Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nam Ông Mộng Lục

Hồ Nguyên Trừng (1374-1446 tự Mạnh Nguyên, hiệu Nam Ông, người Đại Lại 1 , tỉnh Thanh Hóa. Tổ tiên ông ở hương Bào Đột đất Diễn Châu, đến đời Hồ Liêm mới dời đến Đại Lai. Vì Hồ Liêm làm con nuôi Tuyên úy Lê Huấn nên đổi họ là Lê. Hồ Nguyên Trừng do vậy còn được sử cũ chép là Lê Trừng. Ông là con trưởng của Hồ Quý Ly nhưng không kế cha làm vua, mà chỉ giữ chức Tư đồ Tả tướng quốc. Trong cuộc chiến tranh xâm lược nước ta, quân Minh đã bắt được ông vào năm 1407, đưa về Bắc Kinh cùng cha là Hồ Quý Ly, em là Hồ Hán Thương và cháu là Nhuế (con Hồ Hán Thương . Vì biết chế tạo súng "thần cơ", một thứ vũ khí có sức sát thương lớn, vượt hẳn các loại súng đương thời, Hồ Nguyên Trừng được nhà Minh tha không giết và sai trông coi việc chế tạo vũ khí 2 . Từ chức công bộ doanh thiện ty thanh lại ty Chủ sự, ông dần dần được thăng làm Lang trung, rồi Công bộ Hữu thị lang, Công bộ Tả thị Lang (1436 , Công bộ Thượng thư (1445 . Ông mất vào tháng 7 năm Chính thống (1446 , thọ 73 tuổi. Nam Ông mộng lục được viết xong vào năm Mậu Ngọ (1438 , là tác phẩm duy nhất hiện còn của Hồ Nguyên Trừng. Đầu sách có bài tựa của Hồ Huỳnh, một quan Thượng thư đồng triều với Hồ Nguyên Trừng, viết năm Chính Thống 5 (1440 . Tiếp đến là bài tựa của chính Hồ Nguyên Trừng viết vào năm Chính Thống 3 (1438 . Rồi đến phần chính của sách gồm 31 thiên truyện. Cuốn sách có bài Hậu tự của Tống Chương, người Việt Nam, làm quan triều Minh, viết năm Chính Thống 7 (1442 . Các truyện trong Nam Ông mộng lục là: 1. Nghệ Vương thủy mạt; 2. Trúc Lâm thị tịch; 3. Tổ linh định mệnh; 4. Đức tất hữu vị; 5. Phụ đức trinh minh; 6. Văn tang khí tuyệt; 7. Văn Trinh ngạnh trực; 8. Y thiện dụng tâm; 9. Dũng lực thần dị; 10. Phu thê tử tiết; 11. Tăng đạo thần thông; 12. Tấu chương minh nghiệm; 13. Áp Lãng chân nhân; 14. Minh Không thần dị; 15. Nhập mộng liệu bệnh; 16. Ni sư đức hạnh; 17. Cảm khích đồ hành: 18. Điệp tự thi cách; 19. Thi ý thanh tân; 20. Trung trực thiện chung; 21. Thi phúng trung gián; 22. Thi dung tiền nhân cảnh cú: 23, Thi ngôn tự phụ; 24. Mệnh thông thi triệu; 25. Thi chí công danh: 26. Tiểu thi lệ cú; 27. Thi cửu kinh nhân; 28. Thi triệu dư khánh (khương ; 29. Thi xứng tướng chức; 30. Thi thán trí quân; và 31. Quý khách tương hoan. Nhưng nay chỉ còn lại 28 thiên (mất các thiên 24, 25 và 26 , hiện được in trong các bộ sưu tập cổ của Trung Quốc như Kỷ lục vựng biên; Thuyết phu tục quyển thập tứ; Ngũ triều tiểu thuyết đại quan; phần Hoàng Minh bách gia tiểu thuyết; Hàm phân lâu bí kíp đệ cửu tập; Tùng thư tập thành sơ biên, phần Sử địa loại v.v... 3 Theo lời tựa của Tác giả, Nam Ông mộng lục được biên soạn một là để "biểu dương các mẩu việc thiện của người xưa"; hai là để "cung cấp điều mới lạ cho bậc quân tử" (Nam Ông mộng lục tự . Đối với chúng ta ngày nay, Nam Ông mộng lục là một nguồn tư liệu quý để nghiên cứu về văn học và sử học nước ta đời Lý Trần, một giai đoạn mà sách vở còn lại rất ít. Dưới đây, chúng tôi dịch và giới thiệu bài tựa của Hồ Huỳnh, bài tựa của Hồ Nguyên Trừng, bài hậu tự của Tống Chương, cùng 28 thiên hiện còn, theo bản chữ Hán chép ở bộ tùng thư Hàm phân lâu bí kíp; Thư viện Viện thông tin khoa học xã hội; ký hiệu P.521 (2 . Bài tựa thứ nhất ở sách "Nam Ông Mộng Lục" Kìa mặt trời, sao tỏa sáng, mây ráng phô màu, đó là vẻ đẹp của trời: núi non bủa vây, cỏ cây hoa trái, đó là vẻ đẹp của đất; danh hiệu điển chương, lễ nhạc giáo hóa, đó là văn minh của người. Khắp trong trời đất biết bao nhiêu nước, không đâu là không có nền văn minh. Nay ông Lê Trừng, tự Mạnh Nguyên, người Giao Nam 4 đang giữ chức Tả thị lang ở Bộ Công là người tư chất thông minh, tài học xuất sắc, với tôi lại là bạn cùng triều, mới rồi có đem cuốn Nam Ông mộng lục đưa cho tôi xem và nhờ viết tựa. Tôi đọc khắp một lượt, biết "Nam Ông" là tên hiệu của Mạnh Nguyên; văn ông ngắn gọn mà nghiêm cẩn, cao nhã mà hòa hợp, theo tình cảm kể việc, theo ý nghĩa đặt lời, vừa thú vị, vừa thiết thực, không truyện nào là không nhằm trình bày thứ bậc giữa vua tôi, làm rõ cái lành mạnh của luân thường đạo lý, thuyết minh chỗ thẳm sâu của tính mệnh đạo thuật, ghi chép con đường dẫn tới sự hưng phế của nước nhà. Đến như ca ngợi tiết nghĩa thì bừng bừng cảm khái, có thể lấy đó mà uốn nắn phong tục; biểu dương thuật tác thì siêu thoát thanh tân, có thể lấy đó mà nuôi dưỡng tính tình. Với câu nói sau đây của Mạnh Nguyên kể lại nguồn phúc trạch đã hun đúc nên ông: "Ra tự hang sâu, dời đến cây cao 5 , (... sống gập triều thánh 6 tắm gội nhân Nghiêu, mà có chuyện kỳ ngộ này" 7 tôi hiểu được tấm lòng của Mạnh Nguyên và cho rằng ông là dấu tích lạ của một phương trời, nay được phô trương ở Trung Hạ 8 , nổi tiếng khắp quận ấp, hoặc giả còn để lại thanh danh tới đời sau. Giá không được thánh triều ban cho trọng nhiệm Á khanh thì những chuyện ghi chép trong sách sẽ mai một ở chốn hoang xa, không ai hay biết. Nay nhờ tri ngộ mà sách này sẽ được mãi mãi lưu truyền, há chẳng phải là dịp may lớn đã cứu vãn được một nguy cơ mất mát? Vì đánh giá cao việc biểu dương cái thiện, dốc lòng vào chuyện nhân hậu, nên tôi đã không từ chối, viết vài lời vào đầu thiên sách này. Ngày rằm tháng 10 năm Canh Thân niên hiệu Chính Thống 9 5 (1440 . Hồ Huỳnh, tên chữ là Côn Lăng, giữ các chức tước: Tư đức đại phu, Chính trị thượng khanh, Thượng thư Bộ Lễ. Bài tựa thứ hai ở sách "Nam Ông Mộng Lục" Sách Luận ngữ từng nói: "Trong cái xóm mười nhà, thế nào cũng có người trung tín như Khâu này vậy" 10 , huống hồ nhân vật cõi Nam Giao 11 từ xưa đã đông đúc, lẽ nào vì ở nơi hẻo lánh mà vội cho là không có nhân tài! Trong lời nói việc làm, trong tài năng của người xưa có nhiều điều khả thủ, chỉ vì qua cơn binh lửa, sách vở bị cháy sạch, thành ra những điều đó đều bị mất mát cả, không còn ai được nghe, há chẳng đáng tiếc lắm sao? Nghĩ tới điểm này, tôi thường tìm ghi những việc cũ, nhưng thấy mất mát gần hết, trong trăm phần chỉ còn được một hai; bèn góp lại thành một tập sách, đặt tên là "Nam Ông mộng lục", phòng khi có người đọc tới; một là để biểu dương các mẩu việc thiện của người xưa, hai là để cung cấp điều mới lạ cho người quân tử, tuy đóng khung trong vòng tiểu thuyết, nhưng cũng là để góp vui những lúc chuyện trò. Có kẻ hỏi tôi rằng: "Những người ông ghi chép đều là người thiện, vậy thì trong các chuyện bình sinh ông nghe thấy, lại chẳng có chuyện nào bất thiện ư?" Tôi trả lời họ rằng: "Chuyện thiện tôi rất mê nghe, nên có thể nhớ được; còn chuyện bất thiện thì không phải không có, chẳng qua tôi không nhớ đấy thôi". Họ lại hỏi: "Sách lấy tên là ‘mộng’ ý nghĩa ở chỗ nào?" Tôi trả lời: "Nhân vật trong sách, xưa kia rất phong phú, chỉ vì đời thay việc đổi, dấu tích hầu như không để lại, thành ra còn mỗi một mình tôi biết chuyện và kể lại mà thôi, thế không phải ‘mộng’ là gì? Các bậc đạt nhân quân tử có thấu cho chăng? Còn ‘Nam Ông’ là tiếng Trừng tôi tự gọi mình vậy!". Ngày Trùng cửu 12 năm Mậu Ngọ, niên hiệu Chính Thống 3 (1438 . Lê Trừng tên chữ Mạnh Nguyên, người xứ Nam Giao, tước Chính Nghị đại phu, chức Tư trị doãn, Công bộ Tả thị lang đề tựa. Mời các bạn đón đọc Nam Ông Mộng Lục của tác giả Hồ Nguyên Trừng.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trịnh Công Sơn Và Cây Đàn Lya Của Hoàng Tử Bé
Là cuốn sách viềt về Trịnh Công Sơn, do một người bạn từ thời thiếu niên của nhạc sĩ họ Trịnh viết. Thông qua tập sách, người đọc sẽ được biết về Trịnh Công Sơn tuổi ấu thơ, những tư tưởng ảnh hưởng đến quan niệm triết học của nhạc sĩ họ Trịnh, tuổi thanh niên với nghề gõ đầu trẻ ở Bảo Lộc và những năm tháng trốn lính lao đao hết Huế đến Sài Gòn, những nghi ngại đến từ hai phía và con người Trịnh Công Sơn trong những năm tháng hòa bình. Cuốn sách được viết dưới nhiều thể loại văn học như truyện ngắn, tản văn, hồi ức, chuyện kể… hình thành nên một tác phẩm về một con người – con người Trịnh Công Sơn. *** Cuốn sách được chia thành ba chương, như một cuốn phim quay chậm từng khoảnh khắc trong cuộc đời nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, từ ấu thơ cho đến những lối rẽ trong đời, từ những bài tình ca đến những ca khúc phản chiến. Trong chương đầu Dấu chân địa đàng, những ngày tháng còn thơ ấu, những ảnh hưởng đến Trịnh Công Sơn được miêu tả chân thực và sinh động. Âm nhạc của ông được nuôi dưỡng từ những nỗi buồn, từ những xúc cảm về một miền xa xăm, từ tình yêu của mẹ và từ tư tưởng Phật Giáo. “...thế giới Trịnh Công Sơn là một vòng khép kín, giống như một lâu đài bằng đá ngày xưa, tĩnh mịch trong rừng, trong đó bằng sự nhạy cảm của một nghệ sĩ, Sơn thu nhận mọi thông tin về kiếp người và Sơn lơ đãng ngồi ký tên vào từng viên đá. Gần như quán xuyến tất cả, âm nhạc của Trịnh Công Sơn diễn ra trong cung la thứ, chuyển tải hết cả biến cố của một đời người.” Chương 2 Tuổi đá buồn đưa người đọc đến những ngày hoạt động âm nhạc sôi nổi của Trịnh Công Sơn, từ những ngày còn đi học đến khi có những sáng tác đầu tiên cho thiếu nhi, và những thay đổi thời đại khiến âm nhạc của ông trở thành tiếng vang giữa bối cảnh hiện sinh của chiến tranh. Rồi ông tìm thấy Khánh Ly, rồi ông chọn viết tình ca, trở về với chất thơ, chất Huế. “Trịnh Công Sơn bắt đầu viết nhạc phản chiến cùng lúc anh phải tiếp cận với cuộc chiến qua thời gian sống ở B’lao. Từ đó trở đi, tư tưởng phản chiến trở thành một ám ảnh thường trực của tâm hồn anh, một nỗi đau đớn trĩu nặng, héo mòn mà không do một căn bệnh nào hết. Từ đấy, anh trở thành nhạc sĩ phản chiến lừng danh và duy nhất của Việt Nam.” Trong những ngày viết nhạc phản chiến, Trịnh Công Sơn bị sự truy lùng gay gắt của quân đội và chính quyền Sài Gòn. Những bản nhạc ông viết cho ca sĩ Khánh Ly hát dần bị tịch thu và việc in ấn cũng trở nên khó khăn. Thế nhưng, âm nhạc của ông vẫn đến được với công chúng, vẫn gây chấn động và lóe lên thứ ánh sáng mạnh mẽ cho con người trong những ngày chiến tranh loạn lạc. “Thời kì dạy học ở B’lao, Trịnh Công Sơn đã cho ra đời hàng loạt tác phẩm mang tên Phúc âm buồn, Chiều một mình qua phố, Gia tài của mẹ, Người hát bài quê hương, Người già em bé, Người con gái Việt Nam da vàng. Có thể nói, những ngày sống ở B’lao đã đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời sáng tác của Trịnh Công Sơn, đẩy anh chìm sâu vào tận đáy máu lửa của lịch sử, để trở thành nhạc sĩ phản chiến gắn liền với số phận của dân tộc.” Bên cạnh nhạc phản chiến, Trịnh Công Sơn dành thời gian còn lại cho tình ca. “Ở đâu có sự chân thành và tính giản dị thì ở đó có âm nhạc đích thực. Phải thừa nhận rằng, nhạc điệu của Trịnh Công Sơn không có những biến tấu phức tạp, nhưng cực kỳ chân thành và giản dị, dễ đến với mọi người. Những bài hát như Diễm xưa, Hạ trắng, Biển nhớ, Huyền thoại mẹ v.v… đã chứng tỏ phong cách riêng củaTrịnh Công Sơn.” Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường dành nhiều lời khen cho ca từ đậm chất thơ của Trịnh Công Sơn. “Chính ca từ của Trịnh Công Sơn mới khiến người ta lạ lùng, và dành cho Trịnh Công Sơn một vị trí đặc biệt trong nền âm nhạc Việt Nam, một vị trí dành cho nhà thơ, giữa những nhà thơ hàng đầu của Việt Nam thời tiền chiến, cả bây giờ cũng thế.” Chương 3 Để gió cuốn đi là những hoài niệm, ưu tư của ông về âm nhạc, về những mối tình. “Chúng ta hài lòng khi thấy Trịnh Công Sơn đã giành được trong tay định mệnh, cái mà người nghệ sĩ nào cũng thèm muốn: Sự bất tử. Trịnh Công Sơn không có nhà cửa nguy nga, của cải vật chất và không có vợ con riêng. Nhưng Trịnh Công Sơn có một cái tên để lưu truyền cho hậu thế. Và tất cả đó để làm gì? Cũng theo lời bài hát của Sơn, Để gió cuốn đi. “Khát vọng lưu danh là một ý niệm rỗng không về vật chất, và Trịnh Công Sơn đã sống đúng với ý niệm ấy.” Cùng với Trịnh Công Sơn và cây đàn lyre của hoàng tử bé, dịp này NXB Trẻ còn tái bản nhiều tác phẩm khác do chính cố nhạc sĩ viết như: Tôi là ai, là ai; Thư tình gửi một người. Mời các bạn đón đọc Trịnh Công Sơn Và Cây Đàn Lya Của Hoàng Tử Bé của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Cá Tắm Nắng
Đọc bút ký Cá Tắm Nắng, gặp tấm chân tình ấm áp của một tấm lòng tha thiết mến yêu thiên nhiên. Một làn hương thoảng đưa, một hồi chuông ngân vọng, đôi tiếng chim thánh thót, bóng đêm tĩnh lặng trên đất chết,... tràn đầy tình cảm thân thương. Hòn Đỏ là một cảnh đẹp tâm linh. Xóm Nước Nóng là một làng quê khốn khó. Chùa Linh Sơn như một dáng cổ tự huyền bí xa xưa. Cảnh trí Nha Trang sắc nét tràn đầy tình yêu quê hương. Đi bách bộ theo bãi biển, ngắm biển trời, đón gió lộng trên cầu Trần Phú, chiêm ngưỡng Tháp bà Thiên Y A Na trong buổi bình minh, lúc ban trưa chói chang nång hồng hay thấp thoáng dưới ánh chiều tà. Nhìn từ trên cầu Trần Phú, cửa sông Cái lặng lờ mặt nước hay chập chờn con sóng khi trieu dâng, hòa cùng cảnh thuyền tấp nập về trên cửa sông. Ngồi trên cát trång, ngåm vịnh Nha Trang, ước ao gặp cá tắm nắng, nhìn bướm biển giỡn sóng. Lòng đang lâng lâng bỗng nghe vẳng đến tiếng chuông chùa ngân nga buổi rạng đông. Tiếng chuông ngân thánh thót trên vùng biển rộng lặng yên. Sóng chỉ rung rinh nhẹ như xao động, để tiếp nối nâng đưa tiếng chuông lan xa. Bầu trời trong xanh cao rộng như phảng phất mùi hương trầm từ núi Bà thoảng đến. Tự nhiên lòng thanh tịnh, hồn an nhiên. Hương và sắc của trời đất Khánh Hòa Nha Trang nồng thắm thân thương biết là dường nào! Khởi đầu tác phẩm là một cảnh cá tắm nắng vừa ngộ nghĩnh vừa ký thú. Kết thúc là cảnh chim hót trên một hòn đảo mà thuở trước chỉ toàn đá và nắng còn bây giờ tràn ngập bóng cây xanh, thanh thản một ngôi chùa yên tĩnh đầy tiếng chim ca. Chúng tôi đã từng được chung hưởng những giây phút đăc biệt kỳ thú trước cảnh tượng thiên nhiên trong tập bút ký này. Nha Trang ngày rằm tháng tư năm Nhâm Thìn. (2012) TRẦN THỊ PHONG HƯƠNG *** QUÁCH GIAO Bút hiệu: QUÁCH TÙNG PHONG Sinh năm 1934 Con nhà thơ Quách Tấn Theo học tại các trường Đại hoc Y Dược, Luật khoa và Văn khoa tại Sài Gòn. Năm 1955 khi còn là học sinh trường trung học tư thục Kim Yến ở Nha Trang, Quách Giao đã tham gia đăng thơ trên tờ Gió Mới với biệt hiệu là Vương Kiều Thu. Các bài thơ đăng trên báo Gió Mới số 2, 4, 6 là Hai Em Bé Mồ Côi (Tình Chị) Ông Lão Quét Lá Khuya, Hai Chiều Xa Cách. Tại Huế, Q. Giao có thơ đăng trên Tạp Chí Lành Mạnh. Ở Sài Gòn cộng tác với báo Bách Khoa, Văn Học đến năm 1975. Năm 1988 Quách Giao cùng với phụ thân là nhà thơ Quách Tấn viết và xuất bản tập lịch sử Nhà Tây Sơn. Các sách viết chung với thân phụ ông còn có: Võ Nhân Bình Định (nxb Trẻ năm 2001) và một số lớn các tác phẩm khác. Hiện cư ngụ tại Nha Trang, Việt Nam Mời các bạn đón đọc Cá Tắm Nắng của tác giả Quách Giao.
50 Bức Thư Nổi Tiếng Thế Giới
Mục đích của việc sưu tập các bức thư nổi tiếng này là vừa mang tính thông tin, vừa mang tính thư giãn cho độc giả, đồng thời cũng nhằm cho thấy hết phạm vi ảnh hưởng của việc viết thư trong từng thời kỳ, từng nơi chốn, và cả ý định của người viết.Trình bày ngắn gọn và chuyển sang phong văn tiếng Anh hiện đại, để người đọc ngày nay có thể tiếp cận dễ dàng thông điệp của người viết. Mời các bạn đón đọc 50 Bức Thư Nổi Tiếng Thế Giới được biên dịch bởi Lưu Văn Hy & Thanh Hoa & Thanh Loan.
Đó Đây
Lãng Tử Hồi Đầu   Trúc Chi, tác giả "đó đây" (tùy bút, nhà xuất bản Văn Học, Hoa Kỳ, 1999), tên thật là Tôn Thất Kỳ. Sinh năm 1934. Học ở Huế và Đà Lạt. Vào ngành thông tin báo chí từ năm 1960. Biên tập viên ban Việt ngữ đài BBC. Tiếp tục làm cho đài này sau khi rời Luân Đôn vào năm 1967. Làm cho thông tấn xã Reuters, tại Singapore. Cho tới năm 1975, thông tín viên cho Reuters tại Việt Nam và một số các quốc gia Đông Nam Á.  Người viết giới thiệu dài dòng về tiểu sử của ông, là vì một câu hỏi mà bất cứ ai đã từng làm quen với những tuỳ bút của Trúc Chi, đều phải tự hỏi: cả cuộc đời trẻ trung của ông, là liên quan tới báo chí, với lối viết tin "ngắn gọn, trình bầy sự kiện...", tại sao về già, ông chọn lối viết gần như trái ngược hẳn với "thói quen" của ông? Tại sao lối viết "cà kê, dê ngỗng" đó? Liệu nó có thực "cà kê, dê ngỗng"â không? Liệu có thể sử dụng một lối văn khác, để viết về những chuyện "đó đây" đó?  Sau đây là một số đề nghị, nhằm lý giải câu hỏi nêu trên.  "Không ai bắt mình viết cả, nhưng mà tôi lại phải ngồi vào bàn..." (Một Nét Thu). Và ông giải thích cái lý do phải ngồi vào bàn: Tự nhiên mà không để ý đến ngày tháng, không nhìn tờ lịch, tôi đã biết thu đã lẩn quẩn đâu đây rồi.  W. Faulkner cho rằng, con người là tổng số những kinh nghiệm về thời tiết. Nhưng ở một chỗ khác, ông thêm vô: con người là tổng số những kinh nghiệm về khổ đau.  Thành thử cái lý do ngồi vào bàn của tác giả, có cả hai.  Chao ôi binh lửa ôi binh lửa/Ai giẹp giùm ta trận giặc này... Còn lòng tôi, nghĩ đến thân nhân, bạn bè quê hương xứ sở, lúc này là cả một trận phong ba... (Cành Phượng Tím).  Ai giẹp giùm ta? Trận giặc nào?  George Steiner, qua một cuộc phỏng vấn, được hỏi, ông còn mê viết tiểu thuyết hay không, đã trả lời: Tôi cứ loay hoay với một đề tài nó làm tôi đứt ruột đứt gan. Tôi cứ bắt đầu hoài một câu chuyện nho nhỏ như vầy: Chúng ta đang ở tại một hòn đảo xứ Hy Lạp, thời kỳ mấy ông tướng đang làm mưa làm gió, hay ở Thổ Nhĩ Kỳ, hoặc Nam Mỹ... Bất cứ nơi nào trên trái đất, nhưng phải là một nhà nước cảnh sát. Một người đàn ông trở về nhà với vợ, với con, và... đúng vào lúc họ ngồi vào bàn ăn, hoặc đi vô giường ngủ, là bà vợ "ngửi" ra cái mùi hôi hám đồ tể ở nơi anh chồng (anh ta đã tra tấn người suốt buổi). Anh chồng chưa hề nói với vợ, nhiệm vụ của anh ở trong ngành, vậy mà bà vợ biết.  Đề tài này, theo Steiner, cội nguồn của nó, là từ Lysistrata, của Aristophanes, về những người vợ không chịu ngủ với chồng, chỉ khi nào anh ngưng chém giết, thì mới cho anh "động phòng"! Ở đây, với Steiner, còn là vấn đề: một căn bịnh khủng khiếp đã tác động vào chính cái hành vi ân ái, sau cùng những người vợ bắt đầu "làm thịt" mấy ông chồng...  (Đề tài này, như tôi biết, được Phạm Thị Hoài sử dụng ngược lại, trong một dụ ngôn, viết về những chàng trai tơ trước khi ra chiến trường, được hưởng mùi đời lần đầu tiên, và có thể là lần cuối cùng. Và họ cứ thế lao vào cái chết. Liệu có một trùng hợp thú vị ở đây, theo đó, Phạm Thị Hoài đã được gợi hứng từ Lysistrata?)  Vẫn Steiner, đã chỉ ra sự khác biệt của văn chương Tây Phương, giữa hai Cuộc Chiến Lớn. Cuộc chiến 1914-1918 đưa tới những tác phẩm cổ điển như "Thôi Đừng Diễn Hành" (No More Parades), của Ford Madox Ford, "Lửa" (Feu), của Barbusse, "Phòng Lớn" (Enormous Room) của Cummings, "Giã Từ Vũ Khí" (Farewell to Arms) của Hemingway, âm hưởng chiến trường và thái độ của người dân ở chương cuối của Proust. Những tác phẩm lớn về thảm họa thứ nhì là phóng sự và chứng nhân tức thời: "Bay Đêm" (Vol de Nuit) của Saint-Exupéry, "Hiroshima" của Hersey, "Nhật Ký" của Anne Frank, "Ghi Chú từ Ghetto Warsaw" của Emmanuel Ringleblum. Không một nhà thơ, không một tiểu thuyết gia nào, cho tới nay, có thể đem đến cho thực tại trại tập trung, sự sáng suốt nghiêm ngặt, làm chủ kinh nghiệm, như là chúng ta nhận thấy ở trong nghiên cứu xã hội "Trái Tim Biết" (The Informed Heart), của Bruno Bettelheim. Giả tưởng ngậm câm trước tính lớn lao của sự kiện; trước uy quyền lồng lộng như thế, chỉ có phóng sự không hoa hòe hoa sói mới có thể làm bật ra được.  Đọc Trúc Chi, tuy ông nói chuyện cà kê dê ngỗng, nhưng lúc nào tôi cũng ngửi thấy cái mùi toát ra từ những bản tin ngắn gọn ngày nào, ngày nào...  Cũng có thể giải thích, Trúc Chi rất mê Nguyễn Tuân của tuỳ bút. Và khi ông viết, ông đã viết lại những trang sách của Nguyễn Tuân, nhưng với một sự khác biệt. Trong tuỳ bút của Nguyễn Tuân, chỉ có Nguyễn Tuân. Ông bầy biện người này, cảnh nọ, thì cũng liên quan đến Nguyễn Tuân. Những Cô Tơ, Con Vượn Gầy, Bá Nhỡ... đều mang hơi hám Nguyễn Tuân. Với Trúc Chi, những nhân vật của ông là do cơ may, ông gặp được, khi làm nghề phóng viên đi đây, đi đó. Ý nghĩa của tập tùy bút, là tính không gian đó đây, và những sự kiện, và những nhân vật của nó. Không có họ, không có "đó đây". Sự khác biệt thật là lớn lao. Độc giả đọc bất cứ trang sách nào của "đó đây", cũng có thể làm quen với một nhân vật, hoặc dễ thương, hoặc ngậm ngùi, hoặc có thể đáng giận nhưng không đáng ghét... Tôi đã có lần viết về nhân vật Hương Cơ, và tiếng đàn "thuyền mấy lá, đông tây lặng ngắt" của người đẹp. Nhưng Hương Cơ không được may mắn như nàng kỹ nữ bến Tầm Dương: không phải thuyền mấy lá lặng ngắt vì tiếng đàn, mà là: tiếng đàn lặng ngắt, trước tính dã man của sự kiện, của biến cố Mậu Thân. Của cuộc nồi da nấu thịt. Bạn đọc khó có thể quên được một nhân vật như vậy. Làm sao có thể quên chi tiết về một trận pháo kích: "Hôm trước, khi đến xem vụ pháo kích trường tiểu học Cai Lậy tôi thấy anh không lăng xăng quan sát, hỏi tin tức như thường lệ mà lại đứng thừ người nhìn tử thi mấy đứa trẻ tội nghiệp có vẻ như ... đang cầu nguyện".  Phải nói là nhiều nhân vật như vậy. Nhiều chi tiết như vậy. Độc giả đã làm quen với một chị Hoài của Nguyễn Tuân, làm sao không muốn làm quen thêm một chị Đàn. Đứa bạn trai của đứa em, khi rời "thiên đường tuổi thơ ở Đà Lạt", lớn lên lăn lộn với đời, có thói quen nhắc ly rượu lên uống là phải để đúng vào cái dấu trôn để lại, nhờ vậy mà không thể nào quên hai từ "tĩnh lự", bữa ăn khoai lang nghẹn thở, thói dễ ghét của người chồng chị Đàn (cái tật duy nhất của anh mà tôi biết là anh cứ đứng chỉ nước cho cả hai bên mỗi khi xem Đạt và tôi đánh cờ tướng. Dễ ghét lạ.) Ba từ "dễ ghét lạ", như để giải thích những câu sau đó (Chưa kịp cám ơn, chị đã cốc nhẹ vào đầu tôi), hay là đoạn cuối: "... Cái người chỉ những điều sơ đẳng về phép tĩnh lự cho chị Đàn, là bồ cũ của chị... Toa kể chuyện đời một người nhiều tình cảm như chị Đàn mà lại không nhắc nhở chi đến tình yêu là vụng lắm. Dù là tình học trò vớ vẩn...".  Tôi nghĩ, phần lớn những nhân vật ở trong "đó đây", đều là tri âm của tác giả. Trong đời sống, ông đã từng gặp họ, rồi không thể quên được họ. Nào là người sĩ quan tên Duy, câu chửi đổng (Đ.M. tin tức nào mà chờ mấy thằng báo chí đi trễ), cử chỉ (nhét quyển sách chưởng vào túi), bữa cá nướng hết xẩy, tí nhạc sống, nữ ca sĩ tài tử tên Huyền, và buổi hát "trùng phùng": "Bây giờ là đỡ rồi, hồi trước cứ hát xong bài Buồn Tàn Thu là chỉ khóc ròng... Không biết thiếu tá có để ý không, chứ hồi nãy đến cái chỗ "nhưng năm tháng qua dần mùa thu chết bao lần" chỉ còn rơm rớm nước mắt đó. Em sợ chỉ khóc lớn thì hư cả buổi tối hôm nay. May quá!". Nào là cái ông bạn tên Pháp (Nguyễn Nhược Pháp), và câu trả lời (Cũng chỗ quen biết cũ), trong lần tác giả ghé thăm Hà Nội...  Vả chăng, tuỳ bút, ở thời đại Nguyễn Tuân, vẫn nằm trong dạng "tĩnh" của nó, chưa thực sự va chạm với đời sống, và đời sống cũng chưa "ròm rỏ" nhiều đến nó. Tôi muốn nói, xã hội thuộc địa hồi còn thực dân Pháp, trước năm 1945, và những nhân vật "nhà văn, nhà báo" như Nguyễn chẳng hạn; họ không thể tưởng tượng ra một nơi chốn mơ tưởng nào khác, bên ngoài những cuốn sách: nhà hát ả đào, cuộc bù khú với bạn bè kế bên một ngọn đèn. Nhân vật, ngôn ngữ, thể loại (tùy bút), đều cảm thấy thật "an toàn", trong môi trường khép kín như vậy.  Phải tới sau Cuộc Chiến Lớn, và cùng với nó là những điều "không thể nói được", mọi vấn đề của ngôn ngữ, thể loại văn học mới cảm thấy mất đi sự an toàn "đời đời" của chúng. Ngày nay, thật khó mà gọi, một thể loại viết như ở trong "đó đây", là "tùy bút", với tất cả những quan niệm cũ kỹ về nó, từ thời Nguyễn Tuân. Tôi nghĩ, nên gọi chúng là "tiểu luận" (essay).  Sẽ có người bực mình. Tiểu luận, là phải có "vấn đề", (viết về cái gì, mở đề ra sao, thân đề thế nào, kết luận có không....). Cái kiểu viết đầu cua tai nheo, "viễn mơ", hoặc nhắc tới hết ông này bà nọ, hoặc khi người đời đang bận rộn với những vấn đề nóng bỏng, nào con bọ, nào tận thế... vậy mà nhân vật xưng tôi lại đâm ngang một câu, rằng làm sao có một chút khói cho một buổi chiều đẹp như thế này, ở nơi quê người!  Trong bài viết Mở Đầu cho tập "Những bài tiểu luận hay nhất ở Mỹ trong năm 1998", Robert Atwan kể lại thời gian ông dạy đại học, và để ý sinh viên nào cũng thuộc nằm lòng, cách viết một bài essay, mà họ gọi là theme (nghị luận, chủ đề). Một Nghị Luận Hoàn Hảo (Perfect Theme), là như thế này: một đoạn mở đầu, có một câu thuộc loại "Đức Khổng Tử nói", một thứ định nghĩa, definition, (someone named Webster). Sau đó là thân bài, mở rộng câu phán, tư tưởng chính (the main idea). Rồi tới kết luận (tóm lại đoạn thân bài), và nó thường bắt đầu như vầy: Như vậy, chúng ta thấy rằng...  Kinh nghiệm trên, tôi đã từng trải qua, khi đi học, dốt tiếng Tây, học thuộc lòng mấy câu, khi làm bài Nghị luận đạo đức (Dissertation morale). Theo Atwan, những sinh viên của ông không hề để ý đến chuyện, viết là một hành động khám phá, một cơ hội để nói về một điều mà trước đây chưa từng có ai nói. Ông trích dẫn Robert Frost; nhà thơ Mỹ này cho rằng, với rất nhiều người, suy nghĩ có nghĩa là bỏ phiếu, đi bầu. Tại sao lại lao tâm khổ trí với ba chuyện viết lách về một vấn đề, trong khi chỉ cần, một cuộc thăm dò dư luận (opinion poll)?  Theo Atwan, một essay hay đưa tới một kết luận "chẳng kết luận gì hết" (a "conclusion in which nothing is concluded"). Cứ lửng lơ con cá vàng. Muốn hiểu sao thì hiểu. (Tôi nhớ có lần, khi còn đi học, cả đám bạn bè xúm quanh nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, truy ông tới cùng về một câu thơ trong bài Phục Sinh: Buổi chiều sao vỡ vào chuông giáo đường. Sao là tại sao, hay sao là những ngôi sao, hay sao là làm sao... Thi sĩ cười: muốn hiểu sao thì hiểu!)  Với "đó đây", bạn chỉ cần chú tâm một chút, là nhận ra sợi dây dẫn nằm bên dưới những câu chuyện tưởng như tào lao, đầu ngô mình sở đó. Sợi dây dẫn, là mượn thuật ngữ phê bình Tây Phương (fil conducteur). Mấy nhà phê bình ở trong nước thường gọi là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, ngụ ý cần phải có đảng tính, có "máu" ở trong đó. Đông Phương ta gọi là: rắn nằm trong cỏ. Cỏ ở đây, có thể là ba cái mớ bòng bong mà người ta gọi là cuộc nồi da nấu thịt, vẫn còn dây dưa tới bây giờ. Rắn là chuyện đó đây, giữa một số người có mắc míu tới nó. Hoặc rắn, chính là kỹ thuật viết của Trúc Chi.  Liệu có một cách viết khác, cho "đó đây"? Vẫn Steiner, sau khi chỉ ra sự khác biệt về thể loại văn chương giữa hai cuộc chiến lớn, ông cho rằng: "có vẻ như chúng ta đang ở trong giao thời, nếu nói về tài liệu mang chất thơ (poetic documentation), một thời mà những kỹ thuật và những qui ước của tiểu thuyết được sử dụng để bầy ra chất liệu mang tính tâm lý, xã hội và khoa học. Thể loại phóng sự và cách trình bầy sự kiện như hiện nay, là kế thừa những tự do của tiểu thuyết." Nguyễn Tuân, trong suốt cuộc chiến, khi để cho tùy bút đụng đầu với thực tế, nó đã mất đi sức tưởng tượng (của tác giả: một người mê đọc sách, thèm giang hồ...) , sự an toàn (của tầng lớp nhà báo, trung lưu, sống bên trong sự bảo hộ của nhà nước Đại Pháp...) và cuối cùng trở thành (thể loại) ký. Ký, theo tôi, là một tiền-tùy bút. Khi nhà văn xuất hiện, nó biến thành tuỳ bút, giả tưởng, hoặc gì gì đó. Tôi tin rằng, những chi tiết ở trong "đó đây", chắc chắn đã được tác giả lưu giữ trong những cuốn "sổ nhật trình" từ những ngày nào, ngày nào; bây giờ được tác giả đem ra, tẩm vào chúng cái con người tình cảm, tế nhị, hóm hỉnh, và cũng thật lãng đãng là chính mình...  Lãng Tử Hồi Đầu, là "biệt hiệu" của nhân vật xưng tôi, khi trở về Việt Nam, và được cô em gái (quê hương?) ban tặng. Nó gợi nhớ Sự Trở Về của Đứa Con Hoang Đàng, trong Kinh Thánh. Và nó cũng liên can tới "lịch sử" Việt Nam. Huy Cận, với Lửa Thiêng (1943), đã nói lên cú hồi đầu "đầu tiên":  Hồn lưu lạc không hề thờ một chúa  Yêu một người, ta dâng cả tình thương.  Trong khi đó Vũ Hoàng Chương, đã không chấp nhận "yêu một người":  Biển vô tận sá gì phương hướng nữa  Thuyền ơi thuyền, theo gió hãy lênh đênh.  Phương hướng, ý nghĩa về một lịch sử tuyến tính, hướng tới một ngày mai ca hát...: không có ta!  [Như người viết được biết, thời kỳ 1946, một số thi sĩ như Vũ Hoàng Chương, Vũ Hoàng Định (?) - em Vũ Hoàng Chương - Đinh Hùng, Trần Dần, đã thành lập một nhóm thơ tượng trưng, ra số báo đầu tiên tháng 11/1946, có tên là "Địa Ngục". Tháng Chạp 1946: toàn quốc kháng chiến. Trần Dần, thi sĩ (chủ trương thơ tự do), họa sĩ (lập thể), ở lại, và dính vào vụ Nhân Văn. Tinh thần của nhóm theo Vũ Hoàng Chương vào Nam. Nhóm Sáng Tạo, một phần thoát thai từ Miền Bắc, là theo nghĩa này. Thanh Tâm Tuyền rất "nể" Vũ Hoàng Chương, nhất là chi tiết thú vị: về già ông còn làm một tập thơ (hay một bài thơ?) lấy tên là Ngồi Quán].  Từ "Lãng Tử" còn gợi nhớ từ "Lãng Nhân" (Phùng Tất Đắc rất "tâm đắc" từ này). Lãng Nhân, là từ "Ronin", dùng để chỉ một võ sĩ Nhật Bản, đã mất chúa, trở thành "lính đánh thuê" (mercenaire, hit man). Nó còn là tên một chiêu thức võ công của Kim Dung. (Nếu gọi cách viết của ông là Lăng Ba Vi Bộ, như vậy ông thuộc môn phái Kim Dung!) Lãng Tử Hồi Đầu còn làm chúng ta liên tưởng đến mấy câu hát ru con, của một bà vợ trong tùy bút Nguyễn Tuân, nhân ngày trùng phùng với ông chồng chỉ mong "khi chết đi, người đời sẽ thuộc da mình, để làm một chiếc vali" (Paul Morand):  Ba năm lưu lạc giang hồ  Một ngày gây dựng cơ đồ, vẫn nên.  Chúng ta cũng có thể giải thích trường hợp "đó đây", qua tác phẩm "Trái Tim Biết" (The Informed Heart), đã nói ở trên. Khi làm phóng viên, Trúc Chi đã nhận được những thông tin (information). Do cũng được quen biết tác giả, ông có lần tâm sự, ông có cái may là lâu lâu được nhẩy ra khỏi lò lửa, để suy nghĩ về nó. Những thời gian quí báu này, mở ra một trái tim biết; "đó đây", là một essay, về cuộc chiến, là như vậy: Qua cái mớ bòng bong "cà kê dê ngỗng" đó, có đủ sự thực, để cứu vớt một kẻ dạn dầy. (1)  Với riêng tôi, với "đó đây", là một anh chàng lãng tử phóng viên, hồi đầu với tuỳ bút. Với văn chương.  Xin chúc mừng!  Nguyễn Quốc Trụ  Chú thích: Mô phỏng Conrad, trong "Trái Tim của Bóng Đen" (Heart of Darkness): "There was surface-truth enough in these things to save a wiser man." Một người đàn ông khôn ngoan hơn (a wiser man), là từ dòng chót "Bài thơ của Người Thủy Thủ Già", của Coleridge: A sadder and wiser man He rose the morrow morn. [Theo ghi chú của Catherine Pappo-Musard, khi dịch Trái Tim của Bóng Đen qua tiếng Pháp.] (Một người đàn ông buồn hơn, dạn dầy hơn, Buổi mai thức giấc).   NQT *** Nghĩ xa thôi lại nghĩ gần Làm thân con nhện mấy lần vương tơ. Ca dao Lời vào tập Trong văn chương Việt Nam hiện đại, số người viết tùy bút thành công không được bao nhiêu! Nói tới thể loại này, người ta nghĩ ngay đến Nguyễn Tuân. Ông là một bậc thầy trong loại tùy bút. Sau Nguyễn Tuân, những người viết tùy bút, không nhiều thì ít, đều chịu ảnh hưởng của ông. Ngoài Bắc, có lẽ “chủ nghĩa cá nhân” bị lên án dữ dội nên không thấy có người nào đi theo Nguyễn Tuân. Trong Nam, viết tùy bút giỏi có Võ Phiến và Mai Thảo. Ở hải ngoại, suốt một phần tư thế kỷ, chỉ có hai người viết tùy bút thành công, là Nguyễn Bá Trạc với Ngọn Cỏ Bồng, và Trúc Chi với cuốn sách này. Vì sao ít người viết tùy bút như thế? Câu trả lời khá đơn giản: Viết tùy bút khó! Viết truyện ngắn hay truyện dài, tác giả mặc sức “giả dạng vô danh” núp đằng sau các nhân vật để nói cho đã miệng, mà khỏi phải chịu trách nhiệm gì hết. Nhân vật nói được những lời vàng ngọc: tác giả nhận ngay mình mới là người thực sự nghĩ ra những lời cao siêu ấy. Ngược lại, nhân vật lỡ phun những lời ngu xuẩn ngược ngạo, người viết đổ hết mọi trách nhiệm cho hư cấu. Những người viết kịch cũng có lợi-thế như người viết truyện. Anh ta đóng vai người đạo diễn núp đằng sau cánh gà, nhắc nhở, quan sát diễn tiến của vở kịch. Cùng một câu thoại, diễn viên này diễn tả xuất sắc hơn diễn viên kia, thế là người viết kịch có vô số những câu “tại vì…” để biện hộ cho cái bất tài của mình. Có những thể loại văn chương gần gũi với tùy bút ở chỗ tận dụng chủ quan của người viết, như thế “ký”, và “hồi ký”. Trong hai thể loại này, người viết phải bắt buộc xưng “tôi” và chịu trách nhiệm hoàn toàn về những gì mình viết ra. Nguyên tắc đạo đức căn bản của “ký” và “hồi ký” là sự thành thật, người viết hồi ký phải tôn trọng sự thật mặc dù được phép viết một cách chủ quan. Nhưng viết bút ký và hồi ký cũng chưa phải là trò chơi nguy hiểm. Người viết ký chỉ cần công nhận mình chủ quan trong cách ghi chép sự việc là ngay lập tức mọi lỗi lầm được tha thứ. Người viết hồi ký còn rộng chân rộng tay hơn nữa. Vì chỉ những người đã may mắn “có một chút danh gì với núi sông” mới viết hồi ký. Trong ánh hào quang của danh vọng và sự an toàn của người đã ra ngoài cuộc, người viết hồi ký chiếm được nhiều tiện nghi. Có cái sang trọng hấp dẫn của “miệng nhà quan”, và vì ông quan “có gang có thép” một thời ấy bây giờ đã “từ quan”, nên không còn là đối tượng của những ghen ghét, đố kỵ. Nói hay người ta khen, nói dở người ta thông cảm. Chỉ còn những người liều lĩnh chọn viết một thể loại nguy hiểm, là tùy bút. Vì người viết tùy bút phải đem cái tôi ra nói từ đầu chí cuối, như là một người khỏa thân ngay giữa chợ. Chẳng những thế, tuy được phép nói về mình, nhưng tùy bút không cho phép nói có đầu có đuôi, có thắt có mở như người viết truyện. Tùy bút cũng không cho phép ăn nói nghiêm trọng. Trong một cuộc hội họp bù khú cuối tuần, người được Trời ban cho cái giọng thiên phú, thu hút thiên hạ bằng những lời hiệu triệu chính trị hùng hồn hoặc những bài hát karaoke. Người có tài kể chuyện cũng là chúa tể của một nhóm khác. Riêng các anh chị viết tùy bút, trong những dịp ấy, họ chẳng khác nào những người có tài tán gẫu, nói những chuyện có vẻ bông lơn chẳng có gì trầm trọng nhưng ai nghe cũng thích thú. Khi chia tay, cảm giác thích thú ấy cứ còn hoài, tuy cố nhớ thì cũng không thấy anh chàng ăn nói lan man có duyên ấy nói những chuyện gì. Trong The Importance of Living (Nguyễn Hiến Lê dịch thành cuốn Một Quan Niệm Về Sống Đẹp), Lâm Ngữ Đường bàn về những cái thú ở đời. Lâm tiên sinh có bàn về một cái thú rất dễ tìm nhưng ít ai lưu ý: cái thú tán gẫu. Những lúc đó, vô phúc gặp phải những tay hùng biện thao thao bất tuyệt về những chuyện vá trời lấp biển, thì phí mất một ngày cuối tuần. Hoặc gặp phải một ông thầy tu dạy dỗ những điều phải làm, ngồi nghe phải kính cẩn xếp hai bàn tay ngay ngắn trên đầu gối, miệng đánh nhịp “bạch thầy” với “lạy cha” thì cũng chán chết. Kẻ may mắn mới gặp được những chuyên gia tán gẫn trong những tối cuối tuần, hoặc đọc được những tập tùy bút có duyên. “Tán gẫu” không phải là “tán thán”, lại càng không phải là “tán nhảm”. Chuyện đem ra bàn không phải là chuyện có đầu có đuôi, một người xướng rồi những người nói sau phụ họa như một giàn hợp xướng đơn điệu. Ở đây, không có ai dẫn đạo, không có ai theo đuôi. Đề tài được mở rộng, cái gì hứng khởi thì cho tới luôn, đang tới mà thấy cái gì lạ thì bẻ ngoặc rẽ sang hướng khác cũng không sao. Võ hiệp gọi là “vô chiêu”. Người tán gẫu giỏi hay người viết tùy bút hay, không lụy vào bất cứ khuôn thước nào, cứ tùy hứng mà bay nhảy thoải mái. Trúc Chi viết tùy bút như thế! “Trong cuộc sống hàng ngày, tôi vẫn thích có được mươi mười lăm phút ngồi một mình như vậy. Ngồi im vậy thôi chứ không có bận tâm gì về cái thiên hình vạn trạng của hai chữ xuất xứ của người nay và người xưa. Đời tôi kể cũng có một đôi lúc khá xui, nhưng chưa bao giờ phải xuất, phải bất hạnh mà gánh lấy việc quân quốc trọng sự như ông quân sư đầy mưu thần chước quỷ nọ, ngồi một mình bên hồ cá nghĩ kế chận năm đạo quân xâm lược đang rục rịch tiến vào Thành Đô. Còn về chữ xử, thì hình như tôi vẫn chân trong chân ngoài. Tôi ngồi trong một tư thế rất thoải mái cho cơ thể tôi, không phải kiết già kiết trẻ chi, mà cũng không phải để thiền thiếc gì. Những lúc ấy đầu óc tôi bận rộn lắm, nhảy hết chuyện này sang chuyện khác, cứ loạn xà ngầu cả lên như là màn ảnh ti-vi chớp từ đài này sang đài kia. Cứ ngồi vậy thôi, để cho bộ máy thần kinh hoàn toàn độc lập, tự do, nhảy từ ý nghĩ này sang ý nghĩ khác. Những lúc ấy, hình như tôi… hạnh phúc lắm. Không biết đó có phải là hạnh phúc thật không, nhưng riêng tôi, tôi lấy đó làm một cái thú thường nhật”. Lúc cô độc một mình, Trúc Chi thích nghĩ lan man. Cho nên khi viết, anh cũng thích viết lan man. “Ấy, cái lối viết lách của tôi nó vậy đó. Định viết về một chuyện mà rồi lại nhảy sang chuyện khác. Nó cứ giống như thói quen của các bà nội trợ tham con diếc tiếc con rô mà tôi vẫn thường thấy trong các siêu thị ở đây. Thấy bó rau muống tươi, sắp sửa mua thì lại bị mấy quả xoài đầu mùa nhập cảng từ Mễ Tây Cơ nó cám dỗ. Thành ra cái rổ chợ (đúng ra thì phải nói cái xe chợ) nhiều khi có phần… đa mang. Thành ra bài vở của tôi cũng vậy, nhét quá nhiều thứ, mà lại không có đầu đuôi gì cả. Hỏng!”. Đọc tùy bút của Trúc Chi, không thể không nghĩ tới tùy bút của Nguyễn Tuân. Phong cách tùy bút của hai người có nhiều điểm giống nhau: giọng thiết tha khi nói đến thanh đến sắc, niềm xót thương cho những thân phận ca kỹ về chiều, chút khinh bạc dành cho những kẻ tối mặt vì những thứ phù vân. Những trang tùy bút hay nhất của Trúc Chi, cũng như Nguyễn Tuân, là những trang “thương hoa tiếc ngọc”. Đọc những trang viết ấy tôi cứ liên tưởng đến mấy câu của Chu Mạnh Trinh viết trong Bài Tựa Truyện Kiều (qua bản dịch): “Ta cũng nói tình thương người đồng điệu, cái kiếp không hoa lẩm cẩm, còn hồn xuân mộng bâng khuâng. Đã toan đúc sẵn nhà vàng chờ người quốc sắc, lại muốn mượn chùm phương thảo hú vía thuyền quyên…”. Nhưng tôi cũng nhận ra được điểm khác biệt lớn lao giữa Nguyễn Tuân và Trúc Chi. Lấy lại hình ảnh những buổi tán gẫu trên kia. Trong những dịp họp mặt thích thú đó, một người như Nguyễn Tuân dĩ nhiên là cái đinh của cuộc vui. Tùy bút Nguyễn Tuân hay, điều đó khỏi cần bàn cãi. Qua cái ảo diệu uyển chuyển của ý và lời, trong tùy bút Nguyễn Tuân, tôi vẫn lờ mờ thấy có cái phần “biểu diễn”, cái phần “muốn lấn lướt” để vượt lên trên đám nhân sinh lổn nhổn đang vây quanh ông. Ngyễn Tuân không hề che giấu lòng khinh mạn lũ người ngợm dung-thường đang trố mắt thán phục ông, cho nên trong cái ngang tàng ngất ngưởng của Nguyễn Tuân, có chen nhiều chất “kịch”. Trong buổi tán gẫu có mặt Nguyễn Tuân, tôi nghĩ chỉ có Nguyễn Tuân xướng, và ông cũng không muốn cho ai khác hơn ông được xướng. Tùy bút Trúc Chi không có cái phần “kịch” ấy. Trúc Chi là một người biết rõ cốt tủy của thú tán gẫu: sự bình đẳng. Ông hòa đồng chứ không muốn nổi bật. Ông tỉ tê lan man chứ không cao giọng. Nguyễn Tuân nói rõ những kẻ đáng khinh đáng ghét. Trúc Chi chia nhân loại làm hai hạng: đáng yêu chiếm đa số; thiểu số còn lại là những người đáng thương. Hãy nghe Trúc Chi “tán gẫu” về một người chồng phụ bạc: “… Bởi vì nó đang đưa tôi về với một buổi chiều hè trong một quán rượu ở đường Montparnasse, có Hoài, có tôi, có nhiều mất mát. Vẫn biết, như câu chuyện cũ trong sách giáo khoa, mình mất người khác được, nhưng những thứ mà Hoài và tôi từng bị đời cướp mất, lại không ai buồn lượm cả. Thành ra cái buổi hội ngộ sau tháng Tư 75 ấy, nó nhuốm một chút bùi ngùi, đượm một chút chua chát. Hôm ấy là lần đầu tiên Hoài nói thật với tôi rằng Nhân quyết định ở lại Việt Nam, không phải vì Nhân thích “bên kia” như tôi vẫn tưởng, mà chính vì Nhân không thể xa người đàn bà ấy, vốn cũng là bạn của tôi. Trong cái nháo nhào, trong cái tuyệt vọng của số đông vào cái ngày 30 tháng Tư năm ấy, có hai tâm hồn tự tách rời ra khỏi những biến cố trọng đại của lịch sử để mà xây một cái tổ ấm trên cái đống tro còn nóng của một thời khói lửa. Kể cũng can đảm. Mà cũng đẹp chứ không phải không. Cái anh chàng Nhân bạn học của tôi, tôi nghĩ mà thương. Ngày còn thanh niên, Nhân vui vẻ, hay đùa giỡn, trêu thầy, chọc bạn. Ra đời nhờ bẩm sinh thông minh lanh lẹn, lại thành công sớm trong ngành thầu xây cất. Tôi biết rõ Nhân lắm, con người hoạt bát và lịch lãm ấy hẳn không phải là không nát óc, không nát ruột khi phải chọn giữa bên vợ và bên bồ. Tôi nghĩ đến những vở kịch thời cổ bên Hy Lạp mà cốt chuyện được dựng trên cái xung đột nội tâm của nhân vật chính. Tôi nghĩ đến cái dằng co giữa Hiếu và Tình, giữa Trung và Hiếu trong một đôi tuồng hát bộ. Phải rồi: Song phủ cứu lai chánh hậu Ngửa vái trời soi thấu lòng ngay Xét thân hổ với cao dày Phơi gan giúp chúa, chau mày phụ cha. Xót xa lắm chứ. Tôi còn thấy được hình ảnh khổ đau của nhân vật này trong tuồng Sơn Hậu, nếu tôi không lầm, đôi lông mày nhíu lại cơ hồ chỉ còn có một đường ngang dưới trán, hai tay dang ra với một vẻ sững sờ hầu như là tuyệt vọng khi kẹt trong một cái thế lưỡng nan: giết cha hay phò chúa. Vậy nhưng mà trong lòng những con người thời trước, có cao dày, có trời đất chứng giám cho, còn ở trong lòng người bạn hiền mang tên Nhân, mà tôi biết là không tin ở một đấng nào trong cõi siêu hình cả, động cơ nào đã thúc đẩy anh đi đến quyết định bỏ Hoài mà ở lại với người đàn bà rất tài hoa kia? Hình như nó là cái chữ Tình thì phải. Chữ Tình mà người đời trước đã tự hỏi xem nó là cái chi chi!”. Một phong cách thật sự thoải mái, thư giãn, đi chung với một tâm hồn nhân hậu, tôi nghĩ đó là kết hợp tuyệt vời tạo ra vẻ đẹp trong tùy bút của Trúc Chi. Xin bạn đọc gác tạm những lo toan vướng víu sang một bên, và cùng Trúc Chi hưởng cái thú tán gẫu bằng những trang tùy bút sau đây. Nguyễn Mộng Giác - Đó Đây, tùy bút của Trúc Chi, nhà xuất bản Văn Học, 1999 Nguồn: Tạp Chí Văn Học, số 164. Mời các bạn đón đọc Đó Đây của tác giả Trúc Chi.