Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vụ Án Mạng Ở Lữ Quán Kairotei

Một tác phẩm đậm chất trinh thám cổ điển vua trinh thám Nhật Bản Keigo Higashino. Bản di chúc về khối tài sản kếch xù của ông Ichigahara Takaaki sẽ được công bố vào đúng lễ 49 ngày của ông tại lữ quán Kairotei, nơi sinh thời ông vô cùng yêu mến. Nhưng một lá thư hé lộ sự thật bị chôn vùi dưới lớp tro tàn của vụ hỏa hoạn ở lữ quán này nửa năm trước, xuất hiện đúng buổi tối trước ngày công bố di chúc đã khiến mọi chuyện trở nên rối tung. Cũng trong đêm đó, một người đã bị sát hại. Ngọn lửa ngờ vực bắt đầu âm ỉ cháy lan, một thảm kịch khác đã được soạn sẵn và chờ hồi kết để hạ màn... *** Higashino Keigo là tiểu thuyết gia trinh thám hàng đầu Nhật Bản với nhiều tác phẩm hàng triệu bản bán ra trong và ngoài nước, gặt hái vô vàn giải thưởng. Ông từng là Chủ tịch thứ 13 của Hội nhà văn Trinh thám Nhật Bản từ năm 2009 tới năm 2013. Mỗi tác phẩm của ông đều có phong cách khác nhau, nhưng nhìn chung đều có diễn biến bất ngờ, khắc họa tâm lý nhân vật sâu sắc, làm nên nét riêng biệt trong chất văn của Higashino Keigo. *** Tổng giám đốc một công ty lớn qua đời để lại khối tài sản kếch xù. Và bản di chúc phân chia số tài sản ấy sẽ được công bố tại lữ quán Kairotei vào 49 ngày mất của ông, địa điểm gắn bó thân thiết với ông trong những ngày quá vãng. Nhưng tất cả tình yêu, đam mê, dục vọng của những người liên quan cùng bản di chúc ấy đã bị nhấn chìm vào biển lửa bi kịch quá khứ và thảm kịch ở hiện tại. Không giống như nhiều tác phẩm khác của tác giả Higashino Keigo, tác phẩm thường được kể theo ngôi thứ ba, người kể chuyện mang điểm nhìn toàn tri bao quát toàn bộ diễn tiến câu chuyện, tường thuật lại chi tiết quá trình điều tra cũng như suy nghĩ cả phía người điều tra lẫn những bên liên quan đến vụ án. Thì Vụ án mạng ở lữ quán Kairotei (cũng như Án mạng mười một chữ), được kể theo ngôi kể thứ nhất, người kể chuyện xưng tôi, tự thuật lại hành trình theo đuổi vụ án của người đó. Và một điểm đặc biệt nữa, nhân vật xưng “tôi” ở đây là một nhân vật nữ, chịu nhiều bất hạnh, phải tự gồng mình lên để đòi lại công lý cho bi kịch chính bản thân cô phải chịu đựng. Đó là cô gái 32 tuổi tài năng, thư ký riêng của tổng giám đốc Ichigahara Takaaki – Kiriyu Eriko. Cô gái ấy đã bị chính người đàn ông cô yêu mưu đồ ám sát giữa đêm tối tại lữ quán Kairotei. Sau khi bóp cổ cô, anh ta châm lửa hòng tự sát và thiêu rụi toàn bộ chứng cứ. Nhưng may mắn, Eriko sống sót một cách thần kì; tuy vậy, cô cũng bị hủy hoại nhân hình trong vụ hỏa hoạn. Tuy nhiên, với Eriko, đó không phải là kết thúc bởi ẩn tình, sự thật đằng sau vụ án, yêu hận tình thù cùng trách nhiệm cô mang với tổng giám đốc Ichigahara Takaaki vẫn còn đè nặng trên vai cô. Bởi vậy, Eriko đã hi sinh tất cả, kể cả tên gọi, kể cả danh tính, hóa thân vào vai bà lão Honma Kikuyo đã qua đời, nửa năm sau quay lại lữ quán Kairotei vào ngày công bố di chúc của ông Ichigahara nhằm báo thù và đòi lại công lý. Chính vì đặt điểm nhìn vào vai người phụ nữ đã mất tất cả, để con người đó tự xưng tôi mà tràn ngập trong cuốn tiểu thuyết Vụ án mạng ở lữ quán Kairotei là những suy nghĩ riêng, là suy luận cá nhân, là ánh nhìn chủ quan qua con mắt của một kẻ như chỉ còn sống mà chờ đợi giây phút khám phá ra tất cả ẩn tình, như chỉ tồn tại để đợi chờ phút giây tự tay cô chấm dứt tất cả. Cũng từ ngôi kể thứ nhất đấy mà điểm nhìn trần thuật cũng dễ dàng hướng ra bên ngoài theo ánh nhìn, sự đánh giá của nhân vật đồng thời nhanh chóng trở thành điểm nhìn bên trong khắc họa nội tâm con người. Và, một câu chuyện trinh thám, được kể từ ngôi thứ nhất đặt lên vai nạn nhân, người bị hại mà chất bi của truyện lại càng thêm sâu sắc. Quá khứ đau thương, vụ hỏa hoạn cách đấy nửa năm tước đi của Eriko tất cả: tình yêu, tương lai, tuổi trẻ. Câu chuyện vì thế như đã vượt ra ngoài một tiểu thuyết trinh thám đơn thuần mà mang đặc điểm của một cuốn tự truyện: tản mát trong suy nghĩ, đứt gãy trong hành động, sự đan xen liên tiếp quá khứ và hiện tại… Bởi vậy sự cực đoan, sự hồ nghi tất thảy, thậm chí là sự lạnh lùng trong ý nghĩa mà cô mang, rất dễ tạo sự đồng cảm nơi độc giả. Án nằm trong án, truyện nằm trong truyện. Ngay từ những chương truyện đầu tiên, thậm chí ngay trong lời bạt tóm tắt tác phẩm nằm ở trang bìa 4 cuốn Vụ án mạng ở lữ quán Kairotei Nhã Nam xuất bản đã phần nào hé lộ cấu trúc tác phẩm: Vụ án mạng ở lữ quán Kairotei mang hình thức án lồng trong án, câu chuyện này là kết quả của câu chuyện trước đồng thời mở ra câu chuyện về sau. Cấu trúc như vậy đã tạo nên tính lớp lang, móc xích cho toàn bộ cuốn sách gần 300 trang. Có thể nói, không gian vật lý trong tiểu thuyết Vụ án mạng ở lữ quán Kairotei khá hẹp, gần như mọi hoạt động, sự việc đều diễn ra nơi khuôn viên lữ quán. Vậy nhưng, không gian hẹp nơi lữ quán Kairotei đã chứng kiến trận hỏa hoạn gần như nhấn chìm một cặp đôi nam nữ, lữ quán đó cũng là nơi xảy ra liên tiếp hai vụ án mạng kinh hoảng, và nơi ấy lần nữa lại chìm trong ngọn lửa của lòng tham và hận thù. Vụ án trong quá khứ, vụ án ngày hiện tại, tất cả lại mở ra những nhánh truyện khác nhau về hàng loạt bí ẩn khó thể cắt nghĩa, khó thể công khai ngoài ánh sáng. Từ bí mật mà người đàn ông quá cố Takaaki vẫn luôn cất giấu tới bí mật Eriko quyết định chôn chặt cùng vụ hỏa hoạn năm nào. Từ mối tình oan trái gắn liền với lữ quán Kairotei tới sự thật câu chuyện về người đàn ông tự vẫn trong hỏa hoạn – Satonaka Jiro. Và giữa thảm án liên hoàn, những góc khuất mà các nhân vật đã luôn lảng tránh cũng dần hé lộ. Để ta nhận ra, những con người xuất hiện trên trang sách của Higashino Keigo, dẫu là kẻ thủ ác hay nạn nhân hay đơn thuần chỉ là những con người liên đới, vô tình xuất hiện tại lữ quán Kairotei, không một ai không có mảng tối trong quá khứ, trong đời sống, trong tâm hồn. Ai cũng có suy nghĩ và có phần ích kỷ riêng. Lữ quán Kairotei, bi kịch tình yêu và thảm kịch một gia đình, như lát cắt của đời sống xã hội Nhật Bản vào giai đoạn chuyển mình thời suy thoái kinh tế. Bên cạnh đấy, cấu trúc truyện lồng truyện ở Vụ án mạng ở lữ quán Kairotei còn nằm trong khía cạnh: hành động trả thù của Eriko không chỉ diễn ra song song với hành động của hung thủ thật sự mà còn song song với hành động của cảnh sát. Khác với nhiều tác phẩm trinh thám, cảnh sát chỉ nắm giữ vai trò làm nền, thì ở cuốn tiểu thuyết này, họ là những nhân vật thật sự sống động, có những suy luận đặc biệt sắc sảo giúp thúc đẩy tiến trình phát triển câu chuyện cùng đẩy nhanh đến cao trào suy luận, hành động của nhân vật chính, xưng “tôi”. Dẫu rằng họ vẫn là kẻ đến sau, dẫu rằng đến cuối cùng họ cũng không thể ngăn nổi thảm kịch định sẵn, thì tuyến nhân vật cảnh sát vẫn góp một nhánh truyện quan trọng trong cả mạch truyện chảy trôi 288 trang của tiểu thuyết Vụ án mạng ở lữ quán Kairotei. Bi kịch tình yêu và thảm kịch lòng tham chìm vào biển lửa. Có lẽ, không phải nói quá nếu như khẳng định rằng: Vụ án mạng ở lữ quán Kairotei là tổng hòa của bi kịch tình yêu và lòng tham con người. Vì một chuyện tình vụng trộm dang dở mà kéo theo sự dở dang của hàng loạt số phận. Vì một tình yêu không nhận được hồi đáp, người ta quyết định phản bội lại yêu thương khi xưa. Vì một tình yêu ngỡ rằng là yêu, đã đẩy người ta xuống bờ vực của hận thù không thoát… Và lòng tham, có thể khiến người ta trở mặt lại với chính thân thích ruột thịt, với chính bạn bè, bán rẻ cả lương tri, bán rẻ cả nhân cách. Nhưng yêu thương hay hận thù, tham lam vô độ cuối cùng cũng chìm vào biển lửa nơi lữ quán Kairotei. Lửa cháy thiêu rụi quá khứ đau thương, ngọn lửa lan rộng cuốn đi thực tại nghiệt ngã. Hỉ nộ ái ố tham sân si, yêu hận tình thù đến thế, cuối cùng đều chìm vào biển lửa. Để rồi tất cả hóa thành hư vô, như cái kết của tiểu thuyết Vụ án ở lữ quán Kairotei vẫn còn để ngỏ về số phận những người ở lại, và cho độc giả tự suy ngẫm, tự viết tiếp cái kết của cuốn sách sau những bi kịch liên tiếp nơi lữ quán hữu tình mà lòng người như nguội lạnh, vô tình ấy. Mọt Mọt Review *** Tôi là một bà lão. Một bà lão sắp bước sang tuổi 70. Đưa vé bước qua cửa soát, cảm giác căng thẳng trong tôi vơi đi được phần nào. Dù tự tin là trông mình rất ổn, nhưng để cho chắc không bị nhìn thấu tâm can, tôi cứ thế cúi gằm mặt trong tàu điện. Đám học sinh ngồi ở hàng ghế đối diện mải mê đọc tạp chí truyện tranh như chẳng thèm đếm xỉa gì đến bà lão này. Không được căng thẳng như thế này. Phải tự tin lên. Cứ đường đường chính chính là ổn. Làm được như thế sẽ không bị ai nghi ngờ. Bên cạnh quầy bán vé có một chiếc gương. Làm bộ thản nhiên, tôi ra đứng trước đó. “Coi này, nhìn ở góc độ nào cũng chỉ thấy một cụ bà cực phẩm là đây.” Không được mất tự tin. Bí quyết chỉ có vậy. Nói rồi, tôi nhìn xung quanh phía trước nhà ga. Không phải một nhà ga to lớn gì. Đại khái cũng có một cái nom giống bùng binh phía trước nhưng không đến mức có đường riêng cho các tuyến xe buýt chạy qua. “Chỗ này mà thuận tiện hơn thì có lẽ khách du lịch sẽ đông lên đấy” tôi đã nói suốt với ông Takaaki như thế, nhưng ông chỉ cười rồi bảo “Nhưng chính cái kiểu dị thường ấy lại ghi điểm cho nơi này.” Tấm biển đề điểm chờ xe taxi gỉ sét khiến tôi lo lắng không biết liệu có xe nào chạy qua đây không. Nhưng chờ độ mười phút thì cũng có một xe taxi tư nhân từ phía bùng binh chạy lại. Lái xe là một người đàn ông đầu tóc bạc phơ, khuôn mặt có vẻ phúc hậu. “Xin cho tôi đến lữ quán1 Ichiharatei.” Tôi nói. “Lữ quán Ichiharatei... À, vâng.” Bác tài vừa khởi động đồng hồ tính tiền vừa hơi ngoái lại phía tôi. “Lữ quán đó giờ không còn kinh doanh nữa. Quý khách có biết không ạ?” “Vâng, tôi có biết. Từ sau vụ tai nạn đó phải không ạ?” “Là vụ hỏa hoạn đấy. Cũng được nửa năm rồi thì phải. Tôi cũng không rõ cụ thể thế nào nhưng đối với lữ quán mà nói thì quả là vận đen hết mức.” Đúng là một ông già nhiều chuyện, cả chuyện đó cũng nói ra được. Qua gương chiếu hậu, bác tài ngó nhìn phản ứng của tôi rồi dò hỏi: “Quý khách chắc không phải là người của lữ quán đâu nhỉ?” “Tôi chỉ là người quen biết với chủ lữ quán thôi.” Tôi đáp. “Ra vậy. Biết thế tôi đã không cần giải thích cặn kẽ rồi.” “À, nhưng đây cũng là lần đầu tiên tôi đến Ichiharatei.” “Chắc vậy rồi. Vì khách quen của lữ quán sẽ không gọi là Ichiharatei mà gọi là Kairotei.” “Kairotei?” “Vì lữ quán được chia thành các khu khác nhau, nối liền bằng một dãy hành lang nên được đặt tên như vậy.” “À, ra là thế.” “Lữ quán ấy nổi tiếng lắm đấy, quý khách. Nghe nói tuy không rộng đến mức cho nhiều khách đến nghỉ nhưng trước đây một nhà văn nổi tiếng nọ đã trọ ở đó trong một thời gian dài. Tôi cũng mong được một lần đến đấy nghỉ mà vẫn chưa có cơ hội.” Nói thế xong bác ta nở nụ cười tươi rói. “Dạo đó chắc vụ hỏa hoạn cũng trở thành đề tài bàn tán của vùng này bác nhỉ?” “Cũng có đấy. Vì kể ra cũng là vụ việc kỳ lạ mà.” Nói đến đây, ông ta đột nhiên thay đổi giọng điệu. “À mà thật tình, cụ thể thế nào thì tôi cũng không rõ. Nhưng nghe nói là đã được tu sửa lại như cũ rồi nên chắc không có gì phải lo lắng đâu.” Ông ta phải vội vàng chữa lời như vậy hẳn là vì đã buột miệng nói về lời đồn kỳ quái đó, sợ sau này bị phía lữ quán Kairotei để mắt đến đây mà. Chẳng mấy chốc, chiếc xe đi vào đoạn đường núi. Những con đường mấp mô nối tiếp nhau. Dân cư thì thưa thớt còn cây cối lại rậm rạp, um tùm. Đi thêm một đoạn nữa, các ngã rẽ nhỏ dần hiện ra. Đầu mỗi ngã rẽ đều dựng biển hiệu của các lữ quán. Đi qua hết dãy biển hiệu, gần đến cuối đường thì mới thấy một tấm biển mới coong đề chữ “Kairotei”. Ở góc biển hiệu còn ghi một dòng chữ nhỏ “Ichiharatei”. Tôi xuống xe trước lữ quán, nhưng không thấy có người ra đón. Tôi liền bước vào sảnh trong nhà kiểu Nhật, hai lần cất tiếng gọi. Được một lát thì nghe thấy tiếng chân vọng lại, rồi từ phía sâu bên tay phải, bà quản lý lữ quán đi ra. Tôi đột nhiên cảm thấy thân thể mình cứng đờ. Đây là cửa ải đầu tiên. Nếu không công phá được nó thì đừng mơ làm gì tiếp. Bà quản lý quỳ gối, nền nã khép hai tay lại rồi hỏi: “Có phải quý bà Honma không ạ?” Bà ấy quãng gần 50 nhưng nhờ lớp trang điểm kỳ công mà mang vẻ nhu mì trông chỉ như ngoài 30. Nhìn vậy tôi cũng có đôi chút ghen tị trong lòng. “Vâng, tôi là Honma Kikuyo.” Phải vừa giữ nguyên tư thế điềm đạm, vừa toát ra một sự thiếu sức sống đúng với cái tuổi này. Chẳng phải vì giây phút này mà mình đã luyện tập trước gương không biết bao nhiêu lần rồi sao. Cho dù đến giờ vẫn không làm được cho hoàn hảo. Một khoảng lặng trôi qua, sau đó bà quản lý nở một nụ cười tươi tắn. “Hân hạnh được đón tiếp quý khách. Quý khách đường xa đến đây chắc mệt lắm rồi đúng không ạ.” Nhìn gương mặt này, tôi chắc mẩm là mình đã thắng. Bà ta không một chút nghi ngờ. Tôi cởi giày bước lên bậc thềm, bà quản lý vẫn giữ nét mặt hồn hậu rồi đứng lên. “Vậy tôi xin phép dẫn quý khách về phòng luôn. Chúng tôi đã nhận được yêu cầu chuẩn bị phòng cao cấp cho quý khách.” “Cảm phiền bà quá.” Nói đoạn tôi cúi đầu xuống, vừa tủm tỉm cười vừa nói tiếp: “Về phòng nghỉ, tôi xin mạn phép có yêu cầu vô lối này.” “Sao cơ ạ?” Mặt bà quản lý lộ rõ vẻ bất ngờ. “Quý khách có yêu cầu gì ạ?” “Cũng chẳng phải yêu cầu gì to tát.” Tôi vẫn cúi mặt cười mỉm, rồi ra vẻ quan trọng, tôi ngẩng đầu lên. “Thật ra tôi có nghe ông nhà tôi kể đã từng nghỉ ở đây. Nghe nói quang cảnh từ phòng ông ấy nghỉ khi đó đẹp tuyệt vời, nên nhân dịp này tôi cũng muốn được nghỉ tại phòng đó.” “À, ra là vậy ạ. Tôi cũng mong sẽ đáp ứng được yêu cầu của quý khách. Phòng đó là phòng nào vậy ạ?” Ánh mắt thoáng hiện lên sự bất an, bà quản lý hỏi. “Ông nhà tôi nói là phòng Inoichi2.” Nghe tôi trả lời xong, bà ấy bối rối thấy rõ. ... Mời bạn đón đọc Vụ Án Mạng Ở Lữ Quán Kairotei của tác giả Higashino Keigo.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Tội Ác Trứ Danh
“Những tội ác trứ danh” là tuyển tập truyện tội phạm dựa trên những sự kiện có thật của Alexandre Dumas. Thời gian đầu khi mới bắt đầu chuyển sang viết tiểu thuyết, Dumas cũng biên soạn “Những tội ác trứ danh” trong ba năm từ 1839 đến 1841, với sự giúp đỡ của một số người bạn. Tuyển tập này có 17 truyện, bao gồm cả những truyện ngắn và các truyện dài, kể lại chi tiết những tội ác diễn ra trong suốt 5 thế kỷ từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XIX, trên cả Pháp, Nga, Netherlands, Đức, Ý,… Bạn đọc sẽ được đọc về tội loạn luân tàn nhẫn và vụ án con giết cha nổi tiếng của gia đình Cenci (1598); vụ ám sát tàn nhẫn nữ hầu tước de Ganges do hai tên anh chồng là linh mục và hiệp sĩ gây ra (1657); những tội lỗi và hành vi vô đạo đức, vô pháp của gia đình Borgia quyền thế, đầy mưu mô và bạo lực; theo dõi hành trình chạy trốn, bị cấp dưới phản bội, và cuối cùng là án tử hình của thống chế Joachim Murat – em rể của Napoléon Bonaparte – dưới tay của kẻ thù là Ferdinand IV 1815 – 1825, vua mới của xứ Naples;… Sẽ là quá tải nếu tóm tắt tất cả nội dung của 18 truyện “Những tội ác trứ danh”. Vậy nên, trong phạm vi bài viết, tôi sẽ chỉ đề cập đến các điểm chính của tập truyện, và dành phần trải nghiệm thú vị nhất cho người đọc. “Những tội ác trứ danh” là tuyển tập mô tả tỉ mỉ, chi tiết bậc nhất về tội ác: động cơ của tội phạm, những âm mưu, hành động dẫn dắt; các đồng phạm và nhân chứng; cách nạn nhân sa bẫy, chống trả và chết; những manh mối khi điều tra; phán xử của tòa án. Dumas đã không tiếc ngôn từ của mình để mô tả những cảnh tượng bạo lực, những hình thức tra tấn ép cung, những cách thức giết người rùng rợn đã được thực hiện trên thực tế. Toàn bộ “Những tội ác trứ danh” có thể coi là một tập hồ sơ tội phạm kỹ lưỡng nhất, xứng đáng là đóng góp lớn cho ngành tội phạm học và tâm lý tội phạm sau này. Tuy nhiên, nếu chỉ đơn thuần là hồ sơ tội phạm, thì có lẽ “Những tội ác trứ danh” sẽ không nổi tiếng đến vậy. Các câu chuyện được Dumas biên soạn lại, kể lại bằng giọng điệu và kết cấu của riêng ông. Đọc “Những tội ác trứ danh”, bạn đọc chắc chắn sẽ không cảm thấy khô khan hay nhàm chán, cũng không hề cảm thấy toàn bộ là bạo lực và giết chóc. Có thể coi “Những tội ác trứ danh” là sáng tạo của Dumas dựa trên những chất liệu thực tế. Ông dẫn dắt độc giả vào từng câu chuyện riêng, lúc thì giới thiệu các nhân vật ngay từ đầu, lúc thì đi từ cái chết của nạn nhân để lật ngược về quá khứ, lúc lại mô tả quang cảnh rộng lớn của một vùng đất nào đó trước rồi dần dần thu hẹp vào con người… Các câu chuyện của Dumas vì thế mà trở nên hấp dẫn hơn, li kỳ hơn, đậm chất văn chương hơn. Cách dùng ngôi thứ ba của Dumas khiến cho người đọc trở thành chúa tể của mỗi câu chuyện. “Vị chúa” nào cũng biết trước kết cục, nhưng lại cần gã đàn ông vui tính và phóng túng tên Dumas dắt đi, dò dẫm từng bước, từng bước, qua từng trang sách, vì cái hay của những câu chuyện về tội ác không phải ở kết quả, mà là ở hành trình: từ hành trình gây án cho đến hành trình phá án và chịu tội của kẻ thủ ác. Và dù có những câu chuyện bạo lực, kinh dị, dưới ngòi bút của Dumas, vẫn có thể coi “Những tội ác trứ danh” là tác phẩm tiêu biểu cho chủ nghĩa lãng mạn u ám qua những ám ảnh rùng rợn, những mô tả chi tiết, cận cảnh về cái chết mà nó bày ra cho người đọc. Tất cả những yếu tố trên khiến “Những tội ác trứ danh” trở thành một trong những tác phẩm tiên phong cho thể loại văn học kinh dị giật gân, tội phạm. Cùng với Mary Shelley, Edgar Allan Poe, Robert Louis Stevenson,… Alexandre Dumas với “Những tội ác trứ danh” đã đem lại những đóng góp quan trọng cho thể loại văn học thách thức tâm lý người đọc này. Có một điều cần lưu ý, đó là: Khi “làm quen” với Dumas qua “Những tội ác trứ danh”, độc giả cần ghi nhớ rằng đây chưa phải Dumas lão luyện khi viết “Bá tước Monte Cristo” hay “Ba chàng lính ngự lâm”, mà mới đang là một kịch gia đang tập tành viết tiểu thuyết. Tuy nhiên, tài năng kể truyện và dẫn dắt người đọc bằng câu chữ của Dumas đã được thể hiện rõ nét ở ngay những năm 1839-1841 này. Trên thực tế, Dumas đã viết “Những tội ác trứ danh” trước khi ra mắt loạt tiểu thuyết phiêu lưu lịch sử tuyệt vời của ông (“Bá tước Monte Cristo” được hoàn thành vào năm 1844, “Ba chàng lính ngự lâm” được viết chỉ trong 4 tháng – từ tháng 3 đến tháng 7 năm 1844). Như vậy, có thể coi “Những tội ác trứ danh” chính là cuốn sách đặt nền móng cho những tác phẩm trong tương lai của Alexandre Dumas. Trong tuyển tập này, ông đã đúc rút được nhiều kiến thức sâu rộng về các quốc gia và các nền văn hóa khác nhau trên thế giới, đồng thời những câu truyện lịch sử ấy cũng giúp Dumas hiểu thêm về cơ chế hành động, đặc điểm tâm lý của nhiều kiểu người trong xã hội, từ quý tộc cho đến kẻ hầu, từ người trong quân đội cho đến người thường, phụ nữ, đàn ông, giám mục, trẻ nhỏ, hoàng thân quốc thích,… Cùng với kinh nghiệm sống phong phú của mình, chỉ 3 năm sau (1844), Dumas đã công bố với người đọc những bộ tiểu thuyết đồ sộ nhất, hấp dẫn nhất, phiêu lưu nhất, lãng mạn nhất của mình. Ở Việt Nam, cho đến nay, vẫn chưa có một bản dịch đầy đủ nào của “Những tội ác trứ danh”. Bản dịch phổ biến nhất hiện nay do NXB Văn Học ấn hành vào năm 2003, do Mai Thế Sang dịch. Tuy nhiên, bản dịch cũng chỉ có 6/18 truyện. Các bản ebook tiếng Việt hiện có trên Internet cũng từ bản dịch này ra. Do vậy, nếu muốn đọc toàn bộ “Những tội ác trứ danh”, bạn đọc sẽ phải đọc bằng tiếng Anh hoặc đọc nguyên gốc tiếng Pháp. (Đọc bản tiếng Anh tại đây). Qua tìm hiểu về cuộc đời của Alexandre Dumas và tuyển tập “Những tội ác trứ danh” có thể thấy Dumas là một văn hào đặc biệt: Ông có cuộc đời tự do, thống khoái. Cái lãng mạn của Dumas không phải là xa rời thực tế, chạy trốn hiện thực, đau khổ với hiện thực rồi khát khao vượt thoát, mà là chấp nhận hiện thực và coi hiện thực (dù khắc nghiệt đến đâu) là một cuộc phiêu lưu. Cuộc phiêu lưu ấy có lúc khó khăn thử thách, nhưng cũng có lúc vui vẻ sảng khoái. Trong cuộc đời mình, Dumas sống và viết, ăn chơi và trả nợ, phiêu lưu và chết. Tác phẩm của ông, dù u ám hay bay bổng, thì đều thể hiện rất rõ tinh thần phiêu lưu. Tinh thần phiêu lưu ấy, nếu không phải là một người dám mạo hiểm, dám sống hết mình, dám tự do, thì sẽ không thể nào có được. ***   GIA ĐÌNH HỌ XĂNGXY (1598) Khi nào các bạn có điều kiện đến tham quan La Mã, mời các bạn đến thăm tu viện Bramăng. Giữa tu viện, tại một chỗ lõm vài piê có xây một đền thờ nhỏ, cấu trúc pha tạp kiểu Hy Lạp cổ đại với kiểu gôtích phong kiến, rồi các bạn đi lên qua một cửa ngang và chính giữa nhà thờ. Ở đấy người dẫn đường sẽ hướng dẫn các bạn xem trong miếu đường thứ nhất, bên phải bức họa "Chúa Jêsu bị đánh đòn" của Xêbáttiêngđen Piômbô và trong miếu đường thứ ba bên trái "Jêsu trong mộ" của Fiamingô. Sau khi đã chiêm ngưỡng thỏa mãn những tác phẩm đó, các bạn tìm dưới chân bàn thờ, một tấm bia đá mà các bạn sẽ nhận ra được do một dấu chữ thập và một chữ đơn giản Orat. Chính dưới tấm bia đó đã chôn Bêatrich Xăngxy mà câu chuyện bi thảm về cô gái ấy sẽ để lại cho các bạn một ấn tượng sâu sắc. Cô là con ông Frăngchetcô Xăngxy. Frăngchetcô sinh dưới thời Giáo hoàng Clêmăng VII lên ngôi ngày 18 tháng 11 năm 1523. Frăngchetcô là con trai ông Nicôla Xăngxy, thủ quĩ của Giáo hoàng dưới thời Pie V. Sinh ra với những bản tính không tốt và làm chủ một gia tài kếch xù, Frăngchetcô lao mình vào những cuộc ăn chơi trụy lạc. Ba lần bị bắt giam vì những cuộc tình ái bất chính và ông đã phải mất gần năm triệu Frăng để thoát khỏi tù tội. Nhất là dưới thời Grêgoa XIII, người ta mới bắt đầu quan tâm đến Frăngchetcô một cách đúng mức. Dưới thời Bôlône buôncompani, ở La Mã tất cả mọi hành động đều được hợp thức hóa đối với những ai có tiền trả, kể cả kẻ giết người và người quan tòa. Cưỡng hiếp và giết người là những vấn đề rất thường mà công lý rất ít khi để ý đến những trò vụn vặt ấy nếu không có ai ở đây để truy đuổi thủ phạm. Vào thời kỳ này, Frăngchetcô trong khoảng bốn bốn, bốn lăm tuổi, cao năm piê, bốn pút, dáng cân đối và rất khỏe mặc dù có vẻ hơi gầy. Tóc ông màu xám, cặp mắt to và đầy ý nghĩa mặc dù mi trên hơi xụp xuống và trở nên rất dữ tợn khi gặp kẻ thù. Ông chơi các môn thể thao rất khá, nhất là môn bơi thuyền. Đôi khi ông bơi thuyền một mình một mạch từ La Mã đến Naptlơ, một quãng đường bốn mươi dặm. Không tôn giáo, không tín ngưỡng, ông không vào nhà thờ bao giờ, nếu có vào cũng là chỉ để xúc phạm Chúa. Nhiều người nói rằng ông rất thích những sự kiện kỳ quặc và không có một tội ác nào mà ông phạm không ngoài mục đích để có một cảm giác mới lạ. Năm bốn mươi nhăm tuổi ông lấy vợ. Vợ ông rất giàu nhưng không có một tài liệu nào nói tên bà là gì. Bà chết để lại cho ông bảy người con, năm trai hai gái. Ông lấy người vợ thứ hai, Lucrêgia Pêtrony, ngoài nước da trắng ngần, bà còn là một điển hình hoàn hảo về sắc đẹp La Mã. Lần lấy vợ thứ hai này ông không có con. Cũng vì Frăngchetcô không có được những tình cảm tự nhiên của con người nên ông rất ghét các con mình và ông cũng chẳng cần giấu giếm mối căm ghét đó. Một hôm, ông cho xây dựng trong sân của mình một tòa lâu đài tráng lệ bên cạnh con sông Tibrơ, một đền thờ để tặng thánh Tômát. Ông nói với kiến trúc sư thiết kế cho ông một hầm mộ: "Tôi mong sẽ nhốt hết bọn con tôi vào đây". Do đó khi các con ông vừa mới tự lập được, ông đã gửi ba người con lớn đến trường đại học Xalamăng ở Tây Ban Nha. Chắc hẳn ông nghĩ rằng xa chúng là bỏ rơi chúng vĩnh viễn, vì khi các con ông vừa đi khỏi nhà là ông không hề nghĩ đến chúng nữa, ngay cả đến việc gửi lương ăn cho chúng. Chính là vào những năm đầu của triều đại Clêmăng VIII, một triều đại được nổi tiếng về công bằng, cho nên ba chàng trẻ tuổi ấy mới quyết cùng nhau lên kêu với Người. Ba chàng lên tìm Giáo hoàng Fratcatti và trình bày mục đích. Giáo hoàng công nhận quyền lợi của ba chàng và người bố là Frăngchetcô phải trợ cấp cho mỗi người con hai nghìn êcu. Frăngchetcô tìm mọi cách để hủy bỏ quyết định ấy, nhưng nhận được mệnh lệnh cụ thể nên buộc phải chấp hành. Chính trong thời kỳ đó ông bị bắt giam lần thứ ba cũng vì tội tình ái xấu xa. Thế là ba người con trai của ông lại lên kêu với Giáo hoàng là cha họ làm nhục thanh danh của gia đình, và yêu cầu luật pháp trừng trị thích đáng. Giáo hoàng thấy hành động của con thế là không tốt nên đuổi họ về. Còn Frăngchetcô thì lần ấy cũng như hai lần trước được thoát thân bằng tiền bạc. Người ta hiểu rằng hành động ấy của ba người con trai không thể thay đổi lòng căm ghét thành tình thương yêu của Frăngchetcô đối với các con được. Nhưng con trai còn có thể thoát khỏi sự giận dữ của cha, còn những cô con gái thì bị giông tố đổ xuống đầu. Chẳng bao lâu tình hình đó trở nên không thể chịu đựng được nữa, đến nỗi cô gái lớn, mặc dù bị giám sát chặt chẽ, cũng gửi được một lá đơn lên Giáo hoàng. Trong đơn cô kể hết những cách đối xử tàn tệ mà cô phải chịu đựng và xin với Giáo hoàng gả chồng cho mình hoặc cho mình vào một nhà tu kín. Clêmăng VIII mủi lòng thương hại, buộc Frăngchetcô phải trợ cấp cho cô một món tiền hồi môn là sáu chục nghìn êcu và gả cô cho Caclô Gabrieli, một gia đình quý tộc ở Gupbiô. Frăngchetcô nổi giận tưởng phát điên vì thấy cô gái ấy thoát được tay mình. Cũng vào thời gian đó thần chết lại đến giải thoát cho ông hai đứa con nữa: Rốc và Crittốp Xăngxy bị giết chết cách nhau một năm, đó là một niềm an ủi cho Frăngchetcô. Tính keo kiệt của ông theo đuổi các con ông đến cả sau cái chết của chúng vì ông tuyên bố sẽ không chi một đồng xu cho phí tổn nhà thờ. Xác chúng phải mang vào hầm mộ mà ông đã xây sẵn cho chúng, trong những áo quan của những kẻ ăn mày. Khi trông thấy hai xác con nằm ở đấy, ông tuyên bố rất sung sướng đã thoát khỏi hai đứa xấu xa ấy, nhưng sẽ được sung sướng hoàn toàn khi nào thấy năm đứa kia nằm bên cạnh hai đứa này để có đủ cả bầy, ông sẽ nổi lửa đốt tòa lâu đài để tỏ dấu hiệu vui sướng của mình. Tuy nhiên Frăngchetcô cũng tìm đủ mọi biện pháp để cô gái thứ hai, Bêatrich Xăngxy không theo gương cô chị. Lúc đó Bêatrich là một cô bé mười ba tuổi xinh đẹp và thơ ngây như nàng tiên. Mái tóc cô dài màu hung, một vẻ đẹp hiếm có ở nước Ý mà chúng ta đã thấy trong tất cả các bức họa của Rafaen(Họa sĩ trứ danh người Ý ). Mái tóc đó rủ xuống thành búi hai bên bờ vai để lộ ra một cái trán tuyệt mỹ, cặp mắt màu xanh da trời có một vẻ mê hồn nhất, thân hình cô tầm thước nhưng rất cân đối. Để giữ được cô, Frăngchetcô nhốt con gái vào một căn phòng kín của lâu đài mà chỉ mình ông có chìa khóa. Ông trở thành tên cai ngục của con gái mình. Hàng ngày ông vào thăm và mang thức ăn cho cô. Ông đối xử với cô rất khắt khe cho mãi đến năm cô mười bảy tuổi. Chẳng bao lâu cô bé tội nghiệp ngạc nhiên thấy bỗng nhiên ông đã dịu đi. Đó chỉ là vì cô bé Bêatrich đã trở thành một cô thiếu nữ, sắc đẹp của cô đã nở ra như một bông hoa. Và Frăngchetcô, một tên tội phạm không từ một tội ác nào, đã nhìn cô với cặp mắt loạn luân. Một thời gian sau, đêm đêm cô thường bị thức giấc bởi một thứ âm nhạc du dương như từ cõi thiên đường phát ra. Khi cô nói điều đó với cha, cha cô dỗ dành để cô yên trí và còn nói thêm nếu cô ngoan ngoãn dễ bảo thì chẳng bao lâu nữa Chúa sẽ ban cho cô một phần thưởng đặc biệt, không những cô chỉ được nghe mà còn được trông thấy nữa. Quả nhiên một đêm, trong khi cô đang tỳ khuỷu tay xuống giường để thưởng thức thứ âm nhạc du dương ấy, bỗng nhiên cửa buồng cô mở ra và từ trong buồng tối cô nhìn ra các buồng xung quanh thấy ánh đèn rực rỡ và đầy hương thơm, như hương thơm, mà người ta ngửi thấy trong giấc mơ, những con trai và con gái xinh đẹp gần như trần truồng như cô đã nhìn thấy trong những bức tranh của Ghit và của Rafaen. Họ đi dạo chơi trong phòng, tỏ vẻ đầy sung sướng và hạnh phúc. Chúng là một bọn vô lại mà Frăngchetcô đã thuê tiền vì hắn giàu có như một ông vua. Mỗi một đêm hắn lại cho thay đổi những cảnh say sưa phóng dục của "Alêchxăng trong bữa tiệc cưới Lucret" và những cảnh trác táng của "Tibe ở Capri". Sau một giờ, cánh cửa đóng lại và cảnh quyến rũ biến mất, làm cho Bêatrich bối rối và ngạc nhiên. Đêm hôm sau cảnh tượng như vậy lại hiện lên. Nhưng lần này Frăngchetcô bước vào buồng con gái, rủ rê con gái ra tham gia cùng hắn trần truồng. Không hiểu tại sao Bêatrich lại biết rằng làm theo lời nằn nì của cha là không tốt. Cô trả lời không thấy mẹ ghẻ Lucrêgia có mặt trong đám phụ nữ, nên cô không dám đứng lên ra ngoài với những người lạ mặt. Frăngchetcô dọa và van nài cô, nhưng đều vô ích. Hôm sau cô mặc cả quần áo đi nằm. Đúng giờ thường lệ, cửa buồng cô lại mở ra và cảnh tượng ban đêm lại tái diễn. Lần này mẹ ghẻ cô, Lucrêgia cũng có mặt trong đám đàn bà đi diễu qua trước cửa buồng cô, bạo lực đã buộc bà phải làm điều nhục nhã ấy. Bêatrich ở khá xa nên không nhìn thấy bà đỏ mặt và nước mắt tràn trề. Frăngchetcô liền chỉ cho con gái mình bà mẹ ghẻ mà hôm qua cô không thấy. Thấy cô không nói gì hắn liền đưa cô bé vào cơn cuồng si ấy mặc dù cô bối rối và đỏ nhừ cả người. Ở đây Bêatrich nhìn thấy những cảnh đốn mạt chưa từng có và cô nhìn thấy những điều cô chưa từng biết. Tuy nhiên cô cũng chống cự lại khá lâu, Frăngchetcô cho rằng những cảnh tượng ấy kích thích cảm giác của con gái, hắn lại còn thêm vào đấy những tà thuyết hòng đánh lạc lý trí của cô. Hắn nói với cô rằng những Thánh lớn nhất của nhà thờ đều sinh ra từ mối quan hệ tình dục giữa người cha và con gái. Thế là hắn không từ một thủ đoạn dã man nào. Hắn buộc Lucrêgia và Bêatrich phải cùng chung một chồng, đe dọa sẽ giết vợ nếu bà để lộ một câu cho con gái hắn biết sự chung chạ ấy là một điều ô nhục. Sự việc như vậy cứ diễn ra trong vòng gần ba năm. Đến thời kỳ này Frăngchetcô có việc phải đi xa trong một thời gian, buộc hắn phải để hai người đàn bà ở nhà với nhau và được tự do. Điều thứ nhất mà bà Lucrêgia thực hiện ngay là nói cho Bêatrich thấy tất cả sự bỉ ổi của cuộc sống của họ, thế là hai người cùng nhau viết một tờ đơn tố cáo với Giáo hoàng tất cả những gì mà họ đã phải đau khổ chịu đựng. Chẳng may, trước khi đi, Frăngchetcô đã đề phòng tất cả, những người xung quanh Giáo hoàng đều bị hắn mua chuộc hoặc sắp được mua chuộc cho nên đơn tố cáo của hai người đàn bà tội nghiệp không tới được tay Giáo hoàng.   Mời các bạn đón đọc Những Tội Ác Trứ Danh của tác giả Alexandre Dumas.
Khi Thiên Thần Sợ Hãi
Bối cảnh là năm 1811 ở nước Anh. Xã hội rối ren, tầng lớp quý tộc đứng ngồi không yên trước nguy cơ một cuộc cách mạng sắp nổ ra. Giữa lúc ấy, Rachel York, một nữ diễn viên kịch đang lên, bị sát hại dã man và cưỡng hiếp trong Điện thờ Đức Mẹ của một nhà thờ gần Westminster Abbey. Các bằng chứng và nhân chứng đều chỉ đến thủ phạm là Sebastian St. Cyr, Tử tước Devlin, khiến anh trở thành kẻ đào tẩu vừa phải trốn chạy vừa phải tìm ra thủ phạm thực sự để minh oan cho mình. Hành trình của Sebastian trải dài từ những dạ hội xa hoa cho đến những phòng trà đứng đắn ở Mayfair, từ những hang cùng ngõ hẻm bẩn thỉu dơ dáy cho đến sân nhà thờ St. Giles. Bằng những kỹ năng học được trong chiến tranh, Sebastian phát hiện ra Rachel không chỉ là một nạn nhân bình thường mà cái chết của cô che giấu một âm mưu lớn hơn, liên quan đến một đường dây gián điệp, những bí mật đời tư của các thành viên quốc hội và nguy cơ đe dọa tương lai của vương triều... *** #Review Khi Thiên Thần sợ hãi Tác giả: C.S. Harris Dịch giả: Minh Phúc. Điểm: 9 cho nội dung + 0.75 cho bìa đẹp cực kỳ = 9.75. Mức: Dở-Trung Bình-Khá-Hay-Rất hay (vkl) = [Hay-Rất hay (vkl)] “Che giấu một bí mật bằng cách ngụy trang nó thành một bí mật khác, một bí mật hào nhoáng và tục tĩu đến mức nếu ai tình cờ phát hiện ra, họ sẽ không bao giờ nghĩ đến việc nhìn xa hơn để nhìn thấy một sự thật…” Một tác phẩm trinh thám kinh điển hội tụ đủ các yếu tố: giết người, điều tra, hành động, phiêu lưu, mạo hiểm và kết thúc bằng một cảnh anh hùng giải cứu mỹ nhân rực lửa kinh điển trong các phim hành động mỹ. Nếu bạn đang tìm kiếm một vị anh hùng, một người không phải thám tử điều tra, một soái ca ngon lành cành đào để điều tra thì có vẻ quyển này phù hợp với những ai thích thú điều đó ???? Sơ lược nội dung: Năm 1811, khi xã hội Anh rối ren, tầng lớp quý tộc đứng ngồi không yên trước nguy cơ một cuộc cách mạng nổ ra. Giữa lúc ấy, Rachel York, một nữ diễn viên kịch đang lên, bị sát hại dã man trong Điện thờ Đức Mẹ của một nhà thờ gần Westminster Abbey. Các bằng chứng đều chỉ đến thủ phạm là Sebastian St.Cyr, Tử tước Devlin, khiến anh trở thành kẻ đào tẩu vừa phải trốn chạy vừa phải tìm ra thủ phạm thực sự để minh oan cho mình. Hành trình của Sebastian trải dài từ những dạ hội xa hoa cho đến những phòng trà đứng đắn ở Mayfair, từ những hang cùng ngõ hẻm bẩn thỉu dơ dáy cho đến sân nhà thờ St.Giles. Bằng những kĩ năng học được trong chiến tranh, Sebastian phát hiện ra Rachel không chỉ là một nạn nhân bình thường mà cái chết của cô che giấu một âm mưu lớn hơn, liên quan đến một đường dây gián điệp, những bí mật đời tư của các thành viên quốc hội và nguy cơ đe dọa tương lai của vương triều.... Và cứ như thế, hành trình của Tử tước Devlin bắt đầu lần ra manh mối truy tìm kẻ đã sát hại dã man cô gái diễn viên kịch ấy bắt đầu, khơi nguồn mọi thứ được tử tước tìm thấy trong một cuốn sổ ghi chép về các cuộc gặp mặt mà cô diễn viên kịch đã để lại trong nhà nhằm lần ra từng manh mối một, tử tước không phải là một kiểu người giàu có công tử bột mà anh ấy đã từng làm trong quân ngũ, phục vụ ở chiến trường, làm tình báo cũng có nên đây có thể coi là một người có kinh nghiệm trong nhiều lĩnh vực, và cả việc điều tra tìm ra manh mối kẻ thủ ác để minh oan cho mình, nhưng sự đời trớ trêu đường cong thì không bao giờ thẳng, tử tước đang có cuộc triệu tập tới đồn cảnh sát tự nhiên vô cớ vướng vào vụ đâm phải một viên cảnh sát khiến anh ấy hôn mê, nhưng không phải do mình làm, một lần nữa lại vướng vào vòng lao lý thật đáng tiếc ????). Chữ tài liền với chữ tai một vần. Vị tử tước đánh kiếm giỏi, đẹp trai (ổng mới 29 tuổi thôi quý vị à, rất soái car nhé :p, tập này sẽ không nói tuổi của tử tước, qua tập sau sẽ nhắc). Hình mẫu lý tưởng để chị em theo đuổi đấy, vừa giỏi vừa tự mình tìm hiểu manh mối nữa. Mạch truyện xảy ra vào đầu thế kỷ 19 nên rất ít kiểu điều tra hiện đại như lần theo manh mối từ vân tay hoặc khám nghiệm tử thi kỹ lưỡng, nhưng trong truyện có miêu tả cảnh cô gái bị cắt cổ ra làm sao, máu me như nào khá chân thật so với những gì một nữ tác giả có thể nghĩ ra, tử tước Devlin có nhiều lúc hành sự khá cảm tính, không biết có phải do anh phục vụ ở quân trường hay không mà anh ấy rất thích việc xông vào nhà từng nhân vật khả nghi để tiến hành điều tra từng người, và anh này có tài hóa trang để có thể tiến hành điều tra khẩu cung từng người, điều này làm mình liên tưởng đến người đàn ông sống ở số 221B phố Barker :p, tuy nhiên anh không có bác sĩ Waston cùng đồng hành mà trên đường đi anh thu thập được một thằng nhóc móc túi làm đệ cho anh =)) nó sẵn sàng làm điệp viên cho tử tước vì anh ấy đã bỏ qua cho nó tội móc túi, và từ đó 2 anh em tiến hành quẩy banh Westminster để có thể lần ra manh mối cho dù là giới bần nông hay tầng lớp quý’s tộc’s nào đi nữa tử tước Devlin cũng không buông ????. Mạch truyện đi khá nhanh, 426 trag chủ yếu tập trung vào việc điều tra hỏi cung là chủ yếu, tuy không có người đồng hành là bác sĩ nhưng tử tước có khá nhiều mối quan hệ và đặc biệt thân thiết với vị bác sĩ Paul Gibson, anh ấy cũng giúp tử tước rất nhiều kể cả phi vụ đào xác lên để khám nghiệm tử thi lại một lần nữa, và có đổ máu có, có ái tử thi luôn, đọc càng về cuối các bạn sẽ thấy tởm lợm hung thủ đã là điều đó với cô Rachel, tác giả miêu tả rất văn học và không thô thiển cứng ngắc. Tất cả các nhân vật trong truyện đều có một bí mật ẩn giấu riêng, và càng điều tra, càng lộ ra nhiều chân tướng, kể cả gia đình của tử tước cũng có một bí mật khá lớn, và trong lúc điều tra mọi người đọc sẽ rất dễ bị dẫn dụ suy nghĩ người nào đó mới thật sự là hung thủ thật, nhưng không càng về cuối plot twist càng lớn lên khi mà người mà không ngờ tới lại chính là hung thủ thật sự lại là “người ấy”, và người ấy là ai thì khi đọc bạn sẽ bất ngờ lớn đấy ???? . Mạch truyện nhanh + diễn biến diễn ra liên tục, nhiều lúc hồi hộp cứ sợ tử tước Delvin bị bắt lại, nhưng anh ấy quá thông minh và pro để có thể ứng phó được + tất cả sự kiện và nhân vật đều che giấu bí mật cho dù đó là tầng lớp gì đi nữa, them vào nữa dòng thời gian của sự kiện là năm một ngàn tám tram hồi đó nên chúng ta sẽ biết được các tầng lớp quý tộc Anh có sự liên kết với Pháp như nào và đặc biệt làm tay sai cho Napoleon ra làm sao sẽ được đề cập đến trong truyện. Và kết thúc truyện là việc đối đầu với hung thủ, cứu mỹ nhân và cũng là người tình của vị tử tước chung tình này, họ sẽ sống bên nhau hanh phúc đến 8 tháng sau hẹn gặp lại vụ án kế tiếp “Lời nguyền của người cá” :p, có những bí mật sẽ được chôn giấu mãi, nhưng rồi nó bằng cách nào đấy vẫn giữ được thanh danh cho tất cả các bên liên quan, một cách giải, một đáp án thấu tình và đạt lý ???? . Chúc các bạn đọc truyện vui vẻ #Rei_NTN *** C.S. Harris (tên thật là Candice Proctor) là tác giả của hơn 20 cuốn tiểu thuyết. Bà có bằng tiến sĩ trong lĩnh vực lịch sử châu Âu và cũng là tác giả của những cuốn sách lịch sử nghiên cứu về phụ nữ trong thời kỳ Cách mạng Pháp. Sách của bà có mặt khắp nơi trên thế giới và được dịch ra hơn 20 thứ tiếng. Một trong những series nổi tiếng nhất của Harris là Sebastian St. Cyr. Nhân vật trung tâm của tựa sách này là Sebastian, một quý tộc người Anh. Anh hiểu rõ sự rối ren trong tầng lớp thượng lưu và đồng thời cũng dành lòng trắc ẩn cho những con người khốn cùng trong xã hội. Tượng thần sụp đổ (tựa gốc: When Gods Die) là một tựa sách trong series Sebastian St. Cyr. Câu chuyện bắt đầu khi thi thể Guinevere – vị phu nhân trẻ tuổi, xinh đẹp của Hầu tước Anglessey già nua – đang nằm trong tay Hoàng tử George, vị hoàng thân nhiếp chính ăn chơi của nước Anh. Tác phẩm: Tượng Thần Sụp Đổ Khi Thiên Thần Sợ Hãi Lời Nguyền Của Người Cá ... *** Thứ Ba, 29 Tháng 1 năm 1811 Cô đổ lỗi cho màn sương. Bình thường cô không lo lắng đến vậy. Không sợ hãi đến vậy. Màn sương mù vàng đục của London là một thứ hôi hám sởn gai ốc. Mà nếu không có sương mù thì giờ này trời cũng đã tối. Đêm tháng một tối và lạnh. Nhưng làn hơi âm u càng làm mọi thứ thêm tồi tệ khi nó quấn quanh đèn lồng của Rachel như một bóng ma khiến cô suýt vấp ngã khi đang băng qua nghĩa trang nhà thờ. Một hòn đá lăn tròn dưới cái đế mảnh mai của đôi bốt ống ngắn, tạo thành tiếng kêu vang bất thường giữa đêm tĩnh lặng. Dừng lại, Rachel ngoái nhìn qua vai, ánh mắt xuyên qua đường nét mờ sương của những tượng đài và bia mộ rải rác khắp nghĩa trang. Từ xa vang lên tiếng lọc cọc và giọng nói hỏi giờ bị sương mù bóp nghẹt. Rachel hít một hơi thật sâu, lấp đầy phổi bằng không khí giá lạnh đượm hương thơm của đất và lá ẩm ướt cùng mùi hôi thối mốc meo khiến người ta liên tưởng đến những xác chết cũ kỹ, rồi rảo bước. Khối đá nặng nề của Nhà thờ Thánh Matthew vùng Fields lờ mờ hiện ra trước mắt cô. Rachel nắm những nếp lót satin của chiếc áo choàng đêm bằng nhung sát vào người. Lẽ ra cô nên bảo ông ta đến gặp mình vào lúc tám rưỡi tối. Muộn nhất là chín giờ. Tám rưỡi là khoảng thời gian thông thường. Chỉ có điều, đây không phải là một cuộc gặp mặt thông thường. Cô không ngờ mình lại cảm thấy sởn tóc gáy đến vậy. Cô không thích cảm giác này. Lo lắng khiến cô cảm thấy mình như một nạn nhân, và Rachel York không phải là một nạn nhân. Không bao giờ nữa. Đó là một lời hứa cô đã tự hứa với chính mình ở tuổi mười lăm, và trong ba năm qua, kể từ cái đêm định mệnh khi cô nắm quyền kiểm soát cuộc sống của chính mình, đó là một lời hứa cô chưa bao giờ phá vỡ. Giờ đây cô cũng không muốn phá vỡ nó. Tại bậc dẫn đến cửa cánh ngang phía bắc, một lần nữa cô dừng lại. Bên dưới mái vòm tròn sâu thẳm của cánh cổng tại mặt bên toà nhà, bóng tối gần như che phủ tất cả. Nâng đèn lồng lên cao, cô chiếu chùm tia sáng hẹp lên cánh cửa gỗ sồi cũ mòn. Qua lớp da dê mỏng của chiếc găng tay, chiếc chìa khóa sắt lạnh lẽo và nặng nề. Cô càng thấy khó chịu vì những ngón tay mình run lên khi cô cắm chìa vào ổ khóa. Chỉ một lần vặn, ổ khoá đã lách cách trơn tru và cánh cửa mở ra êm ru trước mắt cô nhờ những bản lề được tra dầu đầy đủ. Mục sư McDermott luôn chú ý đến những điều này. Tất nhiên, đó là trách nhiệm của ông. Rachel đẩy cánh cửa mở rộng hơn, một luồng khí đột ngột thổi ra, lay động lọn tóc vàng được uốn khéo trên má cô. Mùi nhà thờ quen thuộc, hương thơm của sáp ong, đá ẩm và gỗ cổ nhấn chìm cô. Cô lướt vào phòng và cẩn thận đóng cửa lại. Cô không khóa cửa. Cô bỏ chìa khóa vào túi xách, cảm nhận sự nặng nề và rắn chắc của nó chạm vào đùi mình khi cô bước qua cánh ngang. Sự im lặng lạnh giá của nhà thờ bao quanh cô, ánh sáng từ chiếc đèn lồng của cô dao động trên những bức tường đá ám khói nến đen và những bức tượng rải rác hình những hiệp sĩ và công nương đã chết từ lâu nằm nghiêng tĩnh lặng, lạnh lẽo trong khoảng không trống rỗng. Họ nói rằng Nhà thờ Thánh Matthew đã gần tám trăm tuổi, với mái vòm bằng đá sa thạch vươn lên từ những cột trụ dày và những chiếc cửa sổ nhỏ bé trên cao giờ chỉ cho thấy bóng tối bên ngoài. Cha của Rachel quan tâm đến những điều ấy. Có lần ông đưa cô đến thăm quan các nhà thờ ở Worchester và nói chuyện với cô hàng giờ về đường mái vòm, bao lơn1* và bức ngăn toà giảng. Nhưng cha cô đã chết từ lâu; Rachel đóng tâm trí mình lại trước những ký ức, không hiểu điều gì đã mang những suy nghĩ ấy đến với cô vào lúc này. *Nơi dành cho ban hát của nhà thờ. Điện thờ Đức Mẹ nằm ở tận cùng khu tụng niệm, một món trang sức nhỏ bé của thế kỷ mười bốn bằng đá cẩm thạch trắng, những cột trụ mảnh mai và bức ngăn chạm khắc tinh tế. Rachel đặt đèn lồng trên bậc trước bàn thờ. Cô đã đến sớm; ông ta sẽ không xuất hiện trong ít nhất hai mươi phút nữa. Sự trống rỗng của nhà thờ cổ xưa dường như ép chặt vào cô, lạnh lẽo và tối tăm. Cô liên tục nhìn vào những cây nến được ban phước tụm lại trên tấm khăn bàn thờ trắng như tuyết. Trong một lúc, cô đã ngập ngừng. Sau đó, đốt một dây nến, cô bắt đầu thắp nến, lần lượt từng cây một, ngọn lửa vàng của chúng nhảy lên ấm áp và tươi sáng cho đến khi chúng dường như hợp nhất thành một luồng ánh sáng an ủi. Rachel nhìn lên tấm vải lớn treo phía trên bàn thờ, một cuộn tranh tối màu miêu tả Đức Mẹ Đồng Trinh lộng lẫy thăng thiên trên nền những thiên thần chiến thắng. Trong khoảnh khắc, Rachel có lẽ đã thì thầm một lời cầu nguyện. Không phải bây giờ. Cô không nghe thấy tiếng cửa ngang mở và đóng, chỉ có tiếng vọng yếu ớt của những bước chân lén lút bước trên dàn hợp xướng. Ông ta đến sớm. Cô không ngờ đến điều này. Quay người lại, cô cởi mũ áo choàng và nặn ra một nụ cười gượng gạo, sẵn sàng thực hiện vai diễn của mình. Lúc này cô thấy cái bóng mờ, đường viền của áo choàng ngoài và chiếc mũ chóp cao của ông ta hiện lên qua bức phù điêu chạm trổ bằng đá của Điện thờ Đức Mẹ. Ông ta tiến lại gần ánh nến. Cô nhanh chóng lùi lại. "Ngươi," cô thì thầm, và biết rằng mình đã phạm phải một sai lầm khủng khiếp. Mời các bạn đón đọc Khi Thiên Thần Sợ Hãi của tác giả C. S. Harris.