Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tới Ngọn Hải Đăng - Virginia Woolf

"Tới ngọn hải đăng" là câu chuyện kể về gia đình Ramsay trong kỳ nghỉ trên hòn đảo ở Scotland vào khoảng năm 1910 và 1920. Thông qua những điều bình dị, tác phẩm thể hiện được những tâm tư, suy nghĩ của Virginia Woolf về bản chất của cuộc sống và khát vọng tìm câu trả lời cho câu hỏi: Ý nghĩa của cuộc đời mỗi con người là gì? Tác phẩm cũng được coi là cuốn tiểu thuyết viết theo dòng ý thức thành công nhất của Virginia Woolf. Tuy nhiên đây không phải là một cuốn sách dễ đọc, như cách nói của nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình nổi tiếng người Canada Margaret Atwood: "Có một số cuốn sách phải đợi cho tới lúc bạn đã sẵn sàng cho nó. Trong việc đọc, có rất nhiều điều phụ thuộc vào sự may mắn". "Tới ngọn hải đăng" của Virginia Woolf được Tạp chí Time xếp hạng là một trong số 100 cuốn tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất từ năm 1923-2005. Bản tiếng Việt vừa được NXB Hội Nhà văn và Công ty Truyền thông Hà Thế ấn hành. "Tới ngọn hải đăng" là câu chuyện kể về gia đình Ramsay trong kỳ nghỉ trên hòn đảo ở Scotland vào khoảng năm 1910 và 1920. Thông qua những điều bình dị, tác phẩm thể hiện được những tâm tư, suy nghĩ của Virginia Woolf về bản chất của cuộc sống và khát vọng tìm câu trả lời cho câu hỏi: Ý nghĩa của cuộc đời mỗi con người là gì? Tác phẩm cũng được coi là cuốn tiểu thuyết viết theo dòng ý thức thành công nhất của Virginia Woolf. Tuy nhiên đây không phải là một cuốn sách dễ đọc, như cách nói của nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình nổi tiếng người Canada Margaret Atwood: "Có một số cuốn sách phải đợi cho tới lúc bạn đã sẵn sàng cho nó. Trong việc đọc, có rất nhiều điều phụ thuộc vào sự may mắn". - Tác phẩm Tới ngọn hải đăng được xuất bản lần đầu vào tháng 5-1927 với số lượng ba ngàn bản và bán hết trong vòng một thời gian ngắn, giúp vợ chồng Woolf mua được một chiếc xe hơi. - Đoạt giải Heinemann Northcliffe và giải Femina Vie Heureuse (nay gọi là Prix Femina) dành cho tác phẩm nước ngoài năm 1928. - Được dịch sang tiếng Pháp ba lần: dịch giả Maurice Lanoire (tựa tiếng Pháp Promenade au Phare - 1929); dịch giả Magadi Merle (tựa tiếng Pháp Voyage au Phare - 1993); dịch giả Francois Pellan (tựa tiếng Pháp Vers le Phare - 1996). - Được tạp chí Time Magazine xếp hạng nằm trong số 100 cuốn tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất từ 1923 - 2005. - Được hãng thông tấn BBC chuyển thể thành phim (TV) vào năm 1983. Đạo diễn Colin Gregg, chuyển thể kịch bản phim Hugh Stoddart. - Được chuyển thể thành kịch bởi kịch tác gia Adele Edling Shank, đạo diễn Les Waters, âm nhạc Paul Dresher, công diễn lần đầu tại nhà hát Roda ngày 23-3-2007. - Nhạc sĩ Anh Patrick Wolf (sinh năm 1983) đã sáng tác ca khúc To the Lighthouse (trong album Lycanthropy - 2003) với cảm hứng từ cuốn tiểu thuyết. *** “Một người phụ nữ phải có tiền và một căn phòng riêng nếu muốn viết văn; và điều đó, như bạn sẽ thấy, khiến cho vấn đề lớn lao về bản chất đích thực của phụ nữ và bản chất đích thực của văn chương vẫn còn bỏ ngỏ chưa giải quyết.” Câu nói trên trích từ Chương 1 của tập tiểu luận nhan đề A Room of One’s Own (Một căn phòng riêng) của nữ tiểu thuyết gia, tiểu luận gia, nhà phê bình văn học người Anh Virginia Woolf (1882-1941). Câu trích dẫn này vẫn thường được mọi người nhắc đến khi đề cập tới Virginia, bởi lẽ tất cả những tác phẩm và chính cuộc đời đầy sóng gió và bi kịch của bà thật sự là những nỗ lực không ngừng để đạt tới mục đích bình dị vô song đó: Tiền và một căn phòng riêng để viết - hay nói cách khác, sự độc lập về mặt vật chất (và cả tinh thần) của một phụ nữ muốn sáng tạo văn chương nghệ thuật. Nhũ danh của Virginia Woolf là Adeline Virginia Stephen. Bà là con gái của nhà biên tập và phê bình Leslie Stephen và Julia Prinsep Stephen (nhũ danh Jackson), một phụ nữ đẹp nổi tiếng từng là người mẫu cho các họa sĩ theo trào lưu Tiền-Raphael như Edward Burne-Jones. Cha mẹ bà đều đã từng kết hôn và con riêng, do đó gia đình bà bao gồm con cái của ba cuộc hôn nhân. Julia có ba con riêng là George, Stella và Gerald Duckworth. Leslie có một con gái với người vợ trước, tên là Laura Makepeace Stephen. Leslie và Julia có chung bốn người con: Vanessa Stephen, Thoby Stephen, Virginia và Adrian Stephen. Leslie vốn là con rể của nhà văn William Thackeray (ông là chồng góa của con gái út của Thackeray), bên cạnh đó thân hữu của cả hai vợ chồng ông đều là những nhà văn, nghệ sĩ nổi tiếng của nước Anh vào thời bấy giờ. Do vậy con cái của ông được nuôi dạy trong một môi trường chịu nhiều ảnh hưởng của giới văn học nước Anh. Bổ sung cho những ảnh hưởng này là tòa thư viện rộng mênh mông ở nhà của Stephen, nơi mà Virginia và Vanessa được dạy các môn học như ngoại ngữ, triết học, văn chương, lịch sử, nghệ thuật và văn học Anh. Theo Woolf, những hồi ức tuổi thơ mạnh mẽ nhất của bà không phải là ở London mà là ở thị trấn St. Ives thuộc hạt Cornwall, nơi gia đình bà dùng để nghỉ hè cho tới năm 1895. Ngôi nhà nghỉ hè của gia đình Stephen, Talland House, nhìn ra vịnh Porthminster, và vẫn còn cho tới ngày nay, dù đã thay đổi ít nhiều. Ký ức về những ngày nghỉ gia đình này và những ấn tượng về phong cảnh ở đó, đặc biệt là ngọn hải đăng Godvry, đã được thể hiện lại trong quyển tiểu thuyết được xem là hay nhất của Woolf vào những năm sau này, quyển To the Lighthouse (Tới ngọn hải đăng). Trong thời gian nghiên cứu ở đại học đường King’s College Cambridge và King’s College London, bà quen biết với một số văn nghệ sĩ và trí thức cấp tiến như nhà kinh tế học John Maynard Keynes, thi sĩ E. M. Forster, nhà văn chuyên viết tiểu luận và tiểu sử Lytton Strachey và nhà văn, lý thuyết gia chính trị người Anh gốc Do Thái Leonard Woolf (1880-1969), người mà bà kết hôn vào năm 1912. Họ trở thành những thành viên sáng lập của Bloomsbury Group, một nhóm các bạn bè thân hữu sống và hoạt động gần khu Bloomsbury, London, thường xuyên có những buổi họp mặt thảo luận về đủ mọi đề tài. Tác phẩm của Nhóm Bloomsbury đã có một ảnh hưởng sâu rộng tới các mặt văn chương, mỹ học, phê bình và kinh tế học, cũng như đưa ra những quan điểm hiện đại về thuyết nam nữ bình quyền, chủ nghĩa hòa bình và quan hệ tính dục. Năm 1917, hai vợ chồng Woolfs mua lại một xưởng in thủ công nhỏ và sáng lập ấn quán Hogarth pss, xuất bản những tác phẩm của nhóm Bloomsbury, của Katherine Mansfield cũng như bản dịch các tác phẩm của Freud. Virginia Woolf sống một cuộc đời sôi động giữa bằng hữu và gia đình, viết lách và diễn thuyết ở các trường đại học. Cái chết của mẹ vào năm 1895 và của chị gái cùng mẹ khác cha Stella hai năm sau đó đã dẫn tới những cơn suy nhược thần kinh đầu tiên của Virginia Woolf. Và cái chết của cha bà vào năm 1914 đã khiến cho bà suy sụp hoàn toàn, phải vào bệnh viện để điều trị một thời gian ngắn. Các cơn suy nhược và những thời kỳ trầm cảm sau này cũng còn chịu ảnh hưởng bởi sự lạm dụng tình dục mà bà và Vanessa gánh chịu từ hai người anh cùng mẹ khác cha là George và Gerald Duckworth. Woolf đã nhắc lại chuyện này trong các tiểu luận A sketch of the Past (Một phác họa về quá khứ) và 22 Hyde Park Gate (Nhà số 22 phố Hyde Park Gate). Trong suốt đời mình, Virginia Woolf luôn bị quấy rầy bởi những cơn trầm cảm và những chứng bệnh liên quan. Dù các cơn đau này thường gây ảnh hưởng tới hoạt động xã hội của mình, bà vẫn tiếp tục sáng tác với một vài thời kỳ gián đoạn cho tới khi qua đời do tự tử. Càng về sau này, Virginia càng thường xuyên chịu đựng các cơn suy nhược thần kinh. Bà thẳng thắn tự nhận là mình “bị điên”, bảo rằng bà thường nghe thấy những tiếng nói và nhìn thấy những ảo ảnh: “Đối với tôi, bộ não của tôi là thứ thiết bị bất khả lý giải nhất - luôn luôn kêu vo ve, o o, vút lên, gầm rú, lao xuống, và rồi bị vùi chôn trong bùn. Và tại sao?...” (trích một lá thư đề ngày 28/12/1932) Sợ làm phiền đến chồng mình, bà đã tự tử một đôi lần nhưng thất bại. Trong lá thư cuối cùng gửi cho chồng, bà viết: “Em cảm thấy chắc chắn rằng em sắp sửa điên trở lại. Em cảm thấy chúng ta sẽ không thể vượt qua những thời khắc kinh khủng đó thêm nữa. Và lần này em không thể hồi phục lại. Em bắt đầu nghe thấy những giọng nói, và em không thể tập trung. Vì thế em sẽ thực hiện cái điều mà dường như là điều tốt nhất để làm. Anh đã cho em niềm hạnh phúc lớn nhất có thể có. Theo bất kỳ cách thức nào anh đã là tất cả những gì mà bất kỳ một người nào có thể là. Em không nghĩ rằng có thể có hai người nào từng hạnh phúc hơn (chúng ta) cho tới khi căn bệnh khủng khiếp này đến. Em không thể chiến đấu thêm được nữa. Em biết rằng em đang phá hỏng cuộc đời anh, rằng nếu không có em anh có thể làm việc được. Và anh sẽ làm được, em biết. Anh thấy đó, thậm chí em không thể viết được lá thư này cho hợp cách. Em không thể đọc. Điều em muốn nói là em mắc nợ anh về tất cả những hạnh phúc của đời mình. Anh đã hoàn toàn nhẫn nại với em và tốt đến không thể tin nổi. Em sẽ không tiếp tục phá hỏng đời anh nữa. Em không nghĩ rằng có thể có hai người nào lại từng hạnh phúc hơn chúng ta.” Đêm 28/3/1941, Virginia Woolf nhét đầy đá vào những túi áo khoác rồi đi bộ tới con sông Ouse gần nhà và tự trầm mình. Cho tới ngày 18-4, thi thể hầu như chỉ còn xương của bà mới được phát hiện ra. Chồng bà chôn phần thi thể còn lại của bà dưới một gốc cây trong khu vườn nhà của họ tại Rodmell, Sussex. Sau Thế chiến thứ hai, sự chú ý đối với các tác phẩm của bà giảm đi nhiều, nhưng từ đầu thập niên 1970 cho tới nay, do sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa nữ quyền ở phương Tây, ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu về tác phẩm cũng như bản thân cuộc sống sáng tác và hoạt động của bà. Bộ môn văn chương Anh ở tất cả các trường đại học danh tiếng trên thế giới đều dành một học phần quan trọng để nghiên cứu về các tác phẩm của Virginia Woolf. Các trước tác của bà được tái bản nhiều lần và dịch ra nhiều thứ tiếng trên khắp thế giới. Hiện nay bà được đánh giá là một trong các tác giả vĩ đại nhất của thế kỷ 20, đồng thời cũng là một nhân vật trọng yếu trong lịch sử văn chương Anh ngữ với tư cách một người bênh vực nữ quyền và một người theo chủ nghĩa hiện đại; một trong những người sáng lập nên trào lưu Chủ nghĩa Hiện đại bao gồm T.S. Eliot, Ezra Pound, James Joice và Gertrude Stein. Trong quãng đời ngắn ngủi và chiến đấu thường xuyên với căn bệnh thần kinh của mình, Virginia Woold đã trước tác một lượng khổng lồ các tác phẩm với đủ thể loại: 8 tiểu thuyết (The Voyage Out - 1915; Night and Day - 1919; Jacob’s Room - 1922; Mrs. Dalloway - 1925; To The Lighthouse - 1927; The Waves - 1931; The Years - 1937; Between The Acts - 1941); 14 tập tiểu luận, trong đó nổi bật nhất là A Room of One’s Own (1929) và Three Guineas (1938); sáu tập truyện ngắn; ba tập tiểu sử, trong đó nổi bật nhất là quyển Orlando: A Biography (1928), thường được xem như một tác phẩm tiểu thuyết, lấy cảm hứng từ nhà thơ nữ Vita Sackville-West, người tình đồng tính của bà; sáu tiểu sử tự thuật và nhật ký; và một vở kịch (Freshwater: A Comedy - công diễn 1923; xuất bản 1976). Ngoài ra còn có vô số thư từ liên quan tới cuộc sống và công việc của bà đã được xuất bản bao gồm ba quyểnCongenial Spirits: The Selected Letters (1993), The Letters of Virginia Woolf 1888-1941 (sáu tập, 1975-1980) và Paper Darts: The Illustrated Letters of Virginia Woolf (1991). Cuộc đời và sự nghiệp phong phú, phức tạp của Virginia Woolf cũng đã được nghiên cứu rộng và sâu bởi gần ba mươi tác giả khác nhau dưới hình thức các tác phẩm tiểu sử và phân tích phê bình.   Mời các bạn đón đọc Tới Ngọn Hải Đăng của tác giả Virginia Woolf.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lấy Nhau Vì Tình
Người phương Tây xưa nay vốn phân biệt hai kiểu hôn nhân: lấy nhau theo lý trí và lấy nhau vì tình yêu. Theo lý trí là cân nhắc kỹ lưỡng mọi điều kiện của hôn nhân mà quyết định sáng suốt, hợp với hoàn cảnh của cá nhân, gia đình và xã hội. Còn vì tình yêu là chỉ tuân theo có tiếng gọi của tấm lòng, bất chấp mọi điều kiện khác. Trong những năm 30 của thế kỷ này, thanh niên nam nữ mới tiếp thu văn hóa Tây phương, muốn thoát ly khỏi gia đình phong kiến, chống lại quyền cha mẹ đặt đâu con phải ngồi đấy, phần lớn cho rằng lấy nhau phải vì tình mới là hợp lý và mới có hạnh phúc vợ chồng. Cái lối hôn nhân phong kiến, trước những thay đổi lớn của xã hội, đã làm sinh ra không ít bi kịch. Lên án nó và góp phần đào thải nó khỏi xã hội thì các nhà văn trong Tự lực văn đoàn chủ yếu là Nhất Linh và Khái Hưng, đã làm thật mạnh và thành công không ít. Nhưng trong không khí say sưa rất lãng mạn chủ nghĩa ấy, những người thuộc phái mới có ai đã bình tĩnh để sáng suốt mà tự hỏi: nhưng hôn nhân chỉ vì tình yêu thì có phải bao giờ cũng tốt đẹp, và cũng đem đến hạnh phúc cho gia đình cả không? Chỉ có Vũ Trọng Phụng năm 1937, là như đặt ra cái câu hỏi ấy và đã trả lời bằng cuốn tiểu thuyết Lấy nhau vì tình. Mới nghe tên sách như thế, mãi đến cả ngày nay ai mà chẳng tưởng rằng Vũ Trọng Phụng đã viết một truyện hoa tình diễm lệ theo phong cách lãng mạn chủ nghĩa, lúc bấy giờ đang độ cực thịnh. Ngờ đâu đó là một cuốn tiểu thuyết tâm lý xã hội, mà hiện thực xã hội thì vẽ ra thật trung thành và sinh động, mà tâm lý nhân vật thì phân tích thật tinh vi và sâu sắc. *** Vũ Trọng Phụng (1912-1939) là một nhà văn, nhà báo nổi tiếng của Việt Nam vào đầu thế kỷ 20. Tuy thời gian cầm bút rất ngắn ngủi, với tác phẩm đầu tiên là truyện ngắn Chống nạng lên đường đăng trên Ngọ báo vào năm 1930, ông đã để lại một kho tác phẩm đáng kinh ngạc: hơn 30 truyện ngắn, 9 tập tiểu thuyết, 9 tập phóng sự, 7 vở kịch, cùng một bản dịch vở kịch từ tiếng Pháp, một số bài viết phê bình, tranh luận văn học và hàng trăm bài báo viết về các vấn đề chính trị, xã hội, văn hóa. Một số trích đoạn tác phẩm của ông trong các tác phẩm Số đỏ và Giông Tố đã được đưa vào sách giáo khoa môn Ngữ văn của Việt Nam.  Nổi tiếng với giọng văn trào phúng châm biếm xã hội của mình, một số người đã so sánh ông như Balzac của Việt Nam. Tuy nhiên, cũng vì phong cách "tả chân" và yếu tố tình dục trong tác phẩm mà khi sinh thời ông đã bị chính quyền bảo hộ Pháp tại Hà Nội gọi ra tòa vì "tội tổn thương phong hóa" (outrage aux bonnes moeurs). Về sau này, tác phẩm của ông lại bị cấm in, cấm đọc vì là "tác phẩm suy đồi" tại miền Bắc Việt Nam từ 1954 và cả nước từ ngày 30/4/1975 cho đến tận cuối những năm 1980 mới được chính quyền cho lưu hành.  Tác phẩm: Tiểu thuyết: Dứt tình (1934) Giông tố (1936), khi đăng trên Hà Nội báo có tên Thị Mịch. Vỡ đê (1936) - Báo Tương Lai Số đỏ (1936) - Hà Nội báo Làm đĩ (1936) - Tạp chí Sông Hương Lấy nhau vì tình (1937) Trúng số độc đắc (1938) Quý phái (1937, đăng dang dở trên Đông Dương tạp chí - bộ mới) Người tù được tha (Di cảo) Và còn rất nhiều tác phẩm kịch, dịch thuật, phóng sự và truyện ngắn Mời các bạn đón đọc Lấy Nhau Vì Tình của tác giả Vũ Trọng Phụng.
Bố Con Cá Gai - Cho Chang In
Có những câu chuyện mãi được yêu thương, và nằm trong trái tim bạn đọc suốt năm này qua năm khác… Bố con cá gai là một câu chuyện như thế, trong trái tim độc giả Hàn Quốc, suốt nhiều năm nay. Ở đó có một em nhỏ đã chiến đấu với bệnh hiểm nghèo từ lúc lên ba, giờ em gần mười tuổi. Hãy khoan, đừng vội buồn! Vì em bé này sẽ chẳng làm bạn phải buồn nhiều. Em chịu tiêm rất giỏi, em không khóc, ngoài những lúc mệt quá ngủ thiếp đi, em còn bận đỏ bừng mặt nghĩ tới bạn Eun Mi kẹp-tóc-hoa, bận xếp hình tàu cướp biển, bận lật giở cuốn truyện Bảy viên ngọc rồng… Nhưng bố em thì khác, một ông bố làm em nhỏ của chúng ta phiền lòng quá nhiều, cũng làm những ai dõi theo “bố con cá gai” phải buồn không ít, có khi buồn quá hóa giận! Ông bố ấy đích thị là bố cá gai - một cá bố rất kỳ lạ - cả nguồn sống chỉ co cụm quẩn quanh cá gai con tí xíu. Như một ông bố ngốc! Ra đời năm 2000, câu chuyện cảm động về ông bố cá gai và cậu bé con mà người bố ấy nâng niu trong Bố con cá gai có sức lay động mạnh mẽ, trở thành một trong những câu chuyện về tình cha được người Hàn Quốc yêu thích nhất. *** Một câu chuyện khiến mình rất xúc động. Mình đã khóc rất nhiều khi đọc đoạn cuối của truyện. Em bé Daum, một em bé dù mới 10 tuổi nhưng chiến đấu dũng cảm với căn bệnh ung thư máu trắng; dù rất đau đớn nhưng em chịu đựng hết, luôn suy nghĩ lạc quan tích cực. Em cũng rất thông minh, một em bé 10 tuổi nhưng rất hiểu chuyện, rất ngoan. Em yêu và quan tâm bố từng tý một. Lúc nào em cũng nghĩ: bố cảm thấy thế nào? Bố có buồn không? Bố Daum, người bố xoay xở mọi bề để có thể vừa lo viện phí cho con, vừa chăm sóc động viên cổ vũ con chiến đấu với căn bệnh ung thư. Đọc truyện mình cảm được tình yêu lớn lao của ông với Daum. Có lẽ mọi ông bố trên thế giới này đều như vậy. Con là trên hết. con là cả thế giới. Con là nguồn sống, nguồn hi vọng hơn hết.  Tình yêu thương của hai bố con khiến mình rất xúc động. Vì thế cái kết dẫu có hợp lý, thì đối với mình vẫn là một cái kết buồn. Daum đã mạnh mẽ vượt qua cả cuộc chiến ung thư khắc nghiệt, thì còn có khó khăn nào em không thể vượt qua? Nhưng chỗ dựa tinh thần của Daum đã không còn nữa, có ai yêu em, hiểu em như bố em được nữa? *** Tôi có một người bạn thân quen đã lâu. Đó là một người bạn có con bị mắc bệnh nan y. Người bạn đó chẳng hề kêu ca về nỗi đau, cũng chẳng hề oán thán. Đứa trẻ thế nào rồi? Trước câu hỏi của tôi, anh chỉ khẽ cười và nói. Nó đang khỏe dần lên. Tuy nhiên, đó không phải là căn bệnh có thể dễ dàng khỏe dần lên. Không, thời gian càng trôi qua, nó càng trở nên tồi tệ hơn chứ. Thỉnh thoảng gặp nhau, chúng tôi lại cùng nhau uống rượu soju, và một ngày nọ, duy chỉ có một lần, người bạn đã nói với tôi: “Anh có biết hy vọng của tôi là gì không? Đó là giá như tôi có thể gánh bớt phần nào thay nó. Nhưng mà, tôi lại chẳng thể làm gì cho nó. Điều đó thật khó có thể chịu đựng được.” Điều đó thật khó có thể chịu đựng được... Câu nói của người bạn là lý do khiến tôi nặng lòng viết nên cuốn tiểu thuyết này. Đôi lúc trong lúc viết câu chuyện này, mỗi khi nghĩ đến nỗi đau đớn mà người bạn phải chịu đựng, tôi lại thở dài, và đã có những lúc tôi gập bản thảo lại suốt một thời gian dài. Nhưng tôi muốn viết ra câu chuyện này, để niềm hy vọng da diết của bạn tôi không bị hoài phí đến tận giây phút cuối cùng. Tôi đã mất bố từ khi còn bé. Khi đó tôi sáu tuổi. Sáu tuổi là thời điểm mà cuộc sống còn quá mới mẻ với tôi, ngay đến cả ký ức về bố giờ cũng mịt mờ. Tôi không còn nhớ rõ khuôn mặt bố. Bố là người đã rời đi như chiếc lá úa trong cơn gió heo may. Là một người sống một cuộc đời rồi đột ngột rời bỏ thế gian như cơn gió thoảng qua. Sự cười chê hay lòng thương cảm gượng gạo của thế gian dành cho một đứa trẻ không cha, tôi đã quen dần từ những năm tháng tuổi thơ. Biết đâu chính sự cười chê hay lòng thương cảm đó đã dồn nén trong tôi khao khát về một người cha. Tôi đã chẳng oán giận bố, cũng không hề nhớ đến bố. Vì thế mà trong một thời gian dài tôi đã không hiểu được ý nghĩa của người cha, và mặt khác, tôi cũng đã vờ như không biết. Như thể đó là cách tự bảo vệ mình trước nỗi đau vậy. Thế rồi tôi lại viết nên một cuốn tiểu thuyết về tình cha ấm áp như ánh nắng mùa xuân. Nó xuất phát từ cảm xúc khi được làm cha của một đứa trẻ, và mong muốn có thể đặt lên bàn một cuốn sách thay cho lời hứa rằng nhất định sẽ trở thành một người cha tốt. Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Viện trưởng Choi Kwang Won, Bệnh viện Y học Gia đình Ansan, người đã giúp đỡ tôi từ những giây phút bắt đầu đến tận khi hoàn thành cuốn sách này. Trên một hòn đảo trơ trọi giữa mùa đông, Cho chang-In Mời các bạn đón đọc Bố Con Cá Gai của tác giả Cho Chang In.
Cho Xem Đùi Nào, Leila - Rachid El-Daif
Trên giường bệnh viện, nhân vật chính hồi dần ký ức, anh nhớ ra rằng mình đã đâm phải cột điện và vào lúc tai nạn xảy ra, anh đang gọi điện cho cô bạn gái Leila. Chiếc xe hơi Nhật mua lại của người bạn liên tục đem tới đủ loại lo âu; khiến anh cảm giác mình đang lái một chiếc xe bị quỷ ám. Rắc rối bắt đầu vào cái ngày anh nhận được tin ông bố sáu mươi lăm tuổi của anh sẽ cưới vợ lẽ, và để thỏa mãn thói đỏng đảnh của cô vợ mới, ông sẽ bán căn hộ gia đình. Anh tìm cách ngăn cản đám cưới và không ngần ngại lập ra các mưu mẹo, ngày càng quái đản, thậm chí đề nghị cả nàng Leila dịu dàng và vô tội tới điều tiết cơn khát tình dục của người cha... Rachid El-Daif mổ xẻ xã hội Libăng đương đại bằng một ngòi bút mạnh mẽ mà hài hước hiếm có, mở một cánh cửa vào cuộc sống nội tâm phức tạp của giới trẻ Libăng - đất nước Âu hóa bậc nhất trong thế giới Hồi giáo. *** Rachid El-Daif là một tác giả người Lebanon, viết bằng tiếng Ả Rập. Ông đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ, bao gồm tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Ba Lan, tiếng Thụy Điển, tiếng Hà Lan, tiếng Ý, tiếng Hy Lạp, tiếng Nhật và tiếng Việt. Lần đầu tiên tôi gặp Rachid El-Daif là vào một ngày mùa thu cách đây gần hai năm. Tháp Eiffel mờ sau mưa bụi. Chúng tôi ăn trưa trong một quán nhỏ ven sông Seine cùng một người bạn chung. Lần đầu tiên được làm quen một tác giả Liban, tôi vô cùng háo hức, như thể đã đợi cuộc gặp gỡ này từ lâu lắm rồi. Văn chương Hồi giáo với tôi cho tới khi ấy là một vũ trụ hoàn toàn xa lạ, có cảm giác không thể không lạc lối nếu thiếu người bản xứ dẫn đường. Ấy vậy mà, cho tới giữa bữa ăn, cả văn chương lẫn Hồi giáo đều không phải là chủ đề được đẩy về phía trước như tôi tưởng. Tôi đã thử đề cập. Tôi gợi đến Kamel Daoud, người vừa nhận giải Goncourt cho tiểu thuyết thuyết đầu tay cách đó vài ngày. Tôi bàn về chuyện vượt biển của di dân Syria đang rất thời sự. Nhưng người đàn ông vóc dáng thanh mảnh dù đã bước sang tuổi thất thập ngồi trước mặt tôi tỏ ra chỉ quan tâm tới món cá thờn bơn không hiểu hấp hay nướng mà người ta vừa mang ra cho ông. Lọc xương cá một cách tài tình bằng dao và dĩa, ông bảo cuối bữa sẽ xin bồi bàn cách nấu để dạy lại bà bếp của ông ở Beyrouth. Chà, nhà văn thời nay mà có người phục vụ cơm nước! Tôi liền nói với ông rằng tất cả các tác giả Việt Nam mà tôi quen hay không quen đều là những tay bếp cừ khôi, còn các tác giả Pháp đương đại thì hầu như đã trở thành những kẻ tiêu thụ đồ hộp kỷ lục, một bên để đưa ẩm thực Việt ra thế giới, một bên để rút ẩm thực Pháp khỏi văn chương. Rachid nghe xong thì phá lên cười, một nụ cười phóng khoáng kèm tia nhìn láu lỉnh và cũng thật bình thản mà sau này tôi nhận ra là rất đặc trưng của ông. Cuối cùng, chính con cá thờn bơn đã cho tôi cái cớ để mở đầu câu chuyện có tính riêng tư hơn. Rachid El-Daif sinh năm 1945 ở Zgharta, một vùng núi cao của Liban, trong một gia đình đông con và bình dân, mẹ ông một thời gian dài thậm chí còn mù chữ. “Tôi luôn chọn những cách biểu đạt giản dị nhất có thể, cô đoán tại sao không?” Rachid hỏi, rồi trong khi tôi còn lúng túng chưa tìm được cách trả lời thì ông nheo mắt tinh nghịch: “Cho tới khi qua đời, mẹ tôi đã đọc hết những gì tôi viết trước đó.” Tôi im lặng, nhớ ra rằng mẹ của chính tôi, một kỹ sư nông lâm, không bao giờ vượt qua nổi chục trang đầu bất cứ cuốn tiểu thuyết nào của tôi nhưng luôn có chiều hướng khuyên tôi nên viết như những tác giả mà tôi cũng không bao giờ vượt qua nổi chục trang đầu. Vâng, lúc ấy tôi im lặng không đáp lại lời Rachid, nhưng vài ngày sau, khi bắt tay vào dịch Cho xem đùi nào, Leila!, tôi mới choáng váng nhớ lại câu nói kia của ông. Thật khó lòng tưởng tượng mẹ ông, một phụ nữ Hồi giáo lớn tuổi, vừa thoát nạn mù chữ, lại có thể bỏ chiếc mạng truyền thống sang một bên mà đọc những trang viết tràn đầy tự do như thế, cho dù tính hài hước đã được tác giả găm gài rất nhiều để người đọc thường xuyên được phá lên cười thay vì nhíu mày, nhăn trán. Cặp nhân vật chính – hai người đàn ông – được gắn kết với nhau bằng mối quan hệ gia đình mật thiết, nhưng lại bị chia rẽ nặng nề bởi những quan niệm đối lập về tình dục, trách nhiệm và... nàng Leila. Ông bố, sau cái chết của vợ, khao khát làm lại cuộc đời bằng cách cưới một phụ nữ khác, không cần đẹp, không cần trẻ, không cần cả nhu mì, nhưng nhất thiết phải bảo đảm cho chồng một cuộc sống tình dục bền vững, và để đổi lại, ông sẵn sàng chiều lòng người vợ tương lai, thậm chí đồng ý có con ở tuổi lục tuần. Ngược lại, cậu con trai, một thanh niên thành công và quyến rũ, thừa sức có một cuộc sống tình dục bền vững, nhưng chỉ chọn lên giường với các phụ nữ xinh đẹp, và nhất quyết không đánh đổi vui thú bằng bất cứ cái gì, không nhận trách nhiệm trước bất kỳ ai, mối quan tâm lớn nhất là xe hơi và đô-la. Nàng Leila dạn dày mà ngây thơ, bình dân nhưng ưa hàng hiệu, sẽ chen chân như thế nào vào những mâu thuẫn vốn đã chồng chất giữa hai người đàn ông – một già và một trẻ, một rộng lượng và một ích kỷ, một ham sống và một hủy diệt? Có phải cũ bao giờ cũng đồng nghĩa với xấu xa, còn mới với tốt đẹp? Bằng văn phong tao nhã, hiện đại và phóng khoáng, Rachid El-Daif đã mở một cánh cửa vào xã hội Liban vốn được coi là Âu hóa bậc nhất trong thế giới Hồi giáo nhưng vẫn mang trên mình những vết thương chiến tranh và giới hạn tín ngưỡng. Tuy thế, qua sự nghiệp gồm ba tập thơ và hàng chục tiểu thuyết, tôi tin rằng đóng góp lớn nhất của ông không nằm ở chỗ ông dám tấn công những thói giả dối, những xung đột về giới, những bất bình đẳng giữa các tầng lớp xã hội, mà là ở chỗ ông dám tấn công lối dùng ngôn ngữ văn chương phức tạp, bóng bảy và hùng biện, bằng cách tối giản các hình thức biểu đạt, ngôn từ, cấu trúc, ngữ pháp, hình ảnh... Và ông đã làm với tài năng, kiến thức, trong đó có những hiểu biết sâu sắc đến từ Pháp văn hiện đại được ông coi như ngôn ngữ thứ hai, nhưng trên hết là với niềm say mê mà ông nợ ở thi ca, thể loại ông đã buộc phải khước từ để nộp mình trọn vẹn cho tiểu thuyết. Với tất cả những nỗ lực ấy, Rachid El-Daif xứng đáng được đứng vào danh sách những cây bút hàng đầu của nền văn chương Ả-rập.   Mời các bạn đón đọc Cho Xem Đùi Nào, Leila của tác giả Rachid El-Daif.
Vô Hồn - Chuyện Về Một Người Không Chân Chính - Sergey Minaev
Vô Hồn - Chuyện Về Một Người Không Chân Chính: Tác giả đã vẽ nên một bức tranh tổng thể về những con người trẻ tuổi, thế hệ 7X của giới thời thượng bằng tính từ ngắn gọn: Vô hồn. Nhiều nhà phê bình văn học đã so sánh " Duhless " với tác phẩm " Người anh hùng thời đại " của Mikhai Lermontov (The times - Anh ) Cuốn sách kể về số phận của một giám đốc kinh doanh thuộc thế hệ 7X làm việc cho một tập đoàn tư bản. Công việc trong văn phòng, các mối quan hệ với cấp trên, những cuộc mây mưa với nhân tình và cuộc sống về đêm của đám người Nga mới.... Danh mục những " gánh nặng " của giới trẻ thời thượng khá ấn tượng đối với độc giả trẻ tuổi: nốc rượu tuý luý ở các nhà hàng, nơi mà một chai rượu giá không dưới 1.000 dollar Mỹ, toilet vói bồn rửa mặt mạ vàng, nơi có thể chơi thuốc lắc mệt nghỉ mà không bị sợ kiểm soát, những cuộc vui trác táng, dâm loạn với đám cave, những đêm dật dờ của đám " xăng pha nhớt ", bọn chó cũng " thời thượng " như chủ và vô số thứ không có linh hồn khác. (Theo Ria Novosti) Duhless là một từ ghép của Duh - tiếng Nga (tâm hồn) và less - tiếng Anh ( không có, thiếu) và được dịch là vô hồn, không hồn. Nhân vật chính là một tay chơi không có tên, một " cổ cồn trắng " mẫn cán nhưng chán trường...., một con người tồn tại như cỗ máy trong một thế giới mà bất cứ thứ gì cũng có thể đem ra mua bán, đổi chác, kể cả tình cảm. Thế giới trở nên phức tạp trong con mắt của nhân vật, tuy nhiên, nền tảng cuộc sống thì vẫn vững chải như ngàn đời nay. Và cuộc đấu tranh chống lại những thói ăn chơi thời thượng này cũng chỉ là một cách gọi khác đi trong ý thức của người dân thời Xô Viết đối vời cuộc chiến chống lại những ham muốn thú vui vật chất...... Nhân vật của Minaev đang chiến đấu chống lại cái gọi là " văn hoá vũ trường " trong nỗ lực níu kéo lại phần " người " của mình trước những thói hư tật xấu của đám " xác ướp ". *** Không phải văn chương, cũng không phải do xuất thân của tác giả, doanh nhân kiêm nhà báo Sergey Minaev, mà chính những hiện thực tàn nhẫn của nước Nga đầu thế kỷ 21 buộc người ta phải đọc tập sách này. Giống như tự truyện với nhân vật xưng Tôi, câu chuyện bắt đầu từ một quán cà phê thời thượng của Moskva, nơi "có rất nhiều gái điếm giả nai đóng vai những thiếu nữ thủ đô ngây thơ ngơ ngác và vô số các con nhà lành thủ đô không hiểu tại sao lại thích giả điếm". Những nhân vật trong sách chỉ quan tâm đến các tạp chí, rượu, xe hơi xịn, cửa hàng thời trang cao cấp, nhà hàng, quán bar, vũ trường, văn hóa DJ, performance, tivi, và cuối cùng là tình dục, thứ tình dục thừa cặn sau một ngày đắm chìm trong men rượu và ma túy. Tôi chỉ mới hai chín tuổi, đã bốn năm là giám đốc kinh doanh của một công ty kinh doanh đồ hộp Pháp vào Nga, một công ty ra đời bởi những người "một đêm có thể nướng hết hai nghìn đô nhưng hôm sau lại có thể kiếm ra năm nghìn mà chẳng biết tại sao". "Với mức lương ngất ngưởng và tiền thưởng hàng năm hậu hĩnh" nhưng Tôi lại có cái nhìn hết sức cay độc: giám đốc kinh doanh "là một biến thể hiện đại của loại điếm cao cấp, vừa phải chiều chuộng đám chủ luôn yêu cầu doanh số quá cao, vừa phải làm hài lòng nhân viên cấp dưới...". Với tâm thế như vậy, Tôi vừa tham gia tích cực vào mọi hoạt động hưởng lạc của "nhóm" mình: "một cõi đầy ắp khoái cảm nhục dục với đám gái làng chơi, với thứ nước giải sầu cay cay, với thứ ma túy phiêu linh và nhạc dậm dật chốn vũ trường" lại vừa âm thầm phỉ nhổ nguyền rủa chúng. Mỗi thành viên như Tôi đều đánh mất sự tự tin, bị bao vây và lệ thuộc vào các giá trị mới du nhập, và xã hội Nga cứ thế mà phân hóa một cách mục rã. Kẻ nào nhìn ra bản chất của xã hội ấy và có đủ độ lưu manh cần thiết đều có thể trục lợi một cách dễ dàng. Sáng kiến kinh doanh của Misa mới trở về từ New York: "Hãy vẽ cho họ ý tưởng cầu kỳ nhất, món ăn vớ vẩn nhất với giá trên trời nhất... Hãy cho họ những đêm giải trí ngu xuẩn nhất. Và họ sẽ tự mang tiền đến cho cậu". Chán chường đám thị dân Moskva chỉ đua đòi ăn chơi và hoàn toàn vô can, vô cảm với cả quá khứ lẫn tương lai nước Nga, Tôi lại càng ngán ngẩm trước kiểu gồng mình tự tôn của những người bạn - công dân Peterbourg. Cuộc đối thoại dài của hai nhân vật đang say cần sa chính là chủ đề của tập sách: ai sẽ là người cứu chuộc nước Nga và nhân dân Nga? Bởi quan niệm của người bạn Peterbourg lại quá luẩn quẩn: "Chúng tớ ở đây toàn dân trí thức, còn ở chỗ các bác rặt những lũ đầu cơ... Xung quanh chúng tớ toàn là những tượng đài lịch sử, trong khi chỗ các bác lại chỉ rặt những nhà hàng hay vũ trường...". Liệu có thể tin cậy, hy vọng gì vào những con người như thế? "Có lẽ sự hồi chuyển của các xác ướp trong nhiều cuộc chơi bời nhậu nhẹt đã làm tiêu tan hoàn toàn trong con người tôi khả năng giao tiếp với những người bình thường rồi". Đó là ý thức về sự bất lực của Tôi, khi yêu Julia mà không biết cách nào để bày tỏ. Và cuối cùng Tôi đã làm hỏng mọi thứ, đánh mất luôn mối quan hệ duy nhất có thể cứu mình, trả mình lại cho thế giới con người từ thế giới xác ướp. Tôi muốn kêu cứu, muốn báo động rất nhiều thứ với rất nhiều người nhưng hình như tất cả đều đang mơ hồ, cả về chỗ đứng của mình lẫn chỗ đứng của cộng đồng: "Trong khi chúng ta đang loay hoay đẻ trứng thì trên đất nước chúng ta đã xuất hiện những chủ nhân ông mới - những kẻ thiết lập luật pháp mới... Trong cái sơ đồ tổ chức quốc gia và phân bố lợi ích, của cải được vẽ lên bởi những ông chủ mới, không có chỗ cho chúng ta. Trong khi bạn hoang phí cuộc đời mình trong rượu mạnh và ma túy, đã có ai đó kịp thay đổi tất cả...". Với câu chuyện khai thác cuộc sống thời thượng và trở thành sách best - seller, Vô hồn lại đặt ra một luận đề nghiêm túc. "Mỗi người trong chúng ta đang tự cảm thấy mình là kẻ chiến thắng, trong một quãng thời gian ngắn, mà không hiểu là có thể chiến thắng một trận đánh nhưng lại bại trận trong cả cuộc chiến tranh". Công dân Sergey Minaev đã phát ngôn như thế, qua nhân vật chính, Tôi. Ngô Thị Kim Cúc Mời các bạn đón đọc Vô Hồn - Chuyện Về Một Người Không Chân Chính của tác giả Sergey Minaev.