chống Pháp. Mời các bạn đón đọc Những Dấu Chân của Mẹ của tác giả Hà Khánh Linh.
Đường Về - Erich Maria Remarque
“Tôi muốn mở cửa, đi vào trong phòng, tôi muốn nằm cuộn mình trên chiếc ghế bành, muốn ủ đôi bàn tay trong hơi ấm của gian phòng để hơi ấm ấy lan tỏa khắp người, tôi muốn nói chuyện, muốn mọi bạo tàn, khốc liệt và quá khứ sẽ tan chảy dưới đôi mắt yên lặng của người phụ nữ kia, và muốn bỏ chúng lại phía sau, muốn cởi bỏ chúng như cởi bỏ một bộ quần áo bẩn.” *** Trở về - là khải hoàn sau những năm chiến chinh, là đoàn tụ sau thời gian xa cách, là khoảnh khắc ấm áp của những con người đã tìm lại được nhau… Nhưng cuộc trở về của những người lính Đức sau Thế chiến I lại là hành trình khắc nghiệt của những cánh chim lạc bầy vật lộn giữa bão giông tìm đường quay lại cố hương, là gánh nặng của lửa đạn chiến tranh chết chóc, là hố thẳm ngăn cách giữa hai phần của cuộc đời. Và cả khi vượt qua tất cả để sang tới bến bờ bên kia, họ cũng chưa chắc sẽ tìm được những gì dấu yêu mình từng để lại sau lưng vào cái năm ly biệt. Đây là lần đầu tiên Đường về, tác phẩm được xem như phần hậu của Phía Tây không có gì lạ bởi sự tái xuất của một số nhân vật, ra mắt tại Việt Nam. Qua bản dịch đầy hồn lính mà vẫn đậm chất thơ của dịch giả Vũ Hương Giang, độc giả sẽ lại được gặp một Remarque rất khác, vừa khắc nghiệt lại mơ màng, trong tuyệt vọng lại hồi sinh hy vọng. *** Remarque (1898 – 1970) là nhà văn lừng danh người Đức. Ông nổi tiếng với Phía Tây không có gì lạ, một trong những tác phẩm hay nhất về Thế chiến I. Các tác phẩm tiêu biểu khác của ông như Ba người bạn, Khải hoàn môn, Đêm Lisbon…cũng góp phần không nhỏ trong việc khẳng định tài năng và danh tiếng của ông khắp năm châu. Năm 1931, ông được đề cử cả giải Nobel Văn chương và Hòa bình. Bia mộ đen (Der schwarze Obelisk – 1956) một lần nữa cho thấy thiên bẩm của Remarque trong việc nhìn ra được niềm vui, lạc quan và những điều tốt đẹp giữa khổ đau, tuyệt vọng và xấu xí. Nhận xét về tác phẩm này, cây bút F.T. Marsh của tờ New York Herald Tribune từng viết: “Dí dỏm nhưng đượm buồn, vừa nghiêm túc lại có chút giang hồ, tuyệt diệu trong từng câu chữ nhưng vẫn khó nắm bắt vô vùng”. Những tác phẩm tiêu biểu: Phía Tây không có gì lạ; Khải hoàn môn; Ba Người Bạn Đường về; Tia lửa sống; Bia mộ đen; Chiến Hữu Bản Du Ca Cuối Cùng Lửa Yêu Thương Lửa Ngục Tù Một Thời Để Yêu Và Một Thời Để Chết *** Đám lính còn sót lại của trung đội hai nằm nửa thức nửa ngủ trong chiến hào tan nát vì đạn pháo sau tuyến lửa. "Trái phá gì mà kỳ quái!" Jupp nói. "Sao cơ?" Ferdinand Kosole nhổm lên hỏi. "Thử nghe đi!" Jupp đáp. Kosole khum tay lên tai nghe ngóng. Và cả lũ chúng tôi cùng lắng tai vào màn đêm. Nhưng chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng nổ ì ầm của đại bác và tiếng rít của trái phá. Từ phía bên phải chỉ còn vọng đến tiếng súng máy tạch tạch và thi thoảng một tiếng kêu đơn độc. Nhưng chúng tôi đã quen với tất cả những thứ này từ nhiều năm nay, nên làm quái gì mà phải há hốc mồm ra như thế. Kosole nhìn Jupp ngờ vực. "Nó vừa dừng tức thì rồi," anh chàng kia lúng túng phân bua. Kosole nhìn bạn lần nữa đầy dò xét. Nhưng vì Jupp vẫn tỉnh bơ, anh quay đi càu nhàu: "Có mà bụng cậu sôi réo, chứ trái phá mẹ gì. Cứ ngủ đẫy mắt đi có hơn không." Vừa nói Kosole vừa vỗ vỗ đất thành hình cái gối và thận trọng nằm duỗi dài sao cho đôi ủng không thể tuột xuống nước. "Khỉ thật, trong khi ở nhà mình có hẳn một cô vợ và một cái giường đôi," anh làu bàu, mắt đã díp lại.   "Sẽ có một gã nào đó nằm ghé tí,' Jupp nói chõ ra trong xó của mình. Kosole hé một mắt, ném cho Jupp cái nhìn sắc lạnh. Có vẻ như anh định chồm dậy. Nhưng anh chỉ gầm gừ: "Tao chẳng khuyên cô ta làm vậy, cái đồ cú vọ nhà mày!" Liền sau đó anh đã cất tiếng ngáy. Jupp ra hiệu cho tôi qua chỗ anh ta. Tôi bò qua đôi ủng của Adolf Bethke và ngồi xuống bên Jupp. Cẩn thận ngó chừng anh chàng đang ngáy ngon lành, Jupp nói vẻ cay độc: "Cái ngữ ấy chả có tí học thức nào, nói để cậu biết." Trước chiến tranh Jupp từng làm thư ký cho một luật sư ở Köln. Mặc dù đi lính đã ba năm, anh ta vẫn giữ một tâm hồn nhạy cảm; và vẫn rất xem trọng việc tỏ ra là người có học thức ngoài chiến trường. Điều ấy thực sự có nghĩa gì, cố nhiên chính Jupp cũng chả rõ, nhưng trong tất cả những thứ trước kia anh ta đà từng nghe thì riêng cái từ "học thức" lại bắt rễ trong đầu anh ta, và anh ta bám chặt lấy nó như chết đuối vớ được cọc. Thật ra ai ở đây cũng có thứ gì đó đại loại như vậy: người này là vợ, người kia là cửa hiệu, kẻ nọ lại là đôi ủng, với Valentin Laher là rượu, còn với Tjaden đó là ước muốn được một lần nữa chén đẫy bụng món đậu nấu mỡ muối. Ngược lại, Kosole bao giờ cũng dị ứng với từ "học thức", với anh cái từ đó luôn liên quan đến lũ mặc áo cổ cồn, mà thế là quá đủ. Nên lúc này dù đang ngủ anh vẫn cáu tiết. Vừa ngáy anh vừa văng ra cộc lốc: "Rõ cái đống phân sặc mùi thư lại!" Jupp lắc đầu vẻ nhẫn nhịn và cao thượng. Chúng tôi im lặng ngồi sát bên nhau hồi lâu để sưởi ấm. Đêm lạnh và ẩm ướt, mây mù bao phủ, đôi lúc có mưa. Khi mưa, chúng tôi lôi những tấm vải bạt đang lót dưới người lên che đầu. Chân trời lóa sáng ánh lửa đạn. cảm giác dường như ở đó không lạnh như nơi đây, trông vui mắt dễ chịu thế cơ mà. Những trái phá bay vút lên trên những loạt pháo sáng, tựa những bông hoa sặc sỡ lấp lánh ánh bạc. Mặt trăng khổng lồ, đỏ ối lững lờ trôi trong sương mù bên trên những đống đổ nát của một nông trại. "Cậu có nghĩ là bọn mình sẽ về nhà không?" Jupp thì thầm. Tôi nhún vai. "Thì nghe nói thế..." Jupp thở dài. "Một căn phòng ấm áp, có ghế sofa, buổi tối đi chơi... Cậu còn hình dung nổi hay không?" "Lần về phép gần đây nhất, em đã thử lại những bộ thường phục của mình," tôi trầm ngâm nói, "nhưng đều chật quá rồi. Có lẽ sẽ phải sắm quần áo mới." Những từ: thường phục, sofa, buổi tối... vang lên nơi đây nghe sao lạ lẫm thế chứ. Những ý nghĩ kỳ quái nảy ra trong đầu... Giống như thứ cà phê đen đôi khi nặng vị thiếc và gỉ sắt đến nỗi vừa uống vào sẽ lập tức ọe ra nóng rẫy. Jupp mơ màng ngoáy mũi. "Ui chao, những quầy hàng... những quán cà phê... và đàn bà..." ... Mời các bạn đón đọc Đường Về của tác giả Erich Maria Remarque.
Người Bí Ẩn Khoác Áo Hồng Y
"Người bí ẩn khoác áo Hồng y là tác phẩm được nhà văn Alexandre Dumas viết vào giai đoạn cuối cùng của văn nghiệp. Tác phẩm kể về chuyện xảy ra ở triều đại Louis XIII, vào thời điểm nối tiếp sau câu chuyện về những nhân vật có lẽ chẳng còn xa lạ với độc giả: hiệp sĩ d'Artagnan cùng ba người bạn thân của chàng, Athos,vPorthos và Aramis. Lẽ cố nhiên, bạn đọc sẽ không tìm thấy những chàng hiệp sĩ ấy ở truyện này nữa, tuy vẫn còn đó hai con người quan trọng: Hồng y De Richelieu và Quốc vương Louis XIII. Khung cảnh của chuyện cũng hoàn toàn đổi khác, thay cho bầu không khí sôi nổi của những người cầm kiếm là chuỗi màn đấu trí gay cấn giữa những người mưu sâu kế hiểm. Trong truyện này, bạn đọc sẽ gặp gỡ Bá tước Moret, chàng hoàng tử hào hoa, lãng mạn, một nhân vật mà thời lượng nhà văn dành cho chàng là bằng ngang với Hồng y De Richelieu. Tác phẩm này, vì vậy, ở những lần xuất bản khác nhau tại Pháp cũng được biết đến với tựa đề Bá tước Moret. Là tác phẩm tiểu thuyết lịch sử, đa phần nhân vật trong truyện đều là những tên tuổi có thật thời bấy giờ, được hư cấu tài tình vào cốt truyện đậm tính hấp dẫn, sống động và khôi hài đặc trưng của nhà văn Dumas. “‘NGƯỜI BÍ ẨN KHOÁC ÁO HỒNG Y’ quả là một tuyệt tác! Vô số âm mưu hiểm độc và những màn lật ngược tình thế, những cuộc đấu tay đôi, niềm đam mê, lãng mạn, yêu thương và thù hận, đầy chất thơ và cũng không kém phần gay cấn. Chưa bao giờ người đọc lại cảm thấy dễ bị cuốn hút đến như vậy.” - Trang đánh giá Historical Novels Review “‘NGƯỜI BÍ ẨN KHOÁC ÁO HỒNG Y’ như được phủ lên mình một sức sống mới và tỏa sáng lộng lẫy trong phiên bản này. Những màn tranh đấu kịch tính đi kèm với sự hóm hỉnh nhưng cũng đầy châm biếm sâu cay. Phiên bản mới sẽ khiến người đọc phải thay đổi cách nhìn về nó: Một tuyệt tác cũ nay đã được nâng lên một tầm cao hoàn toàn mới.” - Tổ chức tin tức Quốc tế Christian Science Monitor" *** Lời giới thiệu Độc giả yêu văn học chẳng mấy ai chưa từng biết đến đại văn hào người Pháp Alexandre Dumas cùng những tác phẩm để đời của ông, Bá tước Monte Cristo và Ba chàng lính ngự lâm. Hẳn bạn đã đọc Ba chàng lính ngự lâm hay chí ít cũng đã xem qua một trong nhiều phiên bản của truyện này phỏng dựng thành phim điện ảnh hoặc phim truyền hình, và rất đỗi quen thuộc với chàng d’Artagnan dũng cảm cùng những vị bằng hữu: Athos, Porthos, và Aramis. Có lẽ bạn biết rằng bộ truyện ấy đã đưa đến sự ra đời của biết bao chuyện kể tiếp nối theo sau, mà đỉnh cao là tác phẩm lừng danh nhất từ trước đến nay, truyện Người đàn ông mang mặt nạ sắt, một tác phẩm đã được chuyển thể thành phim khá nhiều lần. Vậy thì, lý do gì mãi tận ngày nay bạn vẫn chưa hề nghe đến cái tên ‘Người bí ẩn khoác áo Hồng y’, nhất là vào khi nó được cho là “câu chuyện nối dài của Ba chàng lính ngự lâm” như những gì đã quảng cáo? Để tôi kể bạn nghe một chuyện. Nhân vật chính trong chuyện của chúng ta là một người đàn ông có sức sống mãnh liệt và tài năng xuất chúng, một nhân vật mà tầm vóc và sự nghiệp của ông đã vang danh trên thế giới. Ông sống hào hoa và yêu không giới hạn, dồn dập mang về của cải rồi ném cả vào nhà hát và nhà xuất bản, phí hoài cho lâu đài và cho cả mỹ nữ nhân tình, hân hoan trong cuộc đời đầy biến đổi, đắm chìm vào thú ẩm thực xa hoa, và say sưa làm chính trị. Tên của ông, tất nhiên rồi, là Alexandre Dumas. Bắt đầu sự nghiệp cầm bút vào cuối những năm 1820, chàng trai trẻ Dumas khi ấy vừa là thi sĩ vừa là kịch tác gia; vở kịch Melo đầu tay của ông sáng tác vào năm 1829 đã gây hiệu ứng đủ mạnh giúp ông dấn bước hẳn vào con đường văn nghiệp, để rồi suốt những năm 1830 ông sáng tác hết vở kịch này sang vở kịch khác, vở sau bao giờ cũng gây bất ngờ và tỏa sức hấp dẫn át hẳn vở trước. Ban đầu, kịch của ông lấy bối cảnh đương đại, nhưng sau đó ông chuyển sang dùng các nguồn sử liệu để sáng tác, và đến cuối thập niên 30 ông lại đổi hướng thành văn xuôi. Thời bấy giờ, những tập san phát hành tiểu thuyết dài kỳ đã bước vào giai đoạn thịnh hành, và hình thức viết theo kết cấu chương hồi là mảnh đất màu mỡ để kẻ vốn điêu luyện với văn phong biên kịch như Dumas thỏa sức sáng tạo nên những khung cảnh sống động, được điểm tô bằng lời thoại ngắn gọn mà hàm chứa ý tưởng dồi dào. Sau vài thành công khiêm tốn với truyện văn xuôi dài kỳ, năm 1844 ông cho ra đời tuyệt tác Ba chàng lính ngự lâm, và năm sau đó là Bá tước Monte Cristo. Cả hai tác phẩm này đã gây tiếng vang rộng khắp trên thế giới, và suốt mười lăm năm tiếp theo ông đều đặn hái quả ngọt từ sức sáng tác không hề biết đến sự mệt mỏi; ông viết truyện sau tiếp lấy thành công từ truyện trước, trong đó phải kể đến những tiểu thuyết lừng danh như Huynh đệ người Corsica, Cuộc chiến giữa những người đàn bà, Chuỗi hạt của vương hậu, Hoa tulip đen, bộ ba tác phẩm về dòng họ Valois, và một truyện mang tựa đề Bóng chim câu, viết về Bá tước Moret, người em chung nửa huyết thống của Quốc vương Louis XIII. Những tác phẩm này đã được dịch ra hàng chục thứ tiếng và được độc giả ở mọi thị trường xuất bản mến mộ, gồm cả Vương quốc Anh và đặc biệt là Hoa Kỳ. Nhưng Dumas là người giao du rộng rãi ngoài xã hội, kẻ không sao ngăn được mình đừng dính líu vào đời sống chính trị; và tài nói chuyện hài hước vừa sắc sảo vừa không kiêng dè khiến ông chuốc lấy thù oán với nhiều người. Năm 1851, người đỡ đầu của ông là Vua Louis-Philippe bị truất ngôi bởi Louis-Napoléon Bonaparte; mà vị tân Tổng tài này của nước Pháp thì không có thiện cảm với Dumas, nên nhà văn tính chuyện tốt nhất là rời bỏ đất nước để tìm sang xứ khác. Ông sang sinh sống ở nước Bỉ, rồi lại lạc bước đến nước Nga, và cuối cùng là nước Ý, nơi đây ông lại xía vào bầu không khí náo nhiệt của phong trào độc lập Italia. Ông không hề ngừng viết, có điều sản phẩm của ông được đón nhận càng ngày càng ít đi, thậm chí tại nước Pháp doanh thu từ sách của ông đã suy giảm đến mức chỉ còn nhỏ giọt. Ở đất nước quê hương, kẻ một thuở danh nổi như cồn nay đã trở thành… một gã lỗi thời. Năm 1864, ông trở về Paris, lòng quyết tâm tìm lại tiếng tăm và sự giàu có. Bấy giờ tuy đang viết về những cuộc hành trình đến nước Nga và nước Ý, ông vẫn cho rằng mình nên quay lại những câu chuyện phiêu lưu lịch sử, vốn là nguồn thành công lớn nhất của ông. Năm 1865, chủ bút tuần báo Les Nouvelles là Jules Noriac ướm hỏi Dumas về một bộ truyện dài kỳ thăm lại bối cảnh trong tác phẩm hút khách đầu tay của ông là Ba chàng lính ngự lâm. Dumas, còn chưa nguôi niềm mê say với vương triều Louis XIII cùng vị Hồng y Tể tướng Richelieu, nghe vậy liền sốt sắng nhận lời. Thế là ra đời một thiên truyện nhiều kỳ với nhan đề Bá tước Moret, một câu chuyện phiêu lưu kể về Quốc vương Louis, về người em cùng cha khác mẹ và ưa thích phiêu bồng của ông là Moret, về người tình Isabelle de Lautrec của chàng Moret, và về vị chính khách lỗi lạc là Hồng y Richelieu. Đặc biệt là Hồng y Richelieu; nhân vật được cuốn tiểu thuyết đề cập ở mật độ ngang bằng với mật độ dành cho Bá tước Moret, và cuối cùng thì tác phẩm này được người ta biết đến nhiều hơn với cái tên là Người bí ẩn khoác áo Hồng y. Sự chú ý được dồn vào vị Hồng y lý giải vì sao ở truyện này Dumas từ chối đưa vào sự hiện diện của d’Artagnan cùng ba vị ngự lâm quân bạn thân của chàng, khi mà họ rõ ràng chẳng có gì để lưu luyến với cốt truyện nơi đây. Vả chăng, Dumas đã sáng tác dễ đến cả triệu từ về d’Artagnan cùng đồng đội, ông đâu cần phải nói đi nói lại những gì mình đã viết cả rồi. Thế là Dumas trở lại thời của triều đình Louis XIII và bắt tay vào viết. Cảm hứng tuôn trào, qua sáu tháng ông đã nặn ra một truyện về phiêu lưu, chính trị luận và tình cảm lãng mạn mang phong cách cổ điển nhưng thời gian qua nhiều chục năm đã trở thành gánh nặng tuổi tác, người văn sĩ nay là kẻ đau ốm già nua, còn tờ Les Nouvelles thì số ra như nấc cụt rồi dừng hẳn. Câu chuyện bấy giờ cũng vậy: sau khi viết được chín phần mười, Dumas không bao giờ xong nốt phần còn lại. Người đời sẽ cho rằng sau biết bao khắc khoải, và sau quá nhiều thành công lẽ ra Dumas đã có thể tập trung nỗ lực để hoàn tất bộ truyện ngõ hầu giúp nó tìm đến sự xuất bản, giống như rất nhiều tác phẩm trước đó. Song ông chỉ đơn giản là mãi mãi không tìm ra một cái kết cho truyện này. Đó là sự suy đoán nhìn từ góc độ của người làm công việc biên tập cuốn sách đang nằm trên tay bạn, nhưng riêng tôi thì cho rằng mình biết được một lý do hấp dẫn lý giải vì sao. Theo cách nghĩ của tôi thì vấn đề ấy Dumas vốn đã giải quyết từ lâu, khi ông viết truyện Bóng chim câu vào mười lăm năm trước đó. Trong truyện kể riêng lẻ, hoàn chỉnh ấy, ông đã trình bày phần kết cho câu chuyện về Richelieu, về Bá tước Moret cùng người tình Isabelle de Lautrec của chàng. Bóng chim câu, tuy ít người biết đến vì dung lượng truyện quá ngắn nên khó lòng được xuất bản, song đã mang đến cho số phận của Moret và Isabelle một cái kết có hậu. Vậy thì ông đã làm xong điều ấy. Tại sao ông phải lặp lại những gì mình vốn đã viết ra? Trong ấn bản này, lần đầu tiên độc giả có thể tìm thấy thiên tiểu thuyết vĩ đại cuối đời của Alexandre Dumas, Người bí ẩn khoác áo Hồng y trở nên trọn vẹn và hoàn chỉnh hơn khi có thêm phần ngoại truyện Bóng chim câu. Chắc chắn bạn đọc sẽ hứng thú với truyện này. *** Lời người dịch Người bí ẩn khoác áo Hồng y là tác phẩm được nhà văn Alexandre Dumas viết vào giai đoạn cuối cùng của văn nghiệp. Tác phẩm kể về chuyện xảy ra ở triều đại Louis XIII, vào thời điểm nối tiếp sau câu chuyện về những nhân vật có lẽ chẳng còn xa lạ với độc giả: hiệp sĩ d’Artagnan cùng ba người bạn thân của chàng, Athos, Porthos và Aramis. Lẽ cố nhiên, bạn đọc sẽ không tìm thấy những chàng hiệp sĩ ấy ở truyện này nữa, tuy vẫn còn đó hai con người quan trọng: Hồng y De Richelieu và Quốc vương Louis XIII. Khung cảnh của chuyện cũng hoàn toàn đổi khác, thay cho bầu không khí sôi nổi của những người cầm kiếm là chuỗi màn đấu trí gay cấn giữa những người mưu sâu kế hiểm. Trong truyện này, bạn đọc sẽ gặp gỡ Bá tước Moret, chàng hoàng tử hào hoa, lãng mạn, một nhân vật mà thời lượng nhà văn dành cho chàng là bằng ngang với Hồng y De Richelieu. Tác phẩm này, vì vậy, những lần xuất bản khác nhau tại Pháp cũng được biết đến với tựa đề Bá tước Moret. Là tác phẩm tiểu thuyết lịch sử, đa phần nhân vật trong truyện đều là những tên tuổi có thật thời bấy giờ, được hư cấu tài tình vào cốt truyện đậm tính hấp dẫn, sống động và khôi hài đặc trưng của nhà văn Dumas. Người bí ẩn khoác áo Hồng Y, nguyên bản tiếng Pháp, được xuất bản lần đầu vào những năm 1860 dưới dạng tiểu thuyết đăng báo dài kỳ. Sau này, người ta tìm thấy bản hoàn chỉnh trong một căn gác nhỏ sau khi tác giả qua đời. Trên tay độc giả là bản Việt dịch từ bản Anh ngữ của phiên bản ấy. Với mong mỏi mang đến với bạn đọc một tác phẩm giá trị và đặc sắc của văn hào mà tên tuổi của ông đã quá thân thuộc ở rất nhiều quốc gia trên thế giới, dịch giả cố gắng chuyển tải một cách tốt nhất ý văn của tác giả thông qua bản Anh ngữ, đối chiếu với bản gốc Pháp ngữ cho những điểm quan trọng, giữ nguyên một số thán từ bằng tiếng Pháp như chúng vốn vậy ở bản tiếng Anh, và sử dụng các đại từ đã được Việt hóa theo thời gian, nay tuy đã là từ cũ, nhưng xét thấy phù hợp cho câu chuyện thuộc khung cảnh của những năm 1600. Một bản dịch qua hai lần ngôn ngữ thì thiếu sót khách quan lẫn chủ quan hẳn nhiên là điều không tránh khỏi. Rất mong bạn đọc lượng thứ và góp ý cho một bản dịch tốt hơn sau này. Trân trọng, Nguyễn Đăng Thuần Dịch giả Mời bạn đón đọc Người Bí Ẩn Khoác Áo Hồng Y của tác giả  Alexandre Dumas & Nguyễn Đăng Thuần (dịch).