Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Ngày Tươi Đẹp

Ngày hôm nay có phải ngày thích hợp để chết? Từ chỗ gờ tường tháp chuông cách mặt đất sáu tầng nhà, Finch tự hỏi như vậy để bỗng nhận ra cậu không đơn độc, vì phía bên kia tháp chuông, Violet dường như cũng đang có cùng suy nghĩ. Ngày hôm ấy, Finch không rõ cậu đã thuyết phục được Violet lùi lại hay chính sự xuất hiện của Violet đã ngăn cậu nhảy xuống, nhưng tình bạn, tình yêu đã khởi đầu từ đó. Liệu tất cả những điều ấy có đủ để đưa họ trở lại cuộc sống? Những ngày tươi đẹp hài hước, lãng mạn nhưng cũng không thiếu những khoảnh khắc nao lòng. Cuốn sách cho ta thấy những gì thực sự diễn ra trong tâm trí của người đang chìm trong hố đen trầm cảm, cho ta biết cảm thông và sống sao cho trọn vẹn từng khoảnh khắc. *** Review Cói:   Là quyển sách yêu thích nửa đầu 2019 của mình. Và mình rất recommend cho các bạn đang là học sinh như mình. Lấy bối cảnh ở một trường trung học, nhân vật chính là Finch - một cậu bạn bị xem là khác thường và lập dị, đã gặp gỡ Violet - người luôn ám ảnh bởi quá khứ người chị gái. Đọc câu chuyện này với tâm thế như dõi theo cuộc sống trung học của hai bạn trẻ nên mình vô cùng hứng thú. Sự khác biệt ở mỗi cá thể, mà bị coi là lập dị ở trường trung học; cho nên ai cũng cố gắng trở nên bình thường. Finch thì không như thế. “...Tôi nghĩ rằng có những nơi cần được ngắm nhìn. Có lẽ sẽ chẳng có ai đến thăm những nơi đó và trân trọng chúng hoặc dành thời gian để nghĩ chúng quan trọng, nhưng có lẽ ngay cả những nhỏ nhất cũng có ý nghĩa gì đó. Còn nếu không, có lẽ chúng có thể có ý nghĩa gì đó với chúng ta. Ít nhất mà nói, vào lúc chúng ta rời đi, chúng ta biết chúng ta đã nhìn thấy nơi đây, tiểu bang vĩ đại của chúng ta. Vậy thì ta đi thôi. Hãy đi thôi. Hãy để đời ta có chút ý nghĩa nào đó. Hãy rồi khỏi cái gờ tường đó đi.” Finch cứu Violet khỏi cảnh chết đuối dưới những nỗi dằn vặt, ám ảnh. Nhưng còn Finch, cậu có thể bơi khỏi chính cái hồ sâu ấy không ? Từ một Violet ủ dột, cô ấy trở nên tươi sáng, vui vẻ trở lại. Nhưng còn Finch, vẫn mãi giữ những suy nghĩ cho chính mình. Một cuốn sách hay. Có nhiều khía cạnh được khai thác mà mục đích là để ta suy ngẫm về chính mình, về những người xung quanh. Mình đã có những cảm xúc thật vui, và xúc động rất nhiều. Các bạn, nếu bạn nghĩ mình có vấn đề về sức khoẻ tinh thần, hãy đọc cuốn sách này ít nhất một lần nhé. *** Review Trinh Phạm Thị Đoan:   Đánh giá: 5????/5 Nhiều người nói quyển sách này đã "thơ mộng hóa" căn bệnh trầm cảm, nhưng mình thấy nó thật đẹp, và cũng thật buồn. Khi Finch cứu Violet trên gờ tháp chuông, chẳng ai ngờ rằng cậu cũng đang tự chiến đấu với chính mình để không nhảy xuống vực thẳm đen tối kia. Mình vẫn luôn tin rằng, sẽ chẳng có ai muốn chết nếu có người chịu lắng nghe họ, không cần làm gì cả, chỉ cần lắng nghe thôi. Thật khó khăn khi phải vật lộn mỗi ngày giữa hai lựa chọn Thức và Ngủ. Thật khó khăn khi cố gắng không cho ai thấy phía sau cánh cửa-nơi bạn dần dần suy sụp. Thật khó khăn để yêu một người mà không nghĩ đến người ấy sẽ như thế nào nếu mình đột ngột rời đi. Một sinh mệnh đẹp đẽ như thế, cuối cùng lại tàn lụi ở nơi không ai nhìn thấy. Nhưng ít nhất cậu ấy vẫn sống, ở một thế giới do cậu ấy tạo ra, nơi cậu ấy không còn phải chịu đựng những Cú Rơi Dài nữa. Bởi vì hôm nay vẫn là một ngày tươi đẹp. *** Tôi lại tỉnh dậy. Ngày thứ 6 Ngày hôm nay có phải là ngày thích hợp để chết? Đó là điều tôi tự hỏi mình vào buổi sáng khi tôi thức dậy. Vào tiết thứ ba khi tôi đang chống mắt nghe thầy Schroeder giảng bài như ru ngủ. Ở bàn ăn tối khi tôi chuyển đĩa đậu cho mọi người. Khi ban đêm tôi nằm thao thức vì tâm trí cứ quay mòng mòng với bao điều suy nghĩ. Hôm nay có phải ngày đó không? Và nếu không phải hôm nay thì là bao giờ? Tôi đang tự hỏi mình điều đó ngay lúc này, khi đứng ở gờ tường hẹp cách mặt đất sáu tầng nhà. Tôi đang ở rất cao, đến mức như thể là một phần của bầu trời. Tôi nhìn xuống vỉa hè bên dưới, và cả thế giới chao nghiêng. Tôi nhắm mắt lại, tận hưởng cái cách mọi thứ quay cuồng. Có lẽ lần này tôi sẽ làm điều đó - phó mặc cho ngọn gió đưa mình đi. Cảm giác đó sẽ giống như bồng bềnh trong bể bơi, thiếp dần đi tới khi chẳng còn gì nữa. Tôi không nhớ mình đã trèo lên đây. Thật ra tôi không nhớ mấy những gì đã xảy ra trước Chủ nhật, chí ít là những gì xảy ra trong mùa đông này. Lúc nào cũng vậy - cứ tỉnh dậy là đầu óc sạch trơn. Tôi giống như lão già râu xồm Rip Van Winkle* Mọi sự cứ không cánh mà bay. Bạn có thể nghĩ tôi đã quen với việc này, nhưng lần này là tệ nhất vì không phải tôi chỉ ngủ vài ngày hay một, hai tuần - tôi đã ngủ suốt các kỳ nghỉ, tức là lễ Tạ ơn, Giáng sinh và Giao thừa. Tôi không thể diễn tả sự khác biệt lần này, chỉ là khi thức dậy, tôi cảm thấy mình gần cái chết hơn mọi khi. Tôi thức, đúng thế, nhưng hoàn toàn trống rỗng, như thể ai đó đã hút kiệt máu tôi. Đây là ngày thứ sáu từ khi tôi tỉnh lại lần nữa, và là tuần đi học đầu tiên kể từ ngày 14 tháng Mười một. Tôi mở mắt, và mặt đất vẫn ở đó, vững chãi và kiên cố. Tôi đang ở trên tháp chuông của trường, đứng trên một gờ tường rộng khoảng 10 phân. Tháp chuông khá nhỏ, khoảng sàn bê tông ngoài cái chuông chỉ rộng độ vài bước chân, ngoài ra còn có cái lan can thấp bằng đá mà tôi đã trèo qua để ra đến đây. Thỉnh thoảng tôi lại đá chân vào nó để chắc chắn rằng nó vẫn ở đó. Hai tay tôi dang rộng như đang tiến hành một buổi thuyết giáo và toàn bộ cái thành phố không-quá-lớn, buồn tẻ này là con chiên. “Thưa quý ông, quý bà,” tôi hét, “xin chào mừng quý vị đến với cái chết của tôi!” Có thể các bạn đã đoán tôi sẽ nói chào mừng đến với “cuộc sống” của tôi, bởi tôi vừa mới thức dậy mà, nhưng chỉ lúc nào tỉnh tôi mới nghĩ đến cái chết. Tôi đang gào theo cái lối của một nhà truyền giáo kiểu cũ, đầu giật giật, các từ cứ về cuối lại ríu rít vào nhau, và tôi suýt nữa mất thăng bằng. Tôi bám vào phía sau, mừng là dường như không ai nhận thấy điều này, bởi vì, nói thật là, thật khó tỏ ra can đảm khi mình đang bám chặt lan can và run lập cập như một con gà. “Tôi, Theodore Finch, với tinh thần thiếu minh mẫn, trân trọng tuyên bố để lại toàn bộ tài sản trần tục của mình cho Charlie Donahue, Brenda Shank-Kravitz và chị em gái tôi. Những người khác có thể biến con mẹ nó đi!” Ở nhà, từ nhỏ mẹ đã dạy chúng tôi phát âm cái cụm từ đó (nếu chúng tôi phải dùng đến), hay đúng hơn, là dạy chúng tôi đừng nói ra, nhưng đáng buồn là nó đã kẹt lại trong đầu tôi. Dù tiếng chuông đã vang lên, mấy đứa cùng lớp tôi vẫn tha thẩn ở sân trường. Đây mới là tuần đầu tiên của kỳ hai năm cuối cấp, thế mà bọn chúng đã làm ra vẻ mình đã học xong và chuẩn bị ra trường đến nơi. Một thằng trong số đó nhìn về phía tôi, như thể nó đã nghe thấy tôi nói, nhưng những đứa khác thì không, hoặc bởi vì chúng chưa nhìn ra tôi hoặc bởi vì chúng biết tỏng tôi ở đó và Ôi dào, lại thằng Theodore Lập Dị chứ gì. Rồi thằng đó quay đầu đi chỗ khác và chỉ lên trời. Lúc đầu tôi tưởng nó chỉ vào mình, nhưng đúng lúc đó tôi nhìn thấy cô. Cô đứng cách tôi vài bước, ở phía bên kia tháp chuông, cũng đứng ngoài gờ tường, tóc vàng sậm bay trong gió, chân váy phồng lên như một chiếc dù. Dù bây giờ là tháng Một ở bang Indiana, cô đi chân đất, chỉ mặc quần tất mỏng, một tay cầm đôi bốt, và đang nhìn chằm chằm hoặc vào chân cô hoặc vào mặt đất - thật khó nói chính xác. Trông cô như đã hóa đá tại chỗ. Tôi nói bằng giọng thông thường, không phải của nhà truyền giáo, một cách bình tĩnh nhất có thể: “Nghe tớ nói này, giờ tệ nhất là cậu nhìn xuống đấy.” Thật chậm chạp, cô quay đầu sang phía tôi, và tôi biết cô gái này, hoặc ít nhất tôi đã nhìn thấy cô ở hành lang trường. Tôi không thể ngăn mình nói tiếp: “Cậu có đến đây thường xuyên không? Vì chỗ này gần như là chỗ của tớ, và tớ không nghĩ là đã từng nhìn thấy cậu ở đây.” Cô không cười cũng chẳng chớp mắt, chỉ nhìn tôi chằm chằm từ sau cặp kính to sụ che gần hết khuôn mặt. Cô cố lùi một bước và chân vô tình đá vào lan can. Cô chệnh choạng một chút, và trước khi cô kịp hoảng loạn, tôi lên tiếng: “Tớ không biết cái gì đưa cậu tới đây, nhưng với tớ thì thành phố của chúng ta trông xinh đẹp hơn và mọi người có vẻ tử tế hơn, thậm chí những người xấu xa nhất trông cũng gần như tử tế. Trừ Gabe Romero và Amanda Monk và toàn thể cái nhóm mà cậu hay chơi cùng.” Tên cô là Violet Gì Đó. Cô nổi tiếng chẳng kém mấy đứa trong đội cổ vũ của trường - một trong những đứa con gái mà bạn không nghĩ mình sẽ bắt gặp ở một gờ tường cách mặt đất sáu tầng nhà. Sau cặp kính thô kệch cô khá xinh, tựa như búp bê bằng sứ vậy. Đôi mắt to, khuôn mặt trái tim dễ thương, khuôn miệng như muốn nở ra một nụ cười nhỏ xinh hoàn hảo. Cô là kiểu con gái hẹn hò với những gã như Ryan Cross, siêu sao bóng chày, và ngồi cùng Amanda Monk và những đứa con gái đầu sỏ khác vào bữa trưa. “Nhưng hãy thẳng thắn với nhau, chúng ta không lên đây để ngắm cảnh. Cậu là Violet, phải không?” Cô chớp mắt một cái, và tôi coi đó là câu trả lời đồng ý. “Tớ là Theodore Finch. Tớ nghĩ chúng ta đã học Toán cùng nhau năm ngoái.” Cô chớp mắt lần nữa. “Tớ ghét môn Toán, nhưng không phải vì thế mà tớ đến đây. Nếu đó là lý do của cậu thì đừng để bụng nhé. Cậu chắc là giỏi Toán hơn tớ, vì chắc chắn ai cũng sẽ giỏi Toán hơn tớ, nhưng cũng chẳng sao cả, tớ thấy không vấn đề gì. Này nhé, tớ giỏi cái khác, những cái quan trọng hơn - ghita, tình dục, hoặc liên tục làm bố tớ thất vọng, đấy là vài ví dụ. Mà thực ra, rõ ràng là cậu sẽ không bao giờ sử dụng nó ở thế giới thực, đúng không? Ý tớ là môn Toán ấy.” Tôi cứ thao thao, nhưng tôi biết mình sắp hết chịu nổi. Trước hết là vì tôi đang buồn đi tè, nên từ ngữ của tôi không phải là cái duy nhất co rúm lại với nhau. (Rút kinh nghiệm: Trước khi tự tử, hãy nhớ đi tè). Và, thứ hai, trời đang bắt đầu mưa, mà ở nhiệt độ này, mưa sẽ hóa tuyết trước khi chạm đất. “Trời bắt đầu mưa đấy,” tôi nói, như thể cô không biết điều này. “Tớ nghĩ sẽ có người tranh cãi rằng mưa sẽ rửa trôi máu đi, để cái đống của chúng ta đỡ bầy nhầy, tiện cho người khác dọn. Nhưng chính cái phần ‘bầy nhầy’ đã khiến tớ phải suy nghĩ. Tớ không phải là một người phù phiếm, nhưng tớ là một con người, tớ không biết cậu thế nào chứ trong đám tang của mình, tớ không muốn trông như vừa đi qua một cái máy xẻ gỗ.” Cô đang rùng mình hay đang run lên, tôi không thể biết chắc chắn, và thế là tôi nhích từng chút một về phía cô, cầu mong không ngã trước khi đến đích, bởi rõ ràng điều cuối cùng tôi muốn làm là biến mình thành một thằng ngu trước mặt người con gái này. “Tớ đã nói rõ ràng là tớ muốn được hỏa thiêu, nhưng mẹ tớ không tin.” Còn bố thì sẽ làm bất kể điều gì mẹ nói để không làm phật ý mẹ thêm nữa, và bố còn nói thêm: Con còn quá trẻ để nghĩ đến điều này, con biết đấy, bà Finch của con đã sống tới năm chín mươi tám tuổi, chúng ta không cần phải nói về chuyện này bây giờ, Theodore, đừng làm mẹ giận. “Thế tức là tớ sẽ bị nhét vào quan tài, tức là nếu tớ nhảy, cái chết sẽ chẳng đẹp đẽ gì. Hơn nữa, có lẽ tớ thích khuôn mặt tớ được nguyên vẹn, hai mắt, một mũi, một miệng, một hàm răng đầy đủ, mà nó, nói thật với cậu, là một trong những cái hơn người ở tớ đấy.” Tôi cười minh họa cho cô luôn. Một hàm răng đều tăm tắp, ít nhất là trông bề ngoài thì như vậy. Thấy cô vẫn im lặng, tôi tiếp tục vừa nhích dần sang vừa nói. “Nhưng hơn hết, tớ cảm thấy không phải với những người làm đám ma. Đó vốn là một nghề chả ra sao rồi, nhưng phải xử lý một thằng dở hơi như tớ ư?” Từ phía bên dưới, ai đó hét lên: “Violet à? Có phải Violet trên đó không?” “Ôi trời ơi,” cô buột miệng, nhỏ đến mức tôi hầu như không nghe thấy. “Ôitrờiôitrờiôitrời.” Gió thổi váy và tóc cô, trông như thể cô sẽ bay đi. Bắt đầu có tiếng lao xao ở dưới, và tôi hét: “Đừng cố cứu tôi! Các người sẽ chỉ làm hại chính mình thôi!” Rồi tôi nói, rất nhỏ, chỉ đủ cho cô nghe: “Bây giờ tớ nghĩ chúng ta phải làm thế này.” Lúc này tôi đang đứng cách cô chừng ba mươi phân. “Tớ muốn cậu ném đôi giày của cậu về phía cái chuông rồi bám vào lan can, chỉ cần nắm chặt vào lan can, và khi nào cậu nắm được nó, hãy dựa người vào rồi đưa chân phải qua. Hiểu chứ?” Cô gật đầu và suýt mất thăng bằng. “Đừng gật đầu. Và làm gì thì làm, đừng có nhầm lùi lại thành tiến lên đấy. Tớ sẽ đếm cho cậu. Từ một đến ba nhé.” Cô ném đôi bốt về phía cái chuông, và chúng rơi bộp, bộp trên sàn bê tông. “Một. Hai. Ba.” Cô nắm lấy cái lan can đá và nhổm người lên rồi đưa một chân qua để ngồi lên đó. Cô nhìn chằm chằm xuống mặt đất và tôi có thể thấy cô lại hóa đá, và thế là tôi nói: “Tốt. Tuyệt vời. Chỉ cần đừng nhìn xuống nữa.” Cô chầm chậm nhìn tôi rồi thò chân phải xuống tìm sàn tháp chuông, và khi chân cô chạm mặt sàn, tôi nói: “Bây giờ tìm cách đưa chân trái qua đi. Đừng bỏ tay khỏi tường.” Lúc này cô run cầm cập đến nỗi tôi có thể nghe tiếng hai hàm răng cô va vào nhau, nhưng tôi nhìn theo trong khi cô đưa chân trái về phía chân phải, và giờ cô đã an toàn. Vậy là bây giờ chỉ còn lại tôi bên ngoài. Tôi nhìn xuống mặt đất một lần cuối cùng, qua mũi đôi bàn chân cỡ bốn mươi bảy vẫn tiếp tục to ra của mình - hôm nay tôi đi giày đế mềm với dây buộc huỳnh quang - qua ô cửa sổ mở ở tầng bốn, tầng ba, tầng hai, qua Amanda Monk, vừa lớn tiếng cười đùa trên bậc thềm vừa ngúng nguẩy túm tóc vàng buộc kiểu đuôi ngựa, tay nâng sách che đầu, cố vừa tạo dáng vừa che mưa cùng một lúc. Mời các bạn đón đọc Những Ngày Tươi Đẹp của tác giả Jennifer Niven.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bệnh Nhân Người Anh - Michael Ondaatje
Bệnh nhân người anh là tác phẩm đầy chất thơ về số phận của bốn con người gặp nhau nơi một tòa biệt thự bỏ hoang ở vùng đồi nước Ý trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh Thế giới thứ hai. Câu chuyện như những trang sách được lật giở ngẫu nhiên dần hé mở tâm trạng và cuộc đời của từng nhân vật: Hana, cô y tá với những chấn thương tinh thần, một mực ở lại chăm sóc ông bệnh nhân người Anh khi những người khác trong bệnh viện dã chiến này đã chuyển đi; Caravaggio, một tên trộm, một cựu điệp viên, bị chặt đứt hai ngón tay cái trong một lần bị địch bắt; Kip, anh lính công binh gỡ bom người Ấn dè dặt với người phương tây; và bệnh nhân người Anh, nhân vật trung tâm, bị bỏng đến mức không còn nhận diện được, một ẩn số giữa họ... Bệnh nhân người Anh bí ẩn - ông thực sự là ai? Câu trả lời sẽ được hé lộ qua từng mảnh ký ức giống như tia chớp thi thoảng lé lên trong ông. Ký ức về cuộc đời phiêu lưu và mối tình mãnh liệt nhưng đau đớn của ông sẽ dẫn người đọc bước vào một mê cung cảm xúc rối rắm nhưng đầy thú vị. Hãy cùng đọc, khám phá và suy ngẫm... *** "Bệnh nhân người Anh (The English Patient) là một tác phẩm hấp dẫn của tiểu thuyết - cả với thơ ca và triết học”, Helena Kennedy - chủ tịch Quỹ Giải thưởng Booker cho biết. Bệnh nhân người Anh lấy bối cảnh những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh Thế giới II khốc liệt, một chiếc máy bay bị bắn hạ và rơi xuống khu vực sa mạc Sahara. Trong chiếc máy bay là một người phụ nữ đã chết và một người đàn ông bị bỏng nghiêm trọng. Anh ta được gọi là "bệnh nhân người Anh" và được chuyển cho y tá Hana chăm sóc tại một biệt thự ở Ý bị hủy hoại. Nhưng ở nơi hoang vu đó, những cuộc tình nên thơ vẫn đâm chồi nảy nở. Đó là mối tình đẹp nhưng buồn của nữ y tá Hana với chàng trung sĩ phá mìn Kip, là mối tình buồn được ghi chép trong những trang nhật ký của bệnh nhân người Anh - Laszlo de Almasy với cô gái Katharine Clifton. Bệnh nhân người Anh đã đoạt nhiều giải thưởng và được dịch ra hơn 300 ngôn ngữ khác nhau, nhưng có lẽ bản chuyển thể tốt nhất là khi nó trở thành một bộ phim kinh điển của đạo diễn Anthony Minghella năm 1996. Bộ phim giành được 9 giải Oscar, 2 giải Quả cầu vàng và 6 giải BAFTA cho phim hay nhất năm 1997. *** Philip Michael Ondaatje, CC FRSL, là một nhà thơ, nhà văn tiểu thuyết, nhà tiểu thuyết, tiểu thuyết gia, nhà biên tập và nhà làm phim người Canada gốc Sri Lanka. Ông là người nhận được nhiều giải thưởng văn học như Giải thưởng của Toàn quyền, Giải thưởng Giller, Giải thưởng Booker và Giải thưởng Médicis étranger. Mời các bạn đón đọc Bệnh Nhân Người Anh của tác giả Michael Ondaatje.
Thành Phố Sau Ánh Hào Quang - Denley Lupin
Cuộc đời này những gì đến và đi không phải lúc nào chúng ta cũng có thể quyết định. Điều gì đang có nên trân trọng, thứ gì ra đi nên cảm ơn vì ý nghĩa nó từng đem đến. Nữ tác giả viết: “Thế giới này, chính vì có những con người dám ước mơ, dám thực hiện, dám chấp nhận thất bại nên mới có những phát minh vĩ đại. Bạn không cần trở thành vĩ nhân, hay trở thành người kiến tạo thế giới. Bạn chỉ cần sống đúng với mong ước cuộc đời của riêng bạn, sống một cuộc sống không phải hối hận, là đã đủ hạnh phúc rồi. Hãy theo đuổi hành trình ước mơ của bạn, lên kế hoạch và bắt tay thực hiện nó”. Những trang viết tràn đầy nhiệt huyết tuổi trẻ, sống hết mình với tuổi trẻ và không bao giờ hối tiếc hay phải nói hai từ “giá như”. *** Ba năm sau. M.Y.S đã trở thành nghệ sĩ hàng đẩu ở thời điểm hiện tại. Là con át chủ bài của JND, danh tiếng chẳng hề thua kém gì đàn anh Nam Phong hay Winter ở thời kỳ đỉnh cao. Có thể xem cô là nữ nghệ sĩ xuất sắc nhất trong lịch sử JND. M.Y.S được săn đón ở khắp mọi nơi nhưng cô luôn chọn cho mình lối sống khá kín đáo sau ánh hào quang. Nam Phong đã lặng lẽ rời khỏi làng giải trí. Đã hai năm qua anh tham gia một tổ chức phi chính phủ, giúp đỡ người khó khăn ở nhiêu nước nghèo đói. Có lẽ danh vọng, sự nổi tiếng trong showbiz đã chẳng còn sức hút với anh. Khi mọi thứ đã đạt được, đã ở đỉnh cao, anh chỉ mong muốn quay về làm những điêu giản dị như cách để trả ơn xã hội, để tìm ra giá trị của cuộc sống. ... Mời các bạn đón đọc Thành Phố Sau Ánh Hào Quang của tác giả Denley Lupin.
Âm Điệu Bóng Đêm
Trong suốt sự nghiệp viết lách nổi tiếng của mình, Julie Garwood đã làm say mê độc giả với những nhân vật hấp dẫn, táo bạo và bùng nổ với cuộc sống. Giờ đây, tiểu thuyết gia nổi tiếng Julie Garwood đã trở về với câu chuyện tình lãng mạn lịch sử, một câu chuyện ly kỳ về tình yêu, giết người, phiêu lưu và bí ẩn chống lại khung cảnh ám ảnh của Scotland thời trung cổ. Đối với Công chúa Gabrielle của St. Biel, Scotland là vùng đất của những khung cảnh tuyệt đẹp, những thủ lĩnh hoang dã, những ánh mắt xảo quyệt, và những bóng tối dốc đứng, skullduggery, phản bội, và giờ là giết người. Được tôn vinh bởi vẻ đẹp tinh tế của mình, con gái của một trong những nam tước có ảnh hưởng nhất nước Anh, Gabrielle cũng là một con bài mặc cả hoàn hảo cho một vị vua cần hòa bình ở vùng núi cao: Vua John đã sắp xếp cuộc hôn nhân của Gabrielle đến một người phụ nữ tốt bụng và hiền lành. Nhưng cuộc hôn nhân này sẽ không bao giờ diễn ra. Mọi thứ thay đổi trong một đợt tự do cuối cùng khi cô và những người bảo vệ của mình bắt gặp một cảnh tàn ác không thể tưởng tượng được. Với một phát bắn từ cây cung và mũi tên của mình, Gabrielle lấy mạng, cứu mạng và bắt đầu một cuộc chiến.Trong vài ngày, vùng núi cao rực lửa một trận chiến hoàng gia bùng lên giữa kẻ thù cũ và mới. Đến Scotland để kết hôn, thay vào đó, Gabrielle bị vướng vào mưu đồ ở vùng cao. Đối với hai nhà quý tộc tàn bạo, việc đánh giá thấp sự dũng cảm và năng lực của Gabrielle có thể sẽ dẫn đến cái chết, nhưng nhờ có một bí mật mà Gabrielle sở hữu , Colm MacHugh - người đàn ông đáng sợ nhất ở Scotland, đã tìm ra một nguyên nhân mới cho sự can đảm. Một cuốn tiểu thuyết hấp dẫn đi sâu vào trái tim của những cảm xúc, niềm đam mê bất khuất của tình yêu, thù hận và sự trả thù. “Âm điệu bóng đêm” là món quà tuyệt vời từ Julie Garwood và một thành tựu đáng nể trong sự nghiệp tuyệt vời của cô. *** Mưa lắm rồi vào cái năm mà những cơn giông bão dữ dội tràn vào từ biển khơi, đám chiến binh đầu tiên từ vùng đất xa xôi băng đồi vượt núi và đặt chân lên bờ biển của chúng ta. Với vũ khí bằng thép đeo trước ngực và bộ giáp được đánh bóng sáng lấp lánh tựa như mảnh kính vỡ dưới ánh mặt trời ban trưa, chúng tuần hành khắp những nơi mà mắt có thể nhìn thấy được. Chúng không cần hỏi han cũng chẳng hề quan tâm rằng mình đang xâm lược. Nói cách khác, chúng đang thi hành nhiệm vụ và chẳng gì có thể ngáng đường chúng. Băng qua đồng bằng của chúng ta, chúng chiếm đoạt ngựa và thức ăn, dẫm đạp lên hoa màu, cướp phụ nữ và giết rất nhiều những trai tráng khỏe mạnh. Chúng hủy diệt tất cả những nơi chúng đi qua… tất cả đều nhân danh Đức Chúa Trời. Chúng tự gọi mình là đội quân Thập Tự Chinh. Chúng cực kỳ tin tưởng rằng sứ mệnh của mình vô cùng thiêng liêng và tốt đẹp vì Đức Giáo Hoàng, người đã ban phước lành và ra lệnh cho chúng thực hiện cuộc hành trình đến phía bên kia của thế giới, đã nói với chúng như thế. Chúng phải trừng phạt những kẻ ngoại đạo và buộc họ phải tôn thờ Đức Chúa Trời và tín ngưỡng của chúng. Nếu những người ngoại đạo từ chối, những binh lính kia sẽ giết họ bằng thanh kiếm thiêng liêng được ban phước của mình. Vượt qua những ngọn núi của chúng ta là con đường duy nhất để đội quân Thập Tự Chinh tiến hành sứ mệnh của chúng, thế là chúng đi thành từng đoàn và khi chúng đặt chân đến bến cảng ở bên kia dãy núi, chúng đánh cắp tàu của chúng ta để giương buồm vượt đại dương đến nơi mà chúng cần đến. Đất nước nhỏ bé của chúng ta được gọi là Monchanceux, được cai trị bởi đức vua Grenier nhân từ. Ngài là người yêu quê hương và muốn bảo vệ nó. Chúng ta chẳng phải đất nước giàu có gì, nhưng chúng ta hài lòng với nó. Thế là đủ. Khi lũ xâm lược cướp bóc của chúng ta, đức vua rất phẫn nộ, nhưng ngài không để cho cơn giận dữ sai khiến. Vì ngài là một đấng minh quân, đức vua Grenier đã đưa ra một giải pháp. Ngài buộc tốp lính xâm lược tiếp theo phải trả phí khi vượt núi. Đường núi chật hẹp, nên có thể dễ dàng phòng thủ. Binh lính của chúng ta được trang bị để chống lại cái lạnh, tuyết và những cơn gió cắt thịt về đêm. Họ có thể bảo vệ rặng núi suốt hàng tháng trời và mùa đông sẽ đến rất nhanh. Kẻ dẫn đầu đoàn xâm lược vì chính nghĩa kia cảm thấy bị xúc phạm khi phải trả phí cho thứ gì đó. Hắn và binh lính của mình đang thực hiện một nhiệm vụ cao cả. Hắn dọa sẽ giết hết tất cả những người dân của Monchanceux, kể cả phụ nữ và trẻ em, nếu bọn chúng bị cản đường. Liệu đức vua Grenier và thần dân của mình có nhận ơn huệ của Giáo hội, hay họ chọn làm những kẻ ngoại đạo ngáng đường của Chúa? Câu trả lời sẽ quyết định số phận của họ. Ngay thời điểm mấu chốt ấy đức vua nhân từ và thông minh của chúng ta đã tiếp nhận tín ngưỡng. Ngài nói với kẻ dẫn đầu đội quân rằng ngài và tất cả thần dân của mình đều thuộc về Chúa và ngài sẽ chứng minh điều đó bằng bất cứ giá nào. Sau đó, Ngài cho gọi tất cả người dân của Monchanceux tập hợp trước ban công của cung điện. Kẻ cầm đầu đoàn quân Thập Tự Chinh đứng ngay sau ngài. “Kể từ giờ trở đi đất nước của chúng ta sẽ mang tên St. Biel, nhân danh vị thánh đỡ đầu của gia tộc ta. Người sẽ phù hộ cho những người vô tội,” đức vua Grenier tuyên bố. “Chúng ta sẽ dựng tượng thánh St. Biel và vẽ tranh của Người trước cửa thánh đường để bất cứ ai đặt chân đến với bờ biển của chúng ta đều sẽ thấy được sự tốt đẹp của Người, chúng ta sẽ cống nạp cho Đức Giáo Hoàng để tỏ lòng thành kính và sự phục tùng của chúng ta. Số lệ phí mà ta thu được sẽ dùng để cống nạp.” Kẻ cầm đầu đám ngoại xâm nhận ra rằng mình đang trong tình thế khó xử. Nếu hắn từ chối trả phí – bằng vàng, đương nhiên, đức vua sẽ không chấp nhận thứ gì khác – vậy khác nào hắn từ chối việc cho phép nhà vua cống nạp cho Đức Giáo Hoàng? Và nếu Đức Giáo Hoàng biết được hắn đã từ chối, Giáo Hoàng sẽ làm gì? Khai trừ hắn? Xử tử hắn? Sau một đêm dài suy ngẫm và quát tháo không ngừng, kẻ cầm đầu đoàn quân đã quyết định trả phí. Đó là một sự kiện trọng đại, một tiền lệ đã được đặt ra kể từ thời khắc đó, bất cứ quân Thập Tự Chinh nào muốn đi qua lãnh thổ của chúng ta đều phải trả phí mà không có bất cứ thắc mắc nào. Đức vua của chúng ta đã giữ đúng lời hứa. Ngài đã nung chảy vàng và làm chúng thành những đồng tiền nhỏ, trên mỗi đồng tiền đều có hình thánh St. Biel, với vầng hào quang trên đầu. Kho bạc hoàng gia phải mở rộng để làm phòng chứa những đồng tiền vàng, một con tàu được chuẩn bị cho chuyến hành trình dâng chúng đến tay Đức Giáo Hoàng. Một ngày trọng đại, những chiếc rương thật nặng được chất xuống hầm tàu, đám đông dân chúng tụ tập tại bến cảng để nhìn chuyến tàu khởi hành đến Rome. Ngay sau cái ngày lịch sử ấy, những tin đồn bắt đầu lan truyền. Chẳng ai có thể chắc chắn mình đã thật sự nhìn thấy số vàng hay ước lượng được bao nhiêu vàng đã được chuyển đi. Vài sứ thần tuyên bố rằng chỉ một khoản rất nhỏ đến được tay Giáo hoàng. Những lời bàn tán về tài sản khổng lồ của đức vua chúng ta dâng lên rồi hạ xuống như những đợt thủy triều vỗ vào bờ của chúng ta. Cuối cùng, một con đường ngắn hơn để đến vùng đất Thánh được tìm ra, đội quân Thập Tự Chinh không còn đi qua đất nước của chúng ta nữa. Chúng ta vô cùng biết ơn sự vắng mặt này. Tuy nhiên, chúng ta vẫn không được yên bình. Cứ cách vài năm lại có người đến để tìm kiếm số vàng trong truyền thuyết. Một vị bá tước từ Anh quốc tìm đến vì đức vua của ông ta đã nghe được tin đồn, nhưng sau khi người trị vì của chúng ta cho phép ông ta thực hiện một cuộc tìm kiếm toàn diện trong cung điện và các căn cứ, vị bá tước nói với ngài rằng ông ta sẽ trở về Anh quốc với tin tức: không có kho báu nào được tìm thấy. Bởi đức vua Grenier quá hiếu khách, vị bá tước đã lên tiếng cảnh báo ngài rằng hoàng tử John của Anh quốc đang có ý định xâm lược St. Biel. Hoàng tử John, vị bá tước giải thích, muốn thống trị thế giới và đang nóng lòng được kế thừa chiếc vương miện của Anh quốc. Vị bá tước kia tin chắc rằng St. Biel sẽ sớm trở thành một thuộc địa khác của Anh quốc mà thôi. Cuộc xâm lược đến vào một năm sau đó. Khi St. Biel chính thức thuộc về Anh quốc, cuộc tìm kiếm số vàng bị giấu lại được tiếp tục. Những người tham gia cuộc truy lùng thề rằng không có một viên đá nào chưa bị lật lên. Nếu thật sự từng có kho báu nào đó, thì nó đã biến mất. Mời bạn đón đọc Âm Điệu Bóng Đêm của tác giả Julie Garwood.
Bức Tranh Dorian Gray
Không chỉ là một kiệt tác văn chương gây nhiều tranh cãi khi mới xuất bản, “Bức tranh Dorian Gray” còn là cuốn tiểu thuyết duy nhất của Oscar Wilde. Lấy bối cảnh diễn ra vào thời Victoria ở nước Anh, Dorian Gray có vẻ ngoài cuốn hút, đã truyền cảm hứng cho Basil vẽ chân dung của anh. Đó là một bức chân dung kì lạ, nó thay Dorian Gray già đi, thậm chí khi Dorian Gray trở nên tệ bạc, xấu xa, bức tranh cũng trở nên tệ hại theo. Cứ thế Dorian Gray giữ được vẻ ngoài suốt gần hai mươi năm, nhưng liệu giữ được vẻ ngoài hào hoa bất biến theo thời gian có thật sự là may mắn? Trút hết sự suy đồi của mình vào một bức tranh liệu có làm cho Dorian Gray hạnh phúc, hay đó lại chính là khởi đầu cho những bất hạnh ngấm ngầm bao phủ cuộc đời anh ta? *** Trong lịch sử văn chương nhân loại có những cuốn sách được viết ra quá sớm so với thời đại của chúng, nên dường như vì thế mà chúng phải chịu trắc trở ngay từ những ngày mới chào đời. Ví dụ điển hình là Lolita của Vladimir Nabokov: Bị cấm ở nhiều nơi, không thể in ở Mỹ, nơi nó được sáng tác xong vào năm 1953, và phải xuất bản lần đầu ở Pháp vào năm 1955. Tuy nhiên, như đã biết, sau đó Lolita nhanh chóng trở thành một tác phẩm bán chạy hàng đầu của văn chương tiếng Anh, luôn được xếp hạng đầu trong các cuộc bình chọn, và đưa tác giả của nó trở thành một trong các nhà văn vĩ đại nhất nhân loại. Trước đó hơn nửa thế kỷ, vào năm 1891, cũng từng có một kiệt tác văn chương chịu số phận gập ghềnh không kém, là Bức tranh Dorian Gray (The picture of Dorian Gray) của Oscar Wilde, nhà văn vĩ đại người Ai Len. Sau khi xuất hiện lần đầu vào tháng Bảy năm 1890 trên tạp chí Lippincott's Monthly Magazine, mặc dù đã bị kiểm duyệt và bỏ đi khoảng năm trăm từ, nhưng cuốn sách này vẫn chịu phản ứng dữ dội từ giới phê bình văn chương Anh quốc, do đụng đến các vấn đề chưa được xã hội chấp nhận vào thời điểm ấy. Phiên bản sách giấy của Bức tranh Dorian Gray được Oscar Wilde chỉnh sửa, bổ sung, viết thêm phần Lời tựa rất nổi tiếng, và cho nhà xuất bản Ward, Lock and Company in vào năm 1891. Như vậy, tác phẩm này có hai phiên bản: một là bản 1890 với 13 chương và khoảng năm trăm từ bị kiểm duyệt, hai là bản 1891 với 20 chương và được in thành sách. Ngoài ra, năm 2011, Harvard University Press đã in lại bản 1890 với 13 chương nguyên vẹn không bị bỏ từ nào như Oscar Wilde viết từ đầu. Bản dịch tiếng Việt này được làm theo bản 1891 của Ward, Lock and Company. Mặc dù cuốn sách hiện nay đã nổi tiếng, được dựng thành phim và kịch, thậm chí Dorian Gray đã thành một thuật ngữ chỉ một hội chứng thời đại, nhưng tác giả của nó lại không được chứng kiến sự thành công của đứa con tinh thần của mình. Tác giả Bức tranh Dorian Gray phải chịu số phận bi thảm hơn nhiều so với tác giả Lolita, ông sống những ngày tháng cuối đời trong cô độc và nghèo khổ. Ngày 30 tháng Mười một năm 1900, ông qua đời vì bệnh viêm não tại Paris, khi mới 46 tuổi. Cuốn sách đã đem lại cho Oscar Wilde nhiều bi kịch, biến ông trở thành nhân vật bị xã hội căm ghét, và không khó nhận ra sự phản kháng của ông trong phần Lời tựa khi tái bản nó, với những tuyên ngôn đầy ẩn ý như: “Không có những thứ như sách đạo đức và sách vô đạo đức. Sách được viết hay, hoặc viết dở. Chỉ vậy thôi.” Hoặc: “Sự đa dạng quan điểm về một tác phẩm nghệ thuật cho thấy rằng tác phẩm ấy là mới mẻ, phức tạp và sinh động.” Tuy nhiên, thời gian là hòn đá thử vàng với nghệ thuật, không phải cái gì lấp lánh leng keng cũng chịu đựng được sự phán xét tàn nhẫn của thời gian. Năm nào cũng có vô số cuốn tiểu thuyết được viết ra, được ca ngợi bởi các nhà phê bình cũng như báo chí, thậm chí được các giải thưởng lớn nhưng không mấy cuốn còn lại được sau vài chục năm. Và trong các cuốn sách trụ vững với thời gian ấy thì, cũng như Lolita, Bức tranh Dorian Gray đã được đánh giá như một trong các kiệt tác văn chương quan trọng nhất của nhân loại. Tình yêu đồng giới mà nó đề cập đến đã được chấp nhận rộng rãi trên thế giới, mặc dù cũng chưa thể nói là đã được coi là bình thường tại một số nước nhất định. Tuy nhiên, chủ đề này chỉ là một điểm nhấn trong Bức tranh Dorian Gray, và ngay cả mô-típ bán linh hồn cho quỷ dữ cũng không phải là mới, mà chính kỹ thuật viết tuyệt đẹp đã đem lại sự thành công cho tác phẩm này. Vốn nổi tiếng như một tác giả của những câu văn hài hước, sâu sắc và đôi khi rất cay độc, Oscar Wilde đã đưa câu chuyện tưởng chừng rất khó viết cho tao nhã ấy thành một tiểu thuyết cực kỳ hấp dẫn không chỉ về số phận một nhân vật riêng lẻ, mà về bi kịch chung của thân phận con người. Ba nhân vật quan trọng nhất trong cuốn sách: Henry Wotton, Dorian Gray, Basil Hallward, theo Oscar Wilde, là ba phản thân của tác giả, là những hình ảnh mà thế gian nhìn nhận về ông; chính ông muốn mình sẽ trở thành, có thể, ở một thời đại khác; và ông nghĩ là của chính ông. Thực ra cũng không ai biết ai trong ba nhân vật trên đây có nhiều tính Oscar Wilde hơn cả, vì không phải lúc nào con người cũng nhìn nhận được chính xác về mình, dẫu người đó có là một thiên tài chăng nữa. Người viết những dòng này vốn hâm mộ Oscar Wilde từ khi còn là một cậu bé, và không thể phủ nhận rằng đã bị nhiều câu văn của ông ảnh hưởng phần nào đến cách tư duy, nên việc dịch Bức tranh Dorian Gray, tiểu thuyết duy nhất của ông, vừa là một chuyến trở về thế giới của bậc thầy, vừa là một nghĩa vụ cá nhân: Đưa kiệt tác này đến với tiếng Việt một cách hoàn hảo nhất, bằng tất cả những gì mà khả năng và thời gian cho phép. Ba tháng dịch Bức tranh Dorian Gray đã đem lại cho người dịch nó những kỷ niệm khó quên, không chỉ trong mà còn ngoài cuốn sách. Có những chương dài và vô cùng phức tạp vì liên quan đến những kiến thức văn hóa và lịch sử cổ xưa của châu Âu, có nhiều câu văn đẹp đến mức không thể bỏ đi tiếp khi chưa thấy bản dịch thỏa mãn được chính người dịch, có những lúc mệt mỏi với sự đen tối không đáy của tâm hồn con người, có những lúc bật cười với sự hài hước đặc biệt của Oscar Wilde, có những lúc xao lòng với nỗi đau đằng sau một nụ cười nào đó, nhưng, trên tất cả, là niềm hạnh phúc vì đã, cùng với thần tượng của mình, tạo ra được một thứ tuyệt đối vô ích, chỉ vì mê nó đến cùng cực. Thiên Lương *** Nghệ sỹ là người tạo ra cái đẹp. Biểu lộ nghệ thuật và che giấu nghệ sỹ là mục đích của nghệ thuật. Nhà phê bình là người có thể tái hiện qua phong cách khác hoặc chất liệu khác các ấn tượng của mình về cái đẹp. Hình thái phê bình cao nhất cũng như thấp nhất là một dạng tự truyện. Những ai thấy nghĩa xấu trong cái đẹp là đã đồi bại song không nhờ thế mà khả ái hơn. Đó là tội trọng. Nhưng ai thấy nghĩa đẹp trong cái đẹp thì đã biết tu dưỡng. Với những kẻ này thì vẫn còn hy vọng. Họ là những kẻ được chọn lựa, những kẻ thấy cái đẹp chỉ đơn giản là đẹp mà thôi. Không có những thứ như sách đạo đức và sách vô đạo đức. Sách được viết hay, hoặc viết dở. Chỉ vậy thôi. Sự căm ghét của thế kỷ mười chín với chủ nghĩa hiện thực là cơn thịnh nộ của Caliban khi thấy mặt mình trong gương. Sự căm ghét của thế kỷ mười chín với chủ nghĩa lãng mạn là cơn thịnh nộ của Caliban khi không thấy mặt mình trong gương. Cuộc đời đạo đức của con người tạo thành một phần chủ đề của nghệ sỹ, nhưng đạo đức nghệ thuật cốt ở sự sử dụng thành thạo một công cụ không hoàn hảo. Không nghệ sỹ nào muốn làm sáng tỏ điều gì. Ngay cả những điều đúng đắn cũng có thể bị làm sáng tỏ. Không nghệ sỹ nào có sự đồng cảm với luân thường đạo lý. Sự đồng cảm với luân thường đạo lý ở nghệ sỹ là một phong cách riêng tư không thể dung thứ. Không nghệ sỹ nào từng bệnh hoạn. Nghệ sỹ có thể diễn tả mọi điều. Tư tưởng và ngôn ngữ là các công cụ nghệ thuật của nghệ sỹ. Sự đồi bại và đức hạnh là các chất liệu của nghệ sỹ cho nghệ thuật. Từ quan điểm hình thái học, mẫu mực mọi nghệ thuật là nghệ thuật của nhạc sỹ. Từ quan điểm cảm xúc, ngón nghề của nghệ sỹ là mẫu mực. Mọi nghệ thuật đồng thời là bề mặt và biểu tượng. Những ai đi xuống dưới bề mặt đều làm liều. Những ai đọc biểu tượng đều làm liều. Chính khán giả, chứ không phải cuộc sống, mới là cái mà nghệ thuật thật sự phản chiếu. Sự đa dạng quan điểm về một tác phẩm nghệ thuật cho thấy rằng tác phẩm ấy là mới mẻ, phức tạp và sinh động. Khi các nhà phê bình bất đồng, nghệ sỹ thống nhất với chính mình. Ta có thể tha thứ cho kẻ tạo ra một thứ hữu ích chừng nào y còn chưa mê nó. Lý do duy nhất để bào chữa cho việc tạo ra một thứ vô ích là người ta mê nó đến cùng cực. Mọi nghệ thuật đều tuyệt đối vô ích. Oscar Wilde *** Oscar Wilde, tên đầy đủ: Oscar Fingal O'Flahertie Wills Wilde, sinh ngày 16.10.1854. Oscar Wilde là một nhà văn, nhà thơ, nhà biên kịch và phê bình nổi tiếng của Ireland. Năm 1871, ông học tại Trinity College (Dublin), sau đó học tại Magdalen College (Oxford, 1874-1878). Ở đây ông đã gặp và chịu ảnh hưởng của nhà văn, nhà phê bình Walter Pater (1839-1894) và ủng hộ phong trào ”nghệ thuật vị nghệ thuật". Ông cũng chính là người khởi xướng việc giảng dạy phong trào nghệ thuật này. Năm 1878, Oscar Wilde nhận giải Newdigate của Oxford cho bài thơ Ravenna. Năm 1884, Wilde kết hôn và cùng gia đình định cư tại Chelsea (London), tiếp tục viết và làm việc cho các tạp chí như Pall Mall Gazette và biên tập viên của Women's world (1887 – 1889). Ông xuất bản sách truyện cổ tích đầu tiên năm 1888 với tác phẩm The Happy Prince and Other Stories (Hoàng tử hạnh phúc và những câu chuyện khác). Ông sáng tác nhiều và thành công với lối viết tự nhiên, trong sáng. Ông cũng thành công với quyển tiểu thuyết duy nhất The Picture of Dorian Gray (1891). Sở trường của ông là biên kịch và với giọng văn trào phúng, châm biếm cùng với cách chơi chữ hóm hỉnh, ông đã sản xuất các phim hài như Lady Windermere's Fan (1892), An Ideal Husband (1895) và The importance of being earnest(1895), Salomé (1896). Năm 1895, Wilde bị buộc tội "có lối sống không đứng đắn” đối với hành vi “tình dục đồng giới” với 02 năm lao động khổ sai. Sau khi ra tù vào tháng 5/1897, ông đã dành phần đời còn lại của mình ở châu Âu, xuất bản "The Ballad of Reading Gaol" trong năm 1898. Ông qua đời tại Paris vào ngày 30 Tháng 11 năm 1900 vì bệnh viêm màng não. Các tác phẩm đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam Hoàng Tử Hạnh Phúc Và Những Truyện Khác - Oscar Wilde Chân Dung Của Dorian Gray - Oscar Wilde Gã Khổng Lồ Ích Kỷ - Oscar Wilde Tội Ác Của Huân Tước Arthur Savile Và Các Truyện Ngắn Khác ... Mời các bạn đón đọc Bức Tranh Dorian Gray của tác giả Oscar Wilde & Thiên Lương (dịch).