Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuộc Đời Chìm Nổi của Thuyền Trưởng Blood

Cuộc đời ba chìm bảy nổi với nhiều bi kịch éo le của Peter Blood trên sóng nước Đại Tây Dương thế kỷ 17 đã được Rafael Sabatini (1875 – 1950) kể lại trong nhiều thiên truyện hấp dẫn. Một trong số những thiên truyện ấy là bộ tiểu thuyết lịch sử có tính phiêu lưu mà các bạn có trong tay.  Từ một thầy thuốc trị bệnh cứu người, số phận suýt đưa chàng lên giá treo cổ, sau đó lại đẩy chàng sang Barbados làm nô lệ, rồi buộc chàng làm cướp biển trái với ý muốn. Tuy vậy, chàng vẫn tâm niệm diệt trừ cái ác. Điểm tựa nhân ái trong lòng chàng là mối tình éo le với Arabella Bishop, cháu gái kẻ tử thù của nàng…  *** Nói đến R.Sabatini, người ta thường coi ông là chàng hiệp sĩ cuối cùng của thể loại tiểu thuyết "áo choàng và thanh kiếm". Lựa chọn cho mình làm đề tài sáng tác duy nhất một thể loại văn học đã đến buổi hoàng hôn, Sabatini hầu như bị che khuất bởi ánh hào quang của các bậc tiền bối như Dumas, Scott. Ngày nay có lẽ ít ai ngờ nổi ông là một trong những tác giả nổi tiếng và được hâm mộ nhất khi còn sinh thời, và những cuộc phiêu lưu do ngòi bút của ông viết ra không chỉ làm say mê bạn đọc mà còn gây cảm hứng rất lớn cho sự ra đời của hàng loạt phim điện ảnh về đề tài phiêu lưu cướp biển. Tên của Sabatini là một đảm bảo thành công về thương mại đến mức bất chấp nội dung khác hẳn, hai cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của ông "The Sea Hawk" và "The Black Swan" đã được đặt cho hai bộ phim khá nổi danh của Hollywood những năm 40. Ảnh hưởng của ông thậm chí còn kéo dài đến sau này, đến tận những năm 60. Tới mức khi bộ phim kiếm hiệp Pháp "Le capitan" được trình chiếu ở nước Anh, nhà phát hành đã công nhiên sửa tên phim thành "Captain Blood" để lôi khán giả đến rạp. Tuy thế, con đường đến với thành công của nhà văn mang trong mình hai dòng máu Italia và Anh này không hề dễ dàng. Ra đời năm 1875 tại Italy, con trai của hai ca sĩ opera, thậm chí hình như còn là con ngoài giá thú, số phận ngoài đời của ông cóp lẽ cũng là một lý do khiến sân khấu, các nghệ sĩ cũng như thân phận của những đứa con ngoài giá thú thường xuyên xuất hiện trong các câu chuyện của ông. Thời gian dài học trường nội trú ở Thụy Sĩ, những năm theo cha mẹ đến Bồ Đào Nha nơi hai người mở trường dạy thanh nhạc cuối cùng đã giúp Sabatini sử dụng thành thạo năm thứ tiếng và được tiếp xúc trực tiếp với con người, tập quán của nhiều nền văn hóa khác nhau. Nhưng ảnh hưởng sâu đậm nhất đến văn nghiệp của ông sau này có lẽ là thời gian sống cùng ông bà ngoại tại nước Anh. Có lẽ tình yêu từ tấm bé dành cho quê ngoại là một lý do khiến Sabatini tuyên bố "tất cả các câu chuyện hay nhất từ trước tới giờ đều viết bằng tiếng Anh" và chọn tiếng Anh làm ngôn ngữ sáng tác của mình. Năm 17 tuổi, cha của Rafael gửi chàng thanh niên tới nước Anh,nơi theo ông có nhiều cơ hội nhất để chàng trai lập nghiệp trong ngành thương mại. Thế nhưng Sabatini lại chọn nghề cầm bút. Bắt đầu từ những năm 90 của thế kỷ 19, Rafael bắt đầu thử sức mình, đầu tiên với nghề viết kịch - một thất bại hoàn toàn, sau đó ông chuyển sang viết truyện ngắn nhưng cũng chỉ thu được những thành công hạn chế. Bắt đầu từ năm 1902, năm Sabatini cho ra đời tiểu thuyết phiêu lưu đầu tiên của mình "Người tình của Yvonne", một cuốn sách chịu ảnh hưởng rất rõ của Dumas và tiểu thuyết Pháp, nhà văn dường như cuối cùng cũng đã tìm ra sở trường của mình. Ông sẽ tiếp tục trung thành với thể loại này tới cuối đời với tốc độ sáng tác đáng nể: hầu như một đầu sách mỗi năm trong thời kỳ sung sức. Thế nhưng những tiểu thuyết đầu tiên của Sabatini ra đời trong giai đoạn trước chiến tranh thế giới thứ nhất cũng chỉ thu hút được sự chú ý khá hạn chế của độc giả.  Có lẽ vào thời kỳ tốt đẹp (Belle époque - 1894-1913) ấy, tại các nước châu Âu, nước Anh hơn đâu hết, những tiểu thuyết thuộc địa pha lẫn màu sắc chinh phục "khai hóa văn minh" với những bí ẩn nửa thực nửa hư như của H.R.Haggard phù hợp với khẩu vị người đọc hơn. Cuộc tàn phá khủng khiếp 14 - 18 làm người phương Tây nhận ra một cách kinh hoàng mặt trái của khoa học kỹ thuật, và người ta tìm cách quên đi vết thương chiến tranh còn rỉ máu bằng cách quay lại với những thời quá khứ xa xưa mà lúc đó trở nên thơ mộng, lãng mạn hơn bao giờ hết. Trong hoàn cảnh đó, cuốn tiểu thuyết lấy bối cảnh cách mạng Tư sản Pháp "Scaramouche" (1921) trở thành một thành công quốc tế. Tên tuổi của Sabatini bắt đầu được biết đến rộng rãi, gần hai mươi năm sau khi ông bắt đầu cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình! Một năm sau, "Captain Blood" xuất hiện, được đón chào thậm chí còn nhiệt liệt hơn nữa. Chàng cướp biển kiêm thầy thuốc này đã được số phận lựa chọn để trở thành nhân vật được yêu thích nhất của Sabatini. Nói đến Sabatini bất cứ ai cũng nhớ ngay đến Blood, cũng như Doyle luôn đi liền với Sherlock Holmes vậy. Trong cơn nhiệt thành, một loạt tác phẩm trước đó của Sabatini cũng được tái bản lại, nhưng có lẽ chỉ có "The Sea Hawk", cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông về đề tài cướp biển được xuất bản lần đầu năm 1915 và chẳng được mấy ai để ý đến, là có được thành công ngang ngửa với "Captain Blood" và "Scaramouche".  Thậm chí với nhiều độc giả trung thành của ông, đây mới là tác phẩm "hay nhất" của Sabatini. Sau những trang giấy đến lượt màn bạc. Ngay từ thời kỳ phim câm, "The Sea Hawk" (1924) đã được đưa lên màn ảnh lớn. Nhưng thành công nhất trong số nhiều chuyển thể điện ảnh (với mức độ trung thành khá khác nhau so với nguyên tác) là bộ phim "Captain Blood" công chiếu năm 1935. Bộ phim đã lần đầu tiên đưa lên màn bạc bộ đôi Errol Flynn (Blood) và Olivia de Haviland (Arabela Bishop), một bộ đôi sau đó đã đi vào huyền thoại của Hollywood. Bên cạnh hàng chục tiểu thuyết phiêu lưu lấy bối cảnh lịch sử từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19 và địa điểm trải rộng khắp Tây Âu, Bắc Phi thậm chí cả châu Mỹ, Sabatini còn cho ra đời ba tập "Chuyện kể giải trí về những đêm lịch sử" kể lại những vụ án, những bí ẩn nổi tiếng trong lịch sử châu Âu. Bên cạnh những tập sách ít nhiều mang tính tiểu thuyết hóa này, hiển nhiên chịu nhiều ảnh hưởng từ "Những tội ác trứ danh" của Dumas, Sabatini còn là tác giả của một tập sách danh nhân " Những cuộc đời anh hùng", cùng hai cuốn tiểu sử "Cuộc đời của Cesare Borgia" và "Toquemada và Tôn giáo pháp đình Tây Ban Nha". *** Cử nhân y khoa Pitơ Blood vừa phì phèo tẩu thuốc vừa cúi xuống mấy chậu trúc quì đang đơm hoa trên bệ cửa phòng mình trông ra đường Oatơ ở thành Britgiơoatơ. Blood không nhận thấy những ánh mắt đầy vẻ chê trách đang dõi theo mình từ khung cửa sổ bên kia đường. Chàng mê mải chăm hoa và chỉ xao nhãng một chút khi dòng người lũ lượt tràn qua khu phố hẹp. Từ sáng đến giờ, dòng người ấy đã hai lần kéo qua những đường phố của thị trấn ra khu bãi trước lâu đài, nơi trước đó không lâu, Fơguxơn, cha tuyên uý của quận công, vừa đăng đàn thuyết giảng, nặng phần kêu gọi con chiên bạo loạn hơn là khuyên răn họ kính Chúa. Ðám người nhốn nháo ấy phần lớn là đàn ông, ai nấy đều giắt một nhánh cây tươi trên vành mũ và mang theo đủ thứ vũ khí linh tinh. Của đáng tội, cũng có vài người vác súng săn, số khác thậm chí còn có cả kiếm, nhưng nhiều người chỉ vũ trang bằng gậy gộc, còn phần lớn thì tha theo những cây lao to kệch, chữa lại từ những cái phảng hái cỏ, nom dữ tợn ra phết nhưng khó mà dùng để đánh nhau được. Trong đám quân ô hợp ấy có đủ cả: thợ dệt, thợ nấu bia, thợ mộc, thợ rèn, thợ đẽo đá, thợ nề, thợ giày và đại diện của những nghề nghiệp bình dị khác nữa. Thành Britgiơoatơ cũng như Taonơtơn, đã huy động hầu hết đàn ông của mình đi theo lá cờ của vị quận công con hoang. Ai còn cầm nổi vũ khí mà định lẩn tránh không tham gia cuộc dấy loạn, thì kể như người ấy đã tự mình đeo lấy tiếng là kẻ hèn nhát hoặc tín đồ Công giáo La Mã. Tuy vậy, Blood, một người chưa từng biết đến sự hèn nhát và cũng chỉ nhớ mình là người Công giáo La Mã lúc nào thấy cần mà thôi. Không chỉ cầm được vũ khí mà còn biết sử dụng nó rất thành thạo, nhưng trong buổi chiều tháng bảy ấm áp ấy chàng lại đang chăm chút mấy giò trúc quì và phì phèo tẩu thuốc với một vẻ phớt đời như thể xung quanh chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Ðã thế thỉnh thoảng chàng lại còn ném theo đám người hừng hực máu quyết chiến kia một câu thơ của Hôraxơ, nhà thơ mà chàng yêu thích: “Ði đâu, đi đâu, hỡi lũ người mất trí?”. Ðến đây chắc bạn đã bắt đầu đoán được tại sao Blood, một người mang trong mình dòng máu nhiệt tình, quả cảm của bà mẹ vốn xuất thân từ dòng họ những kẻ lang bạt hải hồ ở miền Xomơxetsiơ, mà lại có thể bình chân như vại giữa lúc cơn bạo loạn điên rồ đã lên đến cực điểm: tại sao cái tâm hồn đầy biến động, đã một lần vứt bỏ nghiệp đèn sách mà ông bố bắt ép kia, lại vẫn dửng dưng khi xung quanh đang nhộn nhạo lên như thế. Bây giờ thì bạn đã biết những người đang vội vã đi theo cái gọi là ngọn cờ tự do, sản phẩm thêu thùa của bàn tay các cô gái đồng trinh thành Taonơtơn và các cô môn đồ của tiểu thư Blâykơ và bà Maxgrôf trong các trường nội trú, được Blood liệt vào loại nào. Các cô gái hồn nhiên ấy đã xé đồ tơ lụa của mình, như trong các trường ca dân gian vẫn kể, để may lên những lá cờ cho quân đội của Mônmút. Câu thơ Hôraxơ mà Blood khinh bỉ ném theo đám người đang chạy trên phố đã tỏ rõ thái độ của chàng lúc ấy. Tất cả bọn họ dưới con mắt của Blood chỉ là một lũ ngu ngốc và điên rồ đang hối hả đi đón nhận cái chết dành cho mình. Số là Blood đã biết quá rõ về quận công Mônmút và mẹ y - một người đàn bà da ngăm ngăm xinh đẹp - nên chẳng thể tin được huyền thoại về sự hợp lẽ trong tham vọng của quận công đối với ngai vàng Anh quốc. Chàng đã đọc những bố cáo vô lý dán đầy rẫy ở Bitgiơoatơ, ở Taonơtơn và những nơi khác, rằng “.. khi đấng quân vương Sáclơ II của chúng ta băng hà, ngôi vua Anh quốc, Xcốtlen, Pháp và Ailen cùng tất cả các thuộc quốc và thuộc địa phải được truyền lại cho quận công xứ Mônmút là Giêmx vinh quang và cao quí, con trai và là người kế vị hợp pháp của đức tiên vương Saclơ II”. Bản bố cáo ấy đã làm chàng buồn cười, cũng như đoạn chua thêm ở dưới: “Quận công xứ Yooc là Giêmx đã ra lệnh đầu độc tiên vương và sau đó đã chiếm đoạt ngôi báu”. Thậm chí Blood không dám nói chắc trong hai tin ấy thì tin nào dối trá hơn. Một phần ba cuộc đời chàng đã sống ở Hà Lan, nơi trước đó ba mươi sáu năm gã Giêmx Mônmút bây giờ đang tự nhận rằng được đấng chí tôn lựa chọn làm vua Anh quốc, Xcôtlen vân vân và vân vân kia ra đời. Blood biết rõ cha mẹ thực sự của Mônmút. Quận công không những không phải là con trai hợp pháp của ông vua quá cố, là giọt máu của cuộc hôn nhân bí mật giữa ông ta với Liuxy Oantơx, mà chưa chắc đã là con ngoài giá thú của ông ta nữa kia. Những tham vọng ngông cuồng của y còn có thể đem lại cái gì khác ngoài bất hạnh và tàn phá? Làm sao có thể hy vọng rằng đất nước sẽ tin vào chuyện bịa đặt đó kia chứ? ấy thế mà một số nhân vật có thế lực của đảng Whig đã theo nhau dấy binh khởi loạn. - “Ði đâu, đi đâu, hỡi lũ người mất trí?” Blood giễu cợt thốt lên, nhưng liền ngay đó chàng lại thở dài. Như phần lớn những người biết suy nghĩ độc lập chàng không thể đồng tình với cuộc bạo động ấy. Biết suy nghĩ độc lập là do cuộc đời đã dạy chàng. Một người mềm lòng hơn, nếu có được những nhận thức và quan điểm của chàng, thì chắc chắn đã tìm thấy không ít lý do để đau lòng khi trông thấy đám đông những tín đồ Tin Lành cả tin và hăng máu đang lao đi như đàn cừu lao vào lò sát sinh kia. Họ được những bà mẹ, những người vợ, con cái, người tình tiễn đưa ra nơi tập trung - là khu bãi đằng trước lâu đài. Họ bước đi, lòng vững tin rằng vũ khí trong tay họ sẽ bảo vệ lẽ phải, tự do và đức tin. Cũng như tất cả mọi người ở Bitgiơoatơ, Blood đã biết rõ ý định của Mônmút sẽ mở trận đánh ngay trong đêm nay. Quận công sẽ thân chinh cầm đầu cuộc tập kích bất ngờ vào quân đội của nhà vua do Favơsem chỉ huy, đang hạ trại gần Xegiơmua. Blood hầu như tin chắc rằng lord Favơsem đã biết rõ ý đồ đối phương. Thậm chí cứ cho là dự đoán đó của Blood có sai lầm đi nữa thì chàng vẫn có đầy đủ cơ sở để tin chắc như vậy, bởi vì khó mà nghĩ rằng chủ tướng của quân sĩ triều đình lại không biết bổn phận của mình. Gõ tàn thuốc trong tẩu ra, Blood rời khỏi cửa sổ và định đóng cửa sổ lại, thì đúng lúc ấy chàng nhận thấy từ khuôn cửa sổ ngôi nhà bên kia đường những ánh mắt hằn học của chị em nhà Pit, những cô gái dễ thương đa sầu đa cảm, những người hâm mộ cuồng nhiệt nhất anh chàng Mônmút kẻng trai ở Bitgiơoatơ. Blood mỉm cười và gật đầu chào các cô gái mà chàng vẫn có quan hệ tốt, thậm chí có dạo chàng đã chữa bệnh cho một cô. Ðáp lại cử chỉ thân thiện của chàng là cái nhìn lạnh lùng và khinh thị. Nụ cười vụt tắt trên đôi môi mỏng của Blood, chàng đã hiểu ra nguyên nhân sự thù địch cứ ngày một lớn dần của chị em nhà bên ấy, từ lúc chàng Mônmút chuyên làm điên đầu những người đàn bà thuộc mọi lứa tuổi kia xuất hiện. Phải, chắc chắn chị em nhà Pit lên án thái độ của Blood. Họ cho rằng chàng trai khoẻ mạnh và dày dạn chiến trận này đáng ra có thể giúp ích cho sự nghiệp chính nghĩa, thế mà vào cái ngày quyết định như thế này, anh ta lại bàng quan đứng ngoài, bình thản hút tẩu và chăm hoa, khi tất cả mọi người đang náo nức đi theo vị hiệp sĩ bảo vệ nhà thờ Tin Lành, thậm chí sẵn sàng hiến dâng cho ngài cả cuộc đời mình, miễn sao ngài được ngự trên cái ngôi báu thuộc về ngài một cách hợp pháp ấy. Nếu có dịp thảo luận về vấn đề này với chị em nhà Pit, thì chàng sẽ bảo cho họ biết rằng sau khi đã lang bạt khắp gầm trời, đã trải qua nhiều cuộc phiêu lưu, bây giờ chàng muốn theo đuổi cái công việc mà chàng đã được học hành từ bé. Có thể chàng sẽ bảo họ rằng chàng là thầy thuốc chứ không phải chiến binh, là kẻ chữa cho người ta sống chứ không phải giết người ta chết. Tuy vậy, Blood đã biết trước họ sẽ trả lời chàng ra sao. Họ sẽ nói thẳng vào mặt chàng rằng, lúc này bất kỳ một người nào tự coi mình là đàn ông đều nhận thấy nghĩa vụ phải cầm vũ khí. Họ sẽ lấy cậu cháu Jêrêmy của họ - một thuỷ thủ, người cầm lái của một chiếc tàu buôn mà điều thật không may cho cậu ta là nó vừa bỏ neo ở vịnh Bitgiơoatơ - họ sẽ lấy Jêrêmy ra làm gương cho chàng. Họ sẽ bảo rằng Jêrêmy đã rời bỏ tay lái con tàu để cầm lấy khẩu súng trường bảo vệ sự nghiệp chính nghĩa. Nhưng Blood không phải là người thích tranh cãi. Như tôi đã nói ở trên, chàng là một người độc lập. Ðóng cửa sổ và buông rèm, chàng quay vào căn phòng ấm cúng đầy ánh nến, nơi bà chủ nhà, bà Baclâu, đã bày bàn xong. Quay sang bà, Blood nói lên thành tiếng suy nghĩ của mình: - Tôi đã để mất ân sủng của các cô gái ở nhà bên kia đường rồi. Giọng nói sang sảng dễ chịu của Blood pha lẫn những âm sắc cứng rắn lạnh lùng, ít nhiều đã dịu đi và trầm lắng xuống bởi lối phát âm Ailen, mà những năm dài lưu lạc nơi đất khách quê người vẫn không làm mất đi được. Toàn bộ tính cách dường như hiện rõ trong giọng nói của chàng, lúc dịu dàng lôi cuốn khi cần phải thuyết phục ai đó điều gì, lúc lại rắn rỏi đanh thép như mệnh lệnh cần buộc ai đó phục tùng. Vẻ ngoài của Blood cũng đặc biệt: cao dong dỏng, xương xương, nước da rám nắng như người Bôhêmiêng. Bên dưới cặp lông mày đen nhánh thẳng tắp là đôi mắt điềm tĩnh nhưng sắc sảo, trông xanh đến lạ lùng trên khuôn mặt ngăm ngăm. Cả ánh mắt, cả chiếc mũi thẳng đều hài hoà với cái miệng rắn rỏi cương nghị. Chàng mặc đồ đen phù hợp với nghề nghiệp của mình nhưng vẫn toát lên vẻ tao nhã, chứng tỏ óc thẩm mỹ lành mạnh của chàng. Tất cả cho thấy cái chất của Blood vẫn là một người tìm kiếm những chuyện phiêu lưu như xưa hơn là một thầy thuốc mực thước bây giờ. Chiếc áo camisole của chàng được may bằng da camelot mỏng thêu những dải chỉ bạc ở cổ tay, còn cổ áo lót những mảnh đăng ten Brabant xếp nếp. Bộ tóc giả mầu đen bồng bồng được uốn chải kỹ càng như tóc giả của bất kỳ một ông lớn nào ở Oaitơhôn. Nhìn kĩ Blood, bất giác ta phải tự hỏi: một con người như vậy liệu có ở lâu được cái xó yên tĩnh này, nơi sáu tháng trước cuộc đời đã tình cờ xô đẩy chàng đến hay không? Chàng có thể theo đuổi lâu dài cái nghề nhân đạo mà chàng đã được tiếp thụ ngay từ buổi đầu cuộc sống tự lập của mình hay không? Tuy nhiên, khi bạn đã được biết cuộc đời Blood, không chỉ quãng đời đã qua mà cả quãng đời sắp tới nữa, thì bạn sẽ tin - tất nhiên không phải dễ dàng - rằng nếu không có sự trớ trêu của số phận mà chàng sắp phải nếm trải ngay sau đây thì rất có thể chàng đã tiếp tục cuộc đời bình lặng trong một thị trấn yên lành miền Xomơxetsiơ này, hoàn toàn thoả mãn với địa vị khiêm nhường là thấy thuốc tỉnh lẻ của mình. Rất có thể là như thế… Blood là con trai của một thầy thuốc Ailen và một người đàn bà quê ở quận Xomơxetsiơ. Trong huyết quản của bà, như tôi đã nói ở trên, là dòng máu của những kẻ ngang dọc hải hồ không mệt mỏi và chắc điều đó đã giải thích cho cái khí chất ít nhiều xốc nổi sớm xuất hiện ở Pitơ. Những dấu hiệu đầu tiên của nó đã làm cha chàng, một người Ailen ôn hoà hiếm thấy, phải thực sự lo ngại. Ông đã định sẵn là trong việc chọn nghề, nhất thiết cậu bé phải theo nghiệp nhà. Và Blood, vốn sẵn năng khiếu lại thêm thói ham học nên đã làm ông bố vui lòng. Hai mươi tuổi đầu chàng đã đỗ cử nhân y khoa đại học Ðablin. Sau khi nhận được cái tin mừng ấy, cha chàng chỉ sống thêm ba tháng nữa (bà mẹ thì đã mất trước đó mấy năm) và thế là Pi-tơ, thừa hưởng vài trăm pound sterling của bố để lại, liền lên đường đi chu du thiên hạ để thoả chí bay nhảy của mình. Những hoàn cảnh thú vị đã đưa chàng đến đầu quân cho người Hà Lan, lúc này đang chiến tranh với nước Pháp, và tình yêu biển cả đã lôi kéo chàng vào hạm đội hải quân. Ðược đích thân de Ruyter lừng danh phong hàm sĩ quan, chàng đã tham dự trận thuỷ chiến trên Ðịa Trung Hải, trong lần viên đô đốc nổi tiếng kia tử trận. Quãng đời của Blood sau khi kí kết đình chiến Njimegen thì chúng tôi hầu như không hay biết gì hết. Tuy vậy, chúng tôi đã nghe nói Blood đã bị giam hai năm trong nhà tù Tây Ban Nha, nhưng vì sao chàng bị bắt vào nơi đấy thì chúng tôi không được rõ. Có lẽ chính vì thế mà vừa chân ướt chân ráo ra khỏi nhà tù, Blood đã tìm đến đầu quân cho người Pháp; và trong hàng ngũ quân đội Pháp, chàng đã tham dự các trận đánh trên lãnh thổ Hà Lan, lúc này đang bị quân Tây Ban Nha chiếm đóng. Cuối cùng năm ba mươi hai tuổi, khi đã thoả cái khát vọng phiêu lưu vẫn đeo đuổi mình, hơn nữa cảm thấy sức khoẻ có phần suy sụp sau lần bị thương không được kịp thời chạy chữa, đột nhiên chàng thấy nhớ quê hương da diết và thế là chàng xuống tàu thuỷ ở Năngtơ để trở về Ailen. Thế nhưng, trong chuyến đi này sức khoẻ của Blood giảm sút trông thấy và khi con tàu bị bão đánh dạt vào vịnh Bitgiơoatơ, chàng quyết định lên bờ vì hơn nữa, đây còn là quê ngoại của chàng. Thế là vào tháng giêng năm 1687 Blood đã đặt chân lên Bitgiơoatơ, trong túi vẫn chỉ có khoảng ngần ấy tiền như cách đây mười một năm, lúc chàng rời Ðablin đi chu du thiên hạ. Blood đã thấy thú cái nơi mà mình vừa trôi dạt đến. ở đây, sức khoẻ của chàng đã mau chóng bình phục. Sau rất nhiều cuộc phiêu lưu, mà một người khác khó lòng trải hết trong suốt cả cuộc đời, Pitơ quyết định buông neo bắt rễ ở thị trấn này và trở lại với nghề thầy thuốc mà chàng đã dứt bỏ để đổi lấy một món lợi chẳng đáng là bao. Ðó là bản tiểu sử tóm tắt của Blood, hay đúng hơn là một phần của nó, cái phần sẽ chấm dứt vào đêm nổ ra trận đánh ở Xegiơmua, nửa năm sau ngày chàng đặt chân lên Bitgiơoatơ. Cho rằng trận đánh sắp tới chẳng dính dáng gì tới mình - mà thực ra thì đúng là thế - và hoàn toàn dửng dưng trước niềm phấn khích đang bao trùm khắp Bitgiơoatơ đêm ấy, Blood đi nằm sớm. Chàng đã ngủ say, khi còn khá lâu mới đến mười một giờ, là giờ mà như các bạn đã biết, Mônmút dẫn đầu toán quân khởi loạn theo con đường đi Brixtôn, vòng qua đầm lầy đánh vu hồi vào đội quân binh triều đình đang đóng trại ở phía sau. Các bạn cũng biết rằng cái ưu thế về quân số của quân khởi loạn và chút ít lợi thế vì họ có khả năng đánh úp quân triều đình - lúc đó đang ngái ngủ - đã chẳng đem lại ích lợi gì do lỗi của kẻ cầm quân, và Mônmút đã thua trận ấy ngay từ trước khi bắt đầu giáp chiến. Trận chiến đấu nổ ra vào khoảng hai giờ đêm. Blood không nghe thấy tiếng pháo từ xa vọng lại. Mãi gần bốn giờ sáng, khi trời đã rạng xua tan sương mù trên bãi chiến trường ảm đạm, thì giấc ngủ yên lành của chàng mới bị phá ngang. Blood ngồi trên giường, cố dụi mắt cho tỉnh ngủ. Cửa nhà chàng bị đập mạnh, có người đang hét lên những tiếng gì đó đứt quãng. Tiếng ồn ào ấy đã làm Pi-tơ thức giấc. Ngỡ rằng người ta gọi mình đến thăm bệnh gấp cho một phụ sản nào đó, chàng khoác vội chiếc áo choàng mặc đêm, xỏ chân vào đôi dép và chạy ra khỏi phòng đến nỗi va phải bà Baclâu ở cầu thang. Cuống cuồng bởi tiếng ầm ĩ bà ta không còn hiểu đầu đuôi gì mà cứ đi lại lăng xăng. Blood nói cho bà yên lòng và đi xuống mở cửa. Ngoài đường, trong ánh bình minh vàng rực là một chàng trai mặc bộ quần áo rách toạc và bê bết bùn đất. Anh ta thở hổn hển, đôi mắt loang loáng kích động. Con ngựa đứng bên cạnh anh ta mình sủi đầy bọt. Chàng trai mở miệng, nhưng hơi thở đứt đoạn, không thốt lên nổi một lời. Blood nhận ra đó là anh chàng lái tàu trẻ tuổi Jêrêmy Pit, cậu cháu của các cô gái nhà đối diện. Cả phố bị những tiếng ầm ĩ của anh chàng thuỷ thủ đánh thức dậy: cửa sổ, cửa ra vào mở toang và từ trong đó lố nhố những người hàng xóm lo âu đang ngơ ngác ngó ra. - Bình tĩnh, bình tĩnh nào - Blood nói - Hấp tấp thì chẳng bao giờ được việc gì đâu. Nhưng đôi mắt anh chàng kia vẫn đầy vẻ sợ hãi, thậm chí kinh hoàng, và anh ta không để ý gì đến lời Blood nói. Vừa ho vừa thở hổn hển, rốt cuộc anh ta lên tiếng: - Huân tước Hinđoi bị trọng thương... lúc này đang ở trang trại Oglơthopơ... bên bờ sông... tôi đã đưa ngài về đó... ngài sai đi gọi ông. Ông đi nhanh lên... Nhanh lên mới được! Anh ta nhào đến, định lôi tuột Pi-tơ đi, bất kể lúc ấy chàng đang mặc áo choàng đêm và đi dép trong nhà. Nhưng Blood đã tránh được đôi tay đang vươn ra chực tóm lấy mình. - Tất nhiên tôi sẽ đi - chàng nói - nhưng không phải ăn mặc thế này. Blood rất áy náy, lord Hindoi đã đỡ đầu chàng suốt từ ngày chàng đến Bitgiơoatơ. Blood muốn bằng cách nào đó đáp lại lòng tốt của ngài đối với mình và chàng khổ tâm thấy dịp ấy đến trong một hoàn cảnh đáng buồn như vậy. Chàng biết rõ rằng nhà quí tộc trẻ tuổi kia là một trong những người ủng hộ Mônmút hăng hái nhất. - Tất nhiên tôi sẽ đi - Blood nhắc lại - nhưng trước hết để tôi thay quần áo và lấy theo những thứ cần thiết đã. - Thế thì không kịp mất. - Bình tĩnh nào, bình tĩnh nào. Ta sẽ đến nơi chóng hơn nếu không hấp tấp. Anh vào trong này đợi tôi đã, anh bạn trẻ. Pit khoát tay thoái thác. - Tôi sẽ chờ ở đây. Lạy chúa, xin ông hãy nhanh lên cho! Blood leo nhanh lên thang gác để thay áo quần và lấy túi thuốc. Về tình trạng bị thương của lord Hindoi chàng có thể hỏi trên đường dến trang trại Oglơthopơ. Vừa xỏ giầy Blood vừa nói chuyện với bà Báclâu, nhờ bà làm giúp mấy việc, nhân tiện dặn bà làm bữa trưa mà, than ôi, không bao giờ chàng được đụng đến nữa. Cuối cùng, khi chàng thầy thuốc và bà Baclâu đang càu nhàu như con gà ấp mất ổ bước xuống đường thì chàng trông thấy tay thuỷ thủ trẻ tuổi bị một đám đông dân phố xúm xít bu quanh, ai nấy đều hốt hoảng, quần áo còn chưa kịp mặc. Phần lớn là đàn bà mới vội vã chạy ra hóng tin trận đánh. Chẳng khó đoán Pit đã cho họ biết những tin tức gì, bởi vì cảnh yên tĩnh buổi sáng lập tức tràn ngập tiếng khóc và những lời than thở sầu não. Trông thấy bác sĩ đã ăn mặc gọn gàng với túi thuốc đeo dưới nách, Pit vội rời khỏi đám đông, cố gắng xua đi cơn mệt mỏi và gạt hai bà cô đang giọt ngắn giọt dài bám chặt lấy mình. Nắm lấy cương ngựa, anh ta nhảy phắt lên yên. - Ta đi thôi! - anh ta hét - ông ngồi lên phía sau tôi! Không nói một lời, Blood làm theo và Pit lập tức thúc ngựa. Ðám đông dãn ra, Blood ngồi trên mông con ngựa bị oằn xuống vì sức nặng của hai người. Ôm thắt lưng của người bạn đường, chàng bắt đầu chặng đời ba chìm bảy nổi của mình. Anh chàng Pit mà Blood chỉ coi là người đưa tin của một loạn quân bị thương, ngờ đâu lại là tín sứ của số mệnh. ... Mời các bạn đón đọc Cuộc Đời Chìm Nổi của Thuyền Trưởng Blood của tác giả Rafael Sabatini.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sự Trừng Phạt Một Hồ Ly Tinh - Barbara Cartland
Một cô gái trẻ đẹp luôn xem tình yêu là trò đùa. Anh - một người đàn ông chín chắn quyến rũ quyết tâm trừng phạt cô. Anh bắt cóc cô, mang cô theo cùng phiêu lưu đến những vùng hoang vu đầy bí ẩn. Cô luôn tìm mọi cách trốn thoát khỏi tay anh, nhưng... *** Barbara Cartland tên đầy đủ là Maria Barbara Cartland Hamilton sinh ngày 9/7/1901 là một nhà văn người Anh. Bà được coi là một trong những cây bút sáng tác mạnh mẽ nhất của thế kỷ 20 và luôn có tên trong sách kỷ lục Guinness như một trong những nhà văn xuất bản nhiều tác phẩm nhất trong một năm. Sự nổi tiếng của bà gắn liền với những cuốn tiểu thuyết lãng mạn hư cấu dưới bút danh Barbara Cartland, ngoài ra bà cũng sáng tác dưới bút danh sau khi đã lập gia đình là Barbara McCorquodale. Ước tính lượng sách bán được lên đến hơn một tỷ bản đã khiến bà trở thành một trong những biểu tượng xã hội của thành phố London cũng như một trong những nhân vật được giới truyền thông Anh săn đón nhiều nhất. Điểm đặc trưng nhất trong phong cách của Barbara Cartland là đoạn kết với tuyên ngôn tình yêu sẽ chinh phục mọi thử thách. "Những nhân vật nữ chính luôn là chìa khóa trong mọi tình huống. Họ là những phụ nữ độc lập, thông minh và tự tin vào bản thân. Barbara Cartland đã tạo ra sức hấp dẫn cho những câu chuyện bà kể bằng công thức vô cùng đơn giản: Luôn là một kết thúc có hậu nhưng trong suốt chiều dài câu chuyện người đọc lại luôn bị thu hút bởi ý nghĩ liệu nút thắt có bao giờ được cởi bỏ thành công" – Miller nói. Trong suốt sự nghiệp của mình Barbara Cartland đã viết khoảng 723 cuốn sách được dịch sang 38 ngôn ngữ. Quãng thời gian sáng tác dồi dào nhất của bà phải kể đến 650 tiểu thuyết lãng mạn được viết trong 20 năm cuối đời. Ngày 21/5/2000 bà qua đời ở tuổi 98 sau khi hoàn thành cuốn tiểu thuyết cuối cùng chỉ một năm trước đó. *** Nevada tỉnh giấc thấy trong phòng quá nóng, chắc trời đã muộn hơn cô dự đoán. Những tia nắng rực rỡ đang len lỏi qua khe màn cửa sổ, và không có gió thổi tung màn như vào lúc sáng sớm. Cô xoay người lại nhận ra mình đã ngủ nhiều, một giấc ngủ say không mộng mị. Đưa mắt nhìn đồng hồ bên cạnh giường cô hốt hoảng kêu lên. “Đã hơn mười hai giờ trưa!” Ngồi bật dậy, cô rung cái chuông bạc nhỏ. Cô hầu xuất hiện ngay lập tức. “Đã trễ rồi, rất là trễ!” Nevada nói với cô gái và chỉ vào đồng hồ. “Chủ nhân nói để cô ngủ.” Cô gái trả lời bằng ngôn ngữ của mình. Nevada hiểu ý cô gái, nhưng cùng lúc cảm thấy bực bội vì cô ta không kêu cô dậy. Vậy chứng tỏ là Tyrone đã đi Sakjena không rủ cô. Cô lại muốn đi với anh hết sức, và xem coi có thể giúp gì thêm cho dân làng ở đó không. Người hầu đã rời khỏi phòng và quay trở lại với khay thức ăn sáng. Nevada ngồi trên giường ăn, lòng bực bội không được dùng bữa sáng với anh như họ vẫn thường làm kể từ khi cô tới kasbah. ... Mời các bạn đón đọc Sự Trừng Phạt Một Hồ Ly Tinh của tác giả Barbara Cartland.
The Penniless Peer - Barbara Cartland
Nàng thiếu nữ tóc đỏ duyên dáng Fenella Lambert hằng yêu người anh họ đẹp trai từ thuở ấu thơ. Khi Lord Perequine Corbury từ trận chiến đánh quân của Napoleon trở về, chàng đã lâm vào hoàn cảnh chật vật túng thiếu. Chính nàng là người đề ra 1 giải pháp táo bạo giúp chàng khôi phục toàn bộ gia sản – dù rằng đáp án là người mình yêu sẽ đám cưới với người đàn bà khác. Cùng với Perequine, Fenella đã lao vào cuộc phiêu lưu đầy dẫy hiểm nguy hơn bao giờ hết … *** Barbara Cartland tên đầy đủ là Maria Barbara Cartland Hamilton sinh ngày 9/7/1901 là một nhà văn người Anh. Bà được coi là một trong những cây bút sáng tác mạnh mẽ nhất của thế kỷ 20 và luôn có tên trong sách kỷ lục Guinness như một trong những nhà văn xuất bản nhiều tác phẩm nhất trong một năm. Sự nổi tiếng của bà gắn liền với những cuốn tiểu thuyết lãng mạn hư cấu dưới bút danh Barbara Cartland, ngoài ra bà cũng sáng tác dưới bút danh sau khi đã lập gia đình là Barbara McCorquodale. Ước tính lượng sách bán được lên đến hơn một tỷ bản đã khiến bà trở thành một trong những biểu tượng xã hội của thành phố London cũng như một trong những nhân vật được giới truyền thông Anh săn đón nhiều nhất. Điểm đặc trưng nhất trong phong cách của Barbara Cartland là đoạn kết với tuyên ngôn tình yêu sẽ chinh phục mọi thử thách. "Những nhân vật nữ chính luôn là chìa khóa trong mọi tình huống. Họ là những phụ nữ độc lập, thông minh và tự tin vào bản thân. Barbara Cartland đã tạo ra sức hấp dẫn cho những câu chuyện bà kể bằng công thức vô cùng đơn giản: Luôn là một kết thúc có hậu nhưng trong suốt chiều dài câu chuyện người đọc lại luôn bị thu hút bởi ý nghĩ liệu nút thắt có bao giờ được cởi bỏ thành công" – Miller nói. Trong suốt sự nghiệp của mình Barbara Cartland đã viết khoảng 723 cuốn sách được dịch sang 38 ngôn ngữ. Quãng thời gian sáng tác dồi dào nhất của bà phải kể đến 650 tiểu thuyết lãng mạn được viết trong 20 năm cuối đời. Ngày 21/5/2000 bà qua đời ở tuổi 98 sau khi hoàn thành cuốn tiểu thuyết cuối cùng chỉ một năm trước đó. *** Lord Corbury lái xe đến Brighton vào lúc xế chiều. Cỗ xe 4 ngựa được điều khiển khéo léo thu hút bao ánh mắt ngưỡng mộ của khách bộ hành. Anh rất ngạc nhiên khi thấy cả đội ngựa tuyệt hảo màu hạt dẻ trong tàu ngựa của biệt thự Corbury, những chú ngựa tuyển này chắc chắn sẽ làm bạn bè anh lác mắt. Lord Corbury cho xe dừng lại trước 1 khách sạn trên đường Marine Parade và yêu cầu 1 phòng lớn. Với cung cách uy nghi đĩnh đạc anh được tiếp đón long trọng bằng 1 căn phòng từng dành riêng cho bá tước của Dorchester. Thay đổi y phục xong, Lord Corbury đến nhà Lord Farquhar tọa lạc trên đường Stein và yêu cầu được gặp Fenella. Anh được mời vào phòng đọc sách ở tầng trệt, và người ra tiếp anh là Lord Farquhar. -Thật là ngạc nhiên đó, Periquine. Ông cười nói vui vẻ. “Chúng tôi không nghĩ là cháu xuống miền nam sớm thế.” -Cháu có thể gặp Fenella không? Lord Corbury nói thẳng mục đích của mình đến đây, không muốn làm lạc hướng câu chuyện. -Fenella đang nghỉ trên lầu. Chúng tôi sẽ ăn tối với Thái tử tại dinh của ngài, vì thế con bé cần nghỉ ngơi chuẩn bị cho buổi tối này. ... Mời các bạn đón đọc The Penniless Peer của tác giả Barbara Cartland.
Đàn Hương Hình - Mạc Ngôn
Đây là cuốn tiểu thuyết thứ hai do dịch giả Trần Đình Hiến thực hiện sau "Báu vật của đời". Ông đang theo đuổi một loạt truyện của nhà văn hiện đại Trung Quốc Mạc Ngôn. Dưới đây là cuộc trao đổi của ông với báo giới. Đàn hương hình là bộ tiểu thuyết lịch sử được Mạc Ngôn viết trong suốt 5 năm, từ 1996 đến 2001. Tác phẩm được phát triển trên một vở hý kịch cùng tên gồm 9 cảnh vốn có từ thời cuối Thanh và đầu Trung Hoa Dân quốc. Tác phẩm có một kết cấu khá lạ với 3 phần: Đầu phụng, bụng heo và đuôi beo. Một kết cấu và phương thức mà nói như chính tác giả trong phần viết thêm là: "Mỗi chương của phần đầu phụng và đuôi beo đều dùng phương thức nhân vật tự thuật. Phần bụng heo, bề ngoài tưởng như từ một góc độ nào đó nhìn vào mà viết, thực ra là ghi lại phương thức truyền miệng trong dân gian và phương thức ca vịnh để thuật lại một thời kỳ lịch sử có tính truyền kỳ.  Đàn hương là một loại gỗ rất cứng, được dùng để làm kiếm. Giết người bằng kiếm đàn hương có thể nói là một trong những hình thức man rợ và tàn khốc nhất từng được biết đến trong lịch sử Trung Quốc. Người ta đã luồn kiếm ngược từ hậu môn ra đến đằng miệng phạm nhân. Đây chính là hình phạt đã được áp dụng cho nhân vật chính của tác phẩm là Tôn Bính - một ông bầu của gánh hát Miêu Xoang nổi tiếng trong vùng, đồng thời là thủ lĩnh của phong trào khởi nghĩa nông dân vùng Cao Mật chống lại sự đàn áp của phát xít Đức vào năm 1900, khi chúng làm đường sắt xuyên qua vùng này. Ngoài hình phạt dã man nói trên, còn 3 cái án tàn khốc khác, do phát xít Đức và tên tay sai phản động của triều đình Mãn Thanh là Viên Thế Khải thực hiện. *** Mạc Ngôn tên thật là Quản Mạc Nghiệp, sinh năm 1955 tại Cao Mật tỉnh Sơn Đông. Là tác giả tạo nên cơn sốt văn học Trung Quốc tại Việt Nam thông qua một loạt các tiểu thuyết được chuyển ngữ và xuất bản từ thập kỷ trước như Cao lương đỏ, Báu vật của đời, Đàn hương hình, Cây tỏi nổi giận… Mạc Ngôn đã để lại dấn ấn sâu đậm trong lòng độc giả bởi tài năng văn chương không thể phủ nhận. Giải thưởng Nobel Văn học năm 2012 một lần nữa khẳng định địa vị quan trọng của Mạc Ngôn trong nền văn học thế kỷ 20 của Trung Quốc nói riêng và thế giới nói chung. Tác phẩm chính Báu vật của đời, nguyên tác: Phong nhũ phì đồn (丰乳肥臀), (1995) Cao lương đỏ, nguyên tác: Hồng cao lương gia tộc (红高粱家族), (1998) Đàn hương hình (檀香刑). Cây tỏi nổi giận (Bài ca củ tỏi Thiên Đường) Củ cải đỏ trong suốt. Rừng xanh lá đỏ (Rừng vẹt) Tửu quốc (Rượu chảy như suối) Châu chấu đỏ. Tổ tiên có màng chân Con Đường Nước Mắt Hoan Lạc Bạch Miên Hoa Trâu Thiến Sống Đọa Thác Đày Người Tỉnh Nói Chuyện Mộng Du Khác Ma chiến hữu, nguyên tác: Chiến hữu trùng phùng (战友重逢), (2004), một tác phẩm đề cập đến lính Trung Quốc hy sinh trong Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979. Giải thưởng Giải nhất về tiểu thuyết của Hội Nhà văn Trung Quốc, tháng 12/1995 cho truyện "Báu vật của đời". Giải Mao Thuẫn cho tác phẩm Đàn hương hình Giải Nobel Văn học năm 2012. *** Mi Nương, Mi Nương, nàng cho ta những phút mê hồn… Nàng lõa lồ ngọc thể, đầu đội tấm da mèo nhỏ, lăn đi lăn lại trên giường ta, lăn tới lăn lui trên người ta. Nàng vuốt một cái, khuôn mặt lập tức biến thành mặt mèo xinh xinh, hiếu động. Qua cơ thể nàng, ta nhận ra rằng, trên đời này không động vật nào mềm mại bằng giống mèo… Lưỡi hồng hồng liếm khắp người ta, cho ta lên tiên cho ta chết ngột… Ta chỉ muốn ngậm nàng trong miệng… Nghĩa miêu mặc áo miêu rộng thùng thình, trong tiếng thanh la tiếng trống, chạy ra sân khấu như một trận cuồng phong, thổi dạt màn đêm phong tình về phía sau. Anh ta nhón chân lượn mấy vòng rất đẹp, rồi ngồi xệp giữa sân diễn, cất giọng tự bạch: Mỗ đây Miêu chủ Tôn Bính, thuở thiếu thời đã học Miêu Xoang, cùng gánh hát đi khắp bốn phương. Mỗ hát đại hí bốn mươi tám xuất, sắm đủ các vai khanh tướng đế vương. Vào tuổi trung niên, mỗ chót nói ngông, đắc tội quan huyện Cao Mật. Quan huyện cải trang đạo tặc, vặt râu mỗ một sợi không còn, hủy luôn cả duyên nợ với Miêu Xoang! Mỗ bàn giao gánh hát cho người khác, trở lại quê nhà mở quán bán trà. Vợ mỗ Đào Hồng cá lặn chim sa tính tình hiền thục, sinh hạ hai con như vàng như ngọc. Đáng giận thay, bọn Tây xâm nhập Trung Hoa, làm đường sắt phá tan phong thủy. Càng căm bọn Hán gian cáo mượn oai hùm, gây tai họa gieo họa cho dân làng. Vợ mỗ bị giặc bờm xơm trên chợ, tai ương từ đó chụp lên đầu. Mỗ đau đau đau từng khúc ruột, mỗ hận hận hận vỡ tim gan.. ... Mời các bạn đón đọc Đàn Hương Hình của tác giả Mạc Ngôn.
The Kiss Of The Devil - Barbara Cartland
Quyết làm trái lời người họ hàng Jimmy, cô gái xinh đẹp nhưng nóng đầu Skye Standish dấn thân vào một chuyến hành trình thám hiểm vùng đất hỗn loạn của Mariposa thuộc Nam Mỹ. Từ đó, những chuyện bất ngờ liên tục xảy ra. *** Barbara Cartland tên đầy đủ là Maria Barbara Cartland Hamilton sinh ngày 9/7/1901 là một nhà văn người Anh. Bà được coi là một trong những cây bút sáng tác mạnh mẽ nhất của thế kỷ 20 và luôn có tên trong sách kỷ lục Guinness như một trong những nhà văn xuất bản nhiều tác phẩm nhất trong một năm. Sự nổi tiếng của bà gắn liền với những cuốn tiểu thuyết lãng mạn hư cấu dưới bút danh Barbara Cartland, ngoài ra bà cũng sáng tác dưới bút danh sau khi đã lập gia đình là Barbara McCorquodale. Ước tính lượng sách bán được lên đến hơn một tỷ bản đã khiến bà trở thành một trong những biểu tượng xã hội của thành phố London cũng như một trong những nhân vật được giới truyền thông Anh săn đón nhiều nhất. Điểm đặc trưng nhất trong phong cách của Barbara Cartland là đoạn kết với tuyên ngôn tình yêu sẽ chinh phục mọi thử thách. "Những nhân vật nữ chính luôn là chìa khóa trong mọi tình huống. Họ là những phụ nữ độc lập, thông minh và tự tin vào bản thân. Barbara Cartland đã tạo ra sức hấp dẫn cho những câu chuyện bà kể bằng công thức vô cùng đơn giản: Luôn là một kết thúc có hậu nhưng trong suốt chiều dài câu chuyện người đọc lại luôn bị thu hút bởi ý nghĩ liệu nút thắt có bao giờ được cởi bỏ thành công" – Miller nói. Trong suốt sự nghiệp của mình Barbara Cartland đã viết khoảng 723 cuốn sách được dịch sang 38 ngôn ngữ. Quãng thời gian sáng tác dồi dào nhất của bà phải kể đến 650 tiểu thuyết lãng mạn được viết trong 20 năm cuối đời. Ngày 21/5/2000 bà qua đời ở tuổi 98 sau khi hoàn thành cuốn tiểu thuyết cuối cùng chỉ một năm trước đó. *** Skye lấy trong tủ ra bộ áo cô chưa từng mặc qua. Áo may bằng ren trắng thật mịn màng mỏng manh đến nỗi cô tưởng mình như đang mặc chiếc áo dệt bằng tơ trời trong truyện thần thoại. Chiếc áo khiến cô trông trẻ hơn, thân trước cắt thấp phô bày khoảng vai trần mịn màng sáng rỡ như ánh ngọc trai. Mái tóc được chải công phu cho đến khi những lọn tóc óng lên như ánh lửa viền quanh gương mặt thon nhỏ. Cô chỉ đeo một món trang sức duy nhất là đôi hoa tai nạm ngọc thạch anh và kim cương mà El Diablo tặng cho cô trong đêm fiesta. Khi đeo đôi hoa vào tai, cô nhớ lại cô từng thề có ngày sẽ trả lại cho anh, nhưng bây giờ cô sẽ không tự nguyện trả lại nữa. Khi mặc bộ áo này, cô đã săm *** thật lâu xem còn bất cứ khiếm khuyết nào cần phải sửa chữa hay không, đêm nay cô chỉ có một ước nguyện duy nhất, trên tất cả mọi ước nguyện, rằng cô muốn mình đẹp nhất, lộng lẫy hơn bao giờ hết. Ngắm mình trong gương, cô hài lòng với bóng dáng mình, đôi mắt to rạng rỡ, nhưng sâu thẳm huyền hoặc. Hai cánh môi đỏ ấm áp mềm mại. Hơi thở gấp gáp giữa đôi môi khẽ mở tố cáo nhịp đập vội vã của con tim bất trị. Dường như cả thế kỷ đã trôi qua từ lúc cô gặp El Diablo ngày hôm qua. Sáng sớm hôm nay anh đã rời tàu rất sớm bỏ mặc sự khó chịu của Evan rằng anh vẫn chưa hoàn toàn hồi phục để cáng đáng bao nhiêu công việc đang chồng chất, thay vì thế anh chỉ cười với ông. ... Mời các bạn đón đọc The Kiss Of The Devil của tác giả Barbara Cartland.