Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bọn Rợ Rình Trước Cổng: Mua Lại Có Đòn Bẩy Và Thương Vụ Đình Đám RJR Nabisco

Cuốn sách Bọn rợ rình ở cổng là câu chuyện có thật về cuộc chiến giành quyền kiểm soát công ty bánh quy và Mỹ – RJR Nabisco – nhà sản xuất bánh quy Oreo và RJ Reynolds. Nội dung chính nói về việc mua lại có đòn bẩy (LBO) của tập đoàn RJR Nabisco với nhịp độ nhanh chóng và chi tiết, bao gồm cả những cuộc hội thoại riêng cũng như trong phòng họp giữa các CEO của các công ty. Cuốn sách thể hiện lòng tham đáng kinh ngạc của các chủ ngân hàng đầu tư, nhà quản lý công ty, nhà đầu tư cổ phần tư nhân, các cổ đông… Việc mua lại diễn ra được mở đầu bằng một cuộc chiến đấu thầu giữa ban lãnh đạo (do CEO Ross Johnson dẫn đầu), KKR, công ty cổ phần tư nhân lâu đời, và một số người chơi “nhỏ hơn”. Việc mua lại có đòn bẩy thường khiến công ty bị mua lại phải gánh rất nhiều nợ, đòi hỏi các nhà quản lý phải cắt giảm chi phí (thường bao gồm cả nhân sự) – đó là lý do tại sao những điều này không được nhân viên, công chúng và giới báo chí ưa chuộng. Khoản mua lại trị giá 25 tỷ đô la này, mà cuối cùng KKR đã giành được bởi cũng không khác gì, đặc biệt vì đây là LBO lớn nhất tại thời điểm đó. Những người phản đối nỗ lực mua lại công ty của Johnson, Henry Kravis và anh họ của ông ta là George R. Roberts, là những người tiên phong trong việc mua lại có đòn bẩy (LBO). Kravis là người đầu tiên mà Johnson nói chuyện về việc thực hiện LBO và cảm thấy bị phản bội sau khi biết rằng Johnson muốn thực hiện thỏa thuận với một công ty khác, bộ phận Shearson Lehman Hutton trước đây của American Express. Ted Forstmann và công ty mua lại Forstmann Little của ông cũng đóng một vai trò quan trọng. Khi lên nắm quyền điều hành RJR Nabisco và thấy giá cổ phiếu của công ty đang trì trệ, Ross Johnson đã tìm cách để có được giá trị lớn hơn cho các cổ đông của mình và cuối cùng đã được các cố vấn ngân hàng đầu tư (của Lehman Brothers) thuyết phục rằng ông nên thực hiện một vụ mua lại có đòn bẩy. Và ngay sau khi giá thầu được công bố, các nhà thầu cho công ty đã xuất hiện. KKR đã trở thành con mồi đầu tiên của LBO. Hầu như tất cả các ngân hàng đầu tư lớn đều tham gia với tư cách là cố vấn cho thương vụ này. Một số nhân vật quan trọng trong giới tài chính xuất hiện. Bruce Wasserstein, CEO của Lazard đã tham gia, cùng với Joe Perella, Eric Gleacher, Tom Hill.   Sau khi Kravis và Johnson không thể dung hòa được sự khác biệt của họ, một cuộc chiến đấu thầu đã diễn ra mà cuối cùng Johnson sẽ thua. Tác dụng phụ đáng tiếc của việc tăng giá mua đối với các cổ đông là tạo ra mức nợ đáng lo ngại cho công ty. Cuốn sách bắt đầu chậm rãi với hơn 300 trang xây dựng bối cảnh cho các nhân vật chính và mô tả lịch sử của RJR Nabisco. Sau đó, nó đẩy nhanh tốc độ và sự kịch tính qua các cuộc hội thoại, thời gian và giọng điệu của nhân vật.   Đánh giá của chuyên gia, tổ chức uy tín về cuốn sách cùng các giải thưởng  “Một trong những cuốn sách kinh doanh tuyệt vời nhất từng được biết tới…” — Joe Nocera, New York Times “Một tác phẩm xuất sắc, tái hiện câu chuyện với quy mô ấn tượng… Lối viết hoa mỹ… bố cục chặt chẽ từ đầu đến cuối.” — Scot J. Paltrow, Los Angeles Times Book Review “Nội dung rất ấn tượng… bối cảnh đặc sắc… một tác phẩm có chất liệu điện ảnh nhưng cũng là cuốn sách được viết cực kỳ công phu.” — KeN auletta, New York Daily News “Thật khó để hình dung ra một cuốn sách hay hơn, lột tả hết bản chất của bối cảnh kinh tế những năm 1980… và cũng khó tưởng tượng ra một ai đó có tài viết lách hơn Burrough và Helyar.” — Bill BarNhart, Chicago Tribune *** Hẳn là nhiều người vẫn còn nhớ đến cuộc chiến giành quyền kiểm soát công ty bánh kẹo và thuốc lá Mỹ – RJR Nabisco – nhà sản xuất bánh quy Oreo và thuốc lá RJ Reynolds gây rúng động Phố Wall hơn 30 năm về trước. Việc sáp nhập bắt đầu với quyết định thực hiện mua lại có đòn bẩy (LBO - Leveraged Buyout) của CEO Ross Johnson và kết thúc với chiến thắng trị giá 25 tỷ đô la của công ty cổ phần tư nhân lâu đời KKR, LBO lớn nhất tại thời điểm đó. Toàn bộ những diễn biến của thương vụ đình đám này được Bryan Burrough và John Helyar tái hiện một cách hết sức chân thật trong cuốn tiểu thuyết kinh doanh kinh điển Bọn Rợ Rình Trước Cổng. Đây là cuốn sách đầu tiên cho chúng ta thấy rõ thực hư về những sự kiện gây chấn động một thời, nó đã được chuyển thể thành phim chiếu trên kênh HBO vào năm 1993 và phim tài liệu chiếu trên kênh History vào năm 2002.  Bằng sự chuyên nghiệp và thấm nhuần các chuẩn mực về tính thời sự, tính chính xác khi làm việc cho tờ Wall Street Journal, hai tác giả đã không bỏ sót bất cứ chi tiết nào dù là nhỏ nhất, bao gồm cả những cuộc hội thoại riêng cũng như những bí mật trong phòng họp giữa các CEO của các công ty. Bắt đầu chậm rãi với hơn 300 trang xây dựng bối cảnh cho các nhân vật chính và mô tả lịch sử của RJR Nabisco, sau đó đẩy nhanh tốc độ và sự kịch tính qua các cuộc hội thoại, thời gian và giọng điệu của nhân vật, cuốn sách này sẽ khiến chúng ta phải kinh ngạc vì những mánh khóe, thủ đoạn, lòng tham không đáy của các chủ ngân hàng đầu tư, nhà quản lý công ty, nhà đầu tư cổ phần tư nhân, các cổ đông…  Được New York Times Book Review đánh giá là “Một trong những bản tường thuật hay nhất, hấp dẫn nhất về những gì đã xảy ra với các công ty Mỹ và Phố Wall vào những năm 1980”, qua cuốn sách, độc giả sẽ hiểu rõ hơn về các rủi ro khi thực hiện LBO, những sai lầm có thể khiến cả doanh nghiệp lớn sụp đổ trong nháy mắt. Từ đó, rút ra kinh nghiệm cho bản thân. Không những vậy, thất bại của CEO Ross Johnson và hàng loạt nhân vật tiếng tăm trong giới kinh doanh đã trở thành những tấm gương, những bài học đắt giá về cái tâm, cái tầm của các nhà lãnh đạo trên toàn thế giới. Bài học thứ nhất: Bất kỳ thành quách kiên cố nào cũng đều có thể bị phá huỷ từ bên trong, và người dễ dàng làm điều đó nhất, ít bị đề phòng nhất chính là lãnh đạo, chỉ huy của tòa thành ấy. Việc trao quyền cho nhầm người khi không có cơ chế kiểm soát đủ hiệu quả sẽ là nguy cơ tiềm ẩn khôn lường cho doanh nghiệp. Bài học thứ hai: Quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn đến sự sa đọa tuyệt đối. Khi người lãnh đạo có được những thứ mình muốn quá dễ dàng thì sẽ dễ bị lạc hướng, chìm vào trong những mưu toan, thủ đoạn trục lợi. Vì thế cuốn sách này sẽ bài học về quản trị nhân sự, tuyển dụng nhân tài sao cho vừa phù hợp, vừa hiệu quả, vừa bền vững. Bài học thứ ba: Thành công của một lãnh đạo không chỉ là xây dựng và phát triển một đội ngũ đủ sức đạt được những thành tích xuất sắc trong nhiệm kỳ của mình mà còn phải tạo ra những người lãnh đạo kế nhiệm đủ tầm khác. Bài học thứ tư: Văn hóa của một doanh nghiệp là cực kỳ quan trọng cho sự phát triển và trường tồn trong một doanh nghiệp. Câu chuyện về văn hóa doanh nghiệp của Reynolds là một ví dụ không thể thuyết phục hơn. Bài học thứ năm: Cần hơn nữa những ý thức và cam kết với các giá trị cốt lõi và bổ sung thường xuyên của những động lực phát triển mới cho doanh nghiệp. Bọn Rợ Rình Trước Cổng - Bài học đắt giá giành cho những nhà quản lý Đây không chỉ là cuốn sách khiến người đọc phải ngạc nhiên, tò mò với những thủ thuật tài chính, mua bán sáp nhập hiện đại và nguy hiểm, mà còn là cuốn sách những người lãnh đạo doanh nghiệp đang trăn trở về cách thức quản trị tổ chức hiệu quả nhất định không thể bỏ qua.  *** Bryan Burrough là đặc phái viên của Vanity Fair và cựu phóng viên của The Wall Street Journal, ông đã báo cáo về nhiều chủ đề, bao gồm các sự kiện dẫn đến cuộc chiến ở Iraq, sự mất tích của Natalee Holloway và vụ Anthony Pellicano. Bryan còn là tác giả của nhiều bài phê bình sách và bài báo trên The New York Times, Los Angeles Times và Washington Post. John Helyar là một nhà báo và tác giả người Mỹ. Ông tốt nghiệp Đại học Boston và đã làm việc cho The Wall Street Journal, Fortune, ESPN.com, ESPN The Magazine và Bloomberg News. Bài viết của ông và Bryan Burrough về RJR Nabisco đã mang về cho cả hai giải thưởng danh giá Gerald Loeb. *** LỜI GIỚI THIỆU cho bản tiếng Việt 1 Bất kỳ thành quách hay pháo đài kiên cố nào cũng đều có thể bị phá hủy từ bên trong. Và người thuận lợi nhất, dễ dàng nhất, ít bị đề phòng nhất để phá hủy lại chính là người lãnh đạo của cái pháo đài ấy. Đây không chỉ là cuốn sách để người đọc ồ à ngạc nhiên, tò mò với những thủ thuật tài chính, mua bán sáp nhập hiện đại và nguy hiểm, mà còn là cuốn sách khiến những người lãnh đạo doanh nghiệp như chúng ta nhức nhối và trăn trở về cách thức quản trị tổ chức hiệu quả (corporate governance). Trăm năm là rất dài. Nhưng trăm năm dường như vẫn là chưa đủ để tích lũy độ dày cần thiết giúp cái vỏ trứng mong manh có thể chống chọi được những sự phá hoại từ bên trong. Những câu chuyện “chất như nước cất” về quá trình khởi nghiệp, tạo dựng và phát triển của các đế chế hàng đầu thế giới như Reynolds trong ngành thuốc lá hay Nabisco trong ngành bánh kẹo có lẽ sẽ là động lực hừng hực cho những chủ doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam. Nhưng câu chuyện về sự sụp đổ nhanh chóng của những đế chế trăm năm ấy chỉ trong một thời gian rất ngắn có thể làm cho lãnh đạo của những tập đoàn lớn nhiều nghìn tỷ chúng ta lạnh lưng rợn gáy. Việc cho phép những công cụ tài chính nguy hiểm được hoạt động thiếu kiểm soát lại là trách nhiệm và bài học nhức nhối cho những người quản lý nhà nước. Nhưng trao quyền nhầm người trong khi không có cơ chế kiểm soát đủ hiệu quả có lẽ là nguyên nhân lớn nhất. 2 Quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn đến sự sa đọa tuyệt đối. Có lẽ với một số độc giả, Ross Johnson cũng sẽ là một nhà quản lý hiệu quả nếu được sử dụng ở đúng vai trò, vị trí và kèm với một số cơ chế kiểm soát phù hợp. Khi trái ngọt đến quá dễ dàng thì người ta sẽ dễ bị lạc hướng, chìm vào những thủ đoạn chính trị nội bộ, những mua chuộc dối trá và những ê kíp đoàn kết nhất trí ru ngủ… Cuốn sách này vì thế cũng là một bài học về quản trị nhân sự. Tuyển dụng và phát triển nhân tài như thế nào để vừa phù hợp, vừa hiệu quả và bền vững không chỉ là một khoa học mà còn là một nghệ thuật. Không phải cứ nhanh hơn là hay hơn. Không phải cứ trao quyền là tốt hơn. Không hẳn cứ trọng dụng là tiến bộ hơn. Đúng người (Who), đúng việc (What) nhưng còn phải đúng cách (How) nữa. Và cũng vì thế nên trách nhiệm quản trị nhân sự không phải là của trưởng phòng hay giám đốc nhân sự. Trách nhiệm ấy là của Ban điều hành, Hội đồng quản trị và cả Đại hội đồng cổ đông. Đặc biệt là với những nhân sự nòng cốt. 3 Thành công của một lãnh đạo không chỉ giới hạn trong việc xây dựng, phát triển và lãnh đạo đội ngũ đủ sức đạt được những kết quả hoạt động mong đợi trong nhiệm kỳ của mình. Thành công của lãnh đạo còn được đánh giá bởi kết quả của sự chuẩn bị lực lượng kế thừa đủ chất lượng, đủ sức lãnh đạo tổ chức thành công trong các nhiệm kỳ tiếp theo. Trách nhiệm của người lãnh đạo không phải là tạo ra những người đi theo: Họ cần tạo ra những người lãnh đạo đủ tầm khác. Nhìn từ góc độ này, những người lãnh đạo tiền nhiệm của Ross Johnson tại các doanh nghiệp liên quan đều là những người lãnh đạo tồi, cho dù tính cách và phong cách lãnh đạo của mỗi người đều rất khác nhau. 4 Muốn hủy diệt một quốc gia, hãy lấy hết đất đai của họ. Nhưng muốn hủy diệt một dân tộc, chỉ cần làm ô nhiễm hay pha loãng văn hóa của họ. Trong doanh nghiệp cũng vậy. Văn hóa của một doanh nghiệp là cực kỳ quan trọng cho sự phát triển và trường tồn của doanh nghiệp ấy. Cuốn sách chia sẻ những câu chuyện tuyệt vời về sức mạnh vô địch của văn hóa doanh nghiệp. Không có một văn hóa đủ mạnh thì chắc là cả Nabisco lẫn Reynolds đã sớm chìm vào dòng lịch sử chứ không thể sừng sững với thời gian như vậy. Văn hóa của một tổ chức không phải là thứ mà họ tuyên bố hay tuyên truyền. Văn hóa ấy được bắt nguồn từ những người lãnh đạo cao nhất và thấm nhuần vào suy nghĩ, hoạt động cũng như hành vi hằng ngày của tất cả các cấp lãnh đạo và nhân viên của tổ chức ấy. Văn hóa ấy không nhất thiết phải là “tốt” dưới con mắt của cộng đồng xã hội. Nhưng nhất thiết phải phù hợp với đặc tính ngành nghề, bổ trợ cho sự phát triển của tổ chức và tăng cường gắn kết với những người quan trọng cần thiết cho sự thành công của tổ chức: cổ đông, nhân viên và khách hàng. Câu chuyện về văn hóa doanh nghiệp ở doanh nghiệp thuốc lá Reynolds là một ví dụ không thể thuyết phục hơn. 5 Kết cục đau thương cho những thương hiệu hàng đầu trong câu chuyện đặt ra câu hỏi nhức nhối về công thức truyền thừa của các tổ chức: Làm sao để trường tồn? Văn hóa mạnh: Đúng rồi. Nhưng sẽ đến lúc chính văn hóa ấy cản trở doanh nghiệp thay đổi và phát triển. Lãnh đạo tâm - tầm - tài: Đúng rồi. Nhưng lãnh đạo nào rồi cũng sẽ ra đi, mà có phải lãnh đạo nào cũng minh mẫn suốt đời đâu. Có lẽ sẽ cần hơn nữa những sự cảm nhận và thôi thúc sứ mệnh, những ý thức và cam kết với các giá trị cốt lõi và sự bổ sung thường xuyên của những động lực phát triển mới cho doanh nghiệp. Nhưng khổ nỗi, tất cả những điều ấy đều đến từ hay bị điều chỉnh bởi lãnh đạo. Làm sao để kiểm soát được lãnh đạo, hoặc ít nhất để lãnh đạo tự kiểm soát được chính mình, thì chỉ có những người tạo ra lãnh đạo trả lời được mà thôi. Vài dòng tâm tư khi đọc cuốn sách Bọn rợ rình trước cổngtrong chuyến đi cứu trợ miền Trung năm 2020. Trần Bằng Việt Chuyên gia tư vấn cao cấp Chủ tịch Giải pháp Phát triển Đông A *** LỜI TÁC GIẢ Năm 1989, chúng tôi viết Bọn rợ rình trước cổng kể về các sự kiện đang diễn ra; bây giờ mọi thứ đã trở thành dĩ vãng. Một số cuốn sách có vòng đời dài hơn các cuốn khác. Chúng tôi nghĩ rằng cuốn sách này là một trong số đó. Nó vẫn được dùng để giảng dạy về nhiều chủ đề cho sinh viên trong các trường đào tạo kinh doanh lớn, từ đạo đức kinh doanh đến nghiệp vụ ngân hàng đầu tư. Năm 1993, cuốn sách được chuyển thể thành phim và chiếu trên kênh HBO. Năm 2002, 14 năm sau khi gây chấn động, cuộc chiến RJR lại được chuyển thể thành một bộ phim tài liệu chiếu trên kênh History. Sự đón nhận này của công chúng là những gì chúng tôi chưa từng dám nghĩ tới khi bắt tay viết cuốn sách. Trên thực tế, mục tiêu chính của chúng tôi chỉ đơn giản là kiểm tra năng lực của chính mình, xem liệu chúng tôi có thể tự viết một cuốn sách hay không; cả hai chúng tôi đều chưa từng thử viết sách. Bọn rợ rình trước cổng cũng không phải là cuốn sách được các nhà xuất bản tranh giành. Trên thực tế, trong số hơn chục nhà xuất bản chúng tôi đã tiếp xúc, chính xác chỉ có nhà xuất bản Harper & Row (nay là nhà xuất bản Harper Collins) tỏ ra quan tâm một chút. Mọi người đã chán ngấy với các câu chuyện xuất hiện nhiều tuần trên những mặt báo về RJR. Còn ai muốn đọc thêm nữa? Là phóng viên của tờ Wall Street Journal, chúng tôi đã cố gắng làm cho Bọn rợ rình trước cổng thấm nhuần các chuẩn mực về tính thời sự và tính chính xác mà chúng tôi đã nắm vững khi viết báo. Thật sự, Bọn rợ rình trước cổng sẽ không thể ra đời nếu không có sự khích lệ mà hai biên tập viên của cuốn sách này, Norman Pearlstine và Paul Steiger, dành cho chúng tôi. Không chỉ vậy, chúng tôi còn được nghỉ phép không lương trong tám tháng để thực hiện cuốn sách này. Tháng 10 năm đó, khi câu chuyện về RJR bùng nổ, tôi là phóng viên của Wall Street Journal, tờ báo đầu tiên đưa tin về vụ sáp nhập và mua lại đình đám ở Phố Wall; còn John, sống tại Atlanta, phụ trách viết bài về công ty. Chúng tôi đã cùng nhau viết về mọi ngóc ngách của trận chiến RJR kéo dài sáu tuần. Chỉ đến khi trận chiến kết thúc, chúng tôi mới thống nhất cùng nhau viết sách, thế là chúng tôi gặp nhau. John giơ một cuốn tạp chí Timelên, trên trang bìa là bức ảnh đáng hổ thẹn của Ross Johnson, để tôi có thể nhận ra anh ở sân bay Atlanta. Chúng tôi thường có chút ngại ngùng khi thừa nhận đã nghiên cứu và viết Bọn rợ rình trước cổng trong tám tháng ngắn ngủi, từ tháng Một đến tháng Tám năm 1989. Đó là quãng thời gian buồn vui lẫn lộn với chúng tôi. Tôi sống trong một căn hộ không có điều hòa ở khu phố Park Slope, quận Brooklyn. Tôi đi tàu điện ngầm đến Manhattan để thực hiện sáu cuộc phỏng vấn mỗi ngày; chúng tôi nhất trí với nhau rằng tất cả các cuộc phỏng vấn nên được thực hiện trực tiếp. Buổi tối, tôi trở về nhà, kiểm tra, đối chiếu thông tin và viết lại những ghi chú trong buổi phỏng vấn. Đôi khi, vì trời mùa hè quá nóng, tôi chỉ mặc chiếc quần bơi và áo phông. John phải di chuyển rất nhiều, qua lại giữa Atlanta, Bắc Carolina và New York để khớp nối các câu chuyện về con đường tiến thân đến đỉnh cao quyền lực của Ross Johnson. Chúng tôi làm việc độc lập, trừ khi có các cuộc phỏng vấn quan trọng với chính Johnson, đã có các cuộc phỏng vấn dài không chính thức ở Atlanta và Manhattan, có thêm bánh pizza và nước ngọt. Khi đang viết sách, chúng tôi đã lo rằng câu chuyện về RJR sẽ bị lu mờ bởi một số thương vụ đình đám hơn, khắc nghiệt hơn. Giữa những kẻ tập kích công ty, các nghệ sĩ LBO và những nhà tài phiệt đầu tư vào trái phiếu rác, toàn bộ giới kinh doanh của những năm 1980 như phát điên. Những cuộc đột kích man rợ diễn ra sau Bọn rợ rình trước cổng có thể làm cho trận chiến RJR từ bản anh hùng ca chỉ còn là vài dòng chú thích. (Đó là lý do tại sao Harper muốn ra mắt cuốn sách thật nhanh.) Chúng tôi đã sẵn sàng cho ngày đen tối đó, nhưng nó không bao giờ đến. Hóa ra cuộc chiến giành RJR vừa xác lập và kết thúc một kỷ nguyên. Trong gần một thập kỷ sau đó, vụ trúng thầu trị giá 25 tỷ đô-la của KKR vẫn được xem là thương vụ lớn nhất mọi thời đại. Có một số yếu tố kết hợp với nhau làm giảm quy mô của các giao dịch trong vài năm. Cỗ máy kiếm tiền siêu đẳng đằng sau LBO - trái phiếu rác - đã ngắc ngoải, và có lúc gần như dừng hoạt động. Mike Milken bị bắt giam; Drexel Burnham phá sản, và trong thời kỳ suy thoái đầu thập niên 1990, các công ty ốm yếu sử dụng đòn bẩy quá mức đã gây tiếng xấu cho LBO. Henry Kravis thôi không nhòm ngó các cuộc chơi lớn nữa. Ông ta còn bận với việc chăm sóc sức khỏe và ăn uống - cũng như chuyện nợ nần của RJR. Những ngôi sao khác của Phố Wall trong thập niên 1980, những kẻ từng chinh chiến để giành lấy RJR đã kiêu ngạo quá mức và trở nên quá đỗi nhạt nhòa. John Gutfreund bị hất cẳng vào năm 1991, khi đang là chủ tịch của Salomon Brothers, sau một vụ bê bối giao dịch trái phiếu kho bạc. Chủ tịch Tom Strauss cũng phải từ chức. Ông này từng tham gia với Peter Cohen trong vụ nhập nhèm ở một quỹ phòng hộ. Những người khác cũng chuyển sang các công ty quản lý quỹ, bao gồm Tom Hill ở tập đoàn Blackstone và Steve Waters ở một quỹ đầu tư tư nhân của châu Âu có tên Compass Partners. Nhân vật duy nhất nổi lên như một ngôi sao trong vụ Bọn rợ rình trước cổng là Steve Goldstone. Vị luật sư từng làm cho Ross Johnson cuối cùng đã trở thành CEO của RJR Nabisco. Nhưng ngay cả việc Goldstone leo lên được vị trí này cũng chủ yếu nhờ sự sụp đổ của công ty hùng mạnh một thời. Năm 1999, ông bán Nabisco cho Phillip Morris, thoái vốn khỏi hoạt động kinh doanh thuốc lá quốc tế của RJR, và đưa công ty trở lại điểm xuất phát: một công ty thuốc lá Mỹ có trụ sở tại Winston-Salem, Bắc Carolina. Kohlberg Kravis đã rời khỏi RJR ngay sau đó, với những khoản lợi nhuận khiêm tốn. Nhưng ngay khi những sát thủ Phố Wall của thập niên 1980 lặng lẽ lùi dần vào sau ánh hoàng hôn, họ đã mở ra buổi bình minh của thập niên 1990 thậm chí còn hỗn độn hơn. Ban đầu, các CEO của Mỹ bị sốc và kinh hoàng bởi những gì bọn rợ đã làm, nhưng cuối cùng lại theo chân họ. Từ vụ RJR, họ đã hiểu những gì mà những kẻ giàu sụ dễ dàng kiếm được. Họ bắt đầu lao vào giành lấy phần của mình. “CEO của các tập đoàn đã học được hai điều từ các vụ LBO,” Dick Beattie, người vẫn tiếp tục với các thỏa thuận lớn cho đến những năm 1990, nói. “Trước tiên, cách để có một khối tài sản kếch xù là thông qua sở hữu cổ phần, chứ không phải là dựa vào tiền lương và tiền thưởng, và thứ hai, anh không cần phải làm LBO mới có trong tay cổ phiếu. Anh có thể cho mình quyền mua bán cổ phiếu. Với cách làm phổ biến đó, các CEO của những năm 1990 đã thu về bộn tiền khiến Ross Johnson phải bối rối và lây lan tính tham lam trên cả Phố Main* lẫn Phố Wall. Tính tham lam đó thậm chí còn lây lan đến cả những công ty kế toán vốn ù lì, nay biến thành các công ty tổ chức sòng bạc hơn là làm công việc kiểm toán. “Lỗi là ở các nhân viên ngân hàng đầu tư,” Paul Volcker gào lên. Ông là cựu Chủ tịch Fed, người đã rất nỗ lực giải cứu Arthur Andersen nhưng bất thành trong một vụ bê bối gây nhiều tranh cãi. Lúc ông mới đến Phố Wall vào đầu năm 2002, những tay đầu cơ cổ phiếu ở đây đã có ảnh hưởng sâu sắc đến đám đông nhân viên kiểm toán thường đội mũ lưỡi trai màu xanh lá cây để che nắng này*. Volcker kể lại: “Các kế toán viên cảm thấy thế này: ‘Chúng ta cũng giỏi như bọn họ, và chúng ta đang làm mọi việc.’ Bầu không khí bao trùm nơi đây là: ‘Tiền ở đó, đến mà lấy.”’ Hãy gọi đó là “chiến thắng của bọn rợ” cho đó là lý do để cuốn sách này vẫn mãi liên hệ đến những con người của hiện tại. Các CEO khét tiếng ngày nay như Dennis Kozlowski và Bernie Ebbers thực sự là những phiên bản Ross Johnson thời hiện đại. Họ đã phát triển những gì mà ông tiên phong: CEO chỉ là những kẻ tư lợi, không phải là người của công ty. Các CEO như những tay giang hồ liều lĩnh và là những kẻ trơ tráo tước đoạt tài sản của công ty. Chỉ khác là các thương vụ họ thực hiện ở quy mô, tầm vóc lớn hơn, trong thị trường bò (bull market) và thời kỳ bong bóng công nghệ của những năm 1990, khi số cổ phiếu và lượng tiền chiếm đoạt lớn hơn rất nhiều. Ngay cả những kẻ bất tài như Henry Samueli và Henry Nicholas, đồng chủ tịch của một công ty có tên Broadcom, cũng thu về mỗi người 800 triệu đô-la lợi nhuận. Họ bán cổ phiếu thưởng lấy tiền mặt khi ngành viễn thông vẫn còn đang “nổi”. So với số tiền đó, chiếc dù vàng đáng xấu hổ một thời trị giá 53 triệu đô-la của Ross Johnson vẫn còn là ít. Nhưng ngay cả khi có các thương vụ đã vượt qua Bọn rợ rình trước cổng về quy mô tiền mặt, chúng cũng không được dựng thành phim. Và nguyên nhân không nằm ở tài năng của các tác giả, có Chúa mới biết. Đó là vì trong sáu tuần chinh chiến vào năm 1988 đó, khi một nhóm các ông trùm kinh doanh mới phất lên giành giật quyền sở hữu một công ty lớn và trở thành những ông chủ lớn thống trị Phố Wall, trật tự hoàn hảo của thế giới mới đã được thiết lập. Hệ tư tưởng của một thời đại đã được thể hiện đầy đủ trong cuộc chiến giành RJR: những cảm xúc thô thiển xung đột kịch liệt với tính tự cao tự đại: cốt truyện không hề bị méo mó và các nhân vật lại càng không. Các tác giả khác đã cùng viết nên những cuốn sách đáng tự hào, những thiên tiểu thuyết về kinh doanh. Cuốn Indecent Exposure (tạm dịch: Để lộ âm tàng) của David McClintick là khuôn mẫu cho tất cả chúng ta, nhưng không có cuốn sách nào lại đặc biệt với nhiều tư liệu rùng rợn đến vậy. Chúng tôi viết về những nhân viên ngân hàng đầu tư vừa nuốt vội bánh Milk Bone, vừa chạy như bay đến khu trung tâm Manhattan, hạ giá thầu vào phút cuối. Chúng tôi viết về một CEO, người có con chó được sắp xếp bay trên một chiếc máy bay phản lực với khẩu hiệu sống: “Cứ mỗi giây qua đi, vài triệu đô-la lại trở thành quá khứ xa vời.” Chúng tôi mãi mãi biết ơn họ đã cho chúng tôi nguồn tư liệu quý để viết nên cuốn sách này. Bạn không thể cảm nhận được điều đó đâu. Mời các bạn đón đọc Bọn Rợ Rình Trước Cổng: Mua Lại Có Đòn Bẩy Và Thương Vụ Đình Đám RJR Nabisco của tác giả Bryan Burrough & John Helyar & Hoàng Thị Ngọc (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Phù Sinh Lục Ký
Nhà văn hàng đầu Trung Quốc – Phùng Ký Tài khi được hỏi: “Nếu phải ở trên một hòn đảo cách biệt được chăm lo đầy đủ, nhưng chỉ được mang theo một cuốn tản văn yêu thích, thì ông sẽ mang theo cuốn sách nào? Vì sao?”, Phùng Ký Tài đã không ngần ngại trả lời ngay rằng: “Cuốn sách ấy là Phù sinh lục ký, vì nó có thể đọc đi đọc lại, giống như thơ vậy, đọc lên thấy thích thú và gợi cho mình nhiều suy nghĩ khác nhau”. Sách giáo khoa của Trung Quốc còn trích một số đoạn trong Phù sinh lục ký để làm chuẩn mực về cổ văn cho học sinh trung học. Nhiều tác giả Trung Quốc xem Phù sinh lục ký như một điển phạm khi viết văn. Phù sinh lục ký là tác phẩm kinh điển của Trung Quốc được in đi in lại cả trăm lần ở Đại Lục, được dịch ra mấy chục thứ tiếng trên toàn thế giới, riêng tiếng Anh có đến vài bản dịch, nhưng đây là lần đầu tiên được dịch giả Châu Hải Đường dịch ra tiếng Việt. *** Người ta ngày nay có bao nỗi lo toan bủa vây, thế nên nhiều khi mình chẳng còn nhớ lần cuối cùng tri kỉ đàm đạo nhân tình thế thái là khi nào, cũng quên luôn cả lạc thú tiêu dao tự tại của tao nhân mặc khách đời xưa. Trong số các văn nhân Trung Hoa kinh điển, Thẩm Phục là một cái tên lạ lẫm đối với độc giả Việt Nam, nhưng những tác phẩm của ông được coi là mẫu mực cho cổ văn Trung Hoa cũng như được giảng dạy phổ biến trong các trường học. Phù sinh lục kí là tác phẩm giá trị nhất của Thẩm Phục, gồm những bài ký giàu chất thơ, trong những lời văn uyển chuyển đầy tình ý, ta nghe nhịp nhàng như có phách nhạc phụ họa. Ông đã ghi chép lại những chuyện đời thường một cách đầy say mê, hào sảng nhưng cũng không kém phần nho nhã. Trong từng trang sách, hình ảnh vợ cắm một bình cúc, chồng pha một ấm trà, thưởng ngoạn cảnh đẹp nhân gian với nhau rõ mồn một và rất sinh động. Duyên cầm sắt đâu chỉ là sống bên nhau, còn là sự hòa hợp đồng điệu về tâm hồn, phu thê ăn ý tấu lên khúc nhạc thú vui khuê phòng. Một trích đoạn trong Phù sinh lục kí để thấy rõ tình cảm vợ chồng: Tôi từng nói: “Tiếc rằng nàng là phận gái, chứ nếu có thể hoá nữ thành nam, rồi chúng ta cùng đi thăm danh sơn, tìm thắng tích, ngao du thiên hạ, chẳng cũng thích lắm ư?” Vân nói: “Việc ấy có gì khó, đợi đến khi thiếp bạc mái đầu rồi, tuy chẳng thể xa chơi Ngũ Nhạc, nhưng những chỗ gần đây như Hổ Phụ, Linh Nham, nam đến Tây Hồ, bắc đến Bình Sơn, thảy đều có thể cùng chàng tới chơi được.” Tôi nói: “E là khi nàng đầu bạc thì một bước đi cũng khó.” Vân nói: “Kiếp này chẳng thể, thì hẹn kiếp sau.” Tôi nói: “Kiếp sau nàng nên là con trai, còn ta là gái theo nàng.” Đọc Phù sinh lục kí, độc giả sẽ bắt gặp nhiều điển tích, điển cố cổ của văn học Trung Hoa. Nó vừa thể hiện vốn kiến thức uyên thâm của tác giả, vừa thể hiện được sự uyên bác cùng tình cảm trân quý với những giá trị tinh hoa từ ngàn đời của tác giả. Có thể nói, Phù sinh lục ký là một bông hoa lạ tròn khu vườn văn học Trung Quốc. Tác giả là một người có tình cảm phong phú, tính cách hào sảng, tài hoa dồi dào, có thể gầy nên một tình điệu cao nhã, và phát hiện ra những điều thú vị độc đáo ngay từ cuộc sống bình thường. – Ngân Nga Hoàng Nhân, “Phù sinh lục ký” – Một tác phẩm đặc sắc của văn học Trung Quốc vừa được Châu Hải Đường dịch xong, và sắp được xuất bản – song vẫn có nhiều bạn băn khoăn về nội dung và nhầm lẫn với cuốn “Phù sinh lục ký” (Có lẽ lấy lại từ cảm hứng của tác phẩm cổ điển nói trên) của một tác giả trẻ đương đại, vì vậy dịch giả xin có đôi lời thưa thêm về tác phẩm này để các bạn có thêm thông tin. Xin trân trọng cám ơn. “Phù sinh lục ký” là một tiểu thuyết tản văn, thể tự truyện đặc sắc của nhà văn đời Thanh – Thẩm Phục. Thẩm Phục tự Tam Bạch hiệu Mai Dật, xuất thân trong một gia đình sĩ tộc ở Tô Châu. Theo như tự thuật trong tác phẩm, ông sinh năm 1763, không rõ năm mất (Theo các nghiên cứu, có thuyết cho ông mất vào năm 1832) . Đáng tiếc rằng, do tác giả của nó không có danh vị cao trong xã hội, kinh tế lại khốn quẫn, nên tác phẩm đã không được ấn hành ngay khi ông sinh tiền, mà chỉ có bản chép tay lưu truyền ở đời. Cho đến năm Quang Tự thứ 3 (1877), tức là gần 50 năm sau khi ông qua đời, Độc Ngộ am chủ nhân – Dương Dẫn Truyền, người Ngô Huyện, Giang Tô, tìm thấy một cuốn sách viết tay nhan đề “Phù Sinh Lục Ký” ở một tiệm sách nhỏ trong thành Tô Châu, tuy sách đã nát, nhưng có thể đọc thấy tài tình rất mực của tác giả. Sau khi được nhà thơ, học giả nổi tiếng Vương Thao gửi thêm cho xem sáu bài thơ tuyệt cú, ghi là “Đề Phù Sinh Lục Ký” của Quản Thụ Thuyên (Di Ngạc) người Dương Hồ, Dương Dẫn Truyền đã đem cuốn sách in chung vào bộ “Độc Ngộ am tùng sao” của tòa soạn “Thân Báo”, và một bộ kỳ thư ấy đã lần đầu tiên được xuất hiện ở đời. Năm Quang Tự thứ 32 (1906), Hoàng Nhân tiên sinh khi dạy ở đại học Đông Ngô – Tô Châu đã cho đăng “Phù Sinh Lục Ký” trên tạp chí “Nhạn Lai Hồng”. Cuối đời Quang Tự, Vương Văn Nhu lại cho in trong “Thuyết khố”. Năm 1923, Du Bình Bá căn cứ vào văn bản trên “Độc Ngộ am tùng sao”, Tạp chí “Nhạn Lai Hồng”, hiệu điểm in lại tác phẩm, do Khai Minh Thư Cục phát hành. Năm 1935, Lâm Ngữ Đường tiên sinh đã dịch tác phẩm ra tiếng Anh, đăng nhiều kỳ trên nguyệt san “Thiên hạ” và “Tây phong”. Từ đó “Phù Sinh Lục Ký” bèn nổi danh khắp thiên hạ. Nội dung “Phù sinh lục ký” gồm có sáu “ký”, trong đó Thẩm Phục đã viết lại tự truyện của cuộc đời mình, nhưng không theo dòng thời gian biên niên như những cuốn tự truyện thường thấy, mà theo một cách khác: Theo mạch cảm xúc của cuộc sống. Sáu thiên ký ấy là: “Vui Khuê phòng”, “Thú nhàn tình”, “Sầu Trắc trở”, “Thú lãng du”, “Trải Trung Sơn”, và “Nhàn dưỡng sinh”. Trong đó, nổi bật lên là những ghi chép về tình cảm và cuộc sống của ông và người vợ – Trần Vân, với đầy đủ mọi sắc thái hỉ – nộ – ai – lạc, qua đó, có thể thấy tác giả là một người có tình cảm phong phú, tính cách hào sảng, tài hoa dồi dào, có thể gầy lên một tình điệu cao nhã, và phát hiện ra những điều thú vị độc đáo ngay từ cuộc sống bình thường. Cho nên, tuy phải sống trong cảnh nghèo khó, trải qua nhiều nỗi trắc trở, ông vẫn có một tâm thái lạc quan trước cuộc đời, khiến cho cuộc sống bình thường trở nên tràn đầy xúc cảm nghệ thuật. Trên một trình độ nào đó, cuốn sách đã trở thành kim chỉ nam cho việc phẩm vị hóa cuộc sống cũng như nhã thú của văn nhân. Kể từ lần đầu tiên ấn hành cho đến nay, “Phù sinh lục ký” đã được xuất bản hơn 120 lần ở Trung Quốc. Quyển 2 – “Thú nhàn tình” của tác phẩm còn được trích một đoạn dùng trong sách Ngữ văn cho học sinh phổ thông Trung Quốc như là một khuôn mẫu về cổ văn. Đồng thời, tác phẩm được dịch ra nhiều ngôn ngữ như: Anh, Đức, Pháp, Đan Mạch, Thụy Điển, Nhật Bản, Mã Lai … và xuất bản ở nhiều nước. Ở Việt Nam, thực ra cái tên “Phù Sinh Lục Ký” đã xuất hiện trong tác phẩm “Sống Đẹp” của Lâm Ngữ Đường – do Nguyễn Hiến Lê dịch. Tuy nhiên, có thể nói đây là lần đầu tiên tác phẩm được dịch và giới thiệu một cách đầy đủ ở Việt Nam. Có thể nói, “Phù sinh lục ký” là một bông hoa lạ trong khu vườn văn học Trung Quốc. Từ sau khi tác phẩm được phát hiện đến nay, đã giành được sự chú ý của vô số những nhà văn hóa nổi tiếng trong và ngoài Trung Quốc. Đã có rất nhiều những lời nhận xét khen ngợi tác phẩm của nhiều danh nhân văn hóa cổ kim, như Lỗ Tấn, Du Bình Bá, Lâm Ngữ Đường, Phùng Ký Tài … nhưng có lẽ, tốt hơn hết là chúng ta hãy tự mình đọc, thưởng thức, và cảm nhận bằng chính cảm xúc của mình, qua ấn bản Phù Sinh Lục Ký lần đầu tại Việt Nam này. – Châu Hải Đường *** Lời giới thiệu Cách đây ít năm, tôi tình cờ đọc một bài trả lời phỏng vấn trên báo của nhà văn nổi tiếng Trung Quốc - Phùng Ký Tài về công việc sáng tác tản văn, trong đó có một đoạn hỏi đáp khiến tôi chú ý; khi phóng viên hỏi: “Nếu phải ở trên một hòn đảo cách biệt được chăm lo đầy đủ, nhưng chỉ được mang theo một cuốn tản văn yêu thích, thì ông sẽ mang theo cuốn sách nào? Vì sao?” Phùng Ký Tài đã không ngần ngại trả lời ngay rằng: “Cuốn sách ấy là Phù sinh lục ký, vì nó có thể đọc đi đọc lại, giống như thơ vậy, đọc lên thấy thích thú và gợi cho mình nhiều suy nghĩ khác nhau.” Câu trả lời ấy của Phùng Ký Tài khiến tôi rất tò mò về cuốn Phù sinh lục ký mà ông nhắc đến, đồng thời, cũng thấy một cảm giác rất quen thuộc, tựa hồ mình đã được nghe về cuốn sách đó ở đâu rồi. Sau khi lục soát lại trí nhớ của mình, tôi mới à lên một tiếng: Hóa ra tôi đã từng được nghe đến tên cuốn sách, và được đọc một vài phiến đoạn của nó qua cuốn Sống đẹp của Lâm Ngữ Đường, được Nguyễn Hiến Lê dịch. Trong tôi chợt dấy lên một mong muốn tìm hiểu trọn vẹn tác phẩm mà Lâm Ngữ Đường Phùng Ký Tài đều đánh giá cao, thậm chí dẫn dụng trong tác phẩm của mình này, cũng như về tác giả của nó. Phù sinh lục ký là một tiểu thuyết tản văn, thể tự truyện đặc sắc của nhà văn đời Thanh - Thẩm Phục. Thẩm Phục tự Tam Bạch hiệu Mai Dật, xuất thân trong một gia đình sĩ tộc Tô Châu. Theo như tự thuật trong tác phẩm, ông sinh năm 1763, không rõ năm mất. Có thể nói, Phù sinh lục ký là một bông hoa lạ trong khu vườn văn học Trung Quốc. Tác giả là một người có tình cảm phong phú, tính cách hào sảng, tài hoa dồi dào, có thể gây lên một tình điệu cao nhã, và phát hiện ra những điều thú vị độc đáo ngay từ cuộc sống bình thường. Cho nên, tuy phải sống trong cảnh nghèo khó, trải qua nhiều nỗi trắc trở, ông vẫn có một tâm thái lạc quan trước cuộc đời, khiến cho cuộc sống bình thường trở nên tràn đầy xúc cảm nghệ thuật. Trên một bình diện nào đó, cuốn sách đã trở thành kim chỉ nam cho việc phẩm vị hóa cuộc sống cũng như nhã thú của văn nhân. Tiếc rằng, do tác giả của cuốn sách không có danh vị cao trong xã hội, gia cảnh lại khốn quẫn, nên tác phẩm đã không được ấn hành ngay thời ông còn sinh tiền, mà chỉ có bản chép tay lưu truyền ở đời. Đến năm Quang Tự thứ ba (1877), khi Dương Dẫn Truyền lần đầu tiên ấn hành tác phẩm, thì “sáu ký đã mất hai”, khiến cho bản Phù sinh lục ký truyền thế giống như bức tượng thần Vệ Nữ bị mất cánh tay, chỉ còn lại bốn ký đầu mà thôi. Tuy nhiên, văn chương của Phù sinh lục ký đã lập tức khiến văn đàn sửng sốt và hâm mộ, đến nỗi không lâu sau đó, trên thị trường đã xuất hiện một bản được gọi là Túc bản Phù sinh lục ký (Phù sinh lục ký bản đầy đủ), bổ sung thêm quyền kỷ thứ 5: Trải Trung Sơn, và thứ 6: Nhàn dưỡng sinh. Song, qua khảo chứng của rất nhiều học giả, thì đều có một nhận định chung rằng: hai quyển ký bổ sung ấy đều là ngụy tác. Có thể nói, trong lịch sử văn học Trung Quốc, các tác phẩm, hoặc một phần tác phẩm nguy tác là không ít, song một tác phẩm xuất hiện muộn, ngay trong đời Thanh mà có những phần được ngụy tác, cũng là hiếm có và phải vô cùng đặc biệt. Lâm Ngữ Đường, trong lời tựa bản dịch tiếng Anh cuốn Phù sinh lục ký năm 1936, có nói: “Tôi đoán chừng rằng, trong các tầng thư gia đình ở Tô Châu, hay các tiệm sách cũ, nhất định sẽ có một bản toàn vẹn, nếu có may mắn ấy, thì có thể chúng ta sẽ phát hiện được.” Đến nay, tuy chưa ai phát hiện được một bản toàn vẹn như Lâm Ngữ Đường nói (không tính bản ngụy tác), nhưng cũng rất may mắn, vào năm 2005, nhà sưu tập Bành Lệnh, đã sưu tầm được một cuốn sách viết tay có nhan đề là Ký sự châu của Tiền Vịnh - học giả, nhà thư pháp nổi tiếng đời Thanh, người sống cùng thời với Thẩm Tam Bạch, trong đó đã tìm thấy có những đoạn ghi chép của Tiền Vịnh về Phù sinh lục ký, đặc biệt là thiên: Sách phong Lưu Cầu quốc ký lược,((1) Lưu Cầu: tức quần đảo Ryukyu, thuộc tỉnh Okinawa, cực nam của Nhật Bản ngày nay.) đã được rất nhiều học giả nhận định là sao lục từ quyển thứ 5 - Trải Trung Sơn (hay còn gọi Hải quốc ký) của Thẩm Tam Bạch. Tuy những phần Tiền Vịnh sao lục chưa đầy đủ quyển kỷ thứ 5 - Trải Trung Sơn - đã thất truyền của Thẩm Tam Bạch, nhưng cũng cho chúng ta thấy phần nào trong nguyên tác của ông. Kể từ lần đầu tiên ấn hành cho đến nay, Phù sinh lục ký đã được xuất hơn 120 lần ở Trung Quốc. Quyển 2 – Thú nhàn tình của tác phẩm còn được trích một đoạn dùng trong sách Ngữ văn cho học sinh phổ thông Trung Quốc như là một khuôn mẫu về cổ văn. Đồng thời, tác phẩm được dịch ra nhiều ngôn ngữ như: Anh, Đức, Pháp, Đan Mạch, Thụy Điển, Nhật Bản, Mã Lai... và ở nhiều nước khác. Tuy nhiên cho đến nay, tác phẩm vẫn chưa từng được dịch và giới thiệu một cách đầy đủ ở Việt Nam. Trong lần xuất bản đầu tiên này, chúng tôi lựa chọn cách giới thiệu tác phẩm tới các bạn độc giả như là một “Túc bản” với phần chính đầy đủ sáu quyển ký, để độc giả có thể hình dung được diện mạo chung của tác phẩm, dẫu rằng hai quyển sau được cho là ngụy tác. Ngoài ra, chúng tôi có dịch bổ sung thiên Sách phong Lưu Cầu quốc ký lược từ Ký sự châu của Tiền Vịnh, cùng một số lời tựa, lời đề bạt của sách trong phần Phụ lục để độc giả tiện tham khảo. Văn chương Phù sinh lục ký cô đọng, súc tích, giàu chất thơ, dịch giả tuy đã cố gắng, nhưng cũng chưa thể truyền đạt hết được cái hay cái đẹp của tác phẩm, rất mong các bậc cao minh bác nhà lượng tình cảm thông (chỉ giáo giúp thêm ý kiến để tác phẩm có thể hoàn thiện hơn nữa. Tháng đầu thu, Mậu Tuất, 2018 Dịch giả *** Về tác giả Thẩm Phục tự Tam Bạch hiệu Mai Dật, xuất thân trong một gia đình sĩ tộc ở Tô Châu. Theo như tự thuật trong tác phẩm, ông sinh năm 1763, không rõ năm mất. Có thể nói, Phù sinh lục ký là một bông hoa lạ trong khu vườn văn học Trung Quốc. Tác giả là một người có tình cảm phong phú, tính cách hào sảng, tài hoa dồi dào, có thể gây lên một tình điệu cao nhã, và phát hiện ra những điều thú vị độc đáo ngay từ cuộc sống bình thường. Cho nên, tuy phải sống trong cảnh nghèo khó, trải qua nhiều nỗi trắc trở, ông vẫn có một tâm thái lạc quan trước cuộc đời, khiến cho cuộc sống bình thường trở nên tràn đầy xúc cảm nghệ thuật. Trên một bình diện nào đó, cuốn sách đã trở thành kim chỉ nam cho việc phẩm vị hóa cuộc sống cũng như nhã thú của văn nhân.     Mời các bạn đón đọc Phù Sinh Lục Ký của tác giả Thẩm Phục.
Cơn Lốc Núi
Xuân Nguyên (1931-2006) là một cái tên quen thuộc đối với người dân Yên Bái. Ông là một trong số những hội viên đầu tiên tham gia sáng lập Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Yên Bái. Cuộc đời Xuân Nguyên gắn bó với sự hình thành, phát triển của báo chí và văn nghệ Cách mạng ở tỉnh miền núi, biên giới Lao Cai qua hai chặng đường chống Pháp và chống Mỹ gian khổ, ác liệt, sau đó là tỉnh Hoàng Liên Sơn – Yên Bái. Ông đã sớm có tác phẩm được đăng trên báo Văn nghệ - một tờ báo có uy tín lúc bấy giờ với hai truyện ngắn viết về đồng bào các dân tộc năm 1968 – 1969 là: Hai ông già chăn dê và Mùa hoa Đi-O-Khang. Hầu hết các tác phẩm của Xuân Nguyên đều viết về đồng bào các dân tộc ở miền núi Lào Cai – Yên Bái như tập truyện ngắn Hoa đào tháng chín (1975), Người mẹ suối Lũng Pô (1980), Đêm mưa giông (1983), tiểu thuyết Cơn mưa giông (1995), Hạnh phúc chẳng ngọt ngào (2007). Ông là người từng trải, giàu vốn sống, am hiểu phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc Tây Bắc, ông luôn có ý thức học hỏi ngôn ngữ các dân tộc, nhất là dân tộc Mông. Vì vậy, văn phong của ông gần gũi, giản dị, có sự kết hợp hài hòa giữa lối nói của người Kinh và lời ăn tiếng nói của các dân tộc vùng cao một cách nhuần nhuyễn. Điều này thể hiện ở trong các truyện ngắn như Giàng Tủa, Chiếc vòng bạc... Nhiều truyện của Xuân Nguyên thường là sự đan cài giữa quá khứ và hiện tại làm nổi lên hình ảnh cuộc sống tối tăm, cơ cực của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao dưới chế độ cũ, quá trình vùng lên chiến đấu của đồng bào dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc đấu tranh gian khổ không kém phần quyết liệt để từ bỏ những hủ tục, tập quán lạc hậu do chế độ cũ để lại, trong các tác phẩm Rừng ma, Hoa đào tháng chín... Đặc biệt, tiểu thuyết Cơn lốc núi đề cập đến nội dung tiễu phỉ, một vấn đề nhạy cảm, hấp dẫn nhưng cũng không hề dễ viết. ***  Lại đến phiên chợ. Hồ Thầu rộn rịch tiếng vó ngựa từ lúc gà gáy. Còn tối đất, tiếng nhạc ngựa đã rung loong coong trên đường mòn.          Sau một đêm thao thức chờ trời sáng, lúc này Vàng Khúa Ly đã trở dậy. Cô ra máng nước ở đầu bếp vã nước rửa mặt. Nước lạnh làm tan hẳn cơn ngái ngủ. Cô rút chiếc khăn chàm còn mới treo trên cái móc bằng mắt tre vấn lên đầu. Sau đó Khua Ly lấy chiếc áo xáo-khỏa và cái quần mới đã gói từ đêm trước để sẵn ở đầu giường bỏ vào mã làn cùng với những thứ hàng mang đi chợ bán.          - Bắt con gà mái vàng béo nhất mang đi mà đổi muối. - Tiếng mẹ cô từ trong buồng nói vọng ra.          - Vâng. - Vàng Khúa Ly đáp.          - Nhớ mà về sớm. Dạo này lính Phăng Ky[1]hay ra chợ cướp gà và trêu con gái đấy ! Bọn con trai các bản cũng hay đi “cướp vợ”, nhớ rủ bạn đi cho đông... Đừng nhẹ dạ tin người buôn ở chợ.          Khúa Ly sửa soạn đi chợ trong tiếng dặn ân cần của mẹ.          Con ngựa buộc ở hiên nhà nghe tiếng hí của những con ngựa đi qua cửa cũng gõ móng cong cóc lên các tảng đá lát chuồng. Ngựa vẫn nhai ngô rau ráu, thỉnh thoảng lại thở phì phì trước cơn gió lạnh.          Vàng Khúa Ly vác cái thồ đã buộc mã làn kềnh càng đặt lên lưng ngựa. Có tiếng gọi :          - Khúa Ly, đi chợ thôi !          - Chị Seo Mỷ đấy à, em đi đây.          Khúa Ly chào mẹ rồi cởi sợi dây thừng bằng móc dắt ngựa ra sân. Cô nhẹ nhàng nhảy lên ngồi giữa hai cái mã làn, hai chân vắt về một bên, rồi giật cương cho ngựa chạy xuống đường.          Con ngựa đã chồn vó suốt đêm, giờ đây mặc sức nện vó trên nền đường đá. Chùm nhạc rung reng theo tiếng vó ngựa.          Trời còn tối mò nhưng Khúa Ly đã nhận ra Seo Mỷ đúng đợi ở giữa đường qua tiếng thở phì phì của con ngựa. Hai con ngựa hí dài chào nhau.          - Đi có sớm quá không ?          - Không sớm đâu. Đến chợ thì ông mặt trời cũng lên quá đỉnh Ngũ Chỉ Sơn rồi. - Seo Mỷ trả lời Khúa Ly.          - Em mới đi chợ lần đầu nên sợ lắm.          - Khúa Ly nói dối chị rồi, có lần chị đã gặp Khúa Ly ở chợ đấy.          - Lần ấy em đi theo bố mẹ. Lần này bố mẹ bảo con gái lớn rồi phải đi chợ một mình cho biết mua bán, cho con trai các bản xem mặt. - Khúa Ly bỗng thấy mặt nóng bừng, may mà trời còn tối nên Seo Mỷ không thấy.         Tiếng vó ngựa nện trên đường núi đá giòn tan xen vào trong câu chuyện của hai cô. Họ say sưa ngắm cảnh bình minh đang đến.         Thoạt đầu bầu trời đằng đông chuyển từ màu đen sang màu xanh nhạt. Rồi trên cái nền xanh cẩm thạch ấy lấp lánh những vẩy mây màu sáng bạc. Phút chốc các vẩy mây màu sáng bạc được ánh bình minh dát vàng rực rỡ. Sau cùng là màu hồng phơn phớt rồi đỏ hồng như mặt người say rượu. Gió núi lành lạnh đưa những tảng mây trắng xốp trôi bồng bềnh trên các đỉnh núi nhọn hoắt.         Con đường xuyên qua những đám nương, ruộng bậc thang trồng toàn anh túc. Anh túc đang độ trổ hoa trông như một tấm vải trắng mênh mông trùm khắp các sườn núi. Những bông hoa anh túc ở ven bờ quệt vào cái mã làn đung đưa, nghiêng ngả.         - Năm nay anh túc lại được mùa. Từ nay đến hết tháng không gặp mưa đá thì nhựa anh túc mùa này để đâu cho hết. - Seo Mỷ nói với Khúa Ly.         Khúa Ly bổng buông tiếng thở dài :         - Cứ nghĩ đến nhựa anh túc em lại lo đến héo cả ruột.         - Sao thế ?         - Lý trưởng Giàng Páo bắt bố em năm nay nộp hai mươi nén nhựa anh túc đủ mười tuổi[2].         - Sao nhiều thế ?         - Nó bảo “Phăng Ky” năm nay lấy nhiều để đưa sang Tầu. Chẳng biết ông trời có cho thu không ?         - Ông trời có cho thu thì đám ruộng ấy cũng không đủ hai mươi nén nhựa kể cả tốt lẫn xấu, chứ đừng nói đến hai mươi nén nhựa toàn loại mười tuổi. Nó cũng là người Mông sao nó không thương người Mông ta nhỉ ?         - Bố em nói, con hổ ở đâu cũng muốn ăn thịt lợn, quan ở đâu cũng muốn ăn của dân. Nó còn muốn cướp cả ruộng trồng anh túc của nhà em đấy.         - Ruộng nương nhà Giàng Páo thiếu gì. Năm nào cũng bắt dân đi làm ruộng nương không công cho nhà nó còn chưa đủ hay sao ?         - Nó bảo ruộng nhà em ở giữa ruộng nhà nó. Bao nhiêu phân bón của nó trôi cả vào ruộng nhà em. Vì thế nó đang bắt bố em đổi đám ruộng ấy lấy đám ruộng ven rừng đá của nó.         - Bố Khúa Ly trả lời ra sao ?         - Bố em không chịu. Giàng Páo cho Giàng Seo Tính đến nói xa nói gần rằng : Là tôi muốn lợi cho ông nên nói mãi quan mới bằng lòng. Ông còn tiếc gì cái cảnh “chung ngựa với nhà quan”, phần thiệt bao giờ chẳng đến mình.            - Giàng Seo Tính là người “nhà trong” của Giàng Páo, nó là em họ của Giàng Páo. Nó vừa là con chó săn vừa là cái đầu của Giàng Páo đấy !            - Bố em cũng biết vậy, nhưng đổi lấy đám ruộng ven rừng đá thì sống làm sao được. Ruộng ấy không trồng được anh túc.            - Cả hai con đường đều cụt cả - Seo Mỷ cất tiếng thở dài thông cảm với Khúa Ly.            Hai người đã đến khu rừng già. Những thân cây cao lớn vươn những cành sần sùi đủ các loài tầm gửi và phong lan buông rủ. Hương phong lan phảng phất ngầy ngậy. Các loài chim rừng ríu rít chào ánh sáng ban mai. Píu ! Píu ! Píu !... tiếng hót của bày họa mi bỗng vút lên lảnh lót, vượt lên hàng trăm thứ âm thanh của thế giới động vật có cánh. Một bầy chim “hoàng tử” dáng thanh mảnh, mang bộ lông đủ năm màu lướt nhẹ nhàng như những con thoi chuyền từ cây này sang cây khác.            - Khúa Ly xem kìa, các “hoàng tử” cũng bắt đầu đi dự hội rồi đấy. - Seo Mỷ chỉ vào bầy chim “hoàng tử” nói đùa với Khúa Ly - Không biết con chim nào sẽ được chọn là “công chúa” nhỉ ?            - Em chịu.            - Nếu chị là những con chim “hoàng tử” thì chị sẽ chọn Khúa Ly làm chim “công chúa” đấy. - Seo Mỷ nói rồi cất tiếng cười giòn.          - Chị Seo Mỷ lại trêu em rồi ! - Khúa Ly thấy mặt nóng ran.          Vượt qua rừng già họ đi vào khu rùng sa mu xanh thắm. Những cây sa mu già trên trăm tuổi thẳng vút, trầm tĩnh tấu bản nhạc đều đều vô tận. Lẫn trong tiếng vi vút của ngàn sa mu là tiếng khèn của những chàng trai Mông đi chợ.        ... Vườn có hoa, ong mới về đậu,[3]            Vì có em, anh mới đến đây.            Nơi có hoa, ong mới về kêu            Thấy bóng em, anh mới về hát            ……             Núi cao sinh cây gì ?             Núi cao sinh cây sa mu.             Đồi thấp sinh cây trúc             Anh với em như sa mu với trúc             Em đi khởi lòng anh nhớ khôn nguôi...          Tiếng khèn lúc trầm trầm thủ thỉ, lúc vút lên như tiếng họa mi trong rặng sa mu. Tiếng khèn cứ như quấn quít lấy vó ngựa của Khúa Ly và Seo Mỷ :          ... Cô em hỡi,             Hoa gì nở thắm tươi ?             Hoa đào mùa xuân nỏ thắm tươi             Em có lòng yêu anh,             Xin hẹn chợ này ta gặp nhau một buổi.             Hoa gì nở chi chít ?             Hoa đào mùa xuân nở chi chít             Em có lòng mến anh,             Xin hẹn chợ này ta gặp nhau một ngày...         Không bảo nhau nhưng cả Khúa Ly và Seo Mỷ cùng sửa lại hai vạt áo xáo-khoả che kín bộ ngực. Khúa Ly cất tiếng hỏi Seo Mỷ :         - Anh Sùng Sử có đi chợ không ?         - Có, nhưng đi sau. Còn bắt con lợn mang đi chợ.         - Tưởng mùa này anh chị cưới nhau.         Seo Mỷ buông tiếng thở dài :         - Ông chú không chịu.         - Ông Hảng A Dềnh ấy à ? Sao ông ấy lại không chịu ?         - Ông ấy bảo con ngựa đắt tiền mới là con ngựa quý. Vì thế ông khăng khăng đòi lấy đủ một trăm đồng bạc trắng. Lợn, rượu thì Sùng Sử còn lo được, chứ bạc trắng thì lấy đâu ra. Mấy lần chị nói xin giảm cho Sùng Sử đều bị ông mắng lấn đi : “Mày đừng như con ngựa động đực, vừa thấy hơi ngựa đực đã cong đuôi chạy theo. Thằng Sùng Sử không đủ bạc trắng thì khối đứa có đủ. Chừng nào tao còn sống thì tao còn làm đúng lời bố mày dặn trước khi nhắm mắt”. Có lúc thương Sùng Sử quá chị đã bảo Sùng Sử rủ bạn “cướp”[4] chị chạy đi thật xa, nhưng Sùng Sử không chịu : “Làm thế còn mặt mũi nào nhìn dân bản, thà chịu phận nghèo, cô đơn còn hơn là mang tiếng xấu”.           - Ôi, cuộc đời sao lắm nỗi éo le ? - Khúa Ly chép miệng thở dài.           Câu chuyện của họ đến đây ngắt quãng. Trước mắt hai cô cái đồn “Phăng Ky” đã hiện ra rõ mồn một với những bức tường đá xám xịt bao quanh. Ngay dưới chân đồn, trên con đường dẫn vào chợ một đám vợ lính đứng đón đường mua hàng của những người đi chợ.           - Tả cố mải lá dảng ?[5]           - Mày bán cho tao đi.           - Kỷ tố sền ?[6]           - Tao có tiền trắng, mày bán đi, hay muốn đổi muối, diêm, thuốc lào ? Thứ nào tao cũng có tất, cứ mang vào đây. Mời các bạn đón đọc Cơn Lốc Núi của tác giả Xuân Nguyên.
Thư Ký Kim Sao Thế?
Sở hữu ngoại hình xuất chúng và bộ óc siêu việt, người đàn ông đứng trên đỉnh cao nhất của thế gian song mắc bệnh “tự luyến” nặng – Lee Young Joon, phó chủ tịch tập đoàn Yoo Il. Chín năm làm thư ký kiêm lái xe riêng và bạn dự tiệc, tài sắc vẹn toàn, luôn tươi cười rạng rỡ – Kim Mi So, thư ký của phó chủ tịch Lee Young Joon. Cặp đôi hoàn hảo với khả năng tương tác kết hợp còn hơn cả vợ chồng bỗng một ngày vấp phải vấn đề nghiêm trọng: Thư ký Kim xin thôi việc! “Thiên hạ đệ nhất” Lee Young Joon sẽ phản ứng như thế nào? Mối quan hệ của họ từ lúc này sẽ thay đổi ra sao? Mời các bạn đón đọc Thư Ký Kim Sao Thế? của tác giả Jeong Gyeong Jun.
Sống Nhờ
Nhân vật chính trong tự truyện Sống nhờ (1942) là Dần gọi thế bởi cậu sinh vào giờ Dần. Dần sống ở nông thôn, một làng quê tỉnh Hải Dương; mồ côi cha từ lúc chưa sinh, lên sáu tuổi mẹ đi lấy chồng. từ ấy, Dần sống với bà nội và với các cô chú bên nội: rồi lại chuyển sang bên ngoại, với ông bà và các cậu, dì. Một thế giới họ hàng gồm cả hai bên nội ngoại thật là đông đúc, nhưng Dẫn vẫn rất thiếu tình thương. Chỉ vài ba tình cảm hiếm hoi của một người cô, một người mợ và hai phía ông – bà không thể làm ấm lên được bao nhiêu bầu không khí lạnh lẽo bao lấy một đứa trẻ mồ côi. Giữa những mắng mỏ, hắt hủi, đánh đạp. Dần chỉ còn tìm được nguồn an ủi và chỗ dựa là bà nội – người cho đến tuổi già còm cõi, gần đất xa trời vẫn còn góp nhặt từng đồng cho Dần đi học, và cố đỡ vực cho một đại gia đình trong suy sụp vì những đứa con phá tán cơ nghiệp bởi cờ bạc và rượu chè. “Sống nhờ” trong thế giới người thân, bị đun đẩy qua lại giữa hai bên nội ngoại, Dần từ nhỏ đã quen cảnh sống vất vưởng, lang thang. Lớn lên một chút, Dẫn cũng được đi học, cả chữ Nho và chữ Quốc ngữ, trước là ở trong làng, sau được gửi lên tỉnh. Nhưng thói quen lêu lổng và nỗi nhớ nhà khiến Dần chẳng thể nào chí thú trong việc kiếm chữ. Sao nhãng việc học, Dần tìm đến những đam mê của một tuổi trẻ cô đơn, buồn tẻ. Và, đến lúc mấp mé tuổi lớn, trong cảnh sa sút của gia đình và bao người thân lần lượt ra đi, Dần mới chợt giật mình thấy phải nuôi dần cái chí tự lập để thoát ra khỏi thân phận “sống nhờ”. Trên mạch hồi ức của đứa trẻ từ tuổi lên sáu xa mẹ đến tuổi mười lăm chuẩn bị bước vào đời, luôn luôn in bóng hình ảnh người mẹ trong quyến luyến và cách xa. Trên mạch hồi ức của đứa trẻ từ tuổi lên sáu xa mẹ đến tuổi mười lăm chuẩn bị bước vào đời, luôn luôn in bóng hình ảnh người mẹ trong quyến luyến và cách xa. Đọc Sống nhờ để hiểu một tuổi thơ xót xa buồn khổ trong xã hội cũ. Xót xa không phải chỉ do tình cảnh mồ côi cha và mẹ đi lấy chồng. Mà vì cả một bối cảnh xã hội, do sự mưu sinh vất vả và sự mờ mịt của tương lai mà rất vắng thiếu tình yêu. Và để thấy, việc thay đổi trạng huống bơ vơ, buồn khổ, để cho mọi tuổi thơ được sống đầm ấm, êm vui dẫu có Cách mạng tháng Tám vĩ đại, vẫn không dễ chút nào. Đọc Sống nhờ, để thương cảm và chia sẻ với biết bao tuổi thơ bất hạnh; và để mong mỏi cho mỗi tuổi thơ như thế có được một chỗ dựa, một ý chí vươn lên tự lập mà thoát ra khỏi cảnh “sống nhờ”, dưới bất cứ hình thức nào. Cuốn sách là kết đọng mười năm tuổi thơ của một người giàu nhận xét, giàu xúc cảm – nhà văn Mạnh Phú Tư. Phải đọc vào truyện, phải soi vào mỗi trang chữ mới sống hết được các cảnh đời, mới cảm nhận được hết cái dư vị chua xót nhưng cũng đầy chất thơ trong một hồi tưởng và hình dùng, theo tôi nghĩ, khó ai đạt được sự sắc nét và thiết tha đến thế. Sống nhờ, dẫu trong dạng tự truyện xen hồi ức, nhưng Mạnh Phú Tư vẫn rất biệt tài trong tạo dựng các cảnh đời và khắc họa các chân dung – từ những ông chú, bà cô, ông cậu, bà mợ và hai phía ông bà nội ngoại trong gia đình Dần, đến những ông thầy: thầy lang, thầy phù thủy, thầy đồ Nho đồ Tây, rồi các loại bạn bè từ bé đến lớn của Dần, trong đó có đến ba cô… người yêu, đều chưa vượt tuổi vị thành niên. Có thể nói, Mạnh Phú Tư đã giúp cho người đọc hiểu, không kém Ngô Tất Tố, Nam Cao về đời sống làng quê Việt Nam xưa, trong cả bề mặt và bề sâu các vấn đề xã hội, phong tục và tâm lý dường như nghìn năm không đổi của nó. Đọc Sống nhờ từ tuổi bé, rồi nhiều lần đọc lại Sống nhờ qua các lứa tuổi, niềm hứng thú trong tôi gần như không giảm. Có thể nói đó là một trong số ít cuốn sách tiêu biểu và sáng giá của văn học hiện thực Việt Nam trước 1945. Cuốn sách viết về tuổi thơ, nhưng là để cho tất cả mọi lứa tuổi, tất cả những ai đã qua tuổi thơ cùng đọc. Giáo sư Phong Lê ***   Mạnh Phú Tư (1913-1959), tên thật là Phạm Văn Thứ, cùng chi với chi của tuyển thủ bóng đá nam quốc gia Phạm Như Thuần, quê ở xã Thanh Lang, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. Ông là một tác giả văn xuôi nổi tiếng trước năm 1945, trong đó tác phẩm tiêu biểu là tiểu thuyết "Làm lẽ" được giải thưởng của Tự lực văn đoàn năm 1939. Sau Cách mạng tháng Tám, ông giữ chức Phó chủ tịch Uỷ ban hành chính huyện Thanh Hà. Ông tiếp tục viết văn, làm báo. Năm 1959, ông mất ở Hà Nội khi đang làm biên tập viên báo "Văn học". Tác phẩm chính: Làm lẽ (1939), Gây dựng (1941), Nhạt tình (1942), Sống nhờ (1942), Một thiếu niên (1942), Người vợ già (1942), ... *** Tôi sinh vào giờ Dần. Bà tôi lấy ngay cái giờ đó để đặt tên cho tôi. Người bảo như thế cho tiện về sau, khi nào muốn lấy số tử vi hoặc có ốm đau xem bói cũng dễ nhớ giờ. Vừa mới lọt lòng mẹ, tôi đã là đứa trẻ mồ côi. Mẹ tôi có thai tôi được ngoài năm tháng thì cha tôi chết. Mẹ tôi nuôi tôi tới năm lên sáu, bỏ tôi lại rồi đi lấy chồng. Năm đó mẹ tôi chừng hai mươi ba tuổi. Cha tôi và mẹ tôi khi mới lấy nhau hãy còn như hai đứa trẻ: Chồng mười bẩy, vợ mười lăm. Những cặp vợ chồng trẻ như thế, hiện nay ở vùng tôi cũng hãy còn có rất nhiều. Thường thường gia đình nào cũng vậy, chỉ mong cưới được nàng dâu về để cho trong nhà được thêm đông đúc và có người giúp đỡ các công việc. Bà tôi cũng có cái ý nghĩ đó, nên đều lấy vợ sớm cho các con. Vả lại, nuôi con mà chưa gây dựng cho trai có vợ, gái có chồng thì vẫn chưa là đủ; bởi thế, khi thấy người đã bắt đầu già yếu, bà tôi chỉ nghĩ tới sự kiếm đủ vợ cho các con. Ngày mẹ tôi sa vào cảnh góa bụa, là ngày bà tôi bắt đầu hắt hủi mẹ tôi. Hình như bà tôi đã hiểu rằng một người đàn bà góa chồng vào cái tuổi mười bẩy, mười tám thì khó lòng ở vậy được. Lòng hắt hủi đã khiến bà tôi coi mẹ tôi như một người ngoài và chỉ còn nghĩ tới tôi, giọt máu đầu tiên và cũng là giọt máu cuối cùng của người con giai mà bà tôi thường khen là khấm khớ. Cả đến các chú, các thím tôi cũng tỏ vẻ ghét bỏ mẹ tôi. Bà tôi dành riêng cho hai mẹ con tôi một gian buồng bên cạnh buồng bà tôi. Mẹ tôi vẫn phải ăn chung và làm chung với các chú tôi. Trong khi mẹ tôi phải đi cuốc hoặc đi cấy ngoài đồng, ở nhà, một mình tôi tha thẩn góc sân, xó vườn để nghịch đất, đào giun. Chiều chiều, cứ khi nào gà đã lên chuồng, các công việc đã thu dọn xong cả, mẹ tôi lại dẫn tôi ra cầu ao rửa mặt và chân tay cho tôi. Mẹ tôi rủ rỉ hỏi tôi: - ở nhà, con có ăn no không? - Con ăn ba bát, chan với canh. Mẹ tôi bế tôi từ cầu ao về nhà để khỏi lấm chân. Mẹ tôi lại mắng yêu tôi: - Sao u dặn con ở nhà không được nghịch đất mà hôm nào chân tay cũng bẩn thỉu thế? Chẳng bao giờ tôi trả lời câu hỏi đó. Tôi chỉ đưa tay ôm chặt lấy cổ mẹ tôi. Đêm tới, mẹ tôi đưa tôi đi ngủ. Bao giờ mẹ tôi cũng duỗi thẳng một tay, đặt đầu tôi lên và một tay nhè nhẹ vỗ trên mông đít tôi. Tôi nằm nghiêng về một bên, đặt một tay lên ngực mẹ tôi. Có hôm tôi ngủ được ngay. Có hôm tôi trằn trọc mãi không ngủ được. Những hôm đó, tôi thấy bà tôi dịu dàng gióng một, nói với sang giường mẹ tôi: - Gái hóa cũng vạn người người ta ở vậy nuôi con đấy. Có gan một tý là được. Cái hạng người mà chưa chôn xong chồng đã tấp tểnh đi lấy chồng, chẳng trời nào chứng cho đâu. Tiếng nói của bà tôi cứ nhỏ nhỏ dần rồi bà tôi ngáy đều đều. Rồi chợt, bà tôi lại tỉnh giấc, chẳng hiểu là mẹ tôi còn thức không, nhưng cứ tiếp lời: - Những lúc đi đây đi đó, phải có ý có tứ mà giữ gìn. ăn uống cái gì của ai cho phải cẩn thận. Nhỡ mà nó bỏ thuốc thì rồi lại mẹ một nơi con một nẻo sớm... Không biết mẹ tôi có nghe những nhời đó chăng, nhưng hôm nay bà tôi nói những câu tương tự như thế tôi lại thấy mẹ tôi luôn luôn thở dài. Cái hơi thở làm nóng cả cổ và mặt tôi. Tôi không hiểu gì, tôi chỉ thấy trong người hơi sờ sợ. Những lúc đó, tôi nằm im thin thít, không dám cử động và nín cả thở. Cứ sau một hơi thở dài của mẹ tôi một lúc tôi lại ôm ghì lấy mẹ tôi. Có một buổi tối về mùa đông, hai mẹ con nằm trên chiếc giường rải rơm, và đắp trên người hai chiếc chiếu cói. Tôi vẫn nằm kê đầu lên tay mẹ tôi. Trời lạnh quá thành khó ngủ. Mẹ tôi thỉnh thoảng đùa cù tôi trên cạnh sườn. Tôi bật cười, giãy giụa. Hai chiếc chiếu cọ nhau sột soạt. Bà tôi cất tiếng hỏi: - Cái gì thế? Tôi sợ quá nín hẳn cười. Yên lặng. Bà tôi lại gắt: - Cái gì mà rả rích thế? Mẹ tôi vừa giở mình vừa đáp lại: - Có gì đâu. - Có tiếng ai cười đùa mà lại bảo có gì đâu. Nghe bà tôi nói vậy, tôi quay đầu nhìn ra. Một cái bóng đen lờ mờ từ phía bên kia thong thả tiến lại gần phía giường mẹ tôi. Thỉnh thoảng cái bóng đó lại khuất hẳn sau một cây cột rồi lại hiện ra. Tôi không hiểu là cái gì và nhớ tới những chuyện ma quỷ tôi sợ đến run cả chân tay. Mẹ tôi tưởng tôi rét quá kéo chiếc chiếu phủ kín cho tôi. Cái bóng ấy lại gần hẳn cạnh giường hai mẹ con tôi. Tôi kêu rú lên. Mẹ tôi hỏi: - Sao thế con? Lúc đó bà tôi mới lên tiếng: - Có ai thế? Mẹ tôi hơi sẵng tiếng: - Thằng Dần đấy chứ ạ! Bà tôi sờ soạng khắp cả giường: - Ai đây? Gái hóa: phụ nữ có chồng chết. - Con đấy mà. Bà tôi sờ tới tôi. Tôi sợ quá không dám cựa mình. - Ai đây? Mẹ tôi vội đáp hộ tôi: - Cháu đấy mà. Bà tôi lại quờ quạng khắp giường một lượt nữa rồi quay đi. Tôi lại nhìn thấy cái bóng ghê sợ lúc trước, ẩn hiện ngay giữa nhà và cứ xa xa dần mãi. Tôi không dám nhìn theo nữa. Khi tôi đã nghe thấy tiếng những nan ở giường bên kia sột soạt kêu, bà tôi lên tiếng nói: - ấy, có thân thì giữ... ở giường bên này, lúc đó tôi mới dám bắt đầu thở đều. Mẹ tôi sụt sịt khóc, nước mắt ướt đầm cái cánh tay tôi gối. Tôi không hiểu tại sao. Thấy mẹ khóc, tôi cũng đem lòng thương, tôi ôm chặt lấy cổ mẹ tôi. Và từ cái buổi tối ấy, tôi thấy sờ sợ bà tôi. Nhất là khi bà tôi đi đâu về hãy còn ở đàng xa mà thân hình chưa rõ, chỉ mới như một cái bóng cử động. Mẹ tôi đi lấy chồng giữa năm tôi lên sáu. Ngay từ khi mẹ tôi còn ở với bà nội tôi, cũng đã có người mối manh nói với bà ngoại tôi xin lấy mẹ tôi. Bà ngoại tôi phân vân mãi rồi sau hết nói lại riêng với mẹ tôi, cố tìm cách giấu hết mọi người bên họ nội. Sau đó người ta cứ hỏi tin tức mãi và cách ít lâu người mối lại ngỏ lời xin ăn hỏi. Bà ngoại tôi nhận nhời. Nhưng trước khi nhận lễ bà ngoại tôi cũng có nói lại công việc gả chồng cho mẹ tôi để bà nội tôi được biết. Cái hy vọng giữ được một người nàng dâu ở vậy nuôi đứa cháu giai bị tiêu tán. Không bao giờ bằng lúc này bà nội tôi đem lòng thù ghét bà ngoại tôi: - Tôi không thấy ai lại như bà. Con gái đầu lại gả chồng hai lần. Giá có lấy mười con gái mà gả chồng như bà thì rồi tha hồ mà nhà ngói cây mít. Mời các bạn đón đọc Sống Nhờ của tác giả Mạnh Phú Tư.