Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cháu ông Rameau - Denis Diderot

Cháu ông Rameau bắt đầu được sáng tác vào khoảng 1761, nhưng mãi đến 1779 mới hoàn thành, là một thể nghiệm táo bạo của Diderot tiếp tục tìm tòi nội dung và hình thức mới của tiểu thuyết. Đó là “kiệt tác duy nhất” theo chữ dùng của Marx (1818-1883), và là “kiệt tác về mặt biện chứng” theo đánh giá của Engels (1820-1895). Cháu ông Rameau là một người có thật, tên là Jean-François Rameau, cháu gọi nhạc sĩ nổi tiếng Jean-Philippe Rameau (1683-1764) là bác ruột. J-F. Rameau kém Diderot vài tuổi. Hắn vốn là một gã đê tiện, sống cuộc đời ăn bám bằng cách nịnh hót hoặc làm trò hề mua vui cho những kẻ có tiền bạc và đến năm 1771 thì chết trong một nhà tế bần dành cho những kẻ vô gia cư. Tiểu thuyết viết theo hình thức đối thoại giữa “Tôi” và “Hắn” trong tiệm giải khát La Régence ở gần Hoàng-Cung, vào một buổi chiều, bên cạnh những người đang chơi cờ. Nếu như đối thoại choán gần hết từ đầu đến cuối trong Ý kiến ngược đời về diễn viên, chỉ mãi đến khi gần kết thúc mớỉ xuất hiện vai trò của người kể chuyện, thì ở Cháu ông Rameau, người kể chuyện xuất hiện nhiều hơn. Tác phẩm mở đầu bằng lời của người kể chuyện: “Dù đẹp trời hay thời tiết xấu, tôi có thói quen cứ đến năm giờ chiều đi dạo ở Hoàng-Cung. Thiên hạ luôn thấy tôi chỉ ngồi một mình, mơ mộng trên chiếc ghế dài ở Àrgenson[9]. Tôi trò chuyện với bản thân tôi về chính trị, về tình yêu, về thị hiếu và về triết học. Tôi mặc cho đầu óc tôi tha hồ bông lông...” Tiếp đó câu chuyện giữa “Tôi” và “Hắn” hơn hai chục lần bị ngắt quãng bởỉ lời của người kể chuyện, đó thường là những đoạn ngắn với lối văn tự sự, kể chuyện ở ngôi thứ ba. Khác với mối quan hệ giữa người kể chuyện và “Người trò chuyện thứ nhất” trong Ý kiến ngược đời về diễn viên, ở tiểu thuyết này, người kể chuyện và “Tôi” có thể xem là đồng nhất. Có nhiều dấu hiệu gắn bó hai nhân vật ấy[10] với chính tác giả, chẳng hạn trong khi trò chuyện, “Hắn” thường xưng hô với “Tôi” là thưa ông triết gia... và nhiều chi tiết khác ám chỉ đến quá khứ nghèo khổ của Diderot. Nhưng dẫu sao, trong khuôn khổ của tiểu thuyết, không thể và không nên quá nhấn mạnh vào sự trùng khớp này. Trong cuộc trò chuyện ở Ý kiến ngược đời về diễn viên, “Người trò chuyện thứ hai” thường nói ngắn, dường như chỉ đóng vai trò đưa đẩy cho “Người trò chuyện thứ nhất” mà thôi. Đến Cháu ông Rameau, lời nói chủ yếu thuộc về “Hắn”. Triết gia chủ yếu là gợi mở để cho “Hắn” nói, hoặc khi thấy những quan niệm của hắn vô liêm sỉ quá, bắt buộc phải nói dài để phản đối. Vì vậy, hầu như từ đầu đến cuối, ta chỉ nghe vang lên tiếng nói của Rameau trình bày với triết gia về cuộc sống đê tiện của hắn, cùng với những ý nghĩ, những quan niệm của hắn về xã hội và thế thái nhân tình. Có tài liệu cho rằng cuộc trò chuyện giữa tác giả và cháu ông Rameau (gọi tắt là Rameau) là có thật, nên có thể đồng nhất “Tôi” với Diderot và “Hắn” với Jean-François. Ý kiến ấy không thỏa đáng. Một tác phẩm viết trong gần hai mươi năm mới xong chắc chắn không phải chỉ là một cuốn kí sự đơn thuần, một tập biên bản ghi lại trung thực sự việc xảy ra. “Hắn” có nhiều khả năng không hoàn toàn là Jean-François, cũng như “Tôi” là triết gia, nhưng không nhất thiết là triết gia Diderot. Tác giả chắc đã nhìn thấy trong số phận Rameau những nét đặc biệt của thời đại ông và từ nguyên mẫu đó xây dựng nên một nhân vật có tính khái quát xã hội. Lại có ý kiến cho rằng anh chàng ăn bám Rameau sống một thời gian quanh quẩn gần Hoàng-Cung, nên Diderot thỉnh thoảng gặp hắn ta, nhưng không hề diễn ra cuộc trò chuyện giữa hai người trong tiệm giải khát La Régence. Đây chỉ là tác phẩm hoàn toàn hư cấu. Đoạn mở đầu tác phẩm đã dẫn ra trên kia đặc biệt có ý nghĩa. Người kể chuyện có thói quen dạo chơi một mình, mơ mộng một mình và trò chuyện cũng với chính bản thân mình chiều chiều ở Hoàng-Cung. Vậy “Tôi” và “Hắn” ở đây cũng chỉ là hiện tượng lưỡng hóa nghệ thuật như biện pháp lưỡng hóa được sử dụng trong Ý kiến ngược đời về diễn viên mà thôi. Thực chất của những “đối thoại” này là “độc thoại”, hay đúng hơn là “độc thoại nội tâm” phơi bày lên trang giấy những suy tư trăn trở miên man của bản thân, mong đi tới chân lí. Jean-Marie Goulemot so sánh chức năng của đối thoại ở đây với phép đỡ đẻ (maieutique), hiểu theo nghĩa phương pháp gợi hỏi của Socrate (470-399 TCN) nhằm hướng dẫn tìm ra chân lí còn đang thai nghén tiềm tàng ngay trong bản thân Diderot. Rameau, nhân vật chính của tiểu thuyết này, có thể nói hoàn toàn có thật mà cũng hoàn toàn hư cấu. Hắn có thể nhận ra chân dung của mình qua những dòng sau đây: “Chẳng có gì khác với hắn hơn là chính bản thân hắn. Đôi khi, hắn gầy gò và xanh xao như một người ốm sức tàn lực kiệt; ta như đếm được qua hai bên má những chiếc răng của hắn. Ta tưởng đâu hắn đã nhiều ngày chẳng ăn uống gì, hoặc là hắn vừa ra khỏi tu viện dòng Trappe. Đến tháng sau hắn lại béo mập và đẫy đà như thể hắn chưa từng rời bàn ăn của một nhà tài chính, hoặc là hắn bị lưu giữ trong một tu viện dòng thánh Bernard. Hôm nay ăn mặc bẩn thỉu, quần áo rách bươm, vá chằng vá đụp, hầu như giày dép chẳng có, hắn cúi gầm mặt xuống mà đi, lén la lén lút, khiến người ta như chỉ muốn gọi hắn để bố thí cho hắn. Hôm sau, đầu tóc chải chuốt, áo quần giày dép tinh tươm, hắn ngẩng cao đầu bước đi, vênh vang, và bạn có lẽ tưởng đâu hắn là một bậc hào hoa phong nhã...” Nhưng Jean-Marie Goulemot cũng hoàn toàn có lí khi nhận định rằng những dòng miêu tả Rameau trên đây, để cho hắn thay đổi dáng vẻ tuỳ ngày, tuỳ mùa... chính lại là một cách phủ nhận hoàn toàn sự có thực của nhân vật này[11]. Rameau là một nhân vật tiểu thuyết. Xét về mặt hình thức, cuộc trò chuyện giữa “Tôi” và “Hắn” có vẻ giống như bất cứ cuộc trò chuyện nào thuộc loại ấy, nhảy từ vấn đề này sang vấn đề khác, chẳng đi theo một trình tự ấn định trước. J-M. Goulemot lưu ý chi tiết phụ đề của tác phẩm này là “truyện châm biếm” - satire - bắt nguồn từ chữ latin “satura” có nghĩa là món hổ lốn, mớ hổ lốn, tập tạp văn. Nhưng đằng sau cái vẻ ngoài linh tinh, Goethe nhận định “câu chuyện đối thoại này thật ra có mạch lạc tài tình; người nào tưởng rằng cuộc đối thoại ấy rời rạc lỏng lẻo như một cuộc trò chuyện thường thì thật là lầm; nó chỉ giống cuộc trò chuyện thường ở chỗ linh hoạt mà thôi”[12]. Theo Michel Launay, câu chuyện lần lượt xoay quanh bốn chủ điểm. Thoạt tiên là “Nhận xét về con người và tính cách”. Tiếp đến là “Đạo đức”, chứa đựng những suy nghĩ về các khái niệm lương thiện và bất lương, thiện và ác và về việc giáo dục con cái. Thứ ba là “Triết học” với những suy nghĩ về lí lẽ của các hiện tượng, về bản chất của các sự vật. Cuối cùng là “Thị hiếu” bàn luận về mĩ học, về thiên tài, về âm nhạc, về sáng tác văn học[13]. Rameau vốn là người có sức khoẻ, thông minh và chẳng phải không yêu đời, tuy cuộc sống của hắn có nhiều điều bất hạnh. Hắn có những khả năng đặc biệt, rất yêu âm nhạc và rõ ràng có thể trở thành một nhạc sĩ khá. Nhưng Rameau chọn cái nghề dễ dàng nhất, cũng khó khăn nhất vì nó đòi hỏi phải có trí thông minh, phải lanh lẹn tháo vát, đó là nghề ăn bám. Hắn phủ nhận tất cả những cái gì tốt đẹp ở trên đời và chỉ công nhận một nguyên tắc sống là thoả mãn những bản năng đê hèn, tuy hắn biết như thế là bỉ ổi. Rameau là sản phẩm của xã hội phong kiến Pháp đang đi đến chỗ tan rã. Chính xã hội đã phơi bày ra trước mắt hắn cuộc sống mà bao nhiêu kẻ tai to mặt lớn lại là những kẻ không có đạo đức; trong xã hội ấy, “thiên hạ ca ngợi đức hạnh, nhưng thiên hạ ghét nó, nhưng thiên hạ trốn tránh nó, nhưng nó lạnh cóng, mà trong thế gian này lại cần phải có đôi bàn chân ấm nóng”; trong xã hội ấy, chính những kẻ quyền quý đã dạy cho hắn lòng căm ghét những người lương thiện như lập luận của vị thượng thư kia khi chứng minh rằng “đối với nhân dân không có gì ích lợi bằng sự dối trá và không có gì hại bằng sự thật thà”. Trong sự phủ định triệt để của Rameau, tuy hết sức bỉ ổi, nhưng lại chứa đựng không ít sự thật của thời đại, vì thế vẫn toát lên ý nghĩa phê phán tích cực. Rameau không ngần ngại nói toạc ra rằng ở đời “khi người ta đã giàu có thì người ta muốn làm gì mặc lòng, không bao giờ bị nhục nhã cả”, và còn vô liêm sỉ hơn, nhưng chẳng phải là không sâu sắc: hắn tuyên bố con tôi sẽ phải giàu có... “Cháu sẽ có vàng, tôi xin nói với ông như vậy. Nếu cháu có nhiều vàng, thì cháu sẽ chẳng thiếu gì hết, kể cả lòng tôn trọng và sự kính nể của ông”. Tác giả viết: “Rameau là một người đáng ghét không hơn không kém những kẻ khác, chỉ có điều hắn thẳng thắn hơn, nhất quán hơn và đôi khi sâu sắc hơn trong sự hư hỏng của mình”. Rameau không đơn thuần là sản phẩm thụ động của xã hội. Hắn còn vượt lên trên xã hội, quan sát nó bằng con mắt có ý thức và trí thông minh sẵn có. Hắn mò mẫm tìm ra nguyên nhân của những bất công trong xã hội: “Sự sắp đặt quỷ quái gì mà có những kẻ ngốn đầy ứ đủ thứ, trong khi những người khác có cái dạ dày quấy nhiễu như họ, có cái đói tái phát như họ, mà lại chẳng có gì để đút vào miệng”. Hắn hiểu rằng “trong thiên nhiên có các loài vật xâu xé nhau, trong xã hội có các giai cấp xâu xé nhau”. Nhưng Rameau lại rút ra kết luận muốn trở thành “một tên kẻ cướp sung sướng giữa những tên kẻ cướp giàu có”, vì hắn lí luận rằng “người ta phỉ nhổ một kẻ lưu manh tầm thường, nhưng không thể không cảm phục một tên đại gian đại ác”. Rameau chính là hình ảnh lớp người đang vật lộn trong xã hội lúc bấy giờ để tự khẳng định, nhưng cuộc đấu tranh của họ không vượt ra ngoài khuôn khổ của chủ nghĩa cá nhân do đó rơi vào bế tắc. Có ý kiến cho rằng trong cuộc trò chuyện này, Rameau hoàn toàn nắm quyền chủ động. Những lập luận của hắn tuy hết sức bỉ ổi, nhưng lại có sức lôi cuốn ghê gớm ngay cả đối với người đang ngồi trò chuyện với hắn và thỉnh thoảng lên tiếng phản đối. Dường như “Tôi” chỉ phản ứng lấy lệ, chứ trong thâm tâm thầm cảm phục “Hắn”. Có ý kiến lại cho rằng Rameau chỉ có vẻ thắng thế trong phần thứ hai trên bình diện lí thuyết, nhưng sang đến phần sau, triết gia dễ dàng chứng minh cho hắn thấy rằng mọi lí thuyết của hắn chẳng có giá trị gì trong thực tiễn, mà chỉ đưa đến những thất bại và những thái độ mâu thuẫn. Dù sao cũng phải thừa nhận có sự bắt gặp, thông cảm đến một mức độ nào đấy giữa triết gia và Rameau. Điều này cũng dễ hiểu khi ta biết rằng có thể xem “Tôi” và “Hắn” là hai mặt của chính tác giả. Triết gia tự tách một phần của mình ra để trò chuyện. Ông gán cho Rameau những ý nghĩ lời lẽ mà bản thân ông thấy bỉ ổi quá, không thể trực tiếp nói ra. Không có sự đối lập giữa “Tôi” và “Hắn”, giữa tác giả và nhân vật, giữa độc thoại và đối thoại. Đối thoại ở đây trở thành biện pháp để tác giả tự phân đôi và trình bày những mặt mâu thuẫn thống nhất của chính bản thân ông. *** Denis Diderot (1713-1784) là kiến trúc sư của công trình Bách khoa thư (Encyclopédie) đồ sộ, nhà văn có nhiều đóng góp độc đáo, nhà triết học duy vật, sôi nổi “lòng yêu chân lí và chính nghĩa”[1], nhà phê bình nghệ thuật sắc sảo. Ông là “nhà thơ lớn, nhà họa sĩ lớn, nhà điêu khắc lớn, nhà nhạc sĩ lớn... tuy chưa từng bao giờ làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc, nặn tượng”[2]. Denis Diderot sinh ở Langres, một thành phố cổ kính miền Đông-Bắc nước Pháp, trong một gia đình thợ thủ công nhiều đời chuyên sản xuất các loại dao. Thuở nhỏ, Diderot học ở quê nhà; năm mười hai tuổi, nhà triết học tương lai chịu lễ cắt tóc chuẩn bị phụng sự tôn giáo. Nhưng ba năm sau, năm 1728, ông quyết định từ giã quê hương lên Paris học tập, bất chấp mọi người can ngăn. Đây là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời ông. Những năm đầu tiên sống ở Paris, nhà văn sẽ có dịp gợi lại sau này qua cuộc đối thoại kì lạ giữa “Tôi” và “Hắn” trong Cháu ông Rameau (Le Neveu de Rameau), một cuộc sống gần như lang thang, bữa đói bữa no, nay đây mai đó. Cảnh túng thiếu sẽ còn đeo đẳng ông cho mãi về già. Nhưng để bù đắp lại, Diderot được hưởng một cuộc sống tinh thần hết sức phong phú. Ông thoả sức tắm mình trong không khí của thời đại; ông mở tâm hồn ra đón những luồng gió mớỉ của bốn phương; ông đọc sách của Voltaire (1694-1778), ông tham dự những buổi tọa đàm ở nhà triết gia D'Holbach (1723-1789); ông kết bạn với F.M. Grimm (1723- 1807) ở Đức vừa sang; ông được Rousseau (1712- 1778) đến thăm ở Vincennes khi bị giam cầm; ông dự đám tang Montesquieu (1689-1755)... Diderot - nhà triết học ra mắt độc giả bằng tác phẩm Những tư tưởng triết học (Les Pensées philosophiques, 1746). Liền năm sau, ông cho in Cuộc dạo chơi của người theo chủ nghĩa hoài nghi. Tác phẩm nổi tiếng Bức thư về những người mù (Lettre sur les Aveugles, 1749) khiến ông bị tống giam ở Vincennes mấy tháng. Năm 1753, ông cho in Về việc giải thích tự nhiên (Sur l’Interprétation de la nature). Đến 1772, hai tác phẩm quan trọng nữa ra đời: Trò chuyện giữa Diderot và D'Alembert và Giấc mơ của D'Alembert (Le Rêve de d'Alembert). Diderot bước vào lĩnh vực văn học gần như đồng thời với triết học, nhưng Diderot - nhà văn được khẳng định sau Diderot - triết gia khá lâu, và những kiệt tác văn học của ông cũng trải qua số phận long đong hơn nhiều. Tiểu thuyết Những đồ trang sức không kín đáo (Les Bijoux indiscrets, viết năm 1745, in năm 1748) chưa bộc lộ tài năng của tác giả. Với các vở kịch Đứa con hoang (Le Fils naturel, 1757) và Người cha trong gia đình (Le Père de famille, 1758), ông thử nghiệm một thể loại mới: kịch “drame” hoặc “hài kịch nghiêm chỉnh”; đáng tiếc ở đây tài nghệ của nhà soạn kịch không tương xứng với ý đồ lớn lao. Năm 1760, ông viết cuốn tiểu thuyết Nữ tu sĩ (La Religieuse) thực sự có giá trị, nhưng mãi đến 1796, sau khi tác giả qua đời mười hai năm, mới được xuất bản. Đó cũng là số phận của kiệt tác Cháu ông Rameau, sáng tác khoảng năm 1761, lưu hành một vài bản ở dạng chép tay trong số bạn bè quen biết. Một bản theo Grimm về Đức, lọt vào tay Goethe (1749-1832), được ông dịch ra tiếng Đức. Mãi đến 1823, Cháu ông Rameau mới được dịch lại từ bản tiếng Đức để xuất bản ở Paris, và tới gần cuối thế kỉ XIX, năm 1891, ngưòỉ ta mới tìm thấy nguyên bản của nó! Tiểu thuyết không kém phần độc đáo Jacques người theo thuyết định mệnh (Jacques le Fataliste), sáng tác năm 1773, cũng phải đợi đến 1796 mới được ra mắt công chúng.   Mời các bạn đón đọc Cháu ông Rameau của tác giả Denis Diderot.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Thổi Thủy Tinh Xứ Murano - Marina Fiorato
"Người thổi thủy tinh xứ Murano" là tiểu thuyết mang đầy không khí thần bí về lịch sử và truyền thống thổi thủy tinh của người dân ở đảo Murano, thành Venice, một trong 3 thành phố nổi tiếng của Italy. Nghề thổi thủy tinh là nghề sống còn thành phố này và những tấm gương được làm từ đây đắt hơn vàng. Được những kẻ giết người từ Hội đồng thành phố canh cẩn mật, nhiều người thợ thủy tinh xứ Murano gần như bị cầm tù trên đảo của họ. Nhưng một bậc thầy của nghề là Corradino Manin đã bán các phương thức và linh hồn mình cho vua Louis XIV (Pháp), nhằm bảo vệ cô con gái bí mật của ông. Nhiều thế kỷ sau, hậu duệ của ông, Nora Manin - một phụ nữ Anh trẻ tuổi - vì muốn thoát khỏi cuộc sống không hạnh phúc của mình ở London, đã quyết định đến Venice và theo học nghề thổi thủy tinh ở thành phố của tổ tiên mình. Sôi nổi và tài năng, tên họ nổi tiếng của cô đã đặt cô vào nguy hiểm bên trong các xưởng thủy tinh cổ xưa khi các kình địch của cô xuất hiện. Tìm thấy được cuộc sống mới và tình yêu ở Venice, số phận của Nora trở nên gắn bó chặt chẽ với ông tổ Corradino; và lúc này, những bí mật về sự phản bội của ông lộ ra. *** Marina Fiorato là nhà văn nữ gốc Venice. Cô tốt nghiệp ngành lịch sử tại Đại học Oxford, từng theo học chuyên ngành về kịch Shakespeare tại Đại học Venice. Sau khi tốt nghiệp đại học, nhà văn theo đuổi hội họa và trải qua nhiều nghề: diễn viên, nhà phê bình phim và họa sĩ minh họa. Cô từng thiết kế chuyến du lịch bằng hình (visual tour) cho ban nhạc U2 và Rolling Stones. Cô kết hôn tại Venice và hiện sống ở North London với chồng, con trai và con gái. Nữ nhà văn được xem là một "Rowling thứ hai" khi vừa viết sách vừa trông con trong một quán cà phê. Fiorato đang thương thảo việc chuyển nhượng bản quyền để chuyển thể tác phẩm này thành phim. *** Khi Corradino Manin nhìn những ngọn đèn của San Marco lần cuối cùng. Venice bên kia phá với chàng dường như là một chòm sao vàng óng trong màn đêm nhung xanh thẫm. Bao nhiêu ô cửa trong số những ô cửa sổ đó, điểm trang kinh thành của chàng như những viên đá quý, mà chàng đã làm ra bằng chính đôi tay mình? Giờ đây chúng là ánh sao lấp lánh soi đường chàng cuối cuộc hành trình của đời chàng. Dẫn lối cho chàng cuối cùng cũng trở về quê nhà. Khi con thuyền chạy vào San Zaccaria, chàng không nghĩ – một lần này thôi – là mình có thể diễn tả cảnh này trong thủy tinh bằng một pulegoso 1 với vàng lá và đá da trời nóng ra sao, mà là chàng sẽ không bao giờ còn được nhìn thấy khung cảnh dấu yêu này nữa. Chàng đứng trước mũi thuyền, hình chạm đầu mũi thuyền lấm tấm nước biển, nhìn sang trái về Santa Maria della Salute, đôi mắt nhìn cái khối mái vòm trắng lờ mờ hiện ra trong màn đêm vẻ tinh khôi của nó. Người ta đã đặt móng cho ngôi nhà thờ lớn vào năm 1631, năm Corradino chào đời, để cảm tạ Đức Mẹ Đồng Trinh đã cứu thành khỏi Trận dịch. Tuổi thơ và thời trai trẻ của chàng đã sánh bước với công trình đang dần hình thành. Giờ nó đã hoàn thành, năm 1681, năm chàng chết. Chàng chưa từng được thấy sự rỡ ràng trọn vẹn của nó dưới ánh sáng ban ngày, và giờ thì sẽ không bao giờ nữa. Chàng nghe thấy một người trèo traghetto 2 thê lương mời khách khi băng qua Kênh lớn. Chiếc thuyền đen của ông gợi nhớ một chiếc gondola 3 đưa tang. Corradino rùng mình. Chàng cân nhắc xem có nên gỡ cái mặt nạ bauta trắng ra không ngay khi chân chàng đặt lên bờ; một khoảng khắc nên thơ – một cử chỉ cao cả khi chàng trở về Serenissima 4. Không, mỉnh còn một việc nữa phải làm trước khi họ tìm thấy mình. Chàng cài kín chiếc áo choàng đen trên vai chống lại sương mù tăm tối và đi qua Piazzetta dưới lớp che của chiếc mũ ba sừng và bauta. Bộ trang phục tabarro 5 truyền thống, đen từ đầu đến chân trừ chiếc mặt nạ trắng, phải giúp chàng đủ vô danh để kéo dài thời gian chàng cần. Bản thân cái bauta, một phiến mặt nạ ma quái hình thù như cái xuổng của phu đào huyệt, có cái mũi ngắn và cằm dài có thể biến đổi giọng một cách kỳ quái nếu chàng phải nói. Chẳng mấy lạ là, chàng nghĩ, cái mặt nạ vay mượn tên nó từ ngữ "baubau", "ác quỷ" mà các ông bố bà mẹ cầu khẩn để làm mấy đứa con lang thang của họ khiếp sợ. Theo thói quen do mê tín, Corradino đi nhanh vào màn đêm qua giữa hai cây cột San Marco và San Teodoro vươn lên, trắng và đối xứng. Vị Thánh và con quái vật đứng trên đỉnh trán tường của hai cây cột chìm trong bóng tối. Nấn ná lại đây là xui xẻo, vì các tội nhân bị hành quyết giữa hai cây cột này – bị treo bên trên hoặc chôn sống ở dưới. Corradino làm dấu thánh giá, tự nhận ra mình và mỉm cười. Còn vận rủi nào nữa có thể xảy đến cho chàng? Ấy thế mà chàng vẫn rảo bước. Vẫn còn một tai họa có thể làm hỏng mình: bị ngăn cản không hoàn thành được việc cuối cùng. ... Mời các bạn đón đọc Người Thổi Thủy Tinh Xứ Murano của tác giả Marina Fiorato.
Người Trong Bóng Tối - Paul Auster
Ngày 19/8, độc giả nước Mỹ cầm trên tay cuốn tiểu thuyết 'The man in dark' của nhà văn Paul Auster. Và cùng ngày này, bản dịch cuốn sách do dịch giả Trịnh Lữ thực hiện với tựa 'Người trong bóng tối' cũng xuất hiện trên các kệ sách. Người trong bóng tối là câu chuyện về August Brill, một nhà phê bình văn học 72 tuổi, bị tai nạn phải ngồi một chỗ. Trong khi ông ngồi trên xe lăn hay nằm lì trên giường, chong chong mất ngủ, thì một thế giới khác, một "thực tại song hành" đang diễn ra với đầy những phức tạp và phi lý. Thực tại ấy đúng là do trí tưởng tượng của August Brill tạo ra, đưa đẩy ảo thuật gia Owen Brick vào một nước Mỹ khói lửa của cuộc nội chiến lần thứ hai, như cách lý giải của tác giả: "Chuyện chiến tranh. Cứ mất cảnh giác một tí thôi là chúng ào đến, từng trận một, từng trận một". Và chiến tranh vẫn chỉ là cái cớ để Paul Auster kể những câu chuyện nhiều ngụ ý của mình. Trước đó, hai tác phẩm của Paul Auster là Trần trụi với văn chương và Nhạc đời may rủi đã được dịch và phát hành tại Việt nam. *** Paul Auster sinh năm 1947 tại thành phố Newark, bang New Jersey (Mỹ) trong một gia đình Do Thái trung lưu gốc Ba Lan. Tốt nghiệp đại học Columbia năm 1970, ông sang Paris và sống bằng việc dịch văn học Pháp. Năm 1974, ông trở lại Mỹ và bắt đầu sáng tác. Tên tuổi Paul Auster bắt đầu nổi lên khi bộ ba tiểu thuyết The New York Trilogy (đã được dịch sang tiếng Việt với tựa Trần trụi với văn chương), trong đó ông tạo nên hình thức hậu hiện đại riêng biệt của mình. ***  Tôi một mình trong bóng tối, đang quay cuồng vật lộn với một cơn mất ngủ nữa, một đêm trắng nữa trong chốn hoang mạc Mỹ vĩ đại. Trên gác, con gái và cháu gái tôi đang ngủ trong phòng của chúng, đứa nào cũng một mình. Miriam, bốn mươi bẩy tuổi, đứa con duy nhất của tôi, đã ngủ một mình từ 5 năm qua, và Katya hai mươi ba tuổi, đứa con duy nhất của Miriam, trước đây vẫn ngủ với một thanh niên tên là Titus Small, nhưng giờ thì Titus đã chết rồi, và Katya ngủ một mình với con tim tan nát của nó.   Sáng trưng, rồi bóng tối. Nắng dội xuống từ mọi ngả trời, sau đó là đêm đen, những vì sao im lặng, gió xao động lá cành. Lệ thường là vậy. Tôi đã sống trong ngôi nhà này được hơn một năm nay, suốt từ ngày họ cho tôi xuất viện. Miriam cứ nhất định là tôi phải về đây. Lúc đầu chỉ có hai bố con, với một hộ lý hàng ngày đến chăm tôi trong lúc Miriam đi làm. Thế rồi, ba tháng sau đó, tai họa giáng xuống đầu Katya, và nó bỏ dở trường điện ảnh New York để về nhà với mẹ ở Vermont.   Cha mẹ thằng bé ấy đã lấy tên đứa con trai của nhà danh họa Rembrandt ngày xưa để đặt cho nó, thằng bé của những bức tranh, đứa nhỏ tóc vàng với cái mũ đỏ, cậu học trò mơ mộng ngỡ ngàng với những bài học của mình, thằng bé đã lớn lên trong bệnh tật và chết khi mới trên hai chục tuổi đầu, hệt như Titus của Katya[1]. Một cái tên tuyệt mệnh, nhẽ ra phải bị cấm tiệt từ lâu rồi. Tôi thường nghĩ đến cái chết của Titus, câu chuyện khủng khiếp của cái chết ấy, những hình tượng của cái chết ấy, đám tro tàn trắng xóa của nó bao phủ lên đứa cháu gái buồn khổ của tôi, nhưng tôi không muốn lại về miền ý nghĩ ấy nữa, nhất là bây giờ, tôi phải tránh xa nó, càng xa càng tốt. Đêm còn rất dài, và khi tôi nằm trên chiếc giường này nhìn vào bóng tối, một thứ bóng tối đậm đặc đến mức cả trần nhà cũng không còn thấy đâu nữa, tôi bắt đầu nhớ đến câu chuyện mình đã bắt đầu đêm hôm trước. Đó là việc tôi làm khi giấc ngủ không chịu đến. Tôi nằm trên giường và tự kể chuyện cho mình. Có thể những câu chuyện ấy chẳng đi đến đâu, nhưng cứ còn sống với chúng thì tôi còn không phải nghĩ đến những thứ mình vẫn muốn quên đi. Nhưng tập trung cũng không phải là dễ, và thường thì cuối cùng tâm trí tôi vẫn cứ trôi khỏi câu chuyện mình đang cố kể và dạt vào những thứ mình chẳng muốn nghĩ đến chút nào. Chẳng biết làm sao được. Tôi vẫn cứ thua như thế, thua nhiều hơn được, nhưng không có nghĩa là tôi không chịu gắng hết sức mình. ... Mời các bạn đón đọc Người Trong Bóng Tối của tác giả Paul Auster.
Quan Hệ Nguy Hiểm - Khiêu Dược Hỏa Diệm
Khiêu Dược Hỏa Diễm là cái tên tương đối lạ, không có sức thu hút như Cố Mạn, Tiên Chanh, Diệp Lạc Vô Tâm hay Đường thất công tử. Tuy nhiên, sau khi đọc xong cuốn Quan hệ nguy hiểm, Hoa Ban quyết định phải ra sức săn lùng các tác phẩm khác của tác giả này. Nói làm sao nhỉ? Một tác phẩm đồ sộ về nội dung, hình thức, lối viết và từ ngữ. Ngay từ  chương 1 của câu chuyện, người đọc đã không cách này dứt ra được. Bối cảnh diễn ra chủ yếu ở 3 nước Trung Quốc, Miến Điện và Thái Lan. Đây là một câu chuyện nồng nặc mùi súng đạn, tình dục, bạo lực… thể loại bao gồm có tình cảm, trinh thám, hình sự, …người viết đã xây dựng tỉ mỉ và chân thực bộ mặc xấu xa của thế giới ngầm vùng Tam giác vàng. Bắt đầu từ khi cô bác sĩ trẻ Đặng Sơ Vũ bị bắt làm con tin trong một vụ khủng bố ở Thái Lan rồi may mắn rơi vào tay Tam ca Lục Tử Mạc của nhóm buôn bán ma túy Kim Gia. Con người này tự nhận mình bị bất lực, chỉ muốn dùng cô làm vật chơi đùa. Ấn tượng ban đầu của cô về anh ta chính là giọng nói trầm ấm, còn cảm nhận ban đầu của người đọc là có linh cảm anh ấy là người tốt. Bởi vì theo cách kể của tác giả, Tử Mạc đã cố ý cứu Sơ Vũ trở thành trò tiêu khiển dung tục của đám đàn ông và còn tạo cơ hội để cô được giải cứu. Tuy nhiên, tác giả cũng sớm làm người đọc vỡ mộng khi cho anh ta lộ ra sự nhơ nhuốc, máu lánh, nguy hiểm chết chóc như đúng công việc anh ta làm. Lục Tử Mạc được người trong giới đánh giá là “không có nhược điểm” từ ngày gặp Sơ Vũ đã để lộ mọi sơ hở chết người cũng như hành động trái quy tắc bản thân Sau khi đọc hết truyện, Hoa Ban quyết định cho tên anh vào nhóm nam nhân vật top tem của tiểu thuyết ngôn tình. Nếu xét trong đề tài xã hội đen, tội phạm thì rõ ràng Lục Tử Mạc cuốn hút hơn cả Hàn Trạc Thần, An Dĩ Phong, Lôi Kình vân vân và ve ve ^^ Anh được miêu tả với phong cách Bad Guy trong công việc, sự can đảm và bãn lĩnh phi thường lúc nguy nan. Nếu Hàn Trạc Thần khiến người đọc ngất ngay vì uy quyền, tiền tài, bề ngoài, lòng si tình thì Lục Tử Mạc là hình mẫu của người đàn ông không thể đốn ngã, hành động siêu phàm và bình tĩnh ngay lúc cận kề cái chết. Hầu hết câu chuyện anh không mấy khi thảnh thơi làm ông hoàng trong địa vị thứ 3 của Kim Gia mà là lăn lộn trong cuộc chiến ma túy và sinh tử. Cả tình huống ngặc nghèo nhất cũng không khiến anh khiếp sợ. Người đọc sẽ yêu mến nhân vật dù cho anh thường là kẻ bị chỉa súng vào đầu, bị săn lùng, tả tơi hay thương tích trầm trọng. Chỉ như thể mới thấy được bản năng sinh tồn và lòng dũng cảm của con người này. Phong cách viết của truyện này là theo trường phái hành động. Nhiều lúc tình hình của đôi nhân vật chính nguy cấp như ngàn cân treo sợi tóc, khiến ta phải thót tim chờ đợi. Cái hay khác là câu chuyện viết quá thực, không hề kể lể sơ sài mà còn cho thấy vốn kiến thực của người viết về chính trị, quân sự, thao lược, văn hóa các dân tộc người Thái Lan,… Nhờ vậy mà câu chuyện sống động như một bộ phim của HBO. Dường như mọi chi tiết đều có căn cứ, tính logic rõ ràng. Nhân vật không đối thoại thừa câu nào và sự tỉ mỉ trong lối tả khiến không gian truyện như hiện ra trước mắt. Đọc câu chuyện chính là khám phá xem 2 người làm cách nào để sống sót và thoát khỏi mỗi khi bị vây bắt, bị phản bội, bị hãm hại, bị cho vào tròng,… Có thể thấy rằng, con người thường quá ỷ lại vào vũ khí trong tay, vào số đông hay vào chút hiểu biết ít ỏi. Chính vì thế mà lần lượt các nhân vật bị thua thảm hại dưới tay Lục Tiểu Mạc dù anh không có lấy một tất sắt. Thật ra cái đầu của con người mới là quyết định chứ không phải tứ chi. Câu chuyện có nội dung mang tính kịch như trong điện ảnh nhưng không tạo cảm giác hoang đường mà còn rất chân thật. Nguồn: Hoa Ban - hoabanland.wordpress.com *** Ngày thứ bảy, Sơ Vũ cuối cùng cũng có thời gian dành cho bản thân sau 48 tiếng đồng hồ làm việc liên tục. Kể từ lúc đến công tác ở phòng cấp cứu bệnh viện số một Chiang Rai, Sơ Vũ đã quên mất cảm giác thong dong đi dạo phố là như thế nào. Di động của Sơ Vũ luôn ở tình trạng 24/24h mở máy. Dù cô vừa ngồi xe buýt hơn nửa tiếng đồng hồ về đến nhà, chỉ cần bệnh viện gọi điện thông báo bệnh nhân do cô phụ trách xảy ra tình hình đột xuất, Sơ Vũ sẽ lập tức quay lại, có thể lao vào cấp cứu thông đêm. Gần như không có thời gian cá nhân, phòng cấp cứu ở nước ngoài khác với trong nước. Ở đây giống như chiến trường không ngừng nghỉ. Trách nhiệm và sức ép đối với những người làm việc ở đây là không thể tưởng tượng nổi. CÓ lúc, Sơ Vũ cảm thấy cô không thể tiếp tục, dù bắt cô đi nơi mệt mỏi nhất là khoa phụ sản, cô cũng cảm thấy còn đỡ hơn phòng cấp cứu. Sơ Vũ năm nay 28 tuổi, vẫn sống độc thân. Công việc bận rộn ở nước ngoài khiến cô không có tinh thần nghĩ đến chuyện riêng tư. Tuy người nhà luôn thúc giục, nhưng ưu điểm lớn nhất của độc thân là sự tự do. Không cần nghĩ đến chuyện tan sở về nhà phải chăm sóc người đàn ông tứ chi mạnh khỏe nhưng chẳng làm gì, không cần nghĩ đến chuyện dọn dẹp nhà cửa, giặt giũ, rửa bát. Nếu không muốn nấu cơm thì ra ngoài ăn. Khi nào cảm thấy cô đơn thì có sách báo, đọc hết số sách ba cô thu thập cũng phải mất mấy năm. Thứ bảy này nếu không phải trong nhà dùng hết vật phẩm thiết yếu, nếu siêu thị không chỉ cách nhà cô 5 phút đi bộ, Sơ Vũ sẽ ở nhà ngủ chứ chẳng thèm chạy ra ngoài mua đồ. Về cơ bản, Sơ Vũ không có tâm trạng shopping. Thân thể mệt mỏi khiến cô chỉ thèm chiếc giường mềm mại. Sơ Vũ hận mình không mọc hai móng sắc, quét sạch đám người xếp hàng đằng trước, sau đó mọc thêm hai đôi cánh, thanh toán xong bay vụt về nhà. Xếp hàng mất 10 phút, khó khăn lắm mới đến quầy thu ngân, Sơ Vũ cố nhấc giỏ đựng hàng nặng đặt lên quầy thu ngân. Đúng lúc này, siêu thị phát ra tiếng nổ cực lớn. Cửa kính lớn đằng trước quầy thu ngân nổ tung giống như trong phim điện ảnh, vô số mảnh thủy tinh bay đến như cơn mưa băng. Sơ Vũ đứng ngây người nhìn các mảnh thủy tinh bay về phía cô giống như phim quay chậm. Tay Sơ Vũ đột nhiên truyền đến sức mạnh to lớn. Có người bảo vệ đầu cô, nhanh chóng đẩy cô xuống đất. Tất cả động tác này chỉ diễn ra trong một hai giây. "Đi!" ... Mời các bạn đón đọc Quan Hệ Nguy Hiểm của tác giả Khiêu Dược Hỏa Diệm.
Nghe Mùi Kết Thúc - Julian Barnes
Hội đồng chỉ mất đúng 31 phút để quyết định Julian Barnes sẽ là người thắng giải, với một tác phẩm được tuyên bố là viết đẹp, dễ đọc, có chất lượng cao và phản ánh được con người của thế kỉ 21. Hãy lưu ý rằng Julian Barnes viết cuốn sách này khi ông đã ở ngoài ngưỡng 60 tuổi (năm 2011). Trước đó, qua mỗi thập kỉ, nhà văn đương đại nổi tiếng người Anh này đều có tác phẩm từng lọt vào chung khảo Man Booker. Đó là "Flaubert's Parrot" năm 1984, "England, England" năm 1998 và "Arthur & George" năm 2005. Có nghĩa là liên tiếp qua 4 thập kỉ, hội đồng giám khảo của Man Booker đều đã chú ý đến Julian Barnes - tác gia từng hoạt động rất nhiều trong các tổ chức đấu tranh vì quyền con người. Đến năm 2011, họ chỉ mất đúng 31 phút để quyết định ông sẽ là người thắng giải năm nay, với một tác phẩm được tuyên bố là viết đẹp, dễ đọc,  có chất lượng cao và phản ánh được con người của thế kỉ 21. Không chỉ thành công với Man Booker, trước đó Julian Barnes từng sở hữu gần 10 giải thưởng khác, trong đó có giải  Shakespeare, giải Prix Femina Étranger hay giải David Cohen.  Nói vậy để biết rằng, "Nghe mùi kết thúc" đã được viết với tất cả kinh nghiệm và trí tuệ sâu sắc, đo bằng chiều dài của thời gian. Nó cũng là một cái nhìn ngược chiều có tính suy nghiệm về tuổi trẻ của một nhà văn thông tuệ.  "Khi bạn còn trẻ, bạn nghĩ bạn có thể đoán trước được ít nhiều những đau đớn và trống vắng tuổi tác sẽ mang lại... Nhưng tất cả những cái ấy đều là nhìn về phía trước. Điều bạn không làm nổi ấy chính là nhìn về phía trước, rồi thì tưởng tượng mình đang nhìn lại đằng sau từ cái điểm tương lai đó. Học những cảm xúc mới mà thời gian đem lại. Những nhân chứng cuộc đời bạn giảm dần, có ít thuyết chứng hơn, và thế là bớt đi tính chắc chắn việc bạn là ai hay đã từng là ai." - nhân vật chính Tony Webster tự ngẫm.  Ý tưởng của cuốn tiểu thuyết rất có thể bắt nguồn từ một câu chuyện gia đình giữa Julian Barnes và anh trai ông - một nhà triết học. Julian Barnes thừa nhận ông và anh của mình từng bất đồng ý kiến khá nhiều về những sự kiện xảy ra trong thời thơ ấu. Người anh tuyên bố những kí ức rất có thể sai lầm nếu ta không có những chứng cứ độc lập để xác minh. "Tôi thì tin hơn vào kí ức, hoặc đang tự đánh lừa bản thân mình" - Julian nói.  Có lối viết chiêm nghiệm và mở ra nhiều suy nghĩ nhưng "Nghe mùi kết thúc" lại rất dễ đọc, rất thanh lịch, tao nhã, đậm chất Anh. Nó cũng là một câu chuyện tình thời tuổi trẻ khi bản năng và lý trí nằm ở những tầng khác nhau. Ở giữa Tony Webster và Adrian là Veronica - một cô gái vô cùng thông minh, lý trí, người đã chuyển từ vị trí người yêu của Tony sang yêu Adrian.  "Nghe mùi kết thúc" thực sự là một cuộc phiêu lưu đáng giá của suy nghĩ và kí ức. Dù kí ức của mỗi người hiện đang có là ngắn hay dài.  *** “Một viên ngọc của sự hàm súc và chính xác… Nghe mùi kết thúc gói gọn chỉ trong ngần ấy trang nhiều thứ đến nỗi khi đọc xong ta thấy thỏa mãn hơn so với đọc nhiều cuốn tiểu thuyết dày gấp mấy lần như vậy.” – THE LOS ANGELES TIMES “Bi đát nhưng mạnh mẽ, Nghe mùi kết thúc dấn sâu vào những bí ẩn của ký ức chúng ta, nói thôi thúc khiến chúng ta muốn chỉnh sửa, viết lại và đôi khi xóa bỏ hoàn toàn quá khứ của chúng ta.” – VOGUE “Với sự tinh tế và khéo léo đặc trưng, Barnes chuyển trò chơi mèo-bắt-chuột này thành một câu chuyện thực sự căng thẳng và hấp dẫn.” – THE WASHINGTON POST “Ngắn gọn, đẹp… Cái câu hỏi lạnh xương sống ấy – Tôi có đúng là người mà lâu nay tôi vẫn đinh ninh là mình không? – hóa thành một câu hỏi ẩn chứa nhiều bất ngờ đến đáng ngạc nhiên. Như Barnes đã làm phơi lộ ra một cách vừa cao nhã vừa đau đớn, chúng ta thẩy đều là những người kể chuyện không đáng tin, những kẻ được cứu chuộc không phải nhờ sự chính xác của ký ức chúng ta mà nhờ chúng ta sẵn sàng đặt nghi vấn về ký ức đó.” – THE BOSTON GLOBE Tony đã già, Tony cảm nhận rõ đoạn kết cuộc đời mình. Một cuộc đời dường như ổn thỏa, tuy có thất vọng, có ly dị và nhiều mất mát – như mọi cuộc đời. Thế nhưng Tony sẽ rất bất ổn ở chính cái đoạn kết này. Julian Barnes, nhà văn danh tiếng của nước Anh, đã vô cùng lạnh lùng và tỉ mỉ - nhưng chỉ cần sử dụng rất ít trang giấy – miêu tả cái nhà tù mà con người bị giam hãm bên trong, như một điều không thể khác; nhà tù ấy ác nghiệt vì là tổng thể của hiện tại, tương lai và quá khứ. Những mảnh vụn li ti của quá vãng, cộng dồn thêm bao nhiêu thời gian và sự nham hiểm của số phận, khi đuổi kịp Tony đã mang sức nặng khủng khiếp, sức nặng của kết cục. Văn chương bậc thầy thường xuyên có một sắc thái quỷ quyệt, điều này thể hiện trong cuốn tiểu thuyết này dưới dạng một lời nhắn nhủ vô thanh của tác giả: Đừng quá tự tin, vì cuộc đời này vốn dĩ rất nhiều bất ổn. “Dày đặc những ý tưởng triết lý… Cuốn sách tạo ra sự căng thẳng đích thực chẳng khác gì một loại truyện trinh thám về tâm lý con người.” – Michiko Kakutani, THE NEW YORK TIMES   Mời các bạn đón đọc Nghe Mùi Kết Thúc của tác giả Julian Barnes.