Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Dòng Đời Nổi Trôi

.. "Cúi đầu thủ thế... Tay không rời mặt... Vào góc... Thoát ra... Thọc, thêm lực hơn nữa... Thân trên linh hoạt... Móc ngang... Chân di chuyển nhanh hơn nữa... " - Tiếng thầy võ sư quát dồn dập hướng dẫn khi tôi đang tập thực chiến trên sàn Boxing cùng một đàn anh khác. Đến với cái môn thể thao nhồi thể lực này chỉ vỏn vẹn có gần 2 năm nhưng cũng đủ biến tôi từ một thằng hs cấp 3 yếu ớt, trầm cảm. Trở nên rắn rỏi và cứng cáp hơn cả về cơ thể lẫn tâm lý. Nói về cuộc sống của tôi đến thời điểm hiện tại có thể miêu tả bằng những từ như "Buồn", "Khổ, "Bất Hạnh", "Thiệt thòi"... Hajzzz, tự bản thân tôi thì thấy hợp với 2 chữ "Vô cảm" hơn. Từng có một gia đình hạnh phúc, tròn đầy như bao gia đình khác với bố mẹ và một thằng em trai kháu khỉnh. Nhưng tất cả đã chấm dứt với tôi bởi một tai nạn giao thông khi tôi vừa đỗ vào trường chuyên cấp 3. Cả gia đình vui mừng đón tin vui và tưởng thưởng cho tôi một chuyến du lịch xa nhà mà trước khi thi tôi đã đòi hỏi nếu đỗ. Cuộc đời đã cướp mất gia đình của tôi hay là chính bản thân tôi đã làm hại những người thân yêu ruột thịt của mình. Nhiều đêm tỉnh dậy trong cơn ác mộng, nhìn vào vết sẹo dài gớm ghiếc trên ngực. Tôi lại tự dằn vặt tại sao kẻ chết đi không phải là mình mà lại là bố mẹ và em trai. Khóc rất nhiều, trầm cảm có, ù lỳ có. Từ một hs cấp 2 năng động và hoạt bát, tôi trở thành một hs cấp 3 hoàn toàn khác, vô cảm và băng giá... với mọi thứ xung quanh. Cuộc đời đã ném vào tôi những nỗi mất mát đau đớn nhất. Thì hà cớ gì tôi lại phải cởi mở đón nhận cái cuộc đời ấy. Tôi còn tồn tại và phát triển trong cái cuộc đời này, hoàn toàn chỉ là bởi nghĩa vụ và trách nhiệm với lời hứa mà tôi đã hứa với cha mẹ trước giờ lâm tử. Rằng phải cố sống và sống tốt. Tôi sẽ cố sống, còn để sống tốt... tôi chưa thể cảm nhận, vì tôi vô cảm, hay có khi cố sống cũng là một dạng thù hình của sống tốt rồi cũng nên. 3 năm cấp 3 trôi qua nhạt nhẽo, chẳng có ấn tượng gì đọng lại trong tôi ở cái tập thể này và ngược lại cũng vậy... không bạn bè, không người yêu. Thay vào đó những dấu ấn và bạn bè của tôi lại được hình thành rõ nét ở cái clb boxing này. Nơi mà có lẽ chỉ vài tháng nữa tôi sẽ phải xa nó... nếu tôi đỗ đại học. - Lên Hà Nội nhớ đừng đua đòi, cố gắng làm thêm để trang trải nhé. Rảnh thì về chơi với cô - Cô ruột tôi cất tiếng. Tôi cười khẩy, chào cô rồi quay lưng ra đi mà không có lấy một chút lưu luyến gì cái ngôi nhà này, gia đình của cô tôi. 3 năm sống trong ghẻ lạnh và cô độc, tôi cũng không dám trách móc gì vì ít nhất cũng đã phải sống nhờ nhà họ trong một thời gian dài. Dù tiền sinh hoạt hàng tháng thì vẫn trích từ tài khoản trong ngân hàng mà bố mẹ tôi để lại cho tôí khi nào tới 18t mới được toàn quyền sử dụng. Cơ mà tôi có cái quyền để không yêu quý cái ngôi nhà ấy. Ngày biết tin đỗ đh cũng là ngày mà tôi lên sẵn phương án cho một cuộc sống tự do, tự lập, riêng một cá thể hoàn toàn. - "Con chào bố mẹ, anh chào em trai nhé. Tạm biệt gia đình thân yêu... Con đi đây" - Chờ cho nén nhang cuối cùng tắt hẳn tôi khoác balo rời nghĩa trang thành phố để bắt xe khách lên HN. Ngoảnh mặt nhìn qua ô kính nơi chôn rau cắt rốn của mình, nơi mà gia đình mình mãi mãi ở lại đến khi xa dần, khuất dần... Con đang bước tiếp hành trình của con đây, con sẽ cố gắng thực hiện toàn vẹn lời hứa với gia đình mình... Con hứa... Chiếc xe bon bon trên đường quốc lộ ngày một xa dần, bên trong nó là một con người cô độc với những hành trình chông gai của cuộc đời đang chờ đợi trước mắt... *** Địa ngục tinh thần - sẽ là đao to búa lớn khi nói vậy nhưng quả thực với riêng bản thân tôi chuỗi ngày vừa qua tựu chung 1 phần có thể ví von như vậy. Trống rỗng trong cả suy nghĩ lẫn tâm trí. Đáng sợ nhất là mớ bòng bong tỉnh trong mơ, mơ trong tỉnh cứ bu bám đầu óc khiến tôi nhiều lúc trở nên si mê ko biết đâu là thực tại. Có lần đi bộ còn suýt bị xe đâm chỉ vì ko nghĩ là mình đang sang đường. Nhiều sáng thức dậy tôi vô thức vồ lấy đt, nt chúc ngày mới theo thói quen rồi giật mình, lại xóa đi khi chợt nhớ ra 1 điều. Để rồi sau đó chỉ biết vò đầu lắc lắc, mong sao những gì xảy ra chỉ là 1 cơn ác mộng. Rượu say, đòn tỉnh - chính trong thời điểm luẩn quẩn ấy, 1 người đã xuất hiện khiến tôi tỉnh lại với thực tại. Ko ai khác chính là KN... 1 trận đòn nhừ tử từ đám tay chân và từ chính anh ta. - Dám làm nhiều việc sau lưng tôi như vậy, kể cũng xem như cậu lớn mật đấy. Nể mặt cậu từng là bạn cái Ngọc, cũng từng là nv thân cận của tôi, xem như gặp gỡ hn thay cho lời cảnh cáo. Chuyện giữa cậu và nó từ giờ chính thức chấm dứt. Tôi ko muốn gặp cậu trong hoàn cảnh này lần nào nữa vì lần tới chắc chắn cậu ko còn người ngợm nguyên vẹn như thế này đâu. KN trước giờ đã nói là làm nên tôi hiểu anh ta ko nói suông. Chuyện này đến tai anh ấy hẳn là từ miệng Hoa chứ bản thân Ngọc chắn chắn chẳng bao giờ chịu nói ra. Chỉ là chính tôi trong giây phút đau đớn, bê bết ngồi góc đường, tự vấn lòng mình đã đến lúc phải chấp nhận sự thật. Trận đòn của KN đau đớn về thể xác nhưng 1 phần cũng nhờ nó mà tôi thoát khỏi đám mây mù u mê đã vây quanh mình suốt 1 khoảng tg. Tôi mặt dày chủ động hẹn gặp Hoa xem như là lần cuối muốn hỏi thăm tin tức về Ngọc. - Đang có 1 người rất tốt quan tâm đến nó rồi. Chỉ cần anh biến khỏi cuộc đời nó nữa thôi là ổn. Tôi cười khổ cam chịu lời sỉ vả từ Hoa, thực ra cô ấy chịu hẹn gặp tôi thế này đã xem như nể nang lắm rồi. Qua 1 hồi hỏi han tôi cũng chứng thực đc "người tử tế" ấy ko ai khác chính là T.Hoàng. Rốt cuộc vẫn là linh cảm của mình chính xác - T.Hoàng thực sự có tình cảm với Ngọc. Anh ta rõ ràng có xuất thân lẫn thân thế rất tốt. Chưa kể thâm tình hiện tại khi X và Z vẫn đang trong giai đoạn đầu của sự hợp tác. Ấy là còn chưa nói đến cảm tình có sẵn của bà Liên cũng như KN giành cho anh ta. Nếu T.Hoàng thực sự tốt như vậy hẳn Ngọc sẽ có đc hạnh phúc, ko còn phải gồng mình, ko còn phải chịu đựng nữa... Điều này lẽ ra tôi phải lấy làm vui, vậy mà cớ sao sống mũi cứ cay xè đến ê ẩm thế này. Đã thực sự tỉnh rồi đấy nhưng phải quên đi nữa... Quên đi những chuyện cũ... quên đi Ngọc... quên đi mối tình đầu, cũng là duy nhất... Hà Nội, có lẽ cũng đã đến lúc phải xa nơi này rồi... ---- Suy nghĩ trên tôi từng cố trốn tránh nhưng cũng đến lúc phải quyết định. Tôi đến thăm anh họ, vừa hỏi han tình hình cty hiện tại, vừa tiện thể tâm sự chuyện tôi tính rời HN. Anh cũng ko có ý kiến gì về chuyên tôi muốn vào Nam lập nghiệp, dù sao nhà cửa dưới quê tôi cũng bán hết rồi. Mối liên kết duy nhất còn lại chỉ là mộ phần gđ và họ hàng mà thôi. - Tình hình cty anh dạo này thế nào rồi, đã giải quyết xong quyết toán với mấy chủ đầu tư kia chưa? - Hajzz... Anh họ thở dài ảo não khi nghe tôi hỏi chuyện làm ăn, kiếp làm cai, thầu phụ. Ăn rơi ăn vãi công trình từ các chủ đầu tư lớn. Làm chưa xong thì bị ép tiến độ, xong rồi lại bị chậm nghiệm thu quyết toán. Bị ngang nhiên chiếm dụng vốn mà vẫn phải niềm nở để đòi tiền. Lương nhân công nhiều khi còn nợ mà vẫn phải chạy vạy vay mượn để xin dự án. Đơn giản làm nghề này mà ko có dự án quay vòng là cầm chắc "chết". - Dự án bên... cty X vẫn chưa đến hạn hả anh? - Uhm, mà sao đang dưng mày lại nghỉ ở đó, thấy nó bắt đầu khó khăn ah? Nghe anh họ nói vậy tôi chỉ biết lắc đầu cười trừ, cty của anh lẽ ra còn có thể kiếm đc nhiều công trình hơn nếu X giành đc mấy khu đất kia. Chỉ tiếc vì tôi mà... Thời gian chuẩn bị cho sự chuyển đổi tương đối thảnh thơi nên dạo này tôi hay đi lại quê - HN để thăm họ hàng và thắp hương mộ phần gđ. Tôi cũng thường qua thăm mộ ct Đặng mỗi khi từ quê trở lại HN. Dù gặp nhau ko nhiều nhưng những ấn tượng trong qk khiến tôi có cảm tình rất tốt với ông ấy. Đã có lúc tôi từng nghĩ tương lai sẽ được làm con rể, được hàng ngày gọi ông là "Bố" trên cty cũng như ở nhà, được.. . Vài bông cúc tươi thay cho những bông đã hơi héo. - "Sau này vào Nam rồi, chắc con ko còn đến thăm bố thường xuyên đc nữa. Thông cảm cho con bố nhé!!!" ---- Bụng của My lộ hẳn rồi con bé mới chịu làm đám cưới, đám cưới vui như hội ấy vì con bé đông bạn đông bè mà. Đợi tiệc mừng này kết thúc tôi mới chia sẻ quyết định vào SG sống với a.Mạnh và đám bạn của mình. Khỏi phải nói tất cả bất ngờ thế nào khi nghe tin ấy, với Trà, My và Xuân chóa còn có thêm vài phần sốc nữa. Thời điểm chính thức rời HN vào SG sau nhiều lần nấn ná cuối cùng cũng đc tôi lên lịch cụ thể. T.Dương cho đến hn mới biết tin sau khi nghe tôi nói chuyện trả phòng vào cuối tháng. Từ sau chuyện đổ vỡ của tôi, cũng tội cho T.Dương khi đến giờ cô ấy vẫn ko thôi cảm thấy có lỗi. - Vẫn còn áy náy hả, áy náy nhiều thì đem mồi lên phòng tôi. Sang làm thêm 1 trận say nữa trước khi tôi bái bai HN đc chứ, haha. Tôi lại cười khích bác T.Dương nhưng cô ấy chẳng 1 tia hưởng ứng. Chuyện say mèm với T.Dương giờ đã trở thành vô cùng nhạy cảm rồi. Nhìn T.Dương cứ cắm mặt vô Lap chat chit với bạn bè, tôi đâm nhàm chán. Vừa quay qua quay lại định chào cô ấy thì trước mắt lướt qua 2 hình ảnh khá quen thuộc. Bức ảnh trên face 1 người bạn của T.Dương, chụp khá nhiều người kiểu cách học sinh - sv, có thể là 1 nhóm bạn. Hầu hết là người ngoại quốc, khung cảnh xung quanh cũng là ở nc ngoài. Nếu chỉ có vậy thì chẳng có gì đặc biệt nhưng điều đặc biệt làm tôi phải chú ý, xen giữa đám sv ngoại quốc đó chính là hình ảnh T.Hoàng và Vinh thân mật bóp cổ nhau tạo hình vui nhộn, cả 2 đều cười rất tươi. Bức ảnh chụp bằng dslr nên chất ảnh rõ nét, zoom hình lên tôi có thể khẳng định là mình nhìn ko nhầm. Từng mảnh ghép trí nhớ lướt nhanh qua đầu, T.Hoàng từng 1 lần đến X tìm Ngọc nhưng ko gặp, khi đó anh ta trực tiếp giáp mặt Vinh nhưng cả 2 đều tỏ ra lạ lẫm ko quen biết. Tại sao lại vậy chứ??? T.Hoàng vừa du học về, Vinh qua lời tay Trường kể cũng từng tốt nghiệp bên nước ngoài, thậm chí còn từng làm cho cty đối thủ của X. Băn khoăn là vậy nhưng ko biết phải cắt nghĩa ra sao. Suy nghĩ 1 hồi tôi mới tỉnh ngộ giờ mình chẳng còn chút nào liên quan gì đến X và gđ Ngọc. Vậy có nghĩ cũng chẳng để làm gì, có thể T.Hoàng và Vinh khi đó gặp nhau chỉ là lần gặp gỡ duy nhất. Sau vài năm có quên cũng là bình thường. Còn chưa kể nếu là người giống người, dù điều này rất khó xảy ra. Nhưng nếu họ thực sự quen nhau, thậm chí là bạn của nhau thì sao? Nếu thật thì tại sao lại phải "đóng kịch"? Phân vân trước nhiều quyết định thì cứ nên chọn những quyết định sao cho sau này khỏi phải hối tiếc nhiều nhất "tại sao ngày xưa mình lại ko làm vậy". Nghĩ vậy tôi bèn lấy máy gọi cho KN, màn hình đt vẫn hiện lên dòng chữ "a.Nguyên" quen thuộc. ---- Đến SG vào 1 ngày mưa lớn, ngày trước cùng KN ra vào thường xuyên nên tôi cũng đã quen với thời tiết trong này. Mấy ngày đầu ăn uống có phần hơi kém vì chưa quen khẩu vị. Sau lọ mọ, tự đi tìm tòi quanh TP rồi lượn lờ sang hẳn vài tỉnh thành lân cận. Mỗi lần đều đi tới mệt lả, đói meo mới ăn uống nên dần dà cũng quen dần khẩu vị. Người dân trong này thân thiện và nhiệt tình hơn nên tôi "khoái" họ lắm. Sau hơn tháng làm quen và cảm nhận dần nhịp sống trong này thì tôi cũng tìm đc cv mới. 1 cty về xnk mà Trà giới thiệu, ban đầu tôi cũng ko nghĩ là mình sẽ làm cv này đâu nhưng hơn 1 tháng sống trong này, tư tưởng thoải mái dần nên tôi cũng có chút hứng khởi với cv mới mẻ này. Dù sao thì cuộc sống vốn đc tạo thành từ vô vàn những trải nghiệm. Thay mới những điều đã cũ cũng giúp bản thân có những góc nhìn mới mẻ hơn. Cv mới yêu cầu đi lại nhiều từ cty cho tới thực địa xuống hiện trường. Hàng ngày tiếp xúc với giấy tờ, chứng từ, invoice... các loại thủ tục, luật định... Nói chung cũng đủ để cả ngày bận rộn, dù vậy tôi vẫn chưa quên đc cảm giác làm việc ở X... và Ngọc... ---- 1 ngày, thằng ku Hải (thằng em ngày xưa cùng học boxing, giờ làm cho cty anh họ tôi) vào SG ăn cưới tiện thể thăm tôi, nghe nó nói chuyện mới biết cty anh họ tôi đang gặp khó khăn về tiền vốn. Nợ quyết toán từ các chủ đầu tư chưa đòi đc nên đã đến nc phải vay lãi cao để trả lương và các chi phí. Tôi gọi điện trách ông ấy vì sao ko chia sẻ rồi lập tức xin nghỉ, cùng Hải bay ra HN. Ae bàn bạc thống nhất rút hết tiền bán nhà của tôi hỗ trợ anh họ trả nợ. Mặt khác tôi quyết định gọi điện hẹn gặp KN. Định trực tiếp đến X nhưng anh ta dời điểm hẹn sang quán bar mà ngày trước cả 2 vẫn hay đến. - Là cty của anh họ cậu??? Lý do tôi hẹn gặp KN chỉ đơn giản là về việc thanh quyết toán cho công trình của anh họ. Từ đầu đến cuối cuộc gặp chỉ có vài phút mà ko nói thêm bất cứ 1 chuyện gì khác. - Thôi đc rồi, về khoản quyết toán cho cty anh cậu tôi sẽ có quyết định sớm nhất. Còn có điều này... tôi vốn vẫn thắc mắc... tại sao hồi đó cậu lại nói với tôi về chuyện giữa Vinh và T.Hoàng. Tôi nhớ lúc đó tôi đối xử với cậu khá tệ mà. -À cái này... thực ra em làm ko vì gì cả. Em nói với anh chỉ vì ko muốn sau này phải cảm thấy tiếc nếu có chuyện gì đó xảy ra thôi. Cám ơn anh vì cuộc gặp hn, hy vọng vấn đề quyết toán của anh em sớm đc giải quyết. KN nghe tôi nói vậy chỉ nhẹ gật đầu, đoạn tiếp tục ngồi lại uống rượu mặc cho tôi rời đi ---- 3 tuần sau cuộc gặp KN, tôi nhận đc tin từ anh họ thông báo công trình bên X đã đc duyệt quyết toán 100%. Vấn đề tài chính cty tạm thời đc giải quyết dù vẫn còn vài chủ đầu tư khác nấn ná trì hoãn. Tôi hài lòng với lời hứa của KN, vừa suy nghĩ chuyện cảm ơn anh ta thì U.Nhi gọi tới. Hơi bất ngờ vì con bé tự dưng lại liên lạc nhưng sau khi nghe điện tôi còn sốc hơn vì loạt sự việc vừa xảy ra. Là tin đồn về việc Y lôi kéo thành công vài nhà đầu tư đột ngột rút vốn khỏi dự án đang triển khai của Q trên nền 4 khu đất đấu giá cùng 1 vài dự án khác. Điều tương tự cũng đc X giành cho Z với tổ hợp dự án mà cả 2 đang hợp tác. Bất ngờ bị thoái vốn đồng loạt như rút dao găm khỏi vùng động mạch chủ. Cả Q và Z đồng thời thiệt hại nhưng Q thê thảm hơn nhiều vì phương thức kd "trèo cao nhờ phụ thuộc nguồn vốn liên kết". Đến giờ khi các nguồn vốn này đồng loạt rút khỏi, liền khiến Q hoàn toàn đổ sập. Người ngoài nhìn vào thì tha hồ đặt giả thiết và phân tích, về phần tôi chẳng mất công cũng đc U.Nhi bật mí sự thật. Số là bắt nguồn từ việc KN cho it kiểm tra Lap của U.Nhi, phát hiện máy con bé bị dính phần mềm gián điệp sao chép các nội dung. Truy ngược theo các dữ kiện, bức ảnh của Vinh - T.Hoàng và mqh ngày 1 thân mật giữa Vinh và Nhi thì kẻ "gián điệp" ko ai khác chính là anh ta. KN sau đó thực hiện 1 cuộc trao đổi q.trọng với G.Huy. Biết đc biên bản ghi nhớ giá ngày trước với W đc 1 người ko tên gửi đến cho G.Huy. Sau khi xâu chuỗi các mối hợp tác liền nghi ngờ Z giả quỷ giả thần tài chính của chính mình. Nhún nhường ký giao kết cùng X nhưng sự thật sau lưng lại ngấm ngầm lên kế hoạch thao túng. Tranh thủ ô.Luân tan giã với X và tình hình rối ren khi ct Đặng qua đời. Z đứng sau lôi kéo hùn 1 phần vốn giúp Q qua mặt X mua lại 4 khu đất đấu giá. 1 mặt lại giật dây Q hợp tác với Y, lợi dụng mqh đối thủ cạnh tranh giữa X và Y để mượn 1 phần tay Y "đánh" cho X mệt mỏi. Lúc bấy giờ Z mới ra mặt huy động nguồn vốn góp giúp X với lòng tin là 1 đối tác quen thuộc. Mặt khác tận dụng sức ảnh hưởng hối thúc hôn gia của Ngọc với T.Hoàng. Theo di chúc của ct Đặng thì Ngọc đc thừa hưởng 1 số cổ phần ko hề nhỏ. Chỉ cần T.Hoàng khôn khéo dùng tình cảm lay động đc Ngọc là hoàn toàn có thể khống chế số cổ phần đó để ngày càng tiến sâu hơn vào trong lòng X. Đối tác quen thuộc, bạn thân lâu năm tất cả cũng ko bằng 1 chữ Tiền, cả 3 bố con họ Trần này quả thực quá độc. G.Huy sau khi phán đoán người gửi biên bản kia có thể chính là Vinh - 1 người bạn, người thân của T.Hoàng đc cài vào X - mới đinh ninh cty Y của mình bị lợi dụng trắng vốn. Tất nhiên anh ta khá giận dữ nhưng đề nghị sau đó của KN cũng giúp anh ta giãn ra phần nào. 1 vài cổ đông trong Q vốn đã bị KN lôi kéo thành công trước đó. "Giá trị lôi kéo" này hiện tại vẫn còn khi KN huy động 1 lượng tiền dựa trên sự hợp tác với gđ Trà. Chỉ cần thêm 1 cú sốc lớn đủ khiến Q sảy chân là X lập tức có thể thâu tóm số cổ phần này, sau đó nhượng quyền lại cho Y. Lôi kéo đủ đến mức quá bán thì việc thâu tóm sát nhập cty Q, tất cả đều nằm trong tay G.Huy. Chính nhờ đề nghị hấp dẫn đó mà Y chấp nhận bắt tay X, "tiêu diệt" Q và "đánh" tả tơi Z như diễn biến tài chính trong suốt những ngày vừa qua. Nghe tin này xong tôi cũng chỉ cảm thấy phần nào an ủi vì nỗi oan ức của mình đc minh bạch. Dù vậy, tất cả mọi cảm xúc cũng chỉ dừng lại ở đó mà thôi vì hiện tại tôi đã ko còn là người của X nữa. ---- Chiều hn, lúc ra bãi lấy xe để xuống hiện trường thì tôi bất ngờ bị 1 cơn đau quằn quại nhói lên ở vùng bụng. Đau đến phải cúi gập người xuống vì khó thở. Đáng nói cơn đau này ko phải là lần đầu tiên, nó đã xuất hiện suốt nửa tháng nay, lúc đau nhiều đau ít biểu hiện rất thất thường. Nhiều lần định đi khám nhưng ngại vì lý do cv nên tôi đều khất lần. Dùng thuốc giảm đau có đỡ nhưng cơn đau vẫn ko dứt điểm. Sau nhiều trì hoãn, cuối cùng vẫn phải lê thân đến bv. Tưởng chỉ là đau bụng bình thường nhưng hóa ra nó lại phức tạp hơn tôi nghĩ. Phải qua 2 lần khám tại 2 bv khác nhau mới phát hiện đc nguyên nhân cơn đau là do 1 khối u nằm ở phúc mạc (nếu bạn nào đọc từ những ngày đầu hẳn vẫn nhớ có lần mình nhắc về bệnh này và thỉnh thoảng vẫn bị đau bụng, phải dùng thuốc). Bác sĩ trấn an chưa có kết quả xét nghiệm chưa cần quá lo lắng nhưng tôi biết bệnh này ko hề đơn giản như ông ta nói. "- Gen nhà mình có mầm ung thư thì phải, trong họ có 2 chú bác đều mất vì "thằng" này. Mày cũng phải cẩn thận đấy, đi làm ăn uống tiếp khách chừng mực thôi. Tiền nhiều hay ít cũng ko q.trọng bằng sức khỏe đâu." Lời anh họ cảnh báo hồi tôi mới ra trường văng vẳng vang lên trong đầu. Bác và chú tôi đều mất vì K, đặc biệt chú tôi cũng bị chính căn bệnh K phúc mạc này hành hạ. Cơn gió nhẹ sau cơn mưa thổi qua mát mẻ nơi hành lang bv. Bước ra khỏi phòng khám, tôi thoải mái hít hà trọn vẹn từng luồng khí mát. Thấy lòng mình nhẹ tênh 1 cảm giác thanh thản ko lo sợ, ko vướng bận. Tâm lý buông lơi bản thân, sẵn sàng chấp nhận mọi an bài của số phận. Chỉ 1 quãng đường từ bv về cty mà rất nhiều suy nghĩ, hình dung ko ngừng hiện lên trong đầu tôi. Nếu là u lành tôi sẽ tiếp tục sống, tiếp tục 1 cuộc đời với nhiều trải nghiệm đang chờ đợi. Còn là u ác... thì sao chứ, tôi sẽ ko mất tg vào việc nằm 1 chỗ để điều trị. Thay vào đó sẽ là những chuyến du lịch, đi nhiều nơi nhất có thể cho đến lúc chết. Khi ấy chết cũng là chuyến đi cuối cùng đưa tôi đoàn tụ cùng bố mẹ và đứa em trai bé bỏng. Hầu hết mọi thứ đều đc tôi lạc quan hóa, duy chỉ có Ngọc là vẫn còn đó sự băn khoăn. Nếu tôi chết đi, sẽ ko còn đc cùng cô ấy hít thở chung 1 bầu trời nữa. Ngọc vẫn chưa yêu ai khác kể từ khi chúng tôi c.tay, mặc cho T.Hoàng trong tg đó ra sức tấn công, bày tỏ thiện chí. Biết đc những điều này đều do Trà tâm sự. Cô ấy dạo này thường qua lại với KN và gđ bên đó nên có thể chứng thực việc Ngọc vẫn chưa quên đc tôi. Nếu còn nặng tình vậy, hẳn cô ấy sẽ đau lòng lắm nếu bệnh tình của tôi xấu đi. Xuân chóa tiện công tác ghé qua thăm, tình cờ nhìn thấy đống hồ sơ bệnh án liền trách móc tôi rất nhiều vì ko thông báo gì cho mn, chỉ biết "ích kỷ" âm thầm chịu đựng 1m. Tôi biết nó mắng đúng nên chi đành cười gượng nhờ nó giữ bí mật cho đến khi có kết quả xét nghiệm chính thức. ---- Nghĩa trang quê tôi... đêm qua mưa to mà sáng nay trời cứ phủ 1 làn sương mỏng se lạnh. Không gian trở nên tĩnh lặng nơi những lối đi ngăn cách những nấm mồ. Tôi hơi co người lại vì lạnh, lững thức bước từng bước men theo con đường đất, nơi trông ra 1 khuôn viên với những cây bằng lăng xòe tán rộng. Tiếng xào xạc mỗi lúc một rõ rệt... tựa tay lên những nấm mồ thở dốc. Bây giờ, nhiều lúc tôi thấy mình thật giống 1 ông lão 80, chỉ lê mình đi cũng đã mệt phờ vì cơn đau quặn nơi thành bụng ... Cái sức sống của tuổi 25 biến đi đâu mất sạch rồi? Tôi bặm môi, bước tiếp, có lẽ liều thuốc hq vẫn còn tác dụng... Cố đi đến đầu hồi, tôi ngồi xuống ngẩng mặt lên nhìn bầu trời nhưng ko thấy gì cả ngoài 1 tán lá dày đen thẫm, xuất hiện lỗ chỗ những vệt sáng của ánh nắng nhạt mờ mờ phía trên. Để tâm trí trôi đi lặng lẽ... gió hình như cũng thổi mạnh hơn. Chợt phát hiện bên thân cây trước mặt đâm ra 1 chồi non nho nhỏ, đứng cô đơn trơ trọi 1m. Nhìn chồi xanh ấy sao cô đơn giống cuộc đời tôi thế. Gục mặt xuống cánh tay, chơi vơi trong 1 mớ tâm trạng không định hình nổi. Lặn sâu trong đó là nỗi nhớ vẫn thường bị tôi cố tình chôn lấp. ...Đã nửa năm rồi! Thế là anh cũng đã sống mà ko có em 1 cách đúng nghĩa trong từng ấy tg. T.gian đi qua trước cửa, giống như là t.gian chết...vô hồ. Ko biết giờ này cô ấy ra sao? Đang vui hay buồn? Tôi ko kìm lòng nổi, thốt lên 1 tiếng thở dài xen lẫn tiếng gió da diết lẫn trong những tán lá... - Ngọc ơi... anh nhớ lắm... anh yêu em!!! - Em cũng yêu anh!!! Tôi ngẩng mặt lên vì giọng nói quen thuộc, chỉ 1s sau nc mắt như muốn trào ra. Buông rơi hết mọi suy nghĩ trước đó, tôi giang rộng 2 tay ôm bóng dáng đang đứng trước mặt mình vào lòng. Ngọc cũng ôm chặt lấy tôi, nức nở như một đứa trẻ... thì thầm giữa những tiếng nấc. _ Sao lại bắt em chờ lâu thế? Sao lại thế hả? Anh vẫn yêu em mà, phải ko? _ Anh xin lỗi! Tôi đẩy đầu Ngọc ra xa hơn một chút để có thể nhìn rõ hơn, niềm hạnh phúc ánh lên trong mắt sau nhiều ngày xa cách. - Em lạnh ko? - Ko, có anh ôm em rồi mà. - Ừm... mà sao sớm thế này em đã ở đây làm gì vậy? - Mộ "bố mẹ và em trai"... đầu tháng và rằm ngày nào em cũng về thắp hương mà. - Thật thế ư? - giờ tôi mới hiểu vì sao mấy ngôi mộ của gđ dạo gần đây lúc nào cũng tươm tất và thay hoa liên tục. - Có gì ko thật chứ, cũng như anh hay đến thắp hương bố em thôi mà. - Ơ, sao em biết... em nhìn thấy ah? - Từ hồi anh còn chưa vào SG cơ, nhìn anh loay hoay cắm đám cúc vào lọ em thương lắm nhưng vì ghét nên chỉ đứng từ xa nhìn vậy thôi. - Anh xin lỗi nhưng anh thề là chưa làm gì có lỗi với em cả. Chuyện hôm đó với T.Dương chỉ là... - Ko cần nói nữa, em tin anh mà - Ngọc đưa tay lên miết lấy môi tôi. - ... Xa nhau rồi em mới biết là mình chỉ cần đc yêu anh thôi... - Uhm, nhưng mà... anh hiện tại.. anh hiện tại đang bị... - Xuân kể với em rồi, là bệnh thì sao chứ, sống chết thì đã sao. Chỉ cần biết mình yêu nhau trọn vẹn như lúc này thôi là em thấy mãn nguyện rồi. Nghe Ngọc nói vậy, tôi cúi xuống hôn nhẹ lên viền môi hồng hồng của cô ấy. Bầu trời hình như đã tan bớt mây mù, nắng đã có màu vàng rám hơn rồi. Tình yêu chân thành vượt qua những lo âu, những hy sinh riêng lẻ, những hiểu lầm, những khổ đau... cuối cùng trở về nơi chúng xứng đáng đc trân trọng. Mãi mãi ko mất đi hạnh phúc. P/s: 2 ngày sau Ngọc theo tôi bay vào SG nhận kết quả xét nghiệm. Cả 2 đều xác định trước tâm lý và "lịch trình" riêng cho mỗi tình huống tốt hoặc xấu. Ngọc nắm chặt tay tôi trên suốt quãng đường đến bv. Tôi trấn an cô ấy ko phải nghĩ nhiều nhưng bản thân giờ phút ấy chính là tột cùng căng thẳng. Kết quả xét nghiệm: âm tính, ko phát hiện có tế bào ung thư. Mời các bạn đón đọc Dòng Đời Nổi Trôi của tác giả Lê Vũ Trọng Nghĩa.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sự Tha Thứ Muộn Màng
Sự Tha Thứ Muộn Màng Maxence Van der Meersch Nguyên tác: L'Empreinte du dieu NXB: Albin Michel Dịch giả:  chưa rõ Nhà xuất bản: Lao Động - 1989 Đoạt giải Goncourt năm 1936 ​ Maxence Van der Meersch từng tốt nghiệp ngành Luật, nhưng lại có niềm đam mê đặc biệt với văn chương. Tác phẩm đầu tay - La Maison dans la dune (1932) - đã đặt nền móng cho sự nghiệp sáng tác của ông. Năm 1936, Maxence Van der Meersch gây tiếng vang lớn với tác phẩm L’Empreinte du dieu (Dấu ấn của Chúa), được trao giải Goncourt danh giá. Đến năm 1943, tài năng văn chương của ông tiếp tục được khẳng định với tiểu thuyết Corps et Âmes (Thể xác và Tâm hồn) - Giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp năm 1943. Maxence Van Der Meersch (1907 – 1951) là nhà văn nổi tiếng của văn học Pháp thế kỷ XX. Tiểu thuyết "Thể xác và tâm hồn" của ông đã được giải thưởng lớn về tiểu thuyết của Viện Hàn lâm Pháp năm 1943. Trước đó năm 1936 ông đã được nhận giải Goncourt danh giá cho tác phẩm "Dấu ấn của Chúa" (L'Empreinte du Dieu). Mời các bạn đón đọc Sự Tha Thứ Muộn Màng của tác giả Maxence Van der Meersch.
Người Cân Linh Hồn
Anh cho rằng nếu có thể hợp nhất từng nguyên tử của hai linh hồn vốn đã gắn kết sâu xa thì sẽ xuất hiện một trạng thái ưu việt hơn. Dưới bề ngoài châm biếm, James là người đa cảm. Anh hết lòng tin tưởng vào tình bạn, và tình yêu. Lần thí nghiệm duy nhất còn lại mà anh đã nói sẽ phụ thuộc vào cơ may cho anh gặp được hai con người, ngay lúc họ lâm chung, mà trong cuộc đời họ vốn đã có sự gắn kết hoàn hảo: anh sẽ cố hợp nhất họ một lần nữa khi họ chết. --- Tôi tắt đèn và không nén được tiếng kêu thảng thốt. Một khối cầu ánh sáng đang rực lên trên bệ lò sưởi với ánh hào quang phi thường. Không thể so sánh nó với bất cứ thứ gì ngoài vầng trăng rằm trên bầu trời đêm hè trong vắt, ở Hy Lạp hay phương Đông. Đó là một viên ngọc sáng ngời và trong lòng sâu là những luồng chuyển động còn rạng rỡ hơn, một thứ kim cương lỏng bốc cháy quay cuồng như một tinh vân lấp lánh. Tôi đã viết khá nhiều sách, một số là sách tiểu sử, một số là tiểu thuyết. Lạ thay, ở Pháp tôi lại có tiếng là tiểu thuyết gia trong khi ở Anh và Mỹ thì sáng tác của tôi lại ít thành công, còn sách tiểu sử lại được đón nhận tốt. Ngoại lệ duy nhất là một truyện đã xuất bản từ năm 1931 – NGƯỜI CÂN LINH HỒN. Ý tưởng của câu chuyện này, hoàn toàn hư cấu, đã nảy sinh trong Đệ nhất Thế chiến. Nhiều bằng hữu và người thân của tôi đã thiệt mạng vì chiến tranh nên việc tôi hay nghĩ đến cái chết có lẽ là điều tự nhiên. Giai đoạn ấy tôi có đọc trên một nhật báo có hai dòng tin tức về một bác sĩ điên nào đó đã cân tử thi của những người vừa lìa đời, nhưng phải rất lâu (bảy hay tám năm sau) ý tưởng truyện này mới hình thành. Rồi một hôm, ở London, tôi gặp một bác sĩ người Anh đúng ngay mẫu nhân vật mà tôi cần đến, và nhờ động lực này mà truyện được viết xong trong vòng hai tuần. Nhiều độc giả cứ tin là chuyện có thật. Ngay cả bây giờ, sau hơn 30 năm, tôi thỉnh thoảng vẫn nhận được một bức thư hay điện tín từ một nước xa xôi, hỏi rằng: “NGƯỜI CÂN LINH HỒN có thật không?” Khi viết, tôi đã dốc lòng viết sao cho câu chuyện đáng tin và thậm chí còn nhờ một bác sĩ Pháp danh tiếng thời đó, Jean Perrin, nghĩ ra cho tôi một kiểu thiết bị khoa học, một yêu cầu mà ông ấy đã thực hiện vui vẻ và chu đáo. (trích tự thuật của André Maurois cho bản dịch tiếng Anh “The Weigher Of Souls” – Macmillan 1963) *** Với “Người cân linh hồn”, tác giả Andre Maurois đã dẫn dụ người đọc vào thế giới nội tâm kỳ lạ của con người. Thế giới không thể lý giải rõ ràng, chỉ có thể cảm nhận bằng tình yêu. Tác phẩm Người cân linh hồn (nguyên tác tiếng Pháp Le peseur d’âmes) của nhà văn Pháp André Maurois, vừa được tái bản tại Việt Nam qua bản chuyển ngữ của dịch giả Đăng Thư vào tháng 12/2018. Người cân linh hồn là một câu chuyện giả tưởng, bắt nguồn từ niềm tin vào sự tồn tại của linh hồn con người sau khi chết của bác sĩ James tại bệnh viện Saint Barnaby. Những thí nghiệm về người chết của ông được tiến hành bí mật cùng với sự theo dõi của người kể chuyện. “Sự bất tử của linh hồn” là nỗi băn khoăn của con người qua nhiều thời đại. Các ngành khoa học tâm linh đều luôn nỗ lực hết mình để tìm kiếm và lý giải những bí ẩn. Tuy vậy, linh hồn của con người thực sự tồn tại hay không, chưa ai có thể trả lời. Hình dạng của linh hồn ra sao, không ai nhìn thấy được. Theo các nhà khoa học đã nghiên cứu trước đó, “có tồn tại linh hồn, và linh hồn cân nặng 0,17 miligram”, và James cũng đã bắt đầu tiến hành cân tử thi sau khi cái chết xảy ra. Khi tiến hành cân tử thi, anh đã nhận thấy trọng lượng sụt giảm trong khoảng từ 0,75 tới 0,95 miligam. Dù tìm cách cân linh hồn, James rõ ràng không hề muốn biến linh hồn thành một thứ vật chất, “vì linh hồn kết nối với cơ thể để diễn đạt những ý nghĩa của nó, cho nên cũng có khả năng là sau khi từ bỏ cơ thể, linh hồn sẽ kết nối với nguồn năng lượng bí ẩn mà chúng ta đã nhận thấy qua hiện tượng lìa khỏi thân xác”. Sau những thí nghiệm kỳ lạ ấy, James đã thành công khi kết nối được linh hồn của hai người anh em để họ có thể ở bên cạnh nhau lâu hơn nữa sau khi chết. Chiếc lọ thủy tinh chứa đựng thứ ánh sáng lấp lánh phát ra từ việc hai linh hồn hòa quyện với nhau. Tại sao James lại khao khát muốn làm những thứ nghiệm để chứng minh sự tồn tại của linh hồn con người sau khi chết đến vậy? Những lớp lang ngữ nghĩa được gợi lên có thể khiến độc giả gật gù nhận ra Andre Maurois đây rồi. Dù được “hóa trang” bằng lớp vỏ giả tưởng, nhưng câu chuyện của Andre Maurois chỉ có mục đích đi sâu vào tâm tư của con người, cho con người cơ hội bộ bạch những bí ẩn của mình. James hiện ra không còn là một bác sĩ tài năng, say mê khoa học, ông còn là kẻ mị tình. James mang trong mình tình yêu si mê, tôn thờ với Hilda, cô gái Đan Mạch tuyệt đẹp. Nhưng rồi, cô ấy không còn sống trên đời bởi một tai nạn bi đát. James chưa bao giờ nguôi ngoai nỗi đau đớn ấy. Anh khao khát điều gì, giá anh có thể cứu sống linh hồn của người yêu, giá anh có thể giữ mãi linh hồn của người yêu ở bên cạnh mình. Nhưng vào giây phút ấy, anh chưa tìm được cách. James khi đã là người đàn ông lớn tuổi, đã gặp gỡ Philipps xanh xao và thơ ngây. Nàng có khuôn mặt giống với Hilda, nàng là diễn viên sân khấu tài năng, nhưng ở nàng toát lên vẻ ngắn ngủi tàn lụi. Là bác sĩ, James nhận rõ đoạn đời quá ngắn của nàng, và anh đã chọn ở bên cạnh nàng cả đời. Đám cưới và hạnh phúc quá ngắn ngủi. Giữa những đoạn ấy, James đã từ bỏ nghiên cứu, dành toàn thời gian cho người vợ yếu ớt của mình. Rồi bí ẩn lại tiếp tục được hé mở khi Philipps chết, và James đã uống thuốc độc để có thể chết cùng với nàng. Tại sao? Bí ẩn đến tận giây phút cuối cùng, mới được soi tỏ. Người kể chuyện đồng thời là người bạn tri kỷ, người đã chứng kiến những thí nghiệm kỳ quái của James đã được trao lại một tâm nguyện quan trọng. Andre Maurois đã thể hiện khả năng miêu tả nội tâm sâu thẳm của con người vô cùng xuất sắc bằng ngôn ngữ thấm đẫm chất thơ mộng u sầu. Đọc Người cân linh hồn, độc giả sẽ vừa ngạc nhiên bởi cốt truyện kỳ lạ, vừa say đắm bởi những ý tứ tinh tế và đẹp đẽ được gợi lên của tâm hồn. Với Người cân linh hồn, Andre Maurois đã dẫn dụ người đọc vào thế giới nội tâm kỳ lạ của con người. Thế giới không thể lý giải rõ ràng, chỉ có thể cảm nhận bằng tình yêu. *** Tôi đã do dự rất lâu trước khi đặt bút viết lại câu chuyện này. Tôi biết chuyện sẽ khiến những ai từng thân thiết với tôi sẽ kinh ngạc, và sẽ khiến không chỉ một người khó chịu mà thôi... Một số sẽ hoài nghi thiện ý của tôi, số khác sẽ ngờ vực lương tri người viết. Chính tôi đây cũng sẽ có ý nghĩ như vậy nếu như tôi đã không ngẫu nhiên thành nhân chứng tình cờ và phản kháng những gì mà tôi sắp thuật lại. Tôi ý thức rõ sự phi lý rành rành của chúng tới mức tôi không hề kể lại chuyện đó cho những người thân thiết nhất của mình. Và nếu bây giờ tôi quyết tâm phá bỏ sự im lặng này thì lý do là tôi thấy mình không có quyền phó mặc cho vật duy nhất còn lại làm bằng chứng cho giấc mộng kỳ lạ ấy bị hủy hoại sau khi chính tôi lìa đời. Trước khi độc giả bác bỏ những lý thuyết của bác sĩ James như là điều hoàn toàn bất khả, tôi xin quý vị đừng quên một điều là tôi vốn tin mình có tâm tính cực kỳ cẩn thận. Như mọi người tôi cũng có nhiều điểm say mê và yếu kém; tôi vẫn luôn cố bảo toàn óc suy xét của mình. Trong khoa học, trong siêu hình học, trong chính trị, và ngay cả trong đời sống tình cảm, tôi luôn coi trọng việc đừng bao giờ nhầm lẫn mong muốn riêng tư với chứng cứ. Không phải lúc nào tôi cũng làm được điều đó, nhưng có lẽ tính thận trọng thường trực ấy sẽ giúp ích cho tôi bất cứ lúc nào tôi cần đến lòng tin của mọi người. Còn một lý lẽ nữa cũng ủng hộ tôi: những sự việc tôi phải thuật lại đúng là bất ngờ, nhưng bản chất của chúng thì không phải là không thể kiểm chứng. Một vài cuộc thí nghiệm đơn giản mà bất kỳ nhà vật lý, nhà sinh vật hay bác sĩ nào cũng có thể dễ dàng làm lại, sẽ cho thấy rằng các lý thuyết của James - dẫu bị coi là phi lý - cũng đều căn cứ vào quan sát thực tế. Tại sao tôi không tự mình làm tiếp những thí nghiệm này? Tại sao phải đợi khi mình đã chết rồi mới công bố chúng? Với tôi điều này không dễ giải thích. Yếu tố chính là thói nhút nhát, tôi nghĩ thế, cùng với bản tính ghét vướng bận với những chuyện rắc rối nào đó. Hoàn cảnh đã khiến tôi thành nhà văn, chứ không phải nhà khoa học. Tôi không có điều kiện tiến hành công việc ấy trong một bệnh viện hay phòng thí nghiệm. Tôi ngại tiếp xúc những người mà với họ tôi chỉ là kẻ ngoại đạo, với hy vọng có thể khiến họ quan tâm đến một hiện tượng, như tôi biết, sẽ mâu thuẫn với các quan niệm của họ. Tôi ân hận vì mình đã nhu nhược, và tôi sẽ vui mừng nếu như việc công bố hồi ký này lại khơi gợi cho những trí tuệ táo bạo một khao khát tiếp bước người bạn bất hạnh của tôi trong việc thăm dò một thế giới mới, vốn hiểu biết thu thập được từ đó biết đâu lại dẫn đến nhiều kết quả có tầm quan trọng lớn lao. დღდ Tôi quen bác sĩ James trong thời chiến. Chúng tôi lần đầu gặp nhau trên một cánh đồng bùn sình xứ Flanders, và giữa một nhóm người Anh vui vẻ, mạnh khoẻ, hai gò má cao hốc hác cùng vẻ mặt đau khổ của anh lập tức tạo ấn tượng với tôi. Anh được biệt phái theo đơn vị quân y của sư đoàn mà tôi đang làm sĩ quan liên lạc cho quân Pháp. Chúng tôi lập tức thân nhau ngay, và bất kể nỗi kinh hoàng của thời gian và khung cảnh ấy, những tháng tôi sống ở Ypres Salient làm bạn cùng anh đã để lại trong tôi những kỷ niệm hầu như có thể nói là vui thú. Giữa hai chiếc giường cá nhân của chúng tôi là một thùng bánh quy dùng làm bàn và tủ sách. Buổi tối, khi tiếng đạn pháo rú trên cao bắn về hướng Poperinghe và tiếng vải lều bạt ướt đẫm quật phành phạch trong gió đã cướp mất giấc ngủ, chúng tôi lại thì thầm trò chuyện về những kẻ điên khùng và những nhà thơ. Tôi thích người bạn ấy. Dưới cái vẻ ngoài hoài nghi đó, tôi đã có lúc thoáng nhìn ra cái tâm hồn can trường và đa cảm bên trong. Anh kín đáo tới mức tôi cùng sống bên anh hàng ngày suốt nhiều tháng liền mà không hề biết anh đã có vợ con gì chưa. Chiến tranh kết thúc đã chia lìa tình bạn này, cũng như nhiều mối thân quen khác. Suốt một năm chúng tôi thư từ qua lại, và nhờ đó tôi biết James đang làm việc cho một bệnh viện ở London. Sau đó một trong hai chúng tôi (người nào thì bây giờ tôi không nhớ) đã không trả lời thư của người kia. James trở thành một hình ảnh vẫn giăng mắc trong ký ức tôi như một ảo ảnh, như một nhân vật trong tiểu thuyết. Và cuối cùng tôi thôi nghĩ đến anh, ngay cả trong mơ, cho đến mùa xuân năm 1925. Trong năm ấy tôi có dịp đi London một thời gian dài vì mấy công việc nghiên cứu ở Viện bảo tàng Anh. Tôi ở đó một mình, khá mệt mỏi và ức chế vì công việc liên miên quá nhiều. Một sáng nọ trời nắng rực rỡ tới mức tôi không có can đảm giam mình trong phòng đọc. Suốt một hai phút gì đó tôi đứng ngắm đàn bồ câu dưới hàng cột kiểu La Mã của viện bảo tàng, trông vừa thân thuộc vừa xa cách như hàng cột của Vương cung thánh đường Saint Mark. Tôi cứ đứng trầm ngâm. Thực tế đã buộc tôi phải hiểu ra là sự cô đơn này - dù khá lành mạnh trong một thời gian ngắn - giờ càng lúc càng không thể chịu đựng nổi. Thế nhưng tôi đâu có thiếu bạn bè người Anh - tại sao tôi không thử tìm họ đi? Những buổi tối mà gặp gỡ một anh chàng thông minh như bác sĩ James chẳng phải không thú vị sao? Tôi đã quên mất địa chỉ anh ấy, nhưng dò tìm một bác sĩ thì chẳng khó chi; và khi quay lại phòng đọc, tôi tìm ra trong cuốn danh bạ y tế có tên một ông Tiến sĩ H. B. James, là bác sĩ nội trú ở bệnh viện Saint Barnaby. Tôi quyết định gác lại công việc của sáng hôm đó, và đi tìm bạn. Bệnh viện Saint Barnaby nằm ở phía nam sông Thames, trong một khu đông dân cư chạy dài đến bên kia cầu Blackfriars. Việc băng qua con sông gần đó luôn là điều khiến tôi thấy lạ lùng và hấp dẫn. Sông Thames ở đoạn này là biên cương của hai thế giới. Ta rời khỏi London kiến trúc thời Phục hưng và Gô-tích, London của những ô vuông bàn cờ, của những bờ đê có hàng cây dưới những đại khách sạn, của dòng xe buýt màu đỏ lũ lượt, để tới một thành phố của nhà máy và kho hàng, những bức tường trần trụi, và những cột ống khói thô lỗ. Và sự tương phản sáng hôm đó càng áp đảo mạnh mẽ hơn khi tôi đang băng qua cầu thì một đám mây lớn bỗng dưng che khuất mặt trời. Mời các bạn đón đọc Người Cân Linh Hồn của tác giả André Maurois.
Mưa Trong Thành Phố Lạ
Granin Daniil Alecxandrovich sinh ngày 1 tháng 1 năm 1919 tại thành phố Volưn trong gia đình của một người gác rừng. Sau khi tốt nghiệp phổ thông, D. Granin vào học khoa cơ khí điện của trường ĐH Bách Khóa Leningrad. Tốt nghiệp năm 1940, ông trở thành kỹ sư năng lượng. Năm 1941, ông tình nguyện xin đi lính bảo vện Leningrad, chiến đấu ở cùng ven biển Bantich. Sau chiến tranh, ông hoàn thành luận án phó tiến sĩ ngành kỹ thuật điện tử. Tuy là nhà hoạt động khoa học , nhưng tài năng của ông lại hiểu biện rực rõ hơn ở lĩnh vực văn học. Năm 1954, ông cho ra đời tiểu thuyết đầu tay " Những người kiếm tìm" thu được thành công lớn. Tiếp đó là các tiểu thuyết: Sau ngày cưới( 1958), Đi tới giông bão ( 1962), Kỹ lạ thế đấy cuộc đời này ( 1974) và Klavdia Vilor - tác phẩm đem lại cho Granin giải thưởng Quốc gia Liên Xô năm 1978. Năm 1980 ông cho ra đời tiểu thuyết "Bức tranh", là một trong những tác phẩm được đánh gia cao nhất đầu những năm 80. Năm 1988, trên tạp chí Nheva xuất hiện hàng loạt truyện ngắn của Granin như: Thiên thực, Bên cửa sổ, Tiến thoái lưỡng nan, Tiểu thuyết về Pie Đại Đế. Những nhân vật trong tác phẩm của ông thường là các nhà khoa học luôn vượt qua mọi khó khăn để thực hiện những mục tiêu cao cả, có trách nhiệm với công việc và xã hội. Quan hệ con người trong sự phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật là chủ đề chính trong tác phẩm của nhà văn. NXb Kim Đồng  *** Chiều chiều, những người đi công tác xa đến hoặc những người vẫn tự nhận mình là khách ở đây thường hay tụ tập ở tầng dưới, nơi làm việc của cô trực phòng. Ở đó luôn có tiếng nước sôi ùng ục. tiếng domino đập lách cách trên mặt bàn dài, họ uống trà hết cốc này đến cốc khác và tán đủ thứ chuyện. Hò còn biết làm gì hơn trong những buổi chiều thu lạnh lẽo ở một thành phố nhỏ như Lưkovo này.   Kira đến khách sạn vào phiên trực của Gana Denixovna. Họ là bạn gái của nhau. Lúc đầu, Trizegov không nhận thấy có gì đặc biệt ở những người phụ nữ này. Nếu như có người nào nói với anh rằng cô ta chính là nguyên nhân của mọi nỗi đau đớn khổ sở của anh sau này thì chắc anh sẽ phá lên cười vì cô ta cũng không lấy gì làm đặc sắc cho lắm. Và cái chính là nếu như người ta có nói vậy đi nữa thì cũng chả sao, bởi vì Trizegov từ lâu đã bỏ mọi suy nghĩ về những chuyện tương tự. Bản chất chín chắn và nghiêm nghị của anh theo năm tháng đã trở nên chỉ thích nghi với công tác và mọi việc nội trợ. Và chính anh cũng đã quen với việc tất cả những phụ nữ nào có một chút quan hệ lãng mạn với anh trong các chuyến công tác ngắn ngủi đều coi anh như một người đã có gia đình và vì vậy họ chẳng hề có một ý định nghiêm chỉnh nào trong đầu. Cùng với sự có mặt của Kira, câu chuyện quanh bàn chẳng những thay đổi hẳn, mà còn thêm sắc thái mới, vì phần lớn những người ngồi ở đó bắt đầu xoay ra tán chuyện với cô. Cô thuộc loại người - trong bất cứ nhóm người nào cũng có những người như vậy - mà không hiểu vì sao luôn trở thành trung tâm của câu chuyện. Ai cũng vậy, khi nói bất kì điều gì cũng đều nhìn cô như chờ đợi một sự tán thưởng hay một lời nhận xét nào đó của cô. Sau này, khi nói với nhau về chuyện quan hệ giữa hai người bắt đầu từ khi nào, Kira thú nhận là trước lúc xảy ra câu chuyện với mấy người nước ngoài cô không để ý đến Trizegov. Mấy người khách nước ngoài đó là hai kĩ sư CHDC Đức, họ đến nhà máy gỗ liên hệ về việc mua gỗ. Người ta xếp họ vào ở chung trong một phòng ưu tiên độc nhất có điện thoại và máy thu thanh. Đây là lần đầu tiên khách sạn Lưkovo đón tiếp khách nước ngoài. Trước khi họ đến, ủy ban hành chính huyện đã cử người xuống kiểm tra, dặn dò và xếp đặt mọi việc, nhưng ai mà đoán trước được tất cả những gì có thể xảy ra: đến nửa đêm, người ta bỗng phát hiện ra là hai ông khách quý không một lời giải thích đã để người cửa phòng hai đôi giày của mình và đi ngủ. Đúng lúc Trizegov đi xuống phòng trực để uống trà thì một người am hiểu cuộc sống ở nước ngoài đi đến, anh ta cho biết người ta để giày ngoài cửa phòng là để khách sạn đánh chúi cho họ. Gân Denixovna khăng khăng không chịu làm việc đó, đấy không phải nghĩa vụ của cô, mà tại sao cô lại phải làm khi mà giầy của chồng cô, cô còn chẳng bao giờ đụng đến. Và hơn nữa, cô tra không có cả xi lẫn bàn chải đánh giầy. Người ta ngồi quanh bàn nói chuyện về việc này, người bàn nghiêm chỉnh, kẻ pha trò. Điều gì sẽ xảy ra nếu đến sáng hai vị khách quý kia tỉnh dậy mà thấy những đôi giày của mình vẫn bẩn nguyên, uy tín của khách sạn sẽ bị giảm đến đây và ở châu Âu người ta sẽ đánh giá như thế nào về Lưkovp. Đang nói đến đây, bỗng một người nêu ra ý kiến rằng qua đêm, những đôi giàu kia nếu còn đó cho đến tận sáng là cái tốt, nhưng cũng có thể chúng sẽ biến mất và lúc ấy thì ai là người dám đứng ra chịu trách nhiệm. Đùa là một chuyện, nhưng Gana thì thấy bực bội và lo lắng thực sự., dù đêm đã khuya giám độc khách sạn cũng được mời đến và ông lập tức gắt om lên. Chẳng lẽ lại phải cắt người đứng canh mấy đôi giấy chết tiệt này. Giám đốc khách sạn là thương binh cụt một tai đã tham gia chiến tranh vệ quốc, vì vậy khi nhìn ông, Trizegov bỗng phát cáu, anh đứng phắt dậy và nước đến gõ ầm ầm vào cửa phòng khách. Anh vào phòng và nói với họ tiếng Đức rằng ở đây không có chuyện để giầy ngoài cửa cho người khác lau chùi, người nào cũng phải tự đánh lấy giầy của mình, rằng ở ta không có kiểu phục vụ như vậy, rằng không đủ nhân công làm việc và v.v.... Vì đang bực tức nên anh nói một thôi một hồi làm hai ông khách đâm bối rối. Té ra họ là những chàng thanh niên rất xuề xòa, họ cứ xin lỗi mãi và chiếu hôm sau đã lân la xuống uống trà và chơi cờ với tất cả mọi người. Buổi chiều hôm đó Trizegov đã trở thành người hùng....   Bối rối vì vị chú ý quá nhiều, Trizegov bỏ ra ngoài thềm hút thuốc. Một lát sau Kira Andreievna cũng ra ngoài chuẩn bị về nhà, cô hỏi anh học tiếng Đức từ khi nào mà nói được như vậy. Thực ra chính anh cũng không biết là từ bao giờ, anh chưa qua một lớp học nào, chỉ nghe quen tai rồi nói theo khi phục vụ trong quân đội ở ngoại ô Berlin. Kira Ảngeievna tỏ vẻ ghen tỵ vời năng khiếu ngoại ngữ của anh vì theo cô đó là một việc vĩ đại. Như cô chẳng hạn, cô chẳng có chút năng khiếu ngoại ngữ gì, và cô đã truyền cho con gái mình dòng máu bất tài đó. Vừa đi vừa trò chuyện, họ không nhận ra là Trizegov đã tiễn cô về tận nhà. Anh tình nguyện đến giúp con gái cô học vì anh cũng yêu trẻ và bản thân đã có hai con trai. Thực tình có lần anh cũng đã ngồi luyện cho cô con gái mười sáu tuổi chỉ thích ăn diện của Kira, rồi anh hứa có dịp sẽ đến nữa, nhưng về sau bị công việc bề bộn ở nhà máy lôi cuốn và anh không sao thực hiện được lời hứa ấy. Chữa xong những bộ điều tốc, anh trở về Leningrad và cho đến tháng sáu mới có dịp được mời trở lại nhà máy ở Lưkovo. Chủ nhật đầu tiên anh mượn bộ lưỡi câu của trường phòng năng lượng Arixtarkhov và quyết định đi câu cá. Tuy chưa phải là thợ câu lành nghê, nhưng anh thích ngồi trên bờ thả câu và nghỉ ngơi, không phải suy nghĩ gì. Ngay cả lúc nghỉ ngơi, bản tính ưa hoạt động của anh cũng đòi hỏi phải có một việc làm nào đó rõ rệt. Lần này, vừa thả câu xuống nước đã thấy cá giật mạnh. Để khỏi đứt dây, Trizegov lội ào xuống sông, nước ngật đến trên đầu gối, vừa làu bàu chửi rửa, vừa chạy dọc theo bờ sông. Con cá kéo anh chạy như vậy khá lâu, anh phải len lỏi qua những mỏm đá, miệng thầm khấn cho gân cốt không bị làm sao. Anh chui qua cả gầm cầu nơi có lũ trẻ con đứng trên reo hò, rồi chạy qua cả bãi tắm. May cho anh, đến đó con sông nhỏ chia nhành và chú cá không lao vào chỗ nước xoáy mà ngoặt sang nhánh sông chảy vòng sau một đảo cát nhỏ. Lội bì bõm qua đám liễu dại làm cành cây gãy kêu răng rắc, Trizegov trèo lên triền cỏ và lọt vào một khoảng trống bị các bụi cây thấp bao kín xung quanh. Giữa bãi trống này có một phụ nữ không quần áo đang nằm sưởi nắng. Đó chính là Kira Adreieevna. Anh tưởng cô đang ngủ, nhưng đúng lúc đó cô ngẩng đầu lên, và anh hết sức sửng sốt khi thấy cô không hề tỏ ra hoảng sợ. Nói cho đúng hơn, lúc đầu cô cũng lúng túng định vớ lấy cái gì che thân, nhưng sau đó, dường như suy tính lại, cô uể oải lật nghiêng người, một tay chống cắm và ngẩng đầu nhìn anh. Rõ ràng là cô không nhận ra anh vì trong anh lúc này giống hệt một người câu cá, đầu tóc rối bù, người dính đầy rong xanh và bùn. Vẻ ngoài của anh trông thật hoang dã. Anh đứng sững lại trố mắt ra nhìn và kinh ngạc trước vẻ than nhiên không biết ngượng ngùng của cô. Thấy cô vẫn tiếp tục nằm, anh đỏ mặt và định quay đi. Mời các bạn đón đọc Mưa Trong Thành Phố Lạ của tác giả Daniil Granin.
Nghĩa Địa Praha
Sau Tên của đóa hồng và Con lắc Foucault, độc giả văn chương thế giới đã rất sốt ruột chờ đợi một đại tác phẩm nữa của Umberto Eco. Và rốt cuộc, Eco đã xuất bản Nghĩa địa Praha, một tác phẩm không phụ lòng trông đợi của bất kỳ ai say mê những cuốn tiểu thuyết hòa trộn lịch sử với văn chương theo một cách thức độc đáo vô cùng. Simone Simonini là người Ý sinh ra ở Turin, nhưng hoạt động rộng khắp châu Âu vào nửa sau thế kỷ 19. Simone can dự vào hầu hết vụ việc chính trị quan trọng một thời: Những cuộc hành quân của Garibaldi, vụ án Dreyfus, những cuộc thanh trừng thầy tu dòng Tên và thành viên Hội Tam Điểm… lúc nào Simone cũng ở trong bóng tối, là nhân vật mà cơ quan mật vụ tất cả các nước châu Âu đều thèm muốn. Nhưng “sứ mệnh” quan trọng nhất của Simone Simonini là đối đầu với người Do Thái. Suốt đời mình, Simone đã thực hiện công việc này một cách không mệt mỏi, có lúc còn sát cánh bên Edouard Drumont, lãnh tụ phong trào bài Do Thái của châu Âu. Với Nghĩa địa Praha, Umberto Eco đã đưa ra một cách lý giải độc đáo, thậm chí thiên tài, về tai họa bài trừ người Do Thái ở châu Âu, mà hậu quả tất yếu là nạn diệt chủng trong Thế chiến thứ hai. Nghĩa địa Praha là cuốn tiểu thuyết thứ 6 của nhà văn Umberto Eco ra mắt ngày 29 tháng Mười năm 2010 tại nhà xuất bản Bompiani (Ý). Ngay khi vừa xuất hiện, cuốn sách đã bán được 450.000 bản trong vòng chưa đầy hai tuần lễ. Tính tới thời điểm hiện tại, Nghĩa địa Praha đã được dịch ra hơn 40 ngôn ngữ khác nhau trên toàn thế giới. Nhận định “Umberto Eco đã đánh dấu Nghĩa địa Praha là tác phẩm “quỷ ám” nhất của mình, một bức chân dung xen lẫn giữa hận thù và tài diễn tấu của mình.” (L'Express) *** Tôi đến với “Nghĩa địa Praha” vì quá mê mẩn chất Umberto Eco qua “Tên của đóa hồng”. Thế nhưng vì vốn từ hạn hẹp không đủ để diễn đạt được cảm xúc của tôi với “Tên của đóa hồng” nên đành dùng thời gian để bày tỏ về một tác phẩm khiến tôi khá ngổn ngang. Tất nhiên đây hoàn toàn là cảm nhận cá nhân, tôi xin phép chia sẻ vài dòng coi như tâm sự hơn là đánh giá, nhận xét về một tác phẩm vĩ mô. Bối cảnh trong “Nghĩa địa Praha” rộng hơn “Tên của đóa hồng” rất nhiều. Điều đó là một lợi thế vì nó đẩy nhanh nhịp truyện hơn, tạo nhiều tình huống bất ngờ và cao trào được đưa lên mạnh nhất có thể. Một phần khác vì yếu tố nội dung là cuộc hành trình bài Do Thái của Simone Simonini nên cốt truyện cũng gấp khúc và hạn chế hẳn sự tám chuyện đặc trưng của các tác giả Ý. Thế nhưng chính điều đó, với tôi, cũng là điểm yếu chết người cho tác phẩm này. Tất nhiên là vì cảm xúc cá nhân thôi nhưng do bối cảnh rộng (nếu không phải quá rộng), Umberto khó lòng kiểm soát toàn bộ hệ thống nhân vật, sự kiện, chi tiết nên dẫn tới sự thiếu thống nhất, nhất là ở nhân vật Simone. Ban đầu anh chàng là một gã Ý, như bao gã Ý khác, lãng tử, tự do, cố chấp, điên rồ nhưng rồi có lẽ chuyến hành trình dài đằng đẵng cộng thêm thứ định kiến kiên định đến mức ám ảnh khiến cái chất đẹp đẽ đó, thứ dòng máu chảy trong anh chàng ta thui chột. Cuối cùng chàng ta là ai tôi cũng chẳng biết nữa, thật ngỡ ngàng làm sao! Đó không phải là sự tha hóa dần, một chuyển biến rõ ràng của tính cách, hành xử, quan niệm cũng không phải là cái hình tượng đa nhân cách (tự nói chuyện với chính mình) hay hoang tưởng đến tột cùng, nếu là thế tôi đã chấp nhận con người của anh ta. Ở đây, Umberto ở đây quẳng một Simone này, ở kia quẳng một Simone nọ, như những nhân vật khác nhau bị gán cho cùng một cái tên, và tôi cứ ngỡ đang xem một cuốn tiểu thuyết gộp lại từ các câu chuyện ngắn với các nhân vật chính khác nhau. Tính thống nhất, liên kết từ đó bị vỡ vụn, nhất là khi nó dày đặc những sự kiện lịch sử mà chỉ cần lơi là một tí là chẳng thể hiểu nổi vì sao Umberto đặt chúng cạnh nhau. So với “Tên của đóa hồng” thì đỡ lan man hơn, nhưng thiếu bí ẩn, gay cấy hơn nhưng loãng đi. Umberto chọn lấy nhân vật làm tâm, tất cả xoay vần bên người đó, và còn gì buồn hơn khi bản thân nhân vật ấy đã là tổng hợp những gì vỡ vụn. Điều tiếp theo là về văn phong, điều này tôi không biết là do người dịch hay do bản thân Umberto. Hồi trước tôi đã từng cãi nhau với một người vì người đó bảo, bỏ đi tình tiết, cốt truyện và lượng tri thức phong phú thì Umberto viết chẳng có gì hay, lan man, dài dòng và quá tỉ mỉ. Tôi thì cho rằng như bao kẻ không hiểu được dòng văn học Ý, người đó không thể hiểu cái việc các bác thích dàn trải một đống chi tiết, lan man tận trời cuối đất, đọc vừa chán vừa ứ liên quan nhưng một khi vào guồng, những thứ tưởng chừng không là gì lại liên kết chặt chẽ với nội dung, hòa hợp đến mức sững sờ. Umberto là một người thích viết câu dài và may thay ông ấy không tiết kiệm dấu phẩy, nhưng thay vì liên miên, mềm mại thì những câu dài của ông ấy lại tạo một ấn tượng ngược lại, nó rắn rỏi, mạnh mẽ và phóng khoáng, như gió trên thảo nguyên bạt ngàn vậy. Nhưng lần này, vẫn là những câu dài miên man nhưng nó cụt quá, kiểu cố ghép thành câu dài, ngắt quãng liên tục và “góp phần” không nhỏ khiến nội dung đã vỡ vụn thêm chấp vá. Đọc, thật sự rất nản và vì lí do không đọc được hàng gốc nên tôi cũng không rõ là do ông hay do dịch giả. Tuy nhiên, nói đi thì phải nói lại, “Nghĩa địa Praha” phá rõ cái định kiến Umberto Eco thì chỉ có thể viết về Trung cổ và nhấn mạnh thêm Umberto Eco là một tiểu thuyết gia sử học tài ba đến cỡ nào với lượng tri thức hùng vĩ và bạt ngàn, không gò bó mà thổi vào đó những cách nhìn mới và logic. Những sự kiện lịch sử Châu Âu được nối kết tuyệt vời, khó tìm được lỗ hỏng, cộng thêm nói về những bước tiến của nghiên cứu tâm lý và khởi đầu của phân tâm học. Một cuốn sách hay nếu bạn hứng thú với thời kì thế kỉ XIX của Châu Âu. Tôi hơi hối tiếc khi đọc “Nghĩa địa Praha” sau “Tên của đóa hồng”, nó là một sự hụt hẫng không hề nhẹ với một đứa lỡ lòng tương tư cái bức tranh tranh tối tranh sáng của thánh địa tri thức, tôn giáo và của một William với đầy rẫy mâu thuẫn. Một điều nhận xét đặc biệt là nhân vật của Umberto luôn kiên địch với tư tưởng đến mức nó trở thành một sự ám ảnh điên rồ, với William thì là thông tuệ đến mức lênh đênh giữa sáng tối còn với Simone thì là một bể sâu hoắm, nặng nề. ***   UMBERTO ECO Sinh ngày 5 tháng 1 năm 1932 tại Alessandria, Ý, hiện sống ở Milan. Thiên hướng đã thôi thúc ông làm trái ý cha, từ bỏ khoa Luật, chuyển sang nghiên cứu triết học và văn học Trung cổ tại Đại học Turin. Trong thời gian này UMBERTO ECO trải qua một cuộc khủng hoảng đức tin, trở thành người vô thần và từ bỏ Giáo hội Công giáo. Năm 1954, ông bảo vệ luận văn về Thomas xứ Aquino (Nhà thần học Công giáo nổi tiếng nhất thời Trung cổ), đạt học vị tiến sĩ triết học. UMBERTO ECO là nhà văn, nhà lý luận, triết gia, nhà ký hiệu học lừng danh - người từng là biên tập viên các chương trình văn hóa của Đài truyền hình quốc gia Ý (RAI), là người viết bình luận của tờ báo lớn nhất nước Ý L’Espresso, là giáo sư ký hiệu học của Đại học Bologne, dạy mỹ học và văn hóa học tại các trường đại học Milan, Florence, Turin, tiến sĩ danh dự của nhiều trường đại học nước ngoài. Tờ Los Angeles Times đánh giá ông là “một trong những nhà tư tưởng có ảnh hưởng lớn nhất trong thời đại của chúng ta.” Những tiểu thuyết đã vinh danh cho tên tuổi của ông: Tên của đóa hồng (Il nome della rosa -1980); Con lắc của Foucault (Il pendolo di Foucault - 1988); Hòn đảo ngày xưa (L’isola del giorno prima - 1994); Baudolino (2000); Ngọn lửa bí ẩn của nữ hoàng Loana (La misteriosa fiamma della regina Loana - 2004); NGHĨA ĐỊA PRAHA (Il cimitero di Praga - 2010). *** Truyện: Người Kể chuyện bắt đầu theo dõi cuốn nhật ký của Simonini (Đây là phần “Một vài giải thích không cần thiết” cho từng chương ở cuối sách. Người làm eBook đã đưa vào làm thành chú thích, để các bạn tiện theo dõi câu chuyện). Người bộ hành trong buổi sáng âm u đó của tháng Ba năm 1897 hẳn sẽ phải mạo hiểm đi qua quảng trường Maubert, hay còn gọi là quảng trường Maub như cách nói của những kẻ đầu đường xó chợ (nơi đây từng là trung tâm của cuộc sống đại học thời Trung cổ, khi nó còn đón tiếp đám sinh viên đông đúc của Trường Nghệ thuật nằm tại Vicus Stramineus, chính là phố Fouarre ngày nay, và sau đó trở thành nơi hành quyết những vị tông đồ theo tư tưởng tự do như Étienne Dolet). Vị lữ khách sẽ tới một trong số ít các xó xỉnh Paris tránh được những nhát mổ xẻ của nam tước Haussmann*, nằm tại điểm giao thoa chằng chịt những phố xá hôi hám được chia thành hai khu bởi con sông Bièvre đổ ra từ trong lòng thành phố nơi nó vẫn bị kè bờ để rồi ném mình hổn hển, nóng rực sốt ký sinh trùng vào dòng Seine kề cận. Từ quảng trường Maubert, nay đã bị rạch chằng chịt bởi đại lộ Saint- Germain, còn tỏa ra một mạng nhện tạo bởi những con đường nho nhỏ như đường Maître-Albert, đường Saint-Séverin, đường Galande, đường Bûcherie, đường Saint-Julien-le-Pauvre, cho tới tận đường Huchette, các khách sạn bẩn thỉu do đám người vùng Auvergne cai quản nằm rải rác: những tay quản lý khách sạn nổi tiếng tham lam, đòi một franc cho đêm trọ đầu tiên và bốn mươi xu cho những ngày tiếp sau (cộng thêm hai mươi xu nếu muốn có ga trải giường). Georges-Eugène Haussmann (1809-1891) là tỉnh trưởng tỉnh Seine, người quy hoạch lại Paris vào những năm sáu mươi của thế kỷ 19. (các chú thích trong sách đều của người dịch) Nếu sau đó rẽ vào đường Sauton (thời ấy còn gọi là đường Amboise) hẳn anh ta sẽ thấy, nằm giữa một nhà thổ cải trang thành quán bia và một lữ quán nơi người ta lấy hai xu một bữa chính với chút rượu tồi tệ (từ thời ấy như thế cũng chẳng đắt đỏ gì, nhưng những sinh viên trường Sorbonne cũng chỉ cho phép mình chi tiêu đến thế thôi), là một ngõ cụt, thuở ấy được gọi Maubert, nhưng trước năm 1865 mang tên cul-de-sac d’Amboise. Tại ngõ cụt ấy, những năm trước đó nữa, có một tapis-franc (trong ngôn ngữ đường phố nó chỉ loại nhà trọ tồi tàn, loại hàng ăn hạ đẳng, thường được một cựu tù nhân trông coi và chỉ những kẻ tù khổ sai chân ướt chân ráo vừa bước ra khỏi vũng lầy tù tội mới hay lai vãng đến đây). Ngõ cụt này trở nên nổi tiếng theo một cách đáng buồn vào thế kỷ 18 khi tại đây mọc lên một phòng thí nghiệm của ba nữ pha chế độc dược lừng danh, một hôm họ được tìm thấy đã chết ngạt vì khí của các chất độc đang chưng cất trên mấy cái lò. Tận cùng ngõ hẻm này, hầu như rất khó nhận thấy một cửa hiệu có tấm biển đã bợt màu ghi Brocantage de Qualité (Tiệm đồ cổ chất lượng cao) của một tay chuyên mua bán đồ cũ. Phía ngoài cửa hiệu đã mờ đi vì lớp bụi dày phủ kín mấy tấm kính vốn đã chẳng cho ta thấy rõ hàng hóa bên trong cửa hiệu bởi chúng chỉ dài rộng hai mươi xăng ti mét mỗi cạnh, được gắn với nhau bằng một khung gỗ. Bên cạnh cửa kính, người ta có thể nhìn thấy một cánh cửa luôn đóng, và cạnh dây kéo chiếc chuông cửa là tấm biển báo chủ nhân đang đi vắng. Nếu cánh cửa này mở (điều rất hiếm khi xảy ra), thì ai vào sẽ có thể thấy được, trong ánh sáng rất lờ mờ, một đống lộn xộn những thứ mà mới nhìn qua thì có vẻ ngon nghẻ, nhưng xem kỹ hơn sẽ nhận ra toàn những đồ hoàn toàn không phù hợp với một cuộc trao đổi kinh doanh thành thực, ngay cả nếu như chúng được mời gọi với cái giá giẻ rách tương xứng, được bày biện trên một vài cái giá lung lay và vài chiếc bàn cũng chung chiêng không kém. Ví như vài thanh gác củi sẽ làm hổ thẹn bất cứ cái lò sưởi nào, một cái đồng hồ mạ xanh đã tróc sơn, những chiếc gối dựa ngày trước có lẽ đã được thêu màu sặc sỡ, những chiếc bình gốm cao cổ trang trí bởi những thiên thần bằng sứ nay đã bong tróc vài mảng, những chiếc bàn con lung lay không rõ được thiết kế theo trường phái nào, một chiếc giỏ đựng thư từ đủ loại bằng sắt han gỉ, những chiếc hộp chạm trổ hoa văn không rõ ràng, những chiếc quạt đáng ghê tởm làm bằng ốc xà cừ trang trí với những hình vẽ theo lối Trung Hoa, một chiếc vòng cổ màu hổ phách, hai chiếc giày nhỏ nhắn bằng len trắng, khóa giày gắn những viên đá giả kim tí xíu Ailen, một bức tượng bán thân Napoléon đã sứt mẻ, những con bươm bướm dưới tấm kính đã rạn, hoa quả bằng đá cẩm thạch nhiều màu dưới cái chuông hẳn một thời trong suốt, những quả dừa khô, album ảnh cũ kỹ chứa tranh vẽ hoa bằng chút màu nước khiêm tốn, vài tấm hình in tráng được đóng khung (thời ấy chúng không hề mang vẻ cổ xưa chút nào). Thế cho nên kẻ nào mà say mê cuồng dại một trong những thứ đồ đáng xấu hổ còn sót lại sau những vụ tịch biên tài sản để thế nợ của những gia đình bị lầm vào cảnh bất hạnh này, sẽ thấy mình đứng trước gã chủ tiệm đáng ngờ, sẽ hỏi giá cả và sẽ bị yêu cầu một con số khiến ngay cả kẻ máu mê nhất trong số những gã sưu tầm dị vật cũng phải chùn bước. Nếu như người khách, nhờ có tấm giấy thông hành nào đó, được bước qua cánh cửa thứ hai ngăn gian trong cửa hàng với các tầng trên của tòa nhà, và trèo lên bậc thang của một trong những cầu thang chung chiêng hình xoáy ốc đặc trưng của những ngôi nhà Paris có mặt tiền rộng ngang bằng cửa ra vào (nơi chúng đứng dựa xiêu vẹo vào nhau), anh ta sẽ tới một căn phòng rộng nơi không trưng bày những thứ đồ tầm phào như ở dưới tầng trệt mà là một bộ sưu tập những món đồ chủng loại hoàn toàn khác: một chiếc bàn nhỏ theo phong cách hoàng đế, ba chân trang trí hình đầu đại bàng, một chiếc bàn chân quỳ được đỡ bởi quái vật Sphinx có cánh, một chiếc từ thế kỷ 17, một chiếc tủ sách bằng gỗ dái ngựa đựng hàng trăm cuốn đóng bìa da dê, một chiếc bàn làm việc theo lối Hoa Kỳ, với nhiều ngăn kéo đóng mở theo ray trượt giống như một cái bàn viết thực thụ. Nếu tiếp tục bước qua căn phòng liền kề, anh ta sẽ thấy một chiếc giường treo màn trướng xa hoa, một chiếc giá kiểu điền viên đựng đồ sứ Sèvres, một ống điếu Thổ Nhĩ Kỳ, một chiếc cốc bằng thạch cao tuyết hoa, một chiếc bình pha lê, và trên bức tường cuối phòng là những tấm tranh to bản với những điển tích thần thoại, hai bức vẽ nữ thần Lịch sử và nữ thần Hài kịch, vài chiếc áo trùm Ả Rập treo trên tường và vài bộ quần áo phương Đông bằng sợi casơmia, một chiếc hũ cổ kiểu của dân hành hương; tiếp đó là một chiếc kệ chất đầy các vật dụng trong buồng tắm bằng chất liệu quý - tóm lại là một đống đồ vật kỳ cục, cầu kỳ và tốn kém, có lẽ không phải là nhân chứng cho khiếu thẩm mỹ đồng nhất và tinh tế, mà hẳn là lòng mong mỏi được khoe mẽ của cải. Quay trở lại phòng khách gần lối vào, người khách sẽ nhận ra một cụ già trong bộ đồ ở nhà ngồi bên chiếc bàn đối diện cánh cửa sổ duy nhất mà từ đó nguồn ánh sáng ít ỏi chiếu sáng ngõ cụt len lỏi vào đây. Cụ già đó, nếu người khách có thể nhìn thoáng qua vai, đang viết những điều mà chúng ta sắp sửa đọc đến, và đôi khi Người Kể chuyện cũng sẽ tóm tắt lại để không gây mệt mỏi cho Độc giả. Mời các bạn đón đọc Nghĩa Địa Praha của tác giả Umberto Eco.