Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thanh Lâu - Tập 2

Tôi là người phụ nữ khổ nhất thế giới (Tự bạch của nhân vật chính) Tôi sinh ra vào thời kỳ đầu những năm 30 trong cuộc hỗn chiến quân phiệt. Vừa sinh ra cõi đời, tôi hoàn toàn không được lựa chọn, phải sống cảnh đói nghèo, khổ nạn và gian nguy. Bảy tuổi mất mẹ, tôi thành cô nhi, chín tuổi bị bán vào công quán làm kẻ hầu hạ, mười tuổi lưu lạc làm ăn xin, mười một tuổi vào đại vũ đoàn Hóa Nghinh tập võ học kịch, mười hai tuổi làm con dâu, mười bốn tuổi bị người ta gạt bán vào kỹ viện làm kỹ nữ. Tuy thân mang tuyệt kỹ, cũng từng thi triển võ công để phản kháng, nhưng tôi không thể thoát khỏi hắc động của xã hội ghê gớm đó. Trong cuộc sống bán thân bán nụ cười, tôi bị người ta bán như bán súc vật, từ Thành Đô đến Bảo Kê, đến Lan Châu, chuyển bán qua ba thành phố lớn, bốn kỹ viện. Tôi, thân nô lệ phải theo họ của chủ nhân, từng có sáu cái tên: Lưu Hồng Chi, Khang Tiểu Muội, Tô Thu Chi, Điền Thanh Đệ, Mã Hương Ngọc, Thù Hương Ngọc. Trong sáu tên này, thời gian gọi tên Khang Tiểu Muội là dài nhất, vì lúc này tôi mười một tuổi tập võ học kịch, trưởng đoàn ban ân, cho tôi giả làm cháu của Khang Tử Lâm thuộc hàng thái sơn bắc đẩu của võ học Tứ Xuyên. Tôi từng tiếp khách là sĩ quan Mỹ, cũng từng tiếp qua nhân vật trọng yếu của Quốc Dân Đảng là Hồ Tông Nam, Mã Bộ Phương. Cuối cùng tôi theo Ngụy Sấu Bằng lớn hơn tôi ba mươi tám tuổi, là thư ký của tướng quân Phùng Ngọc Tường. Từ đó tôi thoát khỏi hầm chông sống đời hoàn lương. Tháng 8 năm 1949, Lan Châu giải phóng, tôi bước lên bến bờ mới, làm lại con người mới, cũng từ đây tôi chính thức có một cái tên công dân thuộc về mình, trong nước Trung Quốc mới – Khang Tố Trân. Nhớ lại chuyện cũ, những chị em trong thanh lâu đã tử nạn luôn sống trong lòng tôi. Tôi vừa học văn hóa, vừa tập luyện võ công, tôi muốn tra tìm hung phạm để báo thù cho chị em tử nạn, nhưng tâm nguyện lớn nhất của tôi chính là viết một quyển sách, đem những chuyện bi thảm của chị em chúng tôi viết ra, truyền lại đời sau. Mùa xuân năm 1951, Sấu Bằng đi Tây An công tác, ông đưa tôi đến những nơi tôi từng chịu khổ: Bảo Kê, Thành Đô để khảo sát thực địa. Ở Tây An, tôi làm quen Điền Cửu Hồng là danh kỹ Tây An mà tôi gọi là cô cô. Cô cô giúp tôi tích lũy tài liệu phong phú hơn cho việc viết sách sau này. Năm 1957, tôi từ biệt Tây Bắc, theo người chồng đã về hưu trở lại quê hương làng Mộc Điếm, huyện Thúc Lộc (nay là thành phố Tân Tập) tỉnh Hà Bắc. Thoái ẩn điền viên, vốn muốn luyện võ viết sách, thay đổi nhanh chóng cuộc đời, tôi đến vùng đất công nghiệp Hải Hà, rèn luyện trong lao động gian khổ. Tôi dần mất đi hương thơm và dịu dàng của nữ tính, tay chân tôi trở nên thô kệch. Hàng ngày tôi cùng các dân công vật lộn trong con kênh mới đào, tôi có thể vật ngã hàng mấy thanh niên hai mươi mấy tuổi khỏe mạnh. Ngày tháng sau này là thời kỳ khốn khó: lũ lụt dìm huyện Thúc Lộc, thiên tai vừa qua, lại gặp phải cách mạng văn hóa. Tôi và Sấu Bằng cùng chịu đả kích trở thành phản cách mạng, bị nhốt vào chuồng bò. Hơn một trăm ảnh của chị em mà tôi trân quí cất giấu gần như toàn bộ bị Hồng Vệ binh lục xét tịch thu, coi là văn hóa phẩm độc hại, thảy vào lửa đốt. Sấu Bằng bị đàn áp đến nhảy giếng tự tử. Tôi cũng ba lần cải giá, từ Mộc Điếm đến Hình Gia Trang đến Quách Tây. Tôi chịu khổ tận cùng bị chồng đánh đập tàn nhẫn. Sau đó, tôi kiên quyết ly hôn, may là cán bộ của Quách Tây cho tôi con đường sống, cho tôi làm cấp dưỡng của đội sản xuất, chuồng bò trở thành nhà chính thức của tôi... Mãi đến sau đại hội toàn Tam Trung, tôi mới được giải phóng lần thứ hai. Ngày giờ vừa thong thả, giấc mộng cao xa mà tôi chôn vùi bao năm nay dần dà sống lại trong lòng tôi. Đúng lúc này, tôi nghe người ta đồn rạp phim Tân Tập đang chiếu bộ phim “Vọng hương”, tả lại cuộc sống của kỹ nữ, thế là tôi xin nghỉ phép một ngày vào thành phố xem phim. Quyết tâm viết sách lại sôi sục như núi lửa phun trào, tôi nghĩ rằng chuyện của tôi và các chị em so với “Vọng hương” của Nhật Bản phong phú hơn nhiều lắm, màu sắc hơn nhiều lắm. Người ta có thể quay thành phim, tôi không thể viết một quyển sách sao? Sau khi về làng, tôi lập tức đến quầy hàng mua giấy bút. Nửa đêm ở trong chuồng bò, bên cạnh ánh đèn dầu leo lét và đám bò ngựa hiền hòa, tôi âm thầm viết lại cuộc đời mình: Tôi không biết viết tiểu thuyết, chuyện xưa theo máu và nước mắt của tôi và các chị em mà chảy ra, khóc khóc viết viết, viết viết khóc khóc. Mặc dù viết đầy chữ sai tôi cũng viết xong mấy quyển lớn. Tôi nhảy lên xe đạp, đạp cả hai mươi lăm cây số, giao bản thảo cho Phòng Văn hóa huyện. Sau đó tôi biết bản thảo ấy như muối liệng vào biển. Tôi lại lần nữa chết cả lòng... Tháng 5 năm 1985, Liên hiệp Văn hóa thành phố được thành lập (năm 1986 Tân Tập được nâng thành thành phố cấp huyện). Đảng và Chính phủ giúp tôi cầm lại bút. Cấp trên cử người giúp tôi chỉnh bản thảo thành tiểu thuyết. Sự tích tôi “viết sách” từng vang dội một thời và việc người khác chỉnh lý bản thảo giúp tôi biên tập thành tiểu thuyết cũng gây xôn xao mấy năm. Nhưng khi đó tôi không xác định được rốt cuộc ai có thể đem cuộc đời truyền kỳ của tôi viết thành một bộ toàn tập có phong cách thống nhất, chân thực, cảm động lòng người. Mãi đến năm 1995, tôi mới biết hai bộ “Thanh lâu hận” và “Thanh lâu hận tục tập” có ảnh hưởng tương đối lớn. Vương Diên Niên là tác giả chấp bút cho tôi hoàn thành bộ tiểu thuyết này. Tuy ông đã chuyển sang viết trường thiên tiểu thuyết khác nhưng tôi nghĩ mình không thể mất đi người này. Tôi kiên trì trong một tháng viết cho ông ba bức thư. Tôi muốn ông tiếp tục viết toàn tập cho tôi. Đáng tiếc, tôi khổ nhọc viết mười năm, gần hai trăm quyển viết tay của tôi thất lạc trong dân gian tìm lại không được. Mùa đông năm 1996, tôi u uất thành bệnh. Tôi dự cảm mình sắp làm “láng giềng” của Diêm vương rồi. Tối rất sợ một khi tôi xuôi tay nhắm mắt thì chuyện kể đầy lòng của tôi sẽ chui vào quan tài. Thời gian không cho phép chậm trễ, tôi lập tức nhờ chồng sau của tôi là Dã Hoài Khởi gửi thư cho Vương Diên Niên mời ông đến giường bệnh của tôi. Tôi đem một phần hình ảnh tư liệu quý giá cất giấu bấy lâu giao hết cho ông, ủy thác ông viết toàn tập cho tôi, tuy bản thảo viết tay thất lạc khó tìm lại được nhưng chuyện kể chân thật nhất nằm trong tim tôi. Đối diện với Vương Diên Niên cũng bằng như đối mặt với hàng ngàn hàng vạn độc giả trên xã hội, tôi muốn tố cáo với mọi người, muốn đem cả cuộc đời mình dùng chân tình, dùng nước mắt kể ra, khóc ra, ngâm ra, hát ra... Mở đầu của câu chuyện chính là năm đại tai nạn mà tôi ra đời. *** Thảm nạn thình lình của danh hoa Tiền Cửu Hồng tức thời lôi bảng hiệu của Hồng Lâm đảo xuống theo. Mà không chỉ riêng Hồng Lâm đảo, cả con đường Trung Châu cũng trở nên tiêu điều ảm đạm. Khi thấy Tiền Cửu Hồng bị hủy hoại dung nhan, trong nỗi kinh sợ, cảm thương trong tôi còn tiềm ẩn một cảm giác khoái trá, thích thú. Tôi cho rằng một khi hồng cô nương đứng đầu ngã rồi tất sẽ đến phiên Điền Thanh Đệ tôi làm vua một cõi, phất riêng ngọn cờ độc tôn. Nhưng qua mấy ngày vắng teo khách, tôi mới sâu sắc ngộ ra rằng tôi vĩnh viễn không làm được hồng cô nương hạng nhất. Trước kia, tôi toàn “dựa hơi, ăn theo người ta” để tôn uy phong của mình. Cây đại thụ Cửu Hồng đột ngột trốc gốc, cành nhánh mà tôi bám vào không còn thì tôi chẳng khác chú chim non trong đêm đen ủ rũ tìm tổ, tìm một cây ấm áp để trú thân. Mấy ngày nghiền ngẫm, hối hận, tôi cảm thấy chị Điền Thanh Hà là người đáng yêu, đáng kính, đáng gần gũi biết bao. Chị có tính cách của người mẹ cao cả, vĩ đại. Chị giống như thứ đất ấm màu mỡ chân chất ở đại bình nguyên Hà Bắc của chị, cung cấp dưa ngọt quả thơm, cao lương, đậu đen, thu nạp hết những ai bỏ ác tùng thiện không chốn dung thân. Điền Thanh Hà chính là quê hương của tâm linh tôi. Trước đây tôi làm nhiều điều có lỗi với chị. Chị không những không báo thù mà khi tôi nhận lỗi chị vẫn coi tôi như đứa em gái ruột thịt. Càng thân thiện tôi càng hiểu Thanh Hà thêm. Chị không phải không có khí chất tốt đẹp. Sở dĩ chị dựa dẫm vào Điền Trưởng Tam vì trong hoàn cảnh ác liệt như vậy có thể nương tựa vào sự bảo hộ của đại thụ này thì có thêm được chút tự do, giữ gìn được bản sắc lương thiện chất phác của bản thân. Ngày ngày, mỗi sáng sớm, tôi và Thanh Hà một lớn một nhỏ đứng ở ngạch cửa để mong ngóng giùm má Điền, mong chờ Điền Trưởng Tam trở về, nhưng chúng tôi chỉ trông thấy khắp đường bầy quạ đen bay lên đáp xuống tìm thức ăn. Buổi tối, hai chị em tôi cũng đứng trên ngạch cửa mong ngóng khách đến. Cửu Hồng vừa ngã quỵ, đám khách quý đó liền như bóng chim tăm cá, vắng bặt không còn một người. Những người buôn bán nhỏ trên đường rất ít ai lên dốc bán. Hai chị em tôi đứng thẫn thờ nhìn con đường quạnh quẽ, nhìn lầu cao im lìm mà cảm thấy ảo não. Nhớ lại một năm trước, khi Nghiêm Mạc Lợi, Uyển Ngọc còn sống, mỗi tối Mạc Lợi đứng trước cửa Dao Nguyệt đình cách chỗ này không xa nghêu ngao mấy bài hát dâm đãng, cười lẳng lơ, quậy tưng bừng cả nửa con đường. Hồng Lâm đảo càng nhộn nhịp. Xe hơi sang trọng thường đậu trước cửa. Trên lầu tiếng cười nói, ăn uống rôm rả. Cửu Hồng đàn hát thì mọi người trên con đường đều nghiêng tai lắng nghe, chít lưỡi khen hay. Còn có Uyển Ngọc linh lợi, thơ ngây thường lén chạy đến Trưởng Tam hành viện tìm Thanh Hà. Nó bị uất ức thì đến tìm người chia sẻ; vui vẻ nó cũng đến; không có chuyện gì nó cũng thích đến. Bây giờ, Mạc Lợi, Uyển Ngọc đều đã đến thế giới khác. Hồng Lâm đảo cũng tối đèn không sáng lại nổi nữa. Tôi đau lòng rớm nước mắt. Chị Thanh Hà cũng đưa tay áo lau mắt. Cũng buổi tối này, hai chị em tôi đang lặng lẽ đau lòng rơi nước mắt, bất chợt tôi nhìn thấy dưới dốc có một người mặc quân phục cũ trông như thổ phỉ xăng xái đi về phía bọn tôi. — Không xong, khâu bát lại đến rồi. – Tôi giật tay Thanh Hà một cái. Thanh Hà giật mình nhìn vào người đó, bóp chặt bàn tay tôi nho nhỏ trấn an: — Đừng sợ, có lẽ chỉ có một tên. Tôi ngầm nắm chặt nắm đấm. Khâu bát đó đi đến trước mặt bọn tôi thì đứng lại nhưng không lên tiếng. Đôi con ngươi vàng lườm lừ lừ quan sát bọn tôi. Tôi bất giác cảm thấy chán ghét tên này, ngẩng đầu lớn gan nhìn chằm chằm hắn. Tên này thật quá xấu xí. Cái đầu hắn hình tam giác, mặt gầy ốm dài, vóc dáng giống cái thuổng, người ngợm đen đúa, dơ bẩn. Tôi vừa nhìn đã biết hắn không phải người tốt. Thanh Hà cũng chẳng thèm nhìn gã. Trái lại gã đưa đôi mắt mèo nhìn Thanh Ha chăm chú. Lúc này Cao Bộ Hoa bước xuống lầu vừa thấy người khách này cũng giật thót người, vội đon đả nói: — Quý khách lần đầu đến đây à? Anh chấm cô nương nào? Đây là Điền Thanh Hà con gái lớn của tôi. Đây là Điền Thanh Đệ con gái nhỏ của tôi. Chúng nó... “Cái thuổng” khoát tay, toét hàm răng vàng ệch cười nói: — Khỏi giới thiệu. Đêm nay tôi mua suất của Điền Thanh Hà. Tôi vừa thấy nhẹ nhõm vừa bực dọc, không rõ là may mắn hay là đố kị. Cao Bộ Hoa tính tiền suất xong mặt mày tươi rói: — Hà nhi, còn không đỡ vị huynh đệ này lên lầu. Thanh Hà thò cánh tay ra. “Cái thuổng” này rất cổ quái xoay người tự mình nghênh ngang bước lên lầu. Ông khách này quả thật làm người ta chán ghét, người xấu xí mà ra vẻ cao quý. Vừa vào phòng, hắn ngồi lên giường, bắt chéo chân: — Thuốc đâu? Thanh Hà lấy trong hộc bàn ra hộp thuốc lá ném cho hắn ta. Hắn cầm thuốc ngước mắt nhìn lên, trong con ngươi đầy vằn đỏ, trán nhăn hằn rãnh sâu. Mày mắt vừa sụp xuống, trán tam giác cũng bằng phẳng. Hắn rút một điếu thuốc cắm vào đôi môi dày khô nứt nẻ: — Lửa. Thanh Hà lại ném hộp diêm cho hắn. Hắn bật lửa đốt thuốc rít mấy hơi, kèm theo một cơn ho khùng khục. Cái mặt dài đỏ lừng, ra lệnh: — Trà, trà đâu? — Có ngay, có ngay. – Cao Bộ Hoa vội nhấc bình trà. “Cái thuổng” đưa tay ngăn lại: — Bảo cô ấy châm. Cao Bộ Hoa cười giả lả: — Được, được, hai người vui vẻ. Hà nhi tiếp đãi khách tử tế. – Nói xong bước xuống lầu. Điền Thanh Hà như cái máy châm trà cho người khách. Đôi mắt mèo rừng lom lom nhìn vào gương mặt đẹp đẽ của Thanh Hà, tủm tỉm cười. Hắn nhấp một ngụm trà, lại cười cười, lại nhấp một ngụm trà. Thanh Hà cúi đầu ngồi trước mặt hắn, bực bội chịu đựng cái nhìn soi mói đó. — Này, sao cô không cười? Đại ca này đến đây cô phải vui vẻ đón tiếp. Cười cho tôi xem. Thanh Hà thấy chán ghét nhưng sợ đắc tội với khách thì mang họa nên cố nhẫn nhịn, lạnh nhạt nói: — Tôi không biết cười. “Cái thuổng” lại nhướng đôi mày xám lên, chảy xệ gương mặt dài: — Ê, trên đời có ai mà không biết cười? — Tôi không biết. – Thanh Hà đáp. “Cái thuổng” như trâu rồn rột rồn rột uống sạch tách trà. Hắn đưa móng tay dài dài búng lách cách vào tách, đùa cợt: — Cô nàng xinh đẹp như vậy mà không biết cười. Hỏng bét! Hôm nay đại ca này phải dạy cô cười. Tôi có thuốc tiên để cười, cô tin hay không? Thanh Hà cũng muốn trêu lại, ngẩng mặt lên nói: — Vậy tiên sinh bảo tôi cười thử xem. — Được. – “Cái thuổng” đặt tách trà xuống, đứng lên nói – Tôi niệm chú, chỉ nói hai tiếng thì cô sẽ cười. Thanh Hà có hứng thú, truy hỏi: — Nếu tôi không cười thì sao? “Cái thuổng” móc ra mấy tờ tiền giấy ném lên giường, nói: — Nếu cô không cười được thì tiền này của cô. Tôi lập tức đi ngay. Thanh Hà cũng đứng phắt dậy, nói: — Tốt, một lời đã định, vậy chúng ta thử xem. — Thử, thử, trước tiên cô đừng quấy rối tôi. Tôi niệm mấy câu thần chú sẽ nói hai tiếng đó. – “Cái thuổng” quay người qua, giơ một bàn tay đặt trước ngực, miệng lầm rầm không biết lẩm nhẩm cái gì. Thanh Hà bình thản ngồi xuống, lòng nghĩ: Khâu bát bọn bây khiến người ta căm hận muốn chết, còn muốn làm người ta cười sao? “Cái thuổng” chậm rãi lầm rầm niệm. Hắn đứng như tượng gỗ một lát, đột nhiên quay cái đầu tam giác qua: — Hồng Bảo! Thanh Hà giật mình, đứng bật dậy lắp bắp: — Ông... ông gọi ai? Đôi mắt mèo rừng nhìn chằm chằm: — Tôi gọi cô, Hồng Bảo. — Ai la Hồng Bảo? — Cô, Hồng Bảo của Yến Tử Nhai, Hà Bắc. Thanh Hà vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, hỏi: — Ông là ai tại sao biết tên tộc của tôi? “Cái thuổng” cười lớn rồi sầm mặt ngồi xuống, nói: — Cô cười cho tôi, gọi tôi một tiếng Cảnh đại ca tôi mới nói cho cô biết. Tim của Thanh Hà bắt đầu đập loạn. Chị nhìn Cảnh đại ca, cảm thấy ông ta biến thành đẹp trai: mái tóc hung hung đó biến thành bồng bềnh, cái mặt hình tam giác thô đen đó biến thành chất phác cương liệt, đôi mắt mèo vàng biến thành đặc biệt, nói năng thô kệch là đùa cợt sảng khoái. Chị bật cười, cười rất đẹp, mắc cỡ gọi: — Cảnh đại ca. Mời các bạn mượn đọc sách Thanh Lâu - Tập 2 của tác giả Vương Diên Niên.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Điều Nhỏ Bé Vĩ Đại
Ruth, một y tá hộ sinh lành nghề bị gạt ra khỏi công việc vì cha đứa bé yêu cầu không để y tá người Mỹ gốc Phi chăm sóc con mình. Đứa bé chẳng may mất sau đó, và Ruth bị kiện ra tòa vì tội giết người.  Để chứng minh mình vô tội, để tiếng nói của người Mỹ gốc Phi được cất lên công bằng, Ruth phải trải qua một chặng đường rất khó khăn, nhưng cô không cô đơn. Bên cạnh cô là nữ luật sư, chị gái, con trai và những người bạn không ngờ khác… Tác phẩm Những điều  nhỏ bé vĩ đại của Jodi Picoult là một câu chuyện sâu sắc về vấn đề kỳ thị chủng tộc, sự lựa chọn, nỗi lo sợ và niềm hy vọng. Tiểu thuyết được sáng tác dựa trên một chuyện có thật ở Mỹ, gợi mở nhiều vấn đề để độc giả tự rút ra kết luận về cách chúng ta nhìn nhận bản thân và người khác trong thế giới đa dạng này. Jodi Picoult là tác giả có sách bán chạy nhất theo bình chọn của New York Times. Bà đã xuất bản 25 tiểu thuyết, bao gồm Siêu Thoát, Luật nhà, Nơi chốn lưu đày, và các tác phẩm khác.  *** Sự lựa chọn, nỗi lo sợ và niềm hi vọng trong 'Những điều nhỏ bé vĩ đại'. Những điều nhỏ bé vĩ đại kể câu chuyện đầy rung cảm về nạn phân biệt chủng tộc của tác giả lừng danh Jodi Picoult. Những ngày này, khi nước Mỹ đang rúng động vì những cuộc biểu tình dẫn đến bạo động, hơn 40 thành phố tại các bang nước Mỹ bị phong tỏa, và các nghệ sĩ nổi tiếng ở Mỹ như Billie Eilish, Ben Affleck, Beyonce, Ariana Grande, Rihanna và ngay cả chương trình Vua đầu bếp Mỹ nổi tiếng cũng giương cao khẩu hiệu: Black Lives Matter, thì năm 2016, tác giả lừng danh Jodi Picoult đã kể một câu chuyện đầy rung cảm về nạn phân biệt chủng tộc, qua tiểu thuyết Những điều nhỏ bé vĩ đại (Small great things). Tựa sách, được tác giả lấy ý từ câu trích dẫn được cho là của Martin Luther King, Jr.: “Nếu không thể làm những điều vĩ đại, tôi có thể làm những điều nhỏ bé theo một cách vĩ đại”. Hai nhân vật trong truyện có hành động nhỏ nhưng tác động lớn và lâu dài lên người khác là Ruth và Kennedy. Ruth là một y tá hộ sinh lành nghề người Mỹ gốc Phi. Cô yêu công việc ở bệnh viện, tận tụy với các bà mẹ và trân quý từng sinh linh nhỏ bé chào đời trên tay mình. Cô cũng nuôi dạy con trai một cách tử tế, để xứng với người cha là quân nhân đã hi sinh cho nước Mỹ. Nhưng một lần, Ruth buộc phải rời khỏi vị trí làm việc theo lệnh của cấp trên, vì cha của một đứa trẻ sơ sinh yêu cầu không để y tá da đen chăm sóc con mình. Đứa bé chẳng may mất sau đó và Ruth, người da màu duy nhất trong bệnh viện, bị kiện ra tòa vì tội giết người.  Để chứng minh mình vô tội, để tiếng nói của người Mỹ gốc Phi được cất lên, Ruth phải trải qua một chặng đường rất khó khăn, nhưng cô không cô đơn. Bên cạnh cô là luật sư, chị gái, con trai và những người bạn không ngờ khác… Đặc biệt, nữ luật sư Kennedy, một người Mỹ da trắng với đầy đủ những “đặc quyền vô hình” mà người da trắng vẫn thụ hưởng, đã sát cánh bên cô. Ruth không đấu tranh cho bình đẳng - cô muốn sự công bằng, vì “Bình đẳng là đối xử với tất cả mọi người như nhau. Còn công bằng là có tính đến sự khác biệt của từng người, để ai cũng có cơ hội thành công và phát triển”. Người da màu tại Mỹ, cho đến tận năm mà Những điều nhỏ bé vĩ đại được viết ra, khi Mỹ đã có tổng thống da màu đầu tiên, vẫn phải hứng chịu những bất công âm thầm mà không phải ai cũng cảm nhận được. Như Ruth và Kennedy cùng đi vào cửa hàng mua sắm, nhưng Ruth là người duy nhất bị quản lý cửa hàng nhìn theo từng bước chân và soát giỏ khi ra. Như cách người Mỹ né ra xa khi cùng ngồi với cô trong căn tin, hoặc những định kiến bám chặt lấy đứa con trai của cô, dù nó là một học sinh xuất sắc, mẫu mực... Nữ luật sư đã thẳng thắn chỉ ra “cơn gió xuôi” đó, trong một xã hội tưởng như rất tự do bình đẳng: “Thật dễ để chúng ta nhìn ra cơn gió ngược của sự kỳ thị chủng tộc, cái cách mà người da màu bị phân biệt đối xử. Chúng ta thấy nó khi một người da đen vô cớ bị cảnh sát bắn và một cô gái da nâu bị bạn cùng lớp bắt nạt vì đội hijab trên đầu. Thế nhưng cơn gió xuôi của sự kỳ thị chủng tộc thì khó thấy hơn và cũng khó thừa nhận, khi mà những người không phải da màu chúng ta được hưởng lợi từ làn da trắng. Chúng ta có thể đi xem phim và khá chắc rằng hầu hết các nhân vật chính trông sẽ giống mình. Chúng ta có thể tới trễ một buổi họp và màu da chúng ta sẽ không bị lôi ra làm cái cớ. Tôi có thể bước vào phòng của thẩm phán Thunder và đưa ra phản bác mà không bị nói rằng mình đang chơi con bài màu da. Hầu hết chúng ta không phải đi làm, về nhà và thốt lên "Tuyệt quá! Hôm nay mình không bị chặn lại và lục soát người!". Hầu hết chúng ta không vào đại học và nghĩ rằng, mình được vào ngôi trường mình lựa chọn vì hệ thống giáo dục hoạt động theo hướng có lợi cho mình. Chúng ta không nghĩ những điều đó, vì chúng ta không phải nghĩ”. Jodi Picoult cho biết, từ lúc dấn thân vào nghiệp viết lách, bà đã nghĩ đến việc viết một quyển sách về vấn đề kỳ thị chủng tộc tại Mỹ, sau một sự kiện có thật ở New York: một cảnh sát chìm người da đen bị bắn vào lưng, nhiều lần, bởi các đồng nghiệp da trắng - dù anh ta đang mang cái được gọi là “màu sắc của ngày” - một chiếc vòng tay để cảnh sát ngầm nhận ra nhau. Tuy nhiên, phân biệt chủng tộc là một vấn đề nhạy cảm tại Mỹ và không dễ viết. Hai mươi năm sau, tin tức về y tá người Mỹ gốc Phi ở Flint, Michigan thu hút sự quan tâm của bà - một người cha theo chủ nghĩa thượng tôn da trắng đã ra yêu sách là người da màu không được đụng vào con ông ta và nhóm nhân viên người Mỹ gốc Phi đã đâm đơn kiện. Họ đã chiến thắng. Từ sự kiện này, Jodi Picoult đã dệt nên câu chuyện của mình, từ góc nhìn của một y tá da đen, một người cha theo chủ nghĩa thượng tôn da trắng và một luật sư công - nữ luật sư này, cũng như Jodi Picoult và nhiều người Mỹ khác luôn nghĩ mình rất bình đẳng, không bao giờ có tư tưởng kỳ thị chủng tộc, họ dễ dàng chỉ ra và lên án những kẻ phát xít mới, nhưng không thể nhận ra sự phân biệt âm thầm trong chính bản thân mình. Có thể nói, Những điều nhỏ bé vĩ đại là câu chuyện sâu sắc về vấn đề kỳ thị chủng tộc, sự lựa chọn, nỗi lo sợ và niềm hi vọng. Tất cả được thể hiện qua ngòi bút sinh động tuyệt vời của tác giả, với những phân tích thuyết phục về tâm lý nhân vật, cuộc sống người da màu ở Mỹ, cách cả người da màu và da trắng vượt qua rào cản, nỗ lực đứng lên giành lấy công bằng cho xã hội. Tác phẩm cũng gợi mở nhiều vấn đề để độc giả tự rút ra kết luận về cách chúng ta nhìn nhận bản thân và người khác trong thế giới đa dạng này. Jodi Picoult là tác giả có sách bán chạy nhất theo bình chọn của New York Times. Bà đã xuất bản 25 tiểu thuyết, bao gồm Siêu thoát, Luật nhà, Nơi chốn lưu đày, Hai cõi người ta... và luôn được độc giả chào đón nồng nhiệt.  Nói về Những điều nhỏ bé vĩ đại, báo chí trên khắp thế giới đã không tiếc lời khen ngợi. The Washington Post viết: "Những điều nhỏ bé vĩ đại là tiểu thuyết quan trọng nhất mà Jodi Picoult từng viết… Nó sẽ thách thức độc giả… [và] mở rộng cuộc thảo luận văn hóa về chủng tộc và định kiến của chúng ta". Hoặc như San Francisco Book Review đã bình luận: "Một tiểu thuyết đã đặt những ngón tay của nó lên mạch đập của đất nước chúng ta đang sống ngày nay… lôi cuốn từ đầu đến cuối, như ta vẫn kỳ vọng từ Jodi Picoult. Tiểu thuyết này giữ được nhịp điệu khiến ta phải liên tục lật xem tiếp trang sau, không thể nào đặt xuống. Nó mở ra một cuộc thảo luận, khiến mọi người phải ngồi xuống nhìn lại cuộc đời mình, những hành động của họ (hiện tại và quá khứ) và đặt câu hỏi làm thế nào tiến lên phía trước. Đây là một cuốn sách tuyệt vời, không chỉ vì nó đề cập đến một vấn đề xảy ra trên đất Mỹ và toàn thế giới, mà còn cho chúng ta thấy thay đổi là điều có thể". Đọc Những điều nhỏ bé vĩ đại khi phong trào đấu tranh vì Black Lives Matter đang bùng nổ tại Mỹ, ta thấy những dòng tự sự của Jodi Picoult cách đây bốn năm vẫn vô cùng sâu sắc: “Ngọn lửa đang bùng cháy và chúng ta có hai lựa chọn: quay mặt đi hoặc cố gắng chiến đấu với nó. Phải, việc đó rất khó khăn và phải, chúng ta vấp váp - nhưng chúng ta, những người da trắng, cần phải trao đổi với nhau về vấn đề chủng tộc. Bởi vì chỉ khi đó mới có nhiều người hơn nữa nghe thấy chúng ta”. Và khi đó, những điều tử tế nhỏ bé sẽ hợp lại thành một sức mạnh vĩ đại. *** Ruth Phép màu xảy ra tại nhà số 74 phố Tây Thượng Manhattan, chỗ má tôi làm việc. Đó là một tòa nhà đồ sộ ốp đá cát nâu có cổng sắt rèn, hai bên cánh cửa cầu kỳ là miệng máng xối hình đầu thú, bộ mặt đá granite của chúng như được tạc từ những cơn ác mộng của tôi. Chúng làm tôi khiếp hãi, nên tôi không ngại khi chúng tôi luôn phải vào nhà qua lối cửa hồng kém uy nghi, chìa khóa cửa được má buộc ruy băng giữ trong ví. Má đã giúp việc cho Sam Hallowell và gia đình ông từ trước khi chị em tôi có mặt trên đời. Bạn có thể không biết cái tên này, nhưng chỉ cần ông ấy cất giọng chào là bạn nhận ra ngay. Không lẫn vào đâu được, đó là giọng nói mà hồi giữa thập niên 1960, cứ mở đài lên là bạn nghe nó thông báo: Tiếp theo mời các bạn theo dõi một chương trình sống động đây màu sắc do NBC mang lại! Vào năm 1976, khi phép màu xảy ra, ông Hallowell đang là giám đốc sản xuất chương trình của đài này. Cái chuông bên dưới đám đầu thú chính là tiếng nhạc hiệu ba nốt nổi tiếng mà ai nghe cũng liên tưởng ngay tới NBC. Thỉnh thoảng, trong lúc theo má đi làm, tôi lại len lén ra ngoài, bấm chuông và ngâm nga theo giai điệu đó. Hôm ấy, chị em tôi theo má vì trời đổ tuyết. Trường học đóng cửa, mà bọn tôi còn quá nhỏ để ở nhà một mình lúc má đi làm - bà cứ xăm xăm đi, băng qua tuyết, mưa đá và có lẽ cả động đất cùng tận thế. Vừa tròng lên người chúng tôi nào ủng nào áo khoác, bà vừa lẩm bẩm, có phải vượt bão tuyết cũng chẳng xá gì, nhưng lạy Chúa đừng để cô Mina phải tự phết bơ đậu phông lên lát bánh sandwich của cổ. Thực ra, tôi nhớ má chỉ nghỉ việc một lần duy nhất vào 25 năm sau đó, khi bà phải thay toàn bộ khớp háng, viện phí do nhà Hallowell hào phóng trả. Bà ở nhà một tuần, chưa khỏe hẳn đã nằng nặc đi làm lại, cô Mina đành tìm cho bà vài việc không phải động chân. Thế nhưng lúc tôi còn nhỏ, trong những kỳ nghỉ, giữa cơn sốt ngầy ngật hay ngày tuyết phủ như hôm ấy, má sẽ đưa chị em tôi lên chuyến tàu B xuống phố. Hôm ấy nhằm vào tuần lễ ông Hallowell đi California, không có ở nhà - ông thì cứ đi suốt, mà thế thì cô Mina và Christina còn cần má nhiều hơn. Chị Rachel với tôi cũng cần má chứ, nhưng hẳn là chúng tôi tự chăm sóc cho mình tốt hơn cô Mina. Khi mẹ con tôi ra đến phố 72, thế giới đã ngập trong một màu trắng xóa. Một quả cầu tuyết chụp lên cả khu Manhattan. Gương mặt những người đàn ông và phụ nữ run rẩy vượt bão táp đi làm trông chẳng có chút gì giống tôi, anh chị em họ hay hàng xóm của tôi. Tôi chưa từng đặt chân vào ngôi nhà nào ở Manhattan ngoài nhà Hallowell, nên chẳng biết chuyện một gia đình có riêng một cơ ngơi đổ sộ thế này thì khác thường đến mức nào. Nhưng tôi nhớ mình đã thấy thật vô lý khi Rachel và tôi phải nhét áo với ủng vào cái buồng tin hin, chật ních trong bếp, trong khi chỗ Christina và cô Mina treo áo khoác bên cửa chính thì còn bao nhiêu là móc và khoảng trống. Má cũng cất đi áo khoác và khăn choàng may mắn - cái khăn mềm ơi là mềm, lại có mùi má. Ở nhà, chị Rachel với tôi thường tranh nhau khoác nó, cảm giác cứ như được vỗ về một chú chuột lang hay chú thỏ trong tay. Tôi chờ má lướt qua những căn phòng tối om như nàng tiên Tinkerbell, đáp lại trên từng cái công tắc, nắm đấm cửa hay tay vịn, để con quái thú đang say ngủ là ngôi nhà từ từ rùng mình tỉnh giấc. “Hai đứa im lặng nhé,” má bảo chị em tôi, “rồi má sẽ làm cho mấy đứa con chút chocolate nóng của cô chủ Mina.” Cái món ấy là hàng nhập từ Paris, và nó có vị tựa thiên đường. Thế nên trong khi má buộc lên người tạp dề trắng, tôi lấy một tờ giấy từ tủ bếp và hộp bút màu mang theo từ nhà, bắt đầu ngôi im vẽ. Tôi phác một ngôi nhà to ngang tòa nhà Hallowell. Tôi đặt vào đó một gia đình: tôi, má, chị Rachel. Tôi thử vẽ tuyết, nhưng không ra gì hết. Bông tuyết nguệch ngoạc bằng bút trắng chìm nghỉm trên tờ giấy. Cách duy nhất để thấy chúng là nghiêng giấy về phía ánh đèn chùm, có thế tôi mới thấy vệt sáng lờ mờ bút màu đã vạch nên. “Tụi con chơi với Christina được không?” chị Rachel hỏi. Christina mới lên sáu, lọt đúng vào giữa tuổi Rachel với tuổi tôi. Christina có cái phòng ngủ lớn nhất tôi từng thấy và nhiều đồ chơi hơn tất cả những người tôi biết. Nếu chị ấy có ở nhà đúng lúc Rachel với tôi theo mẹ đi làm, bọn tôi sẽ chơi trò cô giáo dạy học cùng lũ gấu bông của chị, uống nước từ những chiếc tách tí hon bằng sứ Trung Hoa thực thụ và đánh bím mái tóc lụa óng vàng cho bầy đoàn búp bê cũng của chị ấy nốt. Nhằm bữa Christina có bạn đến nhà, chị em tôi sẽ ở yên trong bếp mà tô tô vẽ vẽ. Trước khi má kịp trả lời, có ai đó thét váng lên, tiếng thét chói lói và khản đặc như xuyên thấu ngực tôi. Tôi biết nó cũng tác động đến má tôi y hệt, vì bà suýt đánh rơi ấm nước đang mang lại chỗ bồn. “Ở yên đây,” bà dặn, giọng nói rớt lại phía sau khi bà hấp tấp chạy lên lầu. Rachel là người đầu tiên bật ra khỏi ghế; chị ấy không phải kiểu bảo sao nghe vậy. Tôi bị cuốn theo, như một quả bóng bay bị buộc vào tay chị. Bàn tay tôi lướt trên lan can cầu thang uốn lượn, không dám chạm vào. Cửa phòng ngủ của cô Mina mở toang, cô đang quằn quại trên giường, giữa vũng lầy satin khăn trải. Bụng cô căng phồng, tròn như mặt trăng; tia sáng trắng trong mắt cô làm tôi hên tưởng tới lũ ngựa trên vòng đu quay, đông cứng trong khi trốn chạy. “Sớm quá, Lou à,” cô hổn hển. “Cô đi mà nói với đứa bé này này,” má đáp lại. Cô Mina ghì cứng tay má như kẻ chết đuối bíu vào phao. “Đừng rặn nữa,” má bảo cô. “Xe cấp cứu sẽ tới ngay.” Tôi chẳng biết xe cấp cứu có thể tới ngay kiểu gì, khi mà đường đầy tuyết. “Mẹ ơi?” Mãi đến khi nghe tiếng Christina, tôi mới nhận ra tiếng ồn đã đánh thức chị ấy. Chị tới đứng giữa Rachel và tôi. “Ba đứa, về phòng cô Christina đi,” má ra lệnh, giọng đanh thép. ”Đi ngay.” Thế nhưng chúng tôi cứ chôn chân tại chỗ, má cũng mau chóng quên khuấy bọn nhóc chúng tôi. Bà đã lạc vào một thế giới dựng nên từ cơn đau và nỗi sợ của cô Mina, cố gắng trở thành tấm bản đồ cho cô bám víu vào mà lần ra khỏi đó. Tôi trân trối nhìn dây thanh quản nổi lên cổ cô Mina khi cô rên siết; tôi thấy má quỳ xuống trên giường, giữa hai chân cô, và vén váy qua khỏi gối cô. Tôi thấy cánh môi hồng giữa hai chân cô Mina cau lại, sưng lên rồi tách ra. Một cái gò tròn - đỉnh đầu, một cái khớp - bờ vai, máu và dịch trào ra, rồi đột nhiên, một đứa nhỏ nằm gọn lỏn trong lòng bàn tay nâng niu của má. “Coi nhóc kìa,” má nói, tình yêu thương tỏa rạng nét mặt bà. “Sốt ruột muốn chào đời quá hả?” Rồi cùng lúc, hai chuyện xảy ra: chuông đổ, Christina òa lên khóc. “Ôi, con yêu,” cô Mina thốt lên yếu ớt, cô chẳng còn đáng sợ nhưng vẫn đẫm mồ hôi và mặt đỏ bừng. Cô chìa tay ra, nhưng sự việc vừa chứng kiến đã khiến Christina hồn vía lên mây, chị ấy không lại chỗ cô mà dịch sát vào tôi. Chị Rachel, vẫn thực tế như mọi khi, lo đi mở cửa. Chị trở vào với hai nhân viên cấp cứu, họ ào vào tiếp quản, thế là việc má vừa làm cho cô Mina cũng lại như tất cả những việc bà đã làm cho nhà Hallowell: nó trôi tuột đi, vô hình. Nhà Hallowell đặt tên bé là Louis, theo tên của má tôi. Thằng bé vẫn khỏe dù ra đời sớm gần một tháng, nạn nhân của đợt giảm khí áp đến cùng cơn bão, dẫn đến PROM - hiện tượng vỡ ối non. Dĩ nhiên là lúc đó tôi chưa biết tới khái niệm này. Tôi chỉ biết rằng, vào một ngày tuyết trắng trời Manhattan, tôi đã chứng kiến một sinh mệnh chào đời. Tôi đã ở bên đứa bé trước lúc mọi người, mọi vật trên thế gian này có cơ hội làm bé thất vọng. Cùng chứng kiến Louis ra đời nhưng trải nghiệm đó tác động đến mỗi người chúng tôi một cách khác nhau. Christina sinh mổ. chị Rachel vượt cạn đến năm lần. Tôi thì trở thành y tá hộ sinh. Khi tôi kể lại câu chuyện này, người ta cho rằng phép màu trong cơn bão xa xưa kia là sự ra đời của một đứa bé. Đúng, chuyện đó thật phi thường. Thế nhưng hôm đó tôi còn được chứng kiến một kỳ quan vĩ đại hơn. Khi Christina nắm lấy tay tôi và cô Mina ghì tay má, có một khoảnh khắc - một nhịp tim, một hơi thở - khi tất cả những khác biệt về trường lớp, tiền bạc và màu da đều tan biến như ảo ảnh trên sa mạc. Ở đó, tất cả mọi người đều bình đẳng, chỉ là một người phụ nữ giúp đỡ một phụ nữ khác mà thôi. Phép màu đó, tôi đã trải 39 năm ròng chờ ngày tái kiến. Mời các bạn đón đọc Những Điều Nhỏ Bé Vĩ Đại của tác giả Jodi Picoult & Trương Hoàng Uyên Phương (dịch).
Người Chuyển Tàu
Với NGƯỜI CHUYỂN TÀU, ngòi bút của nhà văn đã hóa thành dao trổ, Christopher Isherwood như một điêu khắc gia thuần thành giới thiệu với công chúng pho ngẫu tượng độc đáo bậc nhất trong bộ sưu tập nhân vật văn chương - ngài Arthur Norris: một Đảng viên cánh tả có nết khổ dâm; lịch lãm phong lưu nhưng lại là một tay lừa đảo thành thần; nợ nần chồng chất nhưng lại rất ưa hưởng thụ xa hoa. *** Christopher Isherwood (1904-1986) là một tiểu thuyết gia lớn người Mỹ gốc Anh của thế kỷ 20, người có những đóng góp tích cực trong phong trào đấu tranh quyền lợi cho người đồng tính với hơn 40 tác phẩm được xuất bản rộng rãi trên toàn thế giới. Các tác phẩm do Tao Đàn xuất bản: - Người Chuyển Tàu - Từ Biệt Berlin - Hoa Tím Ngày Xưa - Một Con Người - Chuyện Ở Berlin   *** Ấn tượng đầu tiên của tôi là đôi mắt người lạ kia mang một sắc xanh nhạt bất thường. Chúng chạm ánh mắt tôi trong vài giây, trống rỗng, hoang hoải, rõ ràng là đang sợ hãi. Thảng thốt và ngây thơ vô số tội, chúng thoáng gợi nhắc tôi tới một sự kiện mà tôi không thể định rõ; một điều gì đó đã xảy ra lâu lắm rồi, mãi từ hồi học trung học. Chúng là đôi mắt của một cậu học sinh sửng sốt khi đã vi phạm nội quy. Rõ ràng, tôi chẳng bắt quả tang được ông điều gì ngoài chính những suy nghĩ của ông: có lẽ ông tưởng rằng tôi có thể nhìn thấu chúng. Bất luận thế nào thì có vẻ như ông đã không nghe thấy hoặc nhìn thấy tôi bước đến chỗ ông trên toa tàu, vì ông giật bắn mình khi vừa nghe giọng của tôi; dữ dội tới mức vẻ rúm ró lo lắng của ông dội ngược lại tôi như tiếng vọng. Theo bản năng, tôi lùi lại một bước. Cảm giác giống hệt như thân thể chúng tôi vừa đụng vào nhau trên phố. Cả hai đều bối rối, cả hai đều sẵn sàng xin lỗi. Mỉm cười, lo lắng trấn an ông, tôi nhắc lại câu hỏi của mình: “Ngài có thể cho tôi châm nhờ điếu thuốc được chứ?” Kể cả lúc này, ông cũng không trả lời ngay. Có vẻ như ông đang mải mê làm phép tính nhẩm nào đó, những ngón tay lo lắng giật liên hồi, nguệch ngoạc những đường tròn mông lung trên chiếc áo gi-lê. Thoạt nhìn, tựa hồ như ông chuẩn bị cởi áo, rút khẩu súng lục, hoặc đơn giản là muốn đảm bảo tôi đã không thó tiền của ông. Rồi giây phút kích động lướt khỏi ánh nhìn của ông, như gợn mây trôi, trả lại bầu trời quang đãng. Cuối cùng ông đã hiểu điều tôi muốn: “Vâng, vâng. Ờm - dĩ nhiên là được. Dĩ nhiên.” Vừa nói ông vừa khẽ chạm đầu ngón tay vào thái dương bên trái, húng hắng rồi đột nhiên mỉm cười. Nụ cười của ông rất có sức hút. “Dĩ nhiên rồi,” ông nhắc lại. “Rất hân hạnh.” Một cách tao nhã, ông nhón tay lục tìm trong túi áo gi-lê của bộ vét xám phẳng phiu có vẻ đắt tiền, rút ra một chiếc bật lửa màu vàng. Đôi bàn tay của ông trắng, nhỏ và được tỉa móng gọn ghẽ. Tôi mời ông thuốc lá. “Ờm… cảm ơn cậu. Cảm ơn.” “Mời ngài châm trước.” “Ấy thôi, thôi. Mời cậu.” Ngọn lửa bé xíu trên chiếc bật lửa chập chờn giữa chúng tôi, mong manh như bầu không khí khách sáo quá đỗi giữa đôi bên. Chỉ cần một hơi thở nhẹ cũng đủ làm dập tắt thứ này, chỉ một cử chỉ hay câu từ xuề xòa cũng có thể phá tan thứ kia. Cả hai điếu thuốc giờ đã được châm. Chúng tôi ai lại về chỗ nấy. Người lạ kia vẫn đang ngờ vực tôi. Ông vẫn đang băn khoăn liệu mình đã đi quá trớn, đã tự đẩy mình về phía một gã nhàm chán hoặc một tay lừa lọc. Tâm hồn rụt rè của ông chực chờ ngơi nghỉ, về phần mình, tôi chẳng có gì để đọc. Tôi tiên lượng một hành trình câm lặng tột cùng kéo dài bảy, tám tiếng. Tôi quyết tâm nói chuyện. “Ông có biết khi nào chúng ta tới biên giới không?” Nhìn lại đoạn hội thoại, câu hỏi này với tôi dường như chẳng hề có chút bất thường. Đúng là tôi chẳng quan tâm tới câu trả lời; tôi chỉ đơn thuần muốn hỏi một cái gì đó có thể mào đầu cuộc tán gẫu, và đồng thời không quá thóc mách hay sỗ sàng. Tác động của câu hỏi lên người lạ kia thật đáng kể. Chắc hẳn tôi đã khiến ông hứng thú. Ông liếc nhìn tôi hồi lâu, vẻ cổ quái, khuôn mặt ông dường như căng cứng đôi chút. Đó là cái nhìn của tay chơi bài xì tố đột nhiên phán đoán đối thủ của gã đang nắm tay bài thùng phá sảnh* và rằng gã tốt hơn hết là nên cẩn thận. Hồi lâu ông mới đáp lời, từ từ và thận trọng: “Tôi e là tôi không thể nói cho cậu chính xác được. Khoảng một giờ nữa, tôi nghĩ thế.” Ánh mắt của ông, trong giây lát trống rỗng, lại trở nên mù mịt. Một suy nghĩ khó chịu dường như đang trêu chọc ông như con ong vò vẽ; ông khẽ nghiêng đầu tránh nó. Rồi ông nói thêm, u ám đến bất ngờ: “Mấy cửa khẩu kiểu này… đúng là phiền toái kinh khủng.” Tôi không chắc nên đón nhận lời này như thế nào. Tôi chợt nghĩ có lẽ ông là một người theo chủ nghĩa quốc tế ôn hòa; một thành viên của Hội Quốc Liên*. Tôi đánh liều: “Chúng nên bị dẹp bỏ.” “Tôi khá nhất trí với cậu. Thực sự nên thế.” Rõ ràng ông ta đang tỏ ra thân thiện. Ông có chiếc mũi tròn ủng và một chiếc cằm có vẻ bị lệch, giống như cái đàn concertina bị hỏng. Khi ông nói, nó giật dúm lại vô cùng kì quặc và vết cằm chẻ sâu hoắm như một vết thương đột nhiên xuất hiện lệch một bên. Phía trên gò má đỏ lựng của ông, vầng trán trắng loáng góc cạnh như đá cẩm thạch. Tóc mái màu muối tiêu cắt lem nhem vắt ngang, gọn, dày và nặng. Sau một hồi ngắm nghía, tôi nhận ra, với niềm hưng phấn cao độ, rằng ông ta đang đội tóc giả. “Nhất là ba cái trò hành chính quan liêu,” tôi tiếp bước thắng lợi, “kiểm tra hộ chiếu, đại loại thế.” Nhưng không. Câu này không ổn. Tôi ngay lập tức nhận ra từ vẻ mặt của ông rằng mình vừa gẩy một nốt nhạc chối tai. Chúng tôi đang nói thứ ngôn ngữ na ná nhưng khác biệt. Vậy mà lần này phản ứng của người lạ kia lại không phải là ngờ vực. Ông hỏi, với vẻ thẳng thắn khó hiểu và tò mò không giấu diếm: “Đã bao giờ cậu gặp vấn đề ở đây chưa?” Bản thân câu hỏi không khiến tôi thấy kì lạ bằng chính giọng điệu hỏi của ông. Tôi mỉm cười giả lả. “Ô không. Ngược lại thì đúng hơn. Thường họ đâu có thèm mở cái gì, còn hộ chiếu của ông họ chẳng thèm nhìn qua.” “Thật mừng khi cậu nói thế.” Ông chắc hẳn đã đọc thấy trên mặt tôi những gì tôi đang nghĩ, vì ông vội vã tiếp lời: “Có thể tôi hơi nực cười, nhưng tôi rất ghét bị quấy rầy và làm phiền.” “Dĩ nhiên. Tôi hiểu.” Tôi nhe răng cười, bởi tôi vừa đi đến một lời giải thích thỏa đáng cho hành vi của ông ta. Ông bạn già này đang dính vào một phi vụ buôn lậu nho nhỏ vô hại. Có lẽ là một mảnh lụa cho vợ hoặc một hộp xì gà cho bạn. Và dĩ nhiên, ông đang bắt đầu thấy sợ. Rõ ràng nom ông dư sức trả bất kì khoản thuế nào. Đám nhà giàu quả là có những sở thích lạ lùng. “Vậy là ông chưa bao giờ đi qua cửa khẩu này?” Tôi cảm thấy bản thân tử tế, bảo bọc và trịch thượng. Tôi sẽ động viên ông, và nếu tình hình tệ quá thì phím trước cho ông mấy lời nói dối hợp lý để làm mềm lòng nhân viên hải quan. “Mấy năm gần đây thì không. Tôi thường di chuyển nội trong nước Bỉ. Vì nhiều lý do. Vâng.” Ông lại có vẻ mơ hồ, im tiếng, và nghiêm trang gãi cằm. Đột nhiên, có thứ gì đó dường như thôi thúc ông nhận thức sự có mặt của tôi: “Có lẽ theo thủ tục thì tôi nên tự giới thiệu. Arthur Norris, người Gent. Tôi sống tự lập, nhờ vào thu nhập từ bất động sản.” Ông cười khúc khích vẻ lo lắng, rồi đột ngột thốt lên cảnh báo. “Xin đừng đứng dậy.” Nếu muốn bắt tay mà không di chuyển thì xa quá. Chúng tôi đành thỏa hiệp bằng một cái cúi người lịch sự từ chỗ ngồi. “Tôi là William Bradshaw,” tôi nói. “Ôi trời, đừng nói cậu là người nhà Bradshaw ở Suffolk đấy nhé?” “Tôi đồ rằng đó chính là nhà chúng tôi. Trước Chiến tranh*, chúng tôi sống ở Ipswich.” “Thế bây giờ thì sao? Cậu còn sống ở đấy không? Có lần tôi từng sống cùng với một bà tên là Hope-Lucas. Bà ấy có ngôi nhà đáng yêu gần Matlock. Bà ấy mang họ Bradshaw trước khi kết hôn.” “Vâng, đúng vậy. Đó là bà dì Agnes của tôi. Bà mất bảy năm trước rồi.” “Vậy sao? Ôi, ôi. Tôi rất lấy làm tiếc… Dĩ nhiên, tôi quen bà từ khi tôi còn là thanh niên; lúc đó bà ấy đã trung niên rồi. Với lại nhắc cho cậu khỏi quên, tôi đang nói hồi năm 98* ấy.” Từ nãy đến giờ tôi ngấm ngầm soi xét mái tóc giả của ông. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy mái tóc giả nào được làm khéo đến thế. Phía sau gáy, nơi tóc giả tóc thật được chải lẫn với nhau, trông thật hài hòa. Chỉ có phần rẽ ngôi là khiến nó bại lộ, mà thực ra nhìn từ cách xa ba, bốn mét thì cũng không quá kệch cỡm. “Thật là…” Ông Norris trầm tư. “Ôi chao, đúng là trái đất tròn.” “Chắc ông chưa từng gặp mẹ tôi? Hay cậu tôi, ngài đô đốc?” Lúc này tôi đành hạ cố chơi bài quan hệ. Nó tẻ nhạt nhưng thư giãn, lại có thể kéo dài hàng giờ. Chưa gì tôi đã thấy cả chuỗi những nước đi ngon ăn phía trước - các cậu, các dì, anh em họ, đám cưới của bọn họ, gia tài của bọn họ, thuế thừa kế, tài sản thế chấp, doanh số. Rồi tới trường tư thục và đại học, so sánh về đồ ăn, trao đổi giai thoại về những chuyên gia, các trận đấu nổi tiếng và những cuộc đua thuyền trứ danh. Tôi biết đích xác chủ đề nào phải nói bằng giọng lưỡi nào. Nhưng, ngạc nhiên thay, rốt cuộc ông Norris không có vẻ muốn chơi trò này. Ông vội vã đáp lời. “Tôi e là không. Không. Kể từ cuộc chiến, tôi mất liên lạc với kha khá bạn bè người Anh. Vì công chuyện làm ăn nên tôi đi nước ngoài suốt.” Cụm từ “đi nước ngoài” khiến cả hai chúng tôi tự nhiên ngó ra ngoài cửa sổ. Hà Lan đang trôi qua tầm nhìn của chúng tôi êm đềm như cơn mơ sau bữa tối: một vùng đất lầy bình lặng, bao quanh là tuyến xe điện chạy dọc bờ đê. “Ông biết đất nước này rõ không?” Tôi hỏi. Kể từ khi nhận ra bộ tóc giả, tôi nhận thấy không thể nào tiếp tục gọi ông là ngài. Vả lại, nếu ông ấy có đội nó lên để nom trẻ trung hơn thì cũng thật vô ý vô tứ khi cứ cố chấp nhấn mạnh sự chênh lệch tuổi tác giữa chúng tôi. “Tôi biết Amsterdam khá rõ,” ông Norris len lén gãi cằm. Ông có cái kiểu vừa gãi vừa hé môi như thể đang cau có bất mãn, nhưng lại không hung bạo, tựa như con sư tử già trong chuồng. “Khá rõ, đúng thế.” “Tôi cũng muốn đến đó lắm. Chắc hẳn rất tĩnh lặng và yên bình.” “Trái lại, tôi có thể đảm bảo với cậu rằng đó là một trong những thành phố nguy hiểm nhất châu Âu.” “Thật sao?” “Đúng thế đấy. Gắn bó sâu đậm với Amsterdam, tôi vẫn luôn cho rằng nó có ba điểm trừ chí mạng. Thứ nhất, cầu thang trong nhiều ngôi nhà quá dốc đến mức phải là một tay leo núi chuyên nghiệp mới có thể leo thang mà không bị trụy tim hoặc gãy cổ. Thứ hai, đám đi xe đạp. Bọn này hăm hở đạp khắp thành phố rồi lấy đó làm tự hào mà không thèm quan tâm tới mạng người. Mới sáng nay thôi tôi vừa thoát chết trong gang tấc. Và thứ ba, kênh đào. Vào mùa hè, cậu biết không… hôi thối không chịu được, ôi, thối đến phát mửa. Có kể cả ngày cũng chẳng hết. Hàng tuần giời không lúc nào tôi không đau họng.” Đến lúc chúng tôi tới Bentherim, ông Norris đã trình bày hẳn một bài diễn thuyết về những bất lợi của hầu hết các thành phố lớn ở châu Âu. Tôi kinh ngạc khi biết ông đã chu du nhiều đến thế. Ông đã chịu đựng bệnh thấp khớp ở Stockholm và hạn hán ở Kaunas; ở Riga ông buồn chán, ở Warsaw ông bị đối xử khiếm nhã tột cùng, ở Belgrade ông không thể mua được nhãn hiệu kem đánh răng ưa thích. Ở Rome ông bị côn trùng quấy phá, ở Madrid ông bị ăn xin vòi vĩnh, ở Marseilles ông khó chịu vì tiếng còi xe taxi. Ở Bucharest ông đã có trải nghiệm vô cùng khó chịu với cái cầu tiêu. Ở Constantinopole ông thấy xa xỉ và nhạt nhẽo. Hai thành phố duy nhất ông cực kì khen ngợi là Paris và Athens. Đặc biệt là Athens. Athens là thánh địa của ông. Tới giờ, con tàu đã dừng lại. Những người đàn ông mập mạp tái nhợt trong bộ đồng phục xanh dương đi tới đi lui trên sân ga với vẻ nhàn nhã có phần thâm hiểm, làm nên phong thái quan chức ở các ga cửa khẩu. Họ chẳng khác gì những kẻ giám ngục. Tựa hồ như chúng tôi không một ai được phép đi xa hơn. Mời các bạn đón đọc Người Chuyển Tàu của tác giả Christopher Isherwood & Ngô Hà Thu (dịch).
Hoa Vẫn Nở Mỗi Ngày
“Một tiểu thuyết đầy cảm xúc, một cuốn sách đưa ta đi từ tiếng cười đến những giọt nước mắt với các nhân vật hài hước và cuốn hút.”  – Ban giám khảo giải thưởng Prix des Maisons de la Presse. Violette Toussaint sống mà như chết. Người phụ nữ ấy bị mẹ đẻ bỏ rơi ngay khi vừa lọt lòng, tới lượt cô con gái nhỏ mà cô yêu thương nhất lại bỏ cô mà đi trong một tai nạn thảm khốc, rồi cả đến người chồng một ngày kia cũng không còn ở lại bên cô. Cuộc đời của một nhân viên gác chắn nơi ga xép với những chuyến tàu nhỏ mỗi ngày đến rồi đi hay của một người quản trang tại nghĩa trang tỉnh lẻ chuyên đón nhận người chết và chăm sóc các phần mộ tưởng chừng chỉ gắn chặt với mất mát, buồn đau, rồi úa tàn dần theo năm tháng. Nhưng sự sống là mầu nhiệm, hy vọng vẫn còn đó, hạnh phúc lại có dịp được hồi sinh khi hoa kia được thay nước, khi chính con người vẫn tin vào cuộc đời. Một câu chuyện sẽ ở lại lâu trong lòng độc giả. Nhẹ nhàng mà thấm thía. Bởi dẫu có lẽ không ít lần lấy đi nước mắt của người đọc, câu chuyện về tình yêu, tổn thương và hy vọng này cuối cùng sẽ để lại trong ta những cảm xúc tích cực, hạnh phúc cùng niềm mãn nguyện êm đềm một khi đã lật giở đến những trang cuối. VỀ TÁC GIẢ: Valérie Perrin sinh năm 1967 tại Gueugnon, Pháp. Ngoài viết văn, bà còn là một nhiếp ảnh gia hậu trường và nhà biên kịch, nhưng các tác phẩm văn chương mới chính là thứ đưa tên tuổi của bà đến với đông đảo công chúng. Tiểu thuyết đầu tay của Perrin, tạm dịch Những người bị lãng quên ngày Chủ nhật (Les Oubliés du dimanche) giành được gần mười giải thưởng. Tiểu thuyết thứ hai, Hoa vẫn nở mỗi ngày cũng giành nhiều giải thưởng, nổi bật là Prix des Maisons de la Presse. *** “Hoa vẫn nở mỗi ngày”: Còn sống là còn hy vọng 08/04/2021 - Những gì xuất hiện trong "Hoa vẫn nở mỗi ngày" đều hấp dẫn và tinh tế, đậm chất kịch sân khấu trong từng lớp màu của ảnh chụp phơi sáng. Nền văn học hiện đại Pháp không chỉ nổi tiếng với những tác phẩm lãng mạn, mà những tác phẩm gai góc, khác thường, khi khai thác được những mặt trái vẫn có sức hấp dẫn riêng với bạn đọc. Với độc giả Việt Nam, sau Trong khi chờ Bojangles, Chuyện Sarah, mới đây, Hoa vẫn nở mỗi ngày của Valérie Perrin đã được giới thiệu như một đại diện mới nhất cho nền văn chương đầy tinh tế này. Cuốn sách là câu chuyện xoay quanh nhân vật Violette Toussaint - người phụ nữ trung tuần sống mà như đã chết. Mọi chuyện khởi đầu không hề suôn sẻ với những bi kịch tuổi thơ, để rồi người phụ nữ ấy lớn lên, tìm được tiếng nói riêng và đi theo tiếng gọi của con tim mình. Khi Léo được sinh ra, Violette cảm thấy bản thân như được tái sinh, những tưởng sẽ có một khởi đầu mới, thế nhưng những gì rơi xuống đời cô chỉ toàn bi kịch. Từ sự dần dần xa cách của chồng, đến mối quan hệ không thể hóa giải với bố mẹ anh, mà đỉnh điểm là trận hỏa hoạn đã cướp Léo ra khỏi đời cô... Violette mang theo mình con tim rỉ máu, để trong một lần đến với nghĩa trang nơi chôn cất Léo, cô gặp người quản trang cũ, và cuộc đời từ đó xoay chuyển một cách không thể ngờ tới. Ngoài việc sáng tác văn chương, Valérie Perrin cũng đồng thời là một nhiếp ảnh gia hậu trường và nhà biên kịch, nên những gì xuất hiện trong Hoa vẫn nở mỗi ngày đều hấp dẫn và tinh tế, đậm chất kịch sân khấu trong từng lớp màu của ảnh chụp phơi sáng. Từ cách chọn những nhân vật có tính cách và câu chuyện phần nào quen thuộc, đến việc sắp xếp mạch truyện một cách khéo léo, cuốn tiểu thuyết này không chỉ thu hút người đọc ở mặt cảm xúc, mà còn là động cơ, kết cấu, nhịp chảy - khiến không ai có thể đặt quyển sách xuống khi đã cầm nó trên tay. Các nhân vật trong tiểu thuyết này được Valérie Perrin chọn lựa một cách phù hợp và có nhiều nét riêng. Cô vẽ nên vòng tròn an toàn với những nhân vật “kinh điển” của các vở kịch, khi người chịu trách nhiệm nâng đỡ cảm xúc là một bà mẹ, và hơn thế nữa, là một bà mẹ đau đớn vì mất con. Để tăng thêm những khúc quanh của câu chuyện, đó còn là người chồng quyến rũ nhưng bội phản, là gia đình chồng không thể chấp nhận, là người bạn già, đàn ông cuốn hút, trẻ em ngây thơ… Một vũ trụ nhân vật thân quen nhưng rất hài hòa. Trên nền móng những nhân vật ấy, câu chuyện dần được bóc tách như từng lớp vỏ của củ hành tây. Ở mỗi chặng khác nhau, nhiều khuôn mặt, nhiều câu chuyện dần dần hiện ra dưới nhiều góc nhìn. Điều Valérie làm được rất tốt là cô không đi theo hướng tuyến tính nhàm chán, vì những bi kịch hay câu chuyện này của Hoa vẫn nở mỗi ngày là không hiếm thấy, nhưng bằng sự sắp xếp lộn xộn, việc đảo góc nhìn, hay tháo gỡ từng nút thắt như những tiểu thuyết nặng về trinh thám, đã giữ chân người đọc với cuốn sách có dung lượng lớn này. Vũ trụ nhân vật của Valérie đều là những nhân vật nhỏ bé và chịu nhiều tổn thương. Trong họ có một điểm chung là sự kìm nén, dằn vặt vẫn luôn xuất hiện thường trực. Họ sống trong hiện tại nhưng luôn nghĩ về quá khứ, để rồi mắc kẹt như thứ thuốc súng chuẩn bị châm ngòi từ khẩu đại bác. Họ vô vọng không thoát ra được, bởi quá khứ chính là chất độc đối với hiện tại, xem đi xét lại chính là chết đi một chút. Ở “khu vườn của các linh hồn” đó, thế giới rộng mở ra ngoài câu chuyện, để từ đó ta thấy được những tình cảm đẹp, những điều giấu kín còn luôn tồn tại. Đó có thể là chuyến viếng thăm của các tình nhân bí mật, cũng có thể là chốn nương thân của các bà góa tìm lại cơ hội sau khi chồng chết, và cũng là nơi tìm đến cuối cùng của các linh hồn không còn ràng buộc. Nơi các lời hứa được thực hiện, nơi những bóng dáng thiên đường đã được toại nguyện, để rồi mỉm cười hạnh phúc. Hy vọng sau những bi kịch luôn là điểm chung của văn chương Pháp, dường như đã trở thành tính cách và nét đặc trưng của đất nước này. Hoa vẫn nở mỗi ngày cũng không nằm ngoài dòng chảy ấy, khi từng chi tiết, câu chuyện dần dẫn ta về sự thật cốt lõi, để ta nhận ra rằng, phía cuối con đường luôn là ánh sáng ngập tràn hy vọng. Đó có thể là sự chữa lành cùng với thời gian trong Violette, khi cô dần tìm được niềm vui và sự đồng cảm ở những người khác. Cũng có thể là những tháng hè khi trở lại biển Địa Trung Hải và cảm nhận được Léo vẫn luôn bên mình. Là Gabriel về với Irène, Sasha đi đến sông Hằng, chối từ chôn cất cùng với tình yêu ông đã dối lừa… Tất cả đều hướng về tương lai tươi sáng của tin yêu và hy vọng. Như một câu nói của người quản trang già: “Cuộc đời chúng ta là một tuyển tập những bất hạnh lớn lao, những hạnh phúc nhỏ nhoi và rồi đây, những niềm hy vọng”. Trong chính địa hạt chết chóc của những linh hồn tưởng chừng mãi lìa xa nhau, là nơi mỗi người tìm về, thắp nên hy vọng như những đóa hoa nở chào ngày mới. Hoa vẫn nở mỗi ngày của Valérie Perrin đã trở thành cuốn sách bán chạy nhất nước Ý năm 2020, và đoạt giải thưởng danh giá Prix Maison de la Presse. Ngô Minh *** [REVIEW] Hoa Vẫn Nở Mỗi Ngày - Valérie Perrin Ngay từ những trang đầu, mình đã có một dự cảm đây là một 4 5 sao rồi đây, và khi đóng cuốn sách này lại, thì mình tin đây sẽ trở thành một trong số những cuốn sách hay nhất 2022 của mình. Cuốn sách có mở đầu cực kì ấn tượng: "Các hàng xóm láng giềng của tôi chẳng sợ điều gì. Họ không có gì phải lo lắng, không phải lòng ai, không cắn móng tay, không tin vào thuyết ngẫu nhiên, không hứa hẹn, không gây ồn, không có bảo hiểm xã hội,...., Họ không xu nịnh, không tham vọng, không thù hằn,... Họ là người chết." Với bối cảnh chủ yếu tại một nghĩa trang, đây là câu chuyện về cuộc đời đau khổ của bà Violette cùng người chồng "không còn gì để nói" của bà, cùng những mẩu truyện của những nhân vật xung quanh 2 vợ chồng. Đối với mình, trong ngôn ngữ và nhận thức của mình, "Hoa vẫn nở mỗi ngày" như một áng thơ buồn, đặt giữa một trời thu se lạnh, bên một tách trà nóng, ở giữa một vườn hoa. Cuốn sách mang lại rất nhiều những cảm xúc mạnh mẽ và chắc chắn sẽ đọng lại trong lòng người đọc rất lâu. Nó nhẹ nhàng, tha thiết, nó đau đớn, buồn bã, nó mạnh mẽ, kiên cường, nó đau thương, bất hạnh. Nhưng cuối cùng những tia nắng ấm vẫn chiếu xuyên qua được những áng mây đen, đem lại hạnh phúc cho người đọc, dù trên cả họ sẽ thấy buồn nhiều hơn. Xưa nay ta cực kì sợ những gì liên quan đến cái chết, nhất là những khi ở nhà tang lễ hay ở nghĩa trang, bởi nó đem lại sự lạnh giá cả ở trong cảnh vật lẫn trong lòng người, khi ta bị buộc phải tin rằng những người thân yêu của ta đang rời xa ta mãi mãi. Nhưng thật lạ lùng, mình lại thích nghĩa trang Brancion-en-Chalon, mình yêu những thợ đào huyệt, những người làm ở nhà tang lễ, người quản trang, yêu những chú chó, chú mèo trung thành với chủ quyết không rời nơi chủ mình đang ở cho dù họ ở cách chúng mấy tấc đất... Đặc biệt, mình yêu những bài diệm mà những người thân đọc lên để vĩnh biệt người nằm xuống. Nó nhẹ nhàng, chứa đầy cảm xúc, nó nói lên cả cuộc đời của người ra đi ấy thế nào, bởi "ta có thể nhìn thấy cuộc đời mỗi người thông qua vẻ đẹp của lễ tang người ấy". Không những đẹp, buồn, sách còn mang đến cho chúng ta những niềm hạnh phúc không nói thành lời, những câu chuyện tình yêu đẹp như trong mơ. Mình cực kì thích “Hoa vẫn nở mỗi ngày” ở một điểm là em nó không hề nhàm chán, vì có twist hẳn hoi nhé quý vị. Sách cũng đưa ra rất nhiều vấn đề: gia đình, bạn bè, giới tính, tình yêu, sự giáo dục, tình mẫu tử, xã hội, động vật, sự sống, cái chết,... và mọi vấn đề đều được tác giả giải quyết dứt điểm hết, không cái nào bị bỏ dở và hướng đi đều cực kì hợp lý, cái kết quá tuyệt vời. Những thứ mình tưởng thế hóa ra lại không thế. Người mình nghĩ là vô tâm, vô trách nhiệm thì lại có một tâm hồn tổn thương và một quá khứ đau đớn nhưng trái tim thì vẫn ấm áp. Toàn bộ cuốn sách đẹp đến nao lòng, và khiến mình khóc đến trôi hết chữ giữa đêm, ai mượn mình sách thấy vệt lạ lạ thì là nước mắt đó nha. Hay hơn cả, bạn sẽ không khóc chỉ vì buồn, mà còn khóc vì những hạnh phúc nhỏ mà cuốn sách này mang lại. Bên cạnh đó, sách cực nhiều quote hay nhé.  "Ta không chọn được người ta yêu,..., như thế thì đơn giản quá." Bài viết của độc giả, đăng lại từ Instagr book.msthings Mời các bạn đón đọc Hoa Vẫn Nở Mỗi Ngày của tác giả Valérie Perrin & Nguyễn Thị Tươi (dịch).
Lao Động Biển Cả
Về Victor Hugo, bạn đọc Việt Nam đã được biết nhiều qua những tác phẩm của ông như Nhà thờ Đức Bà Paris (Notre-Dame de Paris), Những người khốn khổ (Les Misérables),Chín mươi ba (Quatre-vingt-treize)… Riêng cuốn ‘Lao động biển cả’ (Les Travailleurs de la mer) đã cuốn hút rất nhiều bạn đọc Việt Nam biết tiếng Pháp qua nhiều thế hệ. Đây không chỉ là một tác phẩm hiện thực phản ánh xã hội tư sản Pháp trong những ngày đầu của chế độ tư bản ở nước này. Qua tác phẩm này tác giả cũng xây dựng thành công một số nhân vật điển hình đại diện cho cái Thiện và cái Ác. Với một ngòi bút vững vàng đầy kinh nghiệm, tác giả đã vạch trần những mánh khóe xảo quyệt táng tận lương tâm của những con người như Rantaine hay Clubin. Đồng thời ông cũng miêu tả rất thực và rất sinh động những con người chân chính, lao động không mệt mỏi như Gilliatt. Qua câu chuyện tình éo le, dang dở của Gilliatt, bạn đọc vừa cảm thương cho số phận hẩm hiu của anh vừa căm giận những bất công trên đời này. Phải chăng đấy là một thứ “định mệnh của vạn vật”? Dẫu sao, sau khi đọc xong dòng chữ cuối cùng, gập sách lại, bạn đọc vẫn còn thấy lắng lại trong tâm tư những gì cao quý, tuy chua chát, của con người. Bởi vì trước sau Victor Hugo vẫn là một nhà văn đại diện cho các nhà văn lớn thế giới với những tư tưởng nhân văn cao quý. Tôn giáo, xã hội, thiên nhiên; đấy là ba cuộc tranh đấu của con người. Ba cuộc tranh đấu ấy đồng thời cũng là ba nhu cầu. Con người cần tin tưởng, vì vậy mà lập nên đền thờ; con người cần sáng tạo, vì vậy mà thành ra đô thị; con người cần phải sống, vì vậy mà có cày cuốc, thuyền bè. Nhưng ba giải pháp ấy lại chứa đựng ba cuộc chiến tranh. Khó khăn bí mật của cuộc sống từ ba chỗ ấy mà ra. Con người gặp phải trở ngại dưới hình thức mê tín, dưới hình thức thành kiến, và dưới hình thức nguyên tố cơ bản. Ba định mệnh đè nặng lên chúng ta, định mệnh của tín điều, định mệnh của luật pháp, định mệnh của vạn vật. Trong Nhà thờ Đức Bà Paris, tác giả đã tố cáo cái thứ nhất; trong Những người khốn khổ, tác giả đã làm nổi bật cái thứ nhì; trong quyển sách này, tác giả nói rõ đến cái thứ ba. Cùng với ba thứ định mệnh bao trùm con người ấy, lại xen thêm định mệnh bên trong, sức mạnh lớn nhất, trái tim con người. Hauteville House, tháng ba 1866. *** Tôn giáo, xã hội, thiên nhiên, đấy là ba cuộc tranh đấu của con người. Ba cuộc tranh đấu ấy đồng thời cũng là ba nhu cầu. Con người cần tin tưởng, vì vậy mà lập nên đền thờ; con người cần sáng tạo, vì vậy mà thành ra đô thị; con người cần phải sống, vì vậy mà có cày cuốc, thuyền bè. Nhưng ba giải pháp ấy lại chứa đựng ba cuộc chiến tranh. Khó khăn bí mật của cuộc sống từ ba chỗ ấy mà ra. Con người gặp phải trở ngại dưới hình thức mê tín, dưới bình thức thành kiến, và dưới hình thức nguyên tố cơ bản. Ba định mệnh[1] đè nặng lên chúng ta, định mệnh của tín điều, định mệnh của luật pháp, định mệnh của vạn vật. Trong Nhà Thờ Đức Bà Paris, tác giả đã tố cáo cái thứ nhất; trong Những Người Khốn Khổ, tác giả đã làm nổi bật cái thứ nhì; trong quyển sách này, tác giả nói rõ đến cái thứ ba. Cùng với ba thứ định mệnh bao trùm con người ấy, lại xen thêm định mệnh bên trong, sức mạnh lớn nhất, trái tim con người. Hauteville House, tháng ba 1866. *** “Lao động biển cả” - chút luyến lưu với văn chương cổ điển. Đại văn hào Victor Hugo đã để lại một gia tài đồ sộ cho văn học thế giới, những đóng góp của ông có lẽ không cần bàn nhiều. Nhà xuất bản Văn học mới đây đã cho ra mắt bạn đọc cuốn tiểu thuyết đầy không khí sử thi của ông mang tên “Lao động biển cả”. Tác phẩm mô tả cuộc đấu tranh của chàng đánh cá Giliatt với biển cả và sự hy sinh cao quý của chàng cho hạnh phúc của người chàng yêu tha thiết, Deruyset. Trước tiên phải khẳng định, đọc cuốn tiểu thuyết này không dễ, bởi người đọc phải có sự hiểu biết tương đối về không gian sử thi và thần thoại Hy Lạp. Các nhân vật trong tiểu thuyết “Lao động biển cả” cũng như hầu hết những tác phẩm khác của đại văn hào Victor Hugo đều không có nét đặc sắc về tâm lý. Gilliatt- nhân vật chính không có những biến đổi tâm lý mạnh, cuốn sách cũng không có nhiều trường đoạn khắc hoạ suy nghĩ của anh. Như Giáo sư Đặng Thị Hạnh đã nhận xét, những tâm lý nhân vật trong “Lao động biển cả” chỉ là những giản đồ tâm lý so với các tiểu thuyết gia khác như Stendhal, Balzac, Flaubert... Vì vậy so với thời gian tiểu sử-cốt truyện thì có thể coi dòng thời gian tâm lý trong tác phẩm này không có vai trò như trong các tiểu thuyết đương thời của Balzac, Flaubert.... Nhịp điệu trong tác phẩm này chỉ vang lên rõ nhất ở thời gian sự kiện. Nhưng “Lao động biển cả” cũng có một kết cấu sự kiện chặt chẽ chứng tỏ sự già dặn trong nghệ thuật kể chuyện của Hugo sau những kiệt tác “Nhà thờ Đức Bà Paris” (1831), “Những người khốn khổ” (1862). Có thể chứng minh điều này khá rõ qua cách bố trí một cách chặt chẽ kết cấu sự kiện trong lời kể của tác giả và việc sử dụng những thủ pháp “treo tình tiết” theo kiểu tiểu thuyết đen khá phổ biến đương thời. Một độc giả yêu văn học cho biết: “Các đoạn tả cảnh gió, cảnh bão, cảnh Gilliat tự dựng xưởng sửa tàu giữa biển khơi khiến tôi đọc đi đọc lại không thấy chán. Cả các đoạn viết về địa chí của cụm đảo Ghecnơxê cũng vô cùng hấp dẫn. Đoạn tôi thích nhất là đoạn hội thoại giữa tay thuyền trưởng và tay lái súng khi mặc cả khẩu súng 6 nòng của Mỹ - hoặc đoạn mặc cả với bọn buôn lậu cũng vậy”. Như lời đề tặng của tác giả: "Tôi tặng quyển sách này cho hòn núi mến khách và tự do, cho mảnh đất Normandi già cỗi, nơi sinh sống của dân tộc cao quý nhỏ bé miền biển, cho đảo Ghecnơxê nghiêm nghị và hiền hòa, chỗ nương thân hiện thời của tôi và có thể là nơi tôi yên nghỉ", cuốn tiểu thuyết “Lao động biển cả” là một món quà vô cùng ý nghĩa cho những độc giả vẫn còn nặng tình với vẻ đẹp thuần khiết của văn chương cổ điển. *** MỘT CHỮ VIẾT TRÊN TRANG GIẤY TRẮNG Lễ Giáng sinh năm 1820 ở Guernesey đáng được chú ý. Hôm ấy trời tuyết. Trên các đảo vùng biển Manche, mùa đông có băng là điều đáng được ghi nhớ, và nếu có tuyết thì lại thành sự kiện đặc biệt. Sáng hôm lễ Giáng sinh ấy, con đường dọc theo bờ biển từ Saint-Pierre-Port đến Valle trắng xóa một màu. Tuyết rơi suốt từ nửa đêm đến tận bừng sáng. Quãng chín giờ, sau khi mặt trời mọc một tí, vì chưa phải lúc để các người theo giáo phái Anh quốc đi nhà thờ Saint-Sampson và để những người theo phái Wesley đến tiểu giáo đường Eldad, nên đường đi hầu như vắng vẻ. Suốt quãng đường giữa tháp thứ nhất và tháp thứ nhì, chỉ có ba người khách qua đường, một em bé, một người đàn ông và một người đàn bà. Ba khách qua đường này, đi cách nhau, rõ ràng không có quan hệ gì với nhau cả. Em bé, độ lên tám, dừng lại và tò mò nhìn tuyết. Người đàn ông đi cách sau người đàn bà, độ một trăm bước. Cũng như người đàn bà, anh từ Saint-Sampson đến; anh còn trẻ, có vẻ như một công nhân hay một thủy thủ. Anh mặc bộ quần áo tứ mùa, một chiếc áo varơ bằng da nâu xấu và một cái quần dính bết nhựa đường, hình như chứng tỏ là bất chấp ngày lễ anh chẳng đi đến giáo đường nào cả. Những chiếc giày cục mịch bằng da thô của anh, đế chi chít đinh to, để lại trên tuyết một dấu vết nom tương tự khóa nhà lao nhiều hơn là chân người. Còn người đàn bà qua đường thì tất nhiên là đóng bộ cánh đi lễ; cô khoác một chiếc áo choàng rộng lót lụa đen, trong diện áo dài popeline Ireland bó sát, sọc trắng, sọc hồng, và giá cô không mang bít tất đỏ thì ta đã tưởng cô là người Paris. Cô cất bước nhanh nhẹn, thoải mái, nhẹ nhàng và qua dáng đi chưa bợn dấu đời đó người ta đoán được cô còn con gái. Điệu bộ cô mang cái vẻ duyên dáng thoáng qua, đánh dấu thời kỳ chuyển tiếp tế nhị nhất, tuổi dậy thì, hai cảnh hoàng hôn lẫn lộn, bước đầu của một người đàn bà trong phút cuối cùng của một em bé. Điểm ấy người đàn ông kia không nhận thấy. Thình lình, đến cạnh một lùm sồi xanh ở góc một khu vườn con, chỗ gọi là Dãy Nhà Thấp, cô gái bỗng quay lại, động tác ấy khiến người đàn ông phải nhìn cô. Cô gái dừng lại, có vẻ như ngắm nhìn anh chàng một lúc, đoạn cúi xuống; người đàn ông thấy hình như cô lấy ngón tay viết gì đó trên tuyết. Rồi cô ngẩng lên, đi tiếp, bước nhanh, rồi ngoảnh lại, lần này còn cười nữa, và đi khuất sang phía trái con đường, trong cái lối mòn hai bên có hàng rào dẫn đến lâu đài Trường Xuân. Lúc cô ngoảnh lại lần thứ hai, người đàn ông mới nhận ra đây là Déruchette, một cô gái xinh đẹp của địa phương. Anh thấy cũng chẳng cần phải vội và lát sau anh đã đến bên lùm sồi ở góc khu vườn con. Anh không nghĩ gì đến cô gái qua đường đã đi khuất, và nếu giây phút ấy có một con cá heo văng mình ngoài biển hay một con chim đỏ cổ nhảy nhót trên cành, thì có thể người đàn ông ấy đã đi qua, mắt chăm chú vào con chim đỏ cổ hay con cá heo. Tình cờ lúc trông xuống, anh chợt nhìn đúng vào chỗ cô gái đứng lại. Hai bàn chân nhỏ bé vẫn rành rành ở đấy, và bên cạnh, anh đọc được mấy chữ cô viết trên tuyết: Gilliatt. Mấy chữ ấy là tên của anh. Anh là Gilliatt. Anh đứng lặng hồi lâu, nhìn cái tên, nhìn mặt tuyết, nhìn đôi chân nhỏ bé, rồi lại trầm ngâm đi tiếp. Mời các bạn đón đọc Lao Động Biển Cả của tác giả Victor Hugo & Hoàng Lâm (dịch).