Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bến Thiên Đường

Tác giả Sonja Massie đã được đông đảo công chúng biết đến với nhiều tiểu thuyết được viết nên nhờ vào bối cảnh lịch sử, trong đó nhiều tác phẩm của bà đã được dựng thành phim và được sự đón nhận nồng nhiệt của quần chúng. Tác phẩm “Bến thiên đường” có tựa đề song song là “Far anh Away” của bà cũng là một trong số những tác phẩm được dựng thành phim với nhan đề “Ngàn trùng xa” được phát hành năm 1992; lấy bối cảnh trên đất nước Ailen, tiểu thuyết viết về mối thù truyền kiếp của dòng họ Donelly với dòng họ của ông Daniel. Khi tổ tiên của ông Daniel đi xâm lấn đất đai của gia đình Donelly. Chàng Joseph là một người con của dòng họ Donelly đã được giao trọng trách đi trả thù gia đình Daniel, nhưng vì những đấu tranh nội tâm nơi chàng nên chàng đã không thể giết ông Daniel. Trải qua các tình tiết ly kỳ trong tác phẩm cuối cùng Joseph đã gặp con gái của ông Daniel, cô tên là Shannon. Những lần gặp gỡ giữa hai người và cuộc phiêu lưu của họ khi sang Mỹ để khai khẩn đất đai cuối cùng họ đã nảy sinh tình yêu. Mặc dù trải qua nhiều nhiều sóng gió song tình yêu của họ vẫn chiến thắng tất cả, Joseph và Shannon đã vượt qua được hận thù và rào cản giai cấp để đến với nhau xây dựng một gia đình hạnh phúc. Tiểu thuyết nói lên sức mạnh của tình yêu, của cái thiện và chứa đựng những giá trị nhân văn sâu sắc. Xin được gửi tới bạn đọc để cùng khám phá và chiêm ngưỡng. *** Quỷ dữ chặt đầu bọn lãnh chúa chết tiệt này đi! Chặt hết, có bao nhiêu chặt hết bấy nhiêu. Rồi nghiền nát chúng ra như cám! Chửi xong, Patrick, gã thợ mộc trong làng cầm vại bia lên tu một hơi dài, đoạn toét miệng cười, khuôn mặt tròn quay sáng rỡ. Gã nhìn quanh một vòng trong quán rượu, mắt ánh lên vẻ thỏa mãn. Từ trước tới nay, trong đám người thân quen chuộng cái nghệ thuật chửi rủa này, ít ai chửi một cách hay họ độc đáo như gã. Gã im lặng, thách thức bất cứ ai chửi hay hơn. – Ước gì đàn quạ đen bu vào rỉa ráy chúng, ước gì chúng bị nổi mày đay khắp người, ngứa ngáy mà không có móng tay để gãi! Ryan, em của Patrick, ngồi chễm chệ trên một ghế đẩu cao bên quầy rượu, mồm ngậm ống vố, nhả khói cuồn cuộn vào không khí đã sặc mùi cay của than bùn đang cháy trong lò sưởi, và mùi thum thủm của áo quần len dạ còn ẩm ướt. – Ước gì quy dữ nuốt chửng chúng nó đi, và xiết dương vật vào cổ chúng nó! – Ước gì lửa âm ti thiêu đốt chúng mãi cho tới ngày tận thế, mà không cho chúng một giọt bia nào để làm giảm bớt cái khát muôn đời ấy! – Denis bổ sung thêm. Denis là một tá điền có mái tóc màu hung đỏ, mặt sần sùi đầy vết hoe, đang chuồi cái ca bằng thiếc về phía người chủ quán. Ông này liền rót đầy bia cho gã. Nửa tá khách nhậu, theo gương của Denis, chìa cốc ra lấy bia và đã cảm thấy khó chịu vì cái ý nghĩ phải chịu án phạt muôn đời mà không có lấy một giọt bia mát lạnh nào để xoa dịu. – Các bạn nên giữ mồm giữ miệng thì hơn, Danty Duff nói. Ông ta là người vớt rong biển dạt vào bờ, tóc hoa râm, đang ngồi phía đầu quầy bên kia. Ông và Joe Donelly, bạn ông, đã chiếm chỗ sớm hơn, và uống rượu nguyên chất nhiều hơn bất cứ người bạn nào khác mà không hề hấn gì. – Các bạn biết đâu giữa chúng ta, lỡ có thằng thối mồm nào đó chỉ điểm thì sao. Nếu các bạn cứ nói bô bô cho sướng miệng trước bất cứ ai như thế này, thì rồi sẽ lâm vào cảnh khốn đốn như bọn Galway, chứ chẳng phải chơi đâu. Như thế chẳng khác gì đánh đu trên một cái xà ngang đã mục. Joe Donelly mặt đầy nếp nhăn vì suốt ngày dang nắng để lấy than bùn làm chất đốt, bật cười đập vào lưng bạn: – Hè... đồ nhát gan như thỏ đế, còn thua cả một bà góa già rụng răng! Danty Duff né tránh cú đập của Joe, khiến ông ta suýt té ngã vì quá đà. Joe nói tiếp: – Cậu sợ cả chính cái bóng của cậu nữa, Danty ạ. Chúng ta phải là những con người hành động, như... các chàng trai của đại úy Moonlight, họ tổ chức các vụ đánh cướp với tầm vông, gậy gộc và những bó đuốc vung cao. Họ sẽ giành lại được độc lập cho quê hương của chúng ta, chắc chắn như thế. Các thực khách vỗ tay nồng nhiệt hoan hô vang dội cả cái quán rượu cổ lỗ, từ cái trần thấp có đà ngang đến tận nền nhà lát đá, rải rác mấy cọng rơm đây đó. Đó là cái lý do tại sao dân làng tụ tập mỗi ngày tại quán rượu của ông O’Manion. Không phải họ tới đó để uống bia – vì họ có thể uống ở nhà. Không phải họ đến đó để sưởi ấm, hoặc để tăng cường nghị lực nhờ ngửi mùi ra-gu thịt cừu đang hầm trên bếp lò. Cũng không phải để có được vài giờ yên tĩnh, tránh phải nghe miệng lưỡi lách phách của các bà vợ, hoặc trò hề của lũ trẻ con ồn ào... Họ đến quán rượu chỉ là để gặp lại bạn bè khích lệ họ sống dũng cảm hơn, hào hùng hơn và mạnh mẽ hơn; để gặp những con người thách thức nhau thoát khỏi cảnh đói nghèo mà họ đã bị áp đặt, và cầm khí giới để chiến đấu cho tự do. Lâu nay họ chỉ đánh giặc mồm, chỉ phun ra những lời nguyền rủa, để nhẹ bớt tâm tư. Thế nhưng, lịch sử đã chứng minh, lời nói có khả năng thúc đẩy lòng người Ai Len hành động. Và ngày nổi dậy đã gần kề, mọi người ai cũng biết điều đó. – Vậy thì Joe Donelly, hôm nay cậu đã làm gì để lấy lại mảnh đất mà Thượng đế đã ban cho cậu từ tay tên lãnh chúa? – Danty hỏi, vẻ mặt khó chịu – Cậu đã cầm cây đuốc đút sau đít hắn ta, hay là cậu đã ôm hôn mông hắn khi hắn cưỡi con ngựa đẹp đi ngang qua đây? Denis can thiệp vào: – Có thể cậu ta chấp nhận hôn đít con ngựa quèn của hắn – nói đến đây, Denis nhìn thấy đôi mắt của Joe Donelly long lên vì giận dữ, liền tiếp – Xin lỗi cậu, Joe, tớ nói thế mà không có ác ý gì cả, thề danh dự đấy! Trong làng, lão Joe có tiếng là người dễ bị chạm tự ái. Chỉ Danty là bạn từ tấm bé của lão là có thể châm chọc hay nhục mạ lão mà không bị ăn đòn. Người chủ quán vừa đẩy hai vại bia đầy ắp đến trước Joe và Danty, vừa nói: – Này, các bạn. Các bạn nghĩ sao, nếu chúng ta được nghe các nghệ sĩ thượng thặng hát lên một bài ca để chúng ta được vui tai và nhẹ lòng? Lời nịnh hót đã làm tan biến mất nỗi giận hờn. Danty và Joe liền cất lời hát một ca khúc mà họ đã thuộc nằm lòng từ thưở bé. ... Đám khách trong quán lại tiếp tục uống, thưởng thức chất đắng thú vị của rượu bia đang làm mát cổ họng họ. Những cây đèn dầu có tim bấc chiếu ánh sáng chập chờn lên những chiếc bàn vuông thô kệch và phản chiếu trong tấm gương lớn đã rạn nứt treo phía tường sau quầy hàng vì cuộc ẩu đả trước kia giữa Joe và Danty. Tâm hồn của dân làng tạm thời lắng dịu nhờ đã nguyền rủa, và quên đi trong chốc lát nỗi lo âu của cuộc sống, để thưởng thức bài ca du dương của hai chàng ca sĩ. Nhưng sự yên lặng bỗng bị đập tan. Tiếng ồn ào náo động ngoài đường đã làm cho mọi người bật đứng dậy, hấp tấp chạy đến bên cửa sổ nhìn xem chuyện gì đã xảy ra. Những tiếng là hét phẫn nộ vang lên từ đám người đi bộ, giày lấm bùn đất. Người ta nghe cả tiếng một con ngựa hí vang vì sợ hãi. – Kìa, các bạn hãy xem! Một tên lãnh chúa xuất hiện ở đằng kia kìa - Ryan là toáng lên, giọng hớn hở – Phải cho hắn một bài học mới được. Joe và Danty ngừng hát, nốc một hơi cạn vại bia và phóng ra ngoài. Họ nóng lòng được đánh lộn, chứ không chịu làm khách bàng quan như các người bạn khác. Lời nguyền rủa của họ đã mang lại kết quả, còn nhanh hơn là họ tưởng. Huân tước Geoffroy Hampton, chủ nhân tòa dinh thự Hampton, đang ngồi chễm chệ trên cái ghế băng bọc da của cỗ xe ngựa bóng loáng. Một cô xe tuyệt đẹp, gã xa phu cũng láng coóng trong bộ trang phục màu đen viền bạc. Nét mặt hắn ta hơi sửng sốt. Cả chủ lẫn tớ đều cảm thấy mình đang rơi vào một tình huống còn hơn cả sự bực mình. Đám dân quê vây quanh lấy cỗ xe ngựa lộng lẫy một cách hỗn độn vô trật tự, kẻ thì cầm cuốc xẻng, người thì cầm gậy gộc, lòng sôi sục căm thù tích tụ bởi bao nhiêu năm tháng. Áo quần họ mặc quá lâu ngày chưa thay, họ đã trải qua biết bao thử thách và đau khổ, chịu đựng bao nỗi buồn phiền. Họ nhộn nhạo trên đường, chận xe không cho qua. Gã xa phu quất ngựa vun vút, nhưng chiếc xe chỉ nhúc nhích đôi chút giữa lũ người mỗi lúc một đông hơn, phẫn nộ hơn. Môt phụ nữ là lớn: – Thằng heo kia, mày là một thằng khốn nạn. Mày ăn quá nhiều mỡ nên mập phì! Vị lãnh chúa khoanh tay trên cái áo khoác bằng nhung xanh, lót lụa đen, trợn mắt lườm bà ta. Một tá điền lưng còng có đứa con nhỏ trần truồng đang đeo theo chân gã mà kêu khóc, gã rống lên: – Mày là tai họa cho xứ sở của chúng tao, cái xứ sở không bao giờ là của mày. Mày xuống hỏa ngục cho quy dữ nướng mày đi! Một bà già tay không vũ khí, cúi xuống lượm một viên đá cuội, nhắm cỗ xe mà ném tới, trúng chiếc mũ chóp cao bằng xa-tanh đen của lãnh chúa, làm nó rơi xuống đất. Đám đông liền dành nhau đạp dẹp nó, chỉ một chốc là tiêu tan. Joe thúc cùi chỏ vào hông bạn, bảo: – Danty, đưa vũ khí cho tao, tao giết thằng chó này. Mời các bạn đón đọc Bến Thiên Đường của tác giả Sonja Massie.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tấn Trò Đời - Honoré de Balzac
Honoré de Balzac dành nhiều công sức, thời gian cho việc viết tiểu thuyết và phần lớn số tiểu thuyết ông viết được gộp chung thành tác phẩm duy nhất mang tên La Comédie humaine (bản dịch tiếng Việt có tên gọi Tấn trò đời) Tấn trò đời gồm khoảng 95 tác phẩm được Balzac gộp lại vào năm 1842, gồm 3 phần: nghiên cứu về thói quen, nghiên cứu triết học và nghiên cứu bản chất. Những tác phẩm trong Tấn trò đời vừa gắn kết với nhau, vừa có thể tồn tại độc lập. Người ta có thể hiểu một tác phẩm mà không cần đọc các tác phẩm còn lại. Những câu chuyện hoàn toàn khác nhau, chỉ có nhân vật được lặp lại, xuất hiện nhiều lần. Ví dụ trong chuyện này, nhân vật A có thể là nhân vật chính, nhưng trong chuyện khác anh ta lại là nhân vật phụ, là một người có liên quan đến nhân vật chính. Balzac quan niệm xã hội là một chỉnh thể, tất cả các sự kiện đều tác động, ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau một cách hết sức chặt chẽ như trong giới tự nhiên. Tất cả những đặc điểm ấy gây cho độc giả ấn tượng như đang sống trong một xã hội có thực. Tuy nhiên, những tác phẩm trong Tấn trò đời là một khối thống nhất vì tất cả cùng vẽ nên bức tranh xã hội Pháp nửa đầu thế kỷ 19. Tựa đề "Tấn trò đời" được Balzac đặt theo tên tác phẩm Vở kịch thần thánh (Divina commedia) của Dante Alighieri (1265-1321). Balzac muốn cho thấy ý định của ông khi viết các tác phẩm trong "Tấn trò đời": tả về cái địa ngục ngay giữa xã hội con người. Nhà văn có đụng ý chọn cái tên đối lập với tên tác phẩm nổi tiếng của Dante có thiên đường và địa ngục. Balzac đã có ý định tập hợp các tác phẩm từ rất sớm. Năm 1830, ông đã cho in 6 tác phẩm vào một quyển sách chung với nhan đề Cảnh đời tư. Hai năm sau Cảnh đời tư được bổ sung thêm hai tác phẩm nữa. Năm 1834 sự tập hợp mở rộng thêm một bước, nhiều tác phẩm được sắp xếp dưới một nhan đề chung là Khảo cứu phong tục, chia làm 6 cảnh, đồng thời nhà văn còn dự kiến có thêm các phần Khảo cứu triết học và Khảo cứu phân tích. Năm 1842, ý định tập hợp và sắp xếp các tác phẩm thành hệ thống của Balzac mới thực hiện được đầy đủ. Nhan đề dự kiến trước đó Khảo cứu xã hội được thay bằng Tấn trò đời. Do ông mất khi mới 51 tuổi nên nhiều tiểu thuyết chỉ có tên chứ chưa có nội dung.  Tấn trò đời được chia làm ba phần: Khảo cứu phong tục, gồm 6 cảnh: Cảnh đời tư (32 tiểu thuyết, đã viết xong 28), Cảnh đời Paris (20 tiểu thuyết, đã viết xong 14), Cảnh đời chính trị (8 tiểu thuyết, đã viết xong 4), Cảnh đời quân sự (23 tiểu thuyết, đã viết xong 2), Cảnh đời nông thôn (5 tiểu thuyết, đã viết xong 3) Khảo cứu triết học (27 tiểu thuyết, đã viết xong 22) Khảo cứu phân tích (5 tiểu thuyết, đã viết xong 1) Tấn Trò Đời có tất cả 16 tập:   Tấn Trò Đời Tập 1-Khảo Luận (NXB Thế Giới 1999) - Balzac, 446 Trang Tấn Trò Đời Tập 2-Lão Goriot (NXB Thế Giới 1999) - Balzac, 489 Trang Tấn Trò Đời Tập 3-Luật Đình Chỉ (NXB Thế Giới 1999) - Balzac, 595 Trang Tấn Trò Đời Tập 4-Những Người Độc Thân (NXB Thế Giới 1999) - Balzac, 485 Trang Tấn Trò Đời Tập 5-Gaudissart Trứ Danh (NXB Thế Giới 1999) - Balzac, 356 Trang Tấn Trò Đời Tập 6-Vỡ Mộng (NXB Thế Giới 1999) - Balzac, 699 Trang Tấn Trò Đời Tập 7-Truyện Mười Ba Người (NXB Thế Giới 2000) - Balzac, 360 Trang Tấn Trò Đời Tập 8-Bức Thăng Trầm Của Kỹ Nữ (NXB Thế Giới 2000) - Balzac, 616 Trang Tấn Trò Đời Tập 9 (NXB Thế Giới 2000) - Balzac Tấn Trò Đời Tập 10 (NXB Thế Giới 2000) - Balzac Tấn Trò Đời Tập 11 (NXB Thế Giới 2000) - Balzac Tấn Trò Đời Tập 12-Những Cảnh Đời Chính Trị (NXB Thế Giới 2001) - Balzac, 384 Trang Tấn Trò Đời Tập 13 (NXB Thế Giới 2000) - Balzac Tấn Trò Đời Tập 14-Bông Huệ Trong Thung (NXB Thế Giới 2001) - Balzac, 321 Trang Tấn Trò Đời Tập 15 (NXB Thế Giới 2000) - Balzac Tấn Trò Đời Tập 16 (NXB Thế Giới 2000) - Balzac *** Honoré de Balzac (1799-1850) là nhà văn hiện thực Pháp lớn nhất nửa đầu thế kỷ 19, bậc thầy của tiểu thuyết văn học hiện thực.  Ông là con trai của Bernard-François Balssa và Anne-Charlotte-Laure Sallambier, họ Balzac được lấy của một gia đình quý tộc cổ Balzac d'Entraigues. Cuộc đời ông là sự thất bại toàn diện trong sáng tác và kinh doanh - đó là tổng kết chung về thời thanh niên của Balzac từ khi vào đời cho đến năm (1828). Ông chỉ thật sự được văn đàn Pháp công nhận sau khi đã mất. Người ủng hộ ông nhiều nhất khi còn sống là Victor Hugo. Ông có một sức sáng tạo phi thường, khả năng làm việc cao, thường chỉ ngủ một ngày khoảng 2 đến 3 tiếng, thời gian còn lại làm việc trên một gác xép. Balzac sớm có ý thức về sự tái hiện cuộc đời một cách hoàn chỉnh ở đủ mọi góc cạnh của nó và được đặt trong hệ thống mà ông ví như một "công trình kiến trúc của vũ trụ" với tính chất vừa hệ thống vừa hoành tráng từ các tác phẩm của ông. Vũ trụ ấy là cuộc đời nhìn qua nhãn quang của ông tạo nên một "thế giới kiểu Balzac" in rõ dấu ấn của "cảm hứng vĩ mô". Vì vậy, vũ trụ trong tiểu thuyết Balzac là một "vũ trụ được sáng tạo hơn là được mô phỏng". Honoré de Balzac từng nói một câu nổi tiếng " Ai cũng có thể làm thầy ta !" ; chính sự sâu sắc này của ông đã ảnh hưởng rất lớn về cách sống cũng như trong nghệ thuật của ông. Một số tác phẩm tiêu biểu : Miếng da lừa, Lão Goriot, Bước thăng trầm của kĩ nữ, và đặc biệt là bộ tiểu thuyết đồ sộ Tấn trò đời. Mời các bạn đón đọc bộ tiểu thuyết đồ sộ Tấn Trò Đời của tác giả Honoré de Balzac.
Nghệ nhân và Margarita - Mikhail Bulgakov
M.Bulgakov - Bản thảo không bị cháy Từng chương, từng trang sách, đều ẩn chứa trong đó những hàm ý triết học được "phổ" vào ngay cả những sự kiện xoàng xĩnh, khôi hài đến thảm hại của một hiện thực rã nát trong thế giới văn nhân. Và toàn thể tiểu thuyết là một tuyên ngôn nghệ thuật mà cho đến ngày nay các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục khám phá không ngưng nghỉ. Nghệ Nhân là nhà văn vừa hoàn thành tiểu thuyết, viết về hai nhân vật Lesua và Ponti Pilat: Một là nhà triết học lang thang và một là quan tổng trấn quyền uy. Lesua đã bị gài bẫy, bị bắt và bị hành hình vì những rao giảng của mình. Cái chết của Lesua đã trở thành nỗi ám ảnh kéo dài suốt hai nghìn năm, không để cho Ponti Pilat được yên, bởi quan tổng trấn đã không thể "cứu" được Lesua khỏi án chết, như ước muốn bí mật chỉ riêng ông biết. Số phận của Nghệ Nhân cũng không hề may mắn hơn: Tác phẩm của anh bị nguyền rủa và khai tử bởi các đồng nghiệp ngay từ lúc chưa công bố, dẫn đến việc anh bế tắc, tuyệt vọng, tự đốt bản thảo và tìm đến nhà thương điên, trốn chạy cả tình yêu định mệnh của Margarita… Chỉ có quỷ sứ mới cứu nổi nhà văn. Và quả thật quỷ sứ đã xuất hiện. Phần lớn số trang của tiểu thuyết đã dành để mô tả những gì mà chúa quỷ Voland và đoàn tùy tùng đã "quậy tưng" thành phố Moscow lên theo cách nào. Bằng những phép thuật được sử dụng như thuốc thử, Voland đã buộc giới văn nhân tự lộn trái mình ra, bộc lộ những phẩm chất tồi tệ: Bất tài, dối trá, ăn bám và hám lợi. Quả thật, Bulgacov với "Tài năng của nhà văn trào phúng, tài năng của nhà văn giả tưởng và tài năng của nhà văn hiện thực" đã nén đến tối đa những vấn nạn văn chương - tư tưởng, nhằm khẳng định khát vọng của nhà văn. Nó ở trong lời đáp của Voland khi Nghệ Nhân lên tiếng hỏi mình có nên chạy theo Ponti Pilat không: "Không, chạy theo dấu vết của cái đã kết thúc để làm gì?…Chẳng lẽ anh không muốn giống như Faust, ngồi bên chiếc bình cổ cong với niềm hy vọng mình sẽ tạo ra được một giống Homuncul mới?". Nếu Nghệ Nhân - nhà văn trong tiểu thuyết khá mềm yếu và thụ động thì Bulgacov - nhà văn ngoài đời thực hoàn toàn ngược lại. Mạnh mẽ, quyết liệt, Bulgacov đã gửi một bức thư dài đến chính phủ Liên Xô: "Và tự tay tôi, tôi đã ném vào lò sưởi một tập bản thảo cuốn tiểu thuyết viết về quỷ sứ, một tập bản thảo hài kịch và phần đầu cuốn tiểu thuyết thứ hai của tôi - tiểu thuyết Sân khấu…Tôi xin lưu ý rằng, không được viết đối với tôi cũng có nghĩa là bị chôn sống… Nếu không được làm đạo diễn, tôi xin làm diễn viên đóng vai phụ. Nếu làm diễn viên phụ cũng không được, tôi xin làm công nhân sân khấu. Nếu cả điều đó cũng không thể được, tôi xin chính phủ Xô viết xử trí tôi như chính phủ thấy cần thiết…". Bức thư đã được gửi đi vào trước thời điểm mà Maiakovski đã dùng súng tự bắn vào đầu. Sự quyết liệt ấy đã thể hiện rất rõ trong tiểu thuyết, ở những đối thoại giữa giữa Lesua - Pilat. Iesua đã trả lời Pilat, nhắc lại những gì mà vì nó, nhà triết học phải bước lên đoạn đầu đài: "Tôi nói rằng ngôi đền của lòng tin cũ sẽ sụp đổ, và ngôi đền mới của chân lý sẽ được dựng lên… Bất kể thứ quyền lực nào cũng là bạo lực đối với con người, và sẽ đến một lúc sẽ không còn quyền lực của các hoàng đế lẫn bất kỳ thứ quyền lực nào khác. Con người sẽ đến được vương quốc của sự thật và công lý, nơi nói chung sẽ không cần một quyền lực nào cả…". Có lẽ sự quyết liệt ấy đã giúp cho "bản thảo không bị cháy", cho dù Nghệ Nhân, cho dù chính Bulgacov đã đốt nó. *** Năm 2006, Mikhail Bulgakov, một trong những nhà văn lớn nhất và kỳ bí nhất của nước Nga, tròn 115 tuổi. Hành trình cuộc đời, hành trình văn chương của ông trên dưới trăm năm đầy gian nan thăng trầm nhưng hướng về bất tử, như lời khẳng định của một nhà văn Nga: “Bulgakov – nhà văn đang sống và sẽ sống chừng nào còn tồn tại văn học Nga”. Hơn thế nữa, mối quan tâm đối với sự nghiệp sáng tác của Bulgakov mỗi ngày một tăng ở Nga và ở nhiều nơi trên thế giới, hầu hết tác phẩm của ông liên tục được in, tái bản, dịch, dựng phim… Xuất hiện ngày càng nhiều những công trình nghiên cứu “Bulgakov học”. Ông là một trong số rất ít nhà văn ở Nga được làm “Bách khoa toàn thư”; và đặc biệt, Bulgakov có lẽ là một trong những nhà văn có tác phẩm được đưa lên và được đọc nhiều nhất trên mạng Internet. Nghệ nhân và Margarita là cuốn tiểu thuyết lớn nhất của M. Bulgakov, một trong những đỉnh cao của nghệ thuật ngôn từ Nga. Tác phẩm này đã được dịch sang tiếng Việt hai mươi năm trước, có thể nói đây là công trình dịch thuật công phu và tâm đắc nhất của tôi. Tuy nhiên, có một sự thật là, khác với ở nước Nga và phương Tây, kiệt tác này không thật sự được phổ biến và tiếp nhận rộng rãi ở bạn đọc Việt Nam – có lẽ là do những khác biệt nhất định về văn hóa. Lần này, 65 năm sau khi tác phẩm ra đời, chúng tôi xin tái bản lại bản tiếng Việt trong một nỗ lực tiếp tục đưa Bulgakov đến gần hơn nữa với bạn đọc Việt Nam, nhất là bạn đọc trẻ tuổi, thế hệ mà tôi hi vọng sẽ dễ dàng tiếp cận Nghệ nhân và Margarita hơn. Ngoài bản dịch cuốn tiểu thuyết, chúng tôi đưa thêm phần Phụ lục để phần nào giúp bạn đọc trong việc cảm thụ tác phẩm này. Hà Nội, 27 tháng 1 năm 2006 Ðoàn Tử Huyến *** Một buổi chiều mùa xuân, vào cái giờ mặt trời lặn nóng chưa từng thấy, trong công viên Hồ Pat’riarsi1 ở Moskva xuất hiện hai vị nam công dân. Người thứ nhất dáng thâm thấp, béo tốt, hói đầu, mặc bộ quần áo mùa hè màu xám nhạt, chiếc mũ còn khá lịch sự bóp lại cầm trong tay, cặp kính gọng sừng đen to quá cỡ ôm ngang khuôn mặt cạo kỹ lưỡng. Người thứ hai còn trẻ, vai rộng, tóc vàng hung rối bù, mũ cát két sọc vuông đội lệch ra sáu gáy, áo sơ mi kẻ ô, quần dài trắng nhàu nát và chân đi đôi giày vải đen. Người thứ nhất không phải ai khác, mà chính là Mikhail Aleksandrovich Berlioz2, chủ tịch ban chấp hành của một trong những hiệp hội văn học lớn nhất Moskva, viết tắt là MASSOLIT3, và ông đồng thời cũng là tổng biên tập một tờ tạp chí văn học lớn; còn người bạn đường trẻ của ông là nhà thơ Ivan Nikolaievich Ponưrev, bút danh Bezdomnưi4. Bước vào dưới dãy bóng râm của hàng cây lipa5 đang bắt đầu nhú lá xanh, việc đầu tiên của hai nhà văn là chạy vội đến bên chiếc quầy dựng bằng ván sơn sặc sỡ với dòng chữ “Bia và nước giải khát”. Mà quên, có lẽ cần phải thông báo ngay cho bạn đọc biết điều kỳ lạ thứ nhất của cái buổi chiều tháng Năm khủng khiếp này. Ðó là, không chỉ ở cạnh quầy giải khát, mà suốt dọc cả con đường có trồng cây chạy song song với phố Malaia Bronnaia cũng không thấy một bóng người nào. Vào cái giờ đó, khi hình như mọi người đã hết cả sức để thở, khi vầng mặt trời, sau một ngày thiêu đốt Moskva, đang bọc mình trong màn sương khô lặn xuống một nơi nào đấy phía sau tuyến đường vòng Sadovoie, chúng ta không hề gặp một ai đi dạo hóng mát dưới bóng hàng cây lipa, không thấy một người nào ngồi trên những chiếc ghế băng “suốt dọc con đường dài vắng tanh vắng ngắt.” “Cho cốc nước khoáng narzan”, Berlioz nói với người đàn bà bán hàng. “Không có narzan đâu”, người đàn bà trong quầy đáp, và không hiểu tại sao bà ta lại tỏ vẻ phật ý. “Có bia không?” Bezdomnưi hỏi bằng giọng khàn khàn. “Bia tối mới chở về”, người đàn bà trả lời. “Thế có gì?” Bezdomnưi lại lên tiếng. “Nước mơ ấm”, người đàn bà nói. “Thôi được, cho xin, cho xin, cho xin!…” Hai cốc nước mơ sủi rất nhiều bọt màu vàng, và trong không khí bốc lên một thứ mùi như ta thường thấy trong các cửa hiệu cắt tóc. Uống xong, hai nhà văn lập tức đua nhau nấc cụt; họ trả tiền và ngồi xuống một chiếc ghế băng, mặt ngoảnh ra hồ, lưng quay về phía phố Bronnaia. Ðúng lúc đó bắt đầu xảy ra điều kỳ lạ thứ hai của buổi chiều hôm đó, nhưng nó chỉ liên quan tới một mình Berlioz: ông bỗng thôi nấc, tim bỗng đập mạnh một cái rồi lặn hẫng đi đâu mất; và thoáng sau nó trở lại nhưng hình như có kèm theo một mũi kim tù nằm mắc bên trong. Thêm vào đó, Berlioz bỗng cảm thấy một nỗi sợ hãi vô cớ nhưng rõ rệt đến nỗi ông muốn ngay lập tức bỏ chạy khỏi nơi đây không ngoái lại. Không hiểu cái gì khiến ông hoảng sợ, Berlioz đưa mắt rầu rĩ nhìn quanh. Mặt ông tái mét; ông lấy khăn mùi soa lau trán, nghĩ thầm: “Cái gì xảy ra với mình thế này nhỉ? Trước đây chưa bao giờ như vậy cả… Hình như tim mình bị sao ấy… Mình mệt mỏi quá rồi. Có lẽ cần phải vứt tất cả lại để đến nghỉ ở Kislovodsk6 thôi…” Ðúng lúc đó, làn không khí oi ả bỗng cô đặc lại trước mắt Berlioz, tạo thành một người đàn ông trong suốt có hình thù hết sức kỳ dị. Trên mái đầu nhỏ tí của anh ta là chiếc mũ lưỡi trai của dân đua ngựa, áo vét kẻ ô mỏng ngắn cũn cỡn… Người này cao khoảng một sagien, nhưng vai hẹp, gầy không thể tưởng được, và bộ mặt, xin bạn đọc lưu ý cho, đầy vẻ nhạo báng! ... Mời các bạn đón đọc Nghệ nhân và Margarita của tác giả Mikhail Bulgakov.
Bến Hẹn - Janet Dailey
Mỗi người trong đời, không ai là không có lần đã lỗi hẹn với người yêu.  Thay vì cầm tay nhau tiến bước tới bến hẹn hạnh phúc, thì lỗi hẹn khiến hai người yêu nhau mỗi người phải rẽ sang một hướng đường khác. Đôi khi lỗi hẹn khiến cho người ta tìm đến được bến hẹn hạnh phúc mới, mà cũng có khi khôn. Nhưng dù thế nào, thì cũng có không ít người suốt đời cứ mãi luyến tiếc khôn nguôi đến "bến hẹn" của mối tình đầu dang dở. "Khi chiếc máy bay hạ thấp độ cao xuống dưới những đám mây xám trên bầu trời thành phố Anchorage, Sh-annon Hayes căng mắt nhìn qua khung cửa sổ đã bị mòn vẹt của nó. Một bức tường núi xám đen vươn cao lên cạnh thành phố, đỉnh núi khuất trong mây. Cô thấy bên dưới, nhà cửa rải rác và đường sá mọc ngang đan vào nhau. Xa xa, cô thấy những toà nhà cao có hình chữ nhật màu xám biến mất trong tầng mây thấp là đà. Thành phố lớn nhất của Alaska không lớn như San-non nghĩ. Cô hơi ngạc nhiên, vì cô cứ tưởng nó ồn ào, đông đúc, náo nhiệt như Houston, Texas, thành phố quê nhà của cô. Khi Shannon ngồi dựa lưng ra ghế, cặp mắt nâu của cô ánh lên vẻ sung sướng. Cô mỉm cười một mình, cảm thấy lòng hân hoan vì chuyến đi của cô đã kết thúc. Cô sờ chiếc nhẫn đính hôn nơi bàn tay trái, thoa mặt kim cương cắt theo hình vuông như thể thoa lên chiếc bùa hộ mệnh. Ánh sáng lờ mờ ảm đạm bên ngoài cửa sổ máy bay không làm cho nhiệt tình của cô suy giảm chút nào. Cô nghe tiếng bánh xe máy bay chạm mạnh xuống phi đạo, rồi sau đó mấy giây, cả chiếc máy bay phản lực chạy chậm lại trên đường băng. Việc phi cơ đáp xuống đất ảnh hưởng đến nhịp tim của cô, làm cho mạch trong người cô đập nhanh hơn. Shannon đưa tay vuốt mái tóc mày hạt dẻ cho thẳng mặc dù mới cách đấy mấy phút, cô đã chải mái tóc bờm xờm cho hấp dẫn. Cô cũng tô son điểm phấn lại một chút, vì cô biết Rick hơi quan tâm đến nhan sắc của cô. Anh đã hãnh diện tuyên bố anh là chủ sở hữu cô gái có mái tóc sẫm, mắt nâu đẹp rực rỡ. Đây là từ anh thường dùng để nói về cô, khiến cô cảm thấy hơi khó chịu. Nhưng bây giờ cô hy vọng anh vẫn nghĩ về cô như thế. Sau chuyến bay lâu 5 giờ, thì đẹp rực rỡ là chuyện khó có thể đạt được. *** Janet Anne Haradon Dailey (21/5/1944 - 14/12/2013) là một tác giả Mỹ về nhiều tiểu thuyết lãng mạn với bút danh Janet Dailey. Các tiểu thuyết của cô đã được dịch sang hơn 90 ngôn ngữ và đã bán được hơn 300 triệu bản trên toàn thế giới. Dailey vừa là một tác giả vừa là một doanh nhân. Dailey luôn muốn trở thành một nhà văn và yêu sách. Ba chị gái của bà thường đọc cho bà khi còn là một đứa trẻ. Đến năm 4 tuổi, bà đã có thẻ thư viện riêng của mình.  Bà tốt nghiệp năm 1962 tại Trường Trung học Jefferson ở Independence, Iowa và làm việc cho một công ty xây dựng thuộc sở hữu của người chồng tương lai của cô, Bill Dailey, hơn bà 15 tuổi. Hai người tiếp tục làm việc cùng nhau, thường dành 17 tiếng một ngày, 7 ngày một tuần làm việc và kết hôn năm 1964. *** Một số tác phẩm của bà đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam, bao gồm: Bến Hẹn Chị Em Thù Hận Chỉ Vì Yêu Chuyện Tình Dưới Nhành Cây Tầm Gửi Con Đường Đêm Điểm Hẹn Của Tình Yêu Giông Tố Thảo Nguyên Hai Chị Em Hoa Thảo Nguyên Khung Trời Quyến Rũ Ngôi Sao Đơn Độc Ngựa Hoang Sự Lựa Chọn Cuối Cùng Tình Địch (The Rivals In Love) Vũ Hội Hoá Trang *** Khi chiếc máy bay hạ thấp độ cao xuống dưới những đám mây xám trên bầu trời thành phố Anchorage, Shannon Hayes căng mắt nhìn qua khung cửa sổ đã bị mòn vẹt của nó. Một bức tường núi xám đen vươn cao bên cạnh thành phố, đỉnh núi khuất trong mây. Cô thấy bên dưới, nhà cửa rải rác và đường xá dọc ngang đan vào nhau. Xa xa, cô thấy những toà nhà cao có hình chữ nhật màu xám biến mất trong tầng mây thấp là đà. "Thành phố lớn nhất của Alaska không lớn như Shannon nghĩ". Cô hơi ngạc nhiên, vì cô cứ tưởng nó ồn ào, đông đúc, náo nhiệt như Houston, Texas, thành phố quê nhà của cô. Khi Shannon ngồi dựa lưng ra ghế, cặp mắt nâu của cô ánh lên vẻ sung sướng. Cô mỉm cười một mình, cảm thấy lòng hân hoan vì chuyến đi của cô kết thúc. Cô sờ chiếc nhẫn đính hôn nơi bàn tay trái, thoa mặt kim cương cắt theo hình vuông như thể thoa lên chiếc bùa hộ mệnh. Ánh sáng lờ mờ ảm đạm bên ngoài cửa sổ máy bay không làm cho nhiệt tình của cô suy giảm chút nào. Cô nghe tiếng bánh xe máy bay chạm mạnh xuống phi đạo, rồi sau đó mấy giây, cả chiếc máy bay phản lực chạy chậm lại trên đường băng. Việc phi cơ đáp xuống đất ảnh hưởng đến nhịp tim của cô, làm cho mạch trong người cô đập nhanh hơn. Shannon đưa tay vuốt mái tóc hạt dẻ cho thẳng, mặc dù mới cách đây mấy phút, cô đã chải mái tóc bờm sờm cho hấp dẫn. Cô cũng tô son điểm phấn lại một chút, vì cô biết Rick hơi quan tâm đến nhan sắc của cô. Anh đã hãnh diện tuyên bố anh là chủ sở hữu cô gái có mái tóc sẫm, mắt nâu đẹp rực rỡ. Đây là từ anh thường dùng để nói về cô như thế. Sau chuyến bay lâu 5h, thì đẹp rực rỡ là chuyện khó có thể đạt được. Cô gặp anh từ ấy đến nay đã lâu, cô đã sống cô đơn suốt nhiều tháng trời. Cô nhớ cô đã khóc rất nhiều ở phi trường vào hôm Rick lên đường đi Alaska, nhớ những lời họ hứa hẹn với nhau, nhớ những nụ hôn vồ vập trước giờ anh đi. Thỉnh thoảng anh viết thư về, có khi anh gọi điện thoại, có khi anh gửi thư điện tử về cho cô. Nhưng tất cả những chuyện đó không làm sao lấp đầy được nỗi trống trải trong cô. Nhiều bạn gái đã khuyên cô nên bỏ anh, tìm người yêu khác, nhưng Shannon không nghe. Cô biết anh là phi công vùng hoang dã. Cô không mong chờ anh ngồi bên điện thoại để đợi cô gọi đến, mà cô biết anh đang ở đâu đó ngoài vùng hoang dã. Cô nghĩ anh đang chiêm ngưỡng cảnh đẹp huy hoàng trên Trái Đất này. Ít ra cô đã suy nghĩ như thế. Nhưng có phải làm phi công là không có thì giờ rảnh rỗi, để nói lời xin lỗi vì đã để cô chờ đợi và lo âu? Rick đã hứa với cô rằng, khi nào anh có được công việc ổn định và có chỗ ở hẳn hoi để hai người cùng sống, thì anh sẽ báo cô đến. Anh không nói bao lâu thì anh có công việc ổn định. Cách đây hơn một tháng anh có nhắn tin về, vào cuối tháng bảy, bằng thẻ điện thoại, nhưng hôm đó cô đi vắng. Rick để lại cho cô số máy nhắn tin, anh cho biết số máy này của anh còn hiệu lực cho đến cuối tháng 8. Cô thấy như thế còn hơn không... Nhưng Shannon không khỏi lo lắng. Rồi vào đầu tháng 9, cô nhận được bức thư Tốc hành liên bang. Trong phong thư có vé máy bay bằng loại giấy theo kiểu cổ điển rất đẹp, để đến Anchorage. Ngoài ra không còn gì nữa, không thư, không lời ghi chú gì. Nhưng cái vé chỉ đi một chuyến. Như vậy vấn đề quá rõ rồi: Rick muốn cô đến với anh. Sự lo sợ lâu nay của cô rằng anh hết yêu cô đã tan biến. Và bây giờ Shannon đang trên đường đến nơi cùng xây tổ ấm. Cô đã chuẩn bị để lên đường không quá lâu một tuần. Cô chỉ mang theo những thứ cần thiết, còn lại bao nhiêu sẽ gởi bằng tàu thủy sau. Bố mẹ cô sẽ bay đến vào cuối tuần lễ sau để dự lễ cưới. Dĩ nhiên hai ông bà đều tin rằng cả cô và Rick đều điên. Cô nghĩ ý kiến của bố mẹ cũng dễ hiểu thôi. Từ bỏ vịnh Texas ấm áp để đến vùng Alaska lạnh cóng, đối với nhiều người thì đây là hành động điên khùng. Nhưng Shannon đã lây tính phiêu lưu mạo hiểm của Rick từ ngày họ gặp nhau. Anh muốn sống tại vùng xa xôi nhất của nước Mỹ, và cô đã chia sẻ phần nào mong ước của anh. Nhưng cô biết chuyến phiêu lưu của họ không phải đi đến thiên đàng. Thôi thì mặc. Bây giờ cô đến Alaska rồi. Bố mẹ cô đã châm biếm nói rằng cô đi theo tiếng gọi của vùng hoang dã. Họ đã cố làm cho cô nản chí, nhưng họ đã thất bại. Dù sao thì cô và Rick cũng đã đính hôn hơn một năm rồi. Cô phải đến đây để thành hôn với anh là điều rất chính đáng. Mặc dù đồ đạc trên tay nặng nề, nhưng bước chân của cô nhẹ nhàng và nhanh nhẹn khi đi xuống cầu thang máy bay. Cô nhìn đám người lưa thưa đứng đợi ở bên kia cổng phi cảng để tìm Rick. Anh cao lêu nghêu và mái tóc vàng nhạt hấp dẫn. Cô nhìn từng khuôn mặt đàn ông tìm Rick, bất kể họ đang nhìn chằm chằm vào cô. Nhưng anh đâu nhỉ? Cô chậm lại. Bỗng người đi sau thúc lưng cô, khiến cô phải bước ra ngoài hàng để nhìn quanh tìm Rick thêm một lần nữa. Cặp mắt nâu xinh đẹp bỗng trở nên bối rối. Cô không tìm thấy anh ở đâu hết. ... Mời các bạn đón đọc Bến Hẹn của tác giả Janet Dailey.
Cô Dâu của Lionheart - Michelle Willingham
Thị nữ của công chúa Berengaria, Adriana, nhận nhiệm vụ của cô ấy với nữ hoàng tương lai của nước anh một cách nghiêm túc – cô sẽ bảo vệ cô ấy cho đến chết! Khi chuyến du hành trên biển của họ đến vùng đất Holy kết thúc bởi vụ đắm tàu và bị bắt giữ, Adriana biết rằng hy vọng duy nhất của cô là người đàn ông Ai len bí ẩn, Lian MacEgan. Liam trốn sang phía vua Richard của Lionheart và cùng họ lập kế hoạch giải cứu. Không gì có thể ngăn cản sự thành công của những chiến binh này – những cô dâu tương lai của họ đang bị bắt giữ ở Cyprus và họ sẽ kéo cả địa ngục xuống để giải cứu họ. *** 0BxJKo4pJUQugWFRVOUlDVmJHaUU là tác giả đạt giải RITA năm 2010 (Giải thưởng danh giá dành cho các nhà văn lãng mạn xuất sắc nhất nước Mỹ). Michelle đã xuất bản hơn hai mươi cuốn sách và tiểu thuyết ngắn. Hiện nay, bà đang sống cùng gia đình ở Virginia. Ghé thăm trang web của bà tại www.michellewillingham.com.  Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam: - Chàng công tước bí ẩn (XB 2015) - Bí mật tội lỗi (XB 2014) *** Pamplano, Vương quốc của Navarre, năm 1187 “Ta không biết là nàng sẽ đến,” Richard nói, với lấy tay nàng. Chàng đã cởi bỏ chiếc áo giáp chàng đã mặc lúc sớm và mặc vào một chiếc áo dài bằng lụa màu xanh dương có đính lông. Cái áo choàng màu tối của chàng đặt trên vai, và thậm chí trong ánh sáng trăng, Berengaria vẫn có thể quan sát thấy đôi mắt xám lạnh và tia sáng màu hung đỏ của mái tóc chàng. “Tôi làm gì có sự lựa chọn nào khác?” nàng buộc tội. “Chàng đã đánh cắp chiếc nhẫn của tôi tại cuộc đấu trên ngựa khi chàng hôn tay tôi. ’ Nắm lấy lòng bàn tay mình, nàng gửi cho chàng một cái nhìn cảnh báo. ‘Tôi muốn lấy lại chiếc nhẫn của tôi. ’ ‘Ta muốn có cớ để gặp lại nàng. ’ Chàng gửi cho nàng một nụ cười chậm rãi mà nhanh chóng làm tăng nhịp đập của nàng. Chàng mở lòng bàn tay mình ra, và một chiếc nhẫn bằng vàng có đính ngọc lục bảo xuất hiện. ‘Đây là cái nàng muốn à? ’ Khi nàng cố gắng chộp lấy nó, chàng nắm bàn tay lại. ‘Hãy đến gần hơn, và nàng sẽ có nó. ’ ‘Đừng làm trò nữa, vì Chúa. Tôi không quan tâm đến điều đó. ’ ‘Nếu đó là sự thực, nàng sẽ không đến. Nàng sẽ gửi một người hầu đến lấy chiếc nhẫn. ’ ‘Và chàng đã từ chối trả lại nó. ’ Chàng tiến đến gần hơn và ấn chiếc nhẫn vào tay nàng. ‘Nàng nghĩ ta giống một kẻ hung ác à? ’ ‘Tôi không biết chàng là ai. ’ Mặc dù bàn tay nàng đã đeo găng nhưng nàng vẫn có thể cảm nhận được sức nóng của làn da chàng. Một điều gì đó về người đàn ông này kích thích trí tò mò của nàng, trượt qua sự phòng thủ của nàng giống như người chiến binh là chàng. Đừng ở lại, Berengaria cảnh báo chính mình. Hãy rời khỏi ngay bây giờ. Cha nàng, vua Sancho sẽ rất tức giận nếu biết nàng đang đứng trong vườn với Công tước của Aquitaine, con trai của vua Henry Plantagenet của nước Anh. ‘Ta muốn biết nàng, ’ Richard nói chậm rãi. ‘Không một người phụ nữ nào từng đủ can đảm nói với ta theo cách mà nàng đã làm. ’ ‘Không, ’ nàng thì thầm. ‘Chàng không phải là người hứa hôn của tôi và sẽ không bao giờ là. ’ ‘Nàng đúng. ’ Bàn tay chàng di chuyển lên má nàng, và khi nàng cố gắng tránh thì chàng giam giữ nàng tại nơi đó. ‘Berengaria, nàng nhắc ta nhớ đến Eva. Nàng đã cám dỗ ta với miệng lưỡi chua chát của nàng. Ánh sáng lóe lên trong đôi mắt tối màu của nàng. ’ Nàng rùng mình nhè nhẹ, và trí óc nàng lại cảnh báo nàng đi khỏi đây. Nhưng giọng chàng như bắt giữ nàng, trong khi ngón tay cái của chàng lần theo xương gò má nàng. ‘Ta ngưỡng mộ tâm hồn của nàng. ’ Richard xoay nhẹ mặt nàng để nhìn vào chàng. Sau đó chàng dựa vào gần hơn, đặt trán chàng trên trán nàng. ‘Nàng nên biết rằng đây là cơ hội cuối cùng của nàng để thoát khỏi sự đụng chạm. Nếu nàng ở lại, ta định sẽ hôn nàng. ’ Chàng thả nàng ra và đứng bất động, chờ đợi quyết định của nàng. Tâm trí nàng gào thét bảo nàng bỏ chạy, nhưng chân nàng vẫn đứng nguyên tại chỗ. ... Mời các bạn đón đọc Cô Dâu của Lionheart của tác giả Michelle Willingham.