Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tôi Là Ai - Và Nếu Vậy Thì Tôi Đáng Giá Bao Nhiêu? - Richard David Precht

Có rất nhiều cuốn sách về triết học, nhưng Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? là một sự khác biệt. Trước nay chưa từng có một ai dẫn dắt người đọc đến với những câu hỏi lớn của triết học bằng một cách am tường chuyên môn, đồng thời nhẹ nhàng tinh tế như vậy. Thông qua môn khoa học nghiên cứu não bộ, tâm lý học, lịch sử, và thậm chí văn hóa đại chúng (pop-culture), triết gia đương đại người Đức Richard David Precht đã khéo léo soi sáng những vấn đề ở tâm điểm của tồn tại con người như: Sự thật là gì? Cuộc sống có ý nghĩa gì? Tại sao tôi nên tốt? và trình bày chúng qua lối văn ngắn gọn, thông tuệ, uốn hút. Kết quả là một chuyến du hành xuyên lịch sử triết học và một dẫn nhập sáng tỏ vào những nghiên cứu hiện thời về não bộ. Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? đích thực là một cuốn sách xuất sắc để tiếp cận triết học. Cuốn sách như một lăng kính vạn hoa của những vấn đề triết luận, những kiến thức thú vị và hài hước, các vấn đề thuộc môn thần kinh học và sinh vật học cũng như nghiên cứu tâm lý học. Sách chia được chia làm ba phần: 1) Tôi có thể biết gì? - tập trung vào các mô tả não bộ, bản tính cũng như phạm vi của tri thức nhân loại, khởi đầu từ các câu hỏi được mổ xẻ bởi Kant, Descartes, Nietzsch, Freud, và các triết gia khác. 2) Tôi nên làm gì? - giải quyết các vấn đề đạo đức và luân lý, sử dụng các nghiên cứu thần kinh học và xã hội học để lý giải tại sao chúng ta có thiện cảm với người khác và buộc phải hành động có đạo đức. Các cuộc tranh luận về trợ tử, phá thai, nhân bản vô tính và những chủ đề gây tranh cãi khác. 3) Tôi có thể hy vọng gì? - xoay quanh những câu hỏi quan trọng nhất của cuộc đời: Hạnh phúc là gì và tại sao chúng ta yêu? Có Chúa không và chúng ta có thể chứng minh sự tồn tại của Chúa như thế nào? Tự do là gì? Mục đích của cuộc sống là gì? Với chủ đích dành cho giới trẻ, cuốn sách Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? là chuyến khám phá hồi hộp, thông minh, hài hước và thú vị xuyên qua thế giới bộn bề kiến thức để đến với chính bản thể con người! *** ôi có thể biết được gì? Sils Maria Loài thú tinh khôn trong vũ trụ. Sự Thật là gì? “Ở một xó xỉnh nào đó của vũ trụ bao la với hằng hà hệ thống mặt trời lung linh có một hành tinh, trên đó có những con vật tinh khôn khám phá ra sự hiểu biết. đó là giây phút kiêu hãnh và dễ hiểu lầm nhất của „lịch sử thế giới”: nhưng chỉ kéo dài một giây phút mà thôi. Sau vài nhịp thở của thiên nhiên, hành tinh khô cứng lại, và loài thú khôn ngoan sống trên đó phải chết. đấy có thể là một câu truyện ngụ ngôn tưởng tượng của một ai đó nghĩ ra. Nhưng câu truyện này cũng chưa nói lên được hết sự nghèo nàn, hư ảo, chóng qua, vô tích sự và tuỳ tiện của trí khôn con người trong thiên nhiên; trí khôn con người không phải là chuyện muôn thủa. Một khi trí khôn đó qua đi, thì mọi sự cũng mất hết dấu vết. Là vì trí khôn này chẳng có thêm sứ mạng nào khác ngoài chính cuộc sống con người. Trí khôn này hoàn toàn mang tính người, và chỉ có người sở hữu và tạo ra nó mới say mê nó, coi nó như là chìa khóa đi vào thế giới. Nếu chúng ta hiểu được loài muỗi, thì chúng ta sẽ nhận ra, là chúng cũng có sự đắm say đó và chúng cũng nghĩ mình là cái rốn của vũ trụ quay cuồng“.  Con người là một loài vật tinh khôn, nhưng loài vật này lại tự đánh giá mình quá cao. Là bởi vì lí trí của con người không hướng về Chân lí lớn lao, mà chỉ quan tâm tới những cái nhỏ nhặt trong cuộc sống. Trong lịch sử triết học, có lẽ chẳng có đoạn văn nào mô tả con người thơ mộng và triệt để hơn đoạn trên đây. đó là đoạn mở đầu có lẽ đẹp nhất của một tác phẩm triết học năm 1873 với tựa đề: Über Wahrheit und Lüge im außermoralischen Sinne (Về sự thật và dối trá bên ngoài í nghĩa đạo đức). Tác giả của nó là Friedrich Nietzsche, một giáo sư Cổ ngữ học 29 tuổi của đại học Basel, Thuỵ-sĩ.  Nhưng Nietzsche đã không cho xuất bản cuốn sách nói về loài vật tinh khôn và kiêu căng này. Trái lại, ông phải mang thương tích nặng nề, vì đã viết một tác phẩm bàn về nền tảng văn hoá hi-lạp. Những người phê bình khám phá ra sách này là một tài liệu thiếu khoa học và chứa đựng những phỏng đoán vu vơ. Mà quả đúng như thế. Ông bị thiên hạ chê là một thiên tài lạc lối, và danh tiếng một nhà cổ ngữ nơi ông xem ra cũng theo đó mà tiêu tan. Khởi đầu, thiên hạ kì vọng rất nhiều nơi ông. Cậu bé Fritz sinh năm 1844 tại làng Röcken vùng Sachsen và lớn lên tại Naumburg bên bờ sông Saale. Cậu nổi tiếng thần đồng. Cha cậu là một mục sư coi xứ, và mẹ cũng rất đạo đức. Khi Fritz được bốn tuổi thì cha mất, không lâu sau đó người em trai cũng mất. Mẹ đưa cậu về Naumburg, và từ đó Fritz lớn lên trong một gia đình toàn là nữ giới. Hết tiểu học, Fritz vào trung học của giáo phận và sau đó vào một nội trú danh tiếng, đâu đâu cậu cũng được tiếng thông minh. Năm 1864, cậu ghi danh học Ngôn ngữ cổ điển và Thần học tại đại học Bonn. Nhưng sau một bán niên, Fritz bỏ Thần học. Fritz muốn làm mục sư để hài lòng mẹ, nhưng „ông mục sư non“ – tiếng con nít vùng Naumberg vẫn trêu chọc cậu – đã sớm mất niềm tin vào Chúa. Fritz cảm thấy quá tù tùng khi sống với mẹ, với niềm tin và với đời mục sư. Anh quyết định thoát ra khỏi mọi thứ đó, nhưng cuộc chuyển hướng này đã gặm nhấm tâm hồn anh suốt cả đời.  Sau một năm, Nietzsche và vị giáo sư của anh chuyển tới Leipzig. Ông thầy rất quý cậu học trò thông minh của mình, nên đã khuyên anh nhận chân giáo sư tại đại học Basel. Năm 1869, lúc 25 tuổi, Nietzsche trở thành giáo sư thỉnh giảng. đại học Basel cấp tốc trao cho anh bằng tiến sĩ và bằng lên ngạch giáo sư (Habilitation). Ở Thuỵ-sĩ, Nietzsche làm quen với giới văn nghệ sĩ cùng thời, trong đó có Richard Wagner và bà vợ Cosima, mà Nietzsche đã có dịp gặp ở Leipzig. Nietzsche quá mê nhạc Wagner đến độ cảm hứng viết ra cuốn Die Geburt der Tragödie aus dem Geist der Musik (Tinh thần âm nhạc đã khai sinh ra Bi kịch) vào năm 1872. Cuốn sách là một thất bại, và nó cũng bị quên nhanh. Lí do là vì từ đầu thời Lãng mạn, người ta đã nói tới mâu thuẫn giữa cái gọi là tính „sáng tạo xuất thần“ (Dionysischen) của âm nhạc và cái „thể cách chân phương“ (Appolinischen) của nghệ thuật tạo hình rồi, và kinh nghiệm lịch sử cũng đã cho thấy, hai cái đó chỉ là những phỏng đoán mà thôi. Thành ra, điều Nietzsche bàn tới trong sách chẳng có gì mới. Hơn nữa, thế giới học giả âu châu thời đó đang bận tâm tới sự hình thành của một bi kịch khác, quan trọng hơn. Một năm trước đó, xuất hiện cuốn sách Về Nguồn Gốc Con Người từ thú vật của Charles Darwin, nhà thần học và thực vật học nổi tiếng người Anh. Từ lâu rồi, ít nhất từ mười hai năm trước khi sách Darwin ra đời, đã có quan điểm cho rằng, con người có thể được tiến hoá dần từ những hình thái nguyên sơ trước đó. Nhưng trong Sự Hình Thành Các Chủng Loại, vì chính Darwin đã hé mở cho biết, có thể con người cũng từ loài vật mà thành, nên tác phẩm bán chạy như tôm tươi. Trong những năm 1860, nhiều nhà khoa học tự nhiên cũng đi tới một kết luận như vậy, và họ nối con người vào liên hệ với loài khỉ đột vừa được khám phá. Mãi cho tới cuộc thế chiến thứ nhất, Giáo hội Kitô giáo, đặc biệt ở đức, chống lại Darwin và những người ủng hộ ông. Nhưng ngay từ đầu ai cũng biết rằng, sẽ chẳng có một sự lùi bước tự nguyện nào nữa để quay trở về cái vũ trụ quan của thời trước đó. Người ta không còn tin vào chuyện Thiên Chúa là đấng trực tiếp tạo dựng và điều khiển con người nữa. Và các khoa học tự nhiên giờ đây ăn mừng chiến thắng của họ với một hình ảnh về con người rất thực tế: Họ bỏ Thiên Chúa để quay sang quan tâm tới khỉ. Và hình ảnh cao cả của con người như một thụ tạo giống Thiên Chúa bị vỡ ra làm hai: một đàng, sự cao cả này không còn khả tín nữa và đàng khác, con người giờ đây không hơn không kém đượi coi như là một loài thú thông minh mà thôi. Nietzsche phấn chấn vô cùng trước cảnh quan vũ trụ mới đó. Về sau, có lần ông viết: „Tất cả cái mà chúng ta cần, đó là một (công thức) hoá học cho các quan niệm đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật và cho những cảm nhận cũng như tất cả những cảm xúc mà ta có được trước những tiếp xúc lớn nhỏ với văn hoá và xã hội, với cả nỗi cô đơn.“ Hơn ba chục năm cuối của thế kỉ 19 nhiều nhà khoa học và triết gia đã đổ công tìm kiếm chính cái hoá học đó: Họ đi tìm một giải thích sinh học cho sự sống mà chẳng cần gì tới Thiên Chúa nữa. Nhưng chính Nietzsche thì lại chẳng quan tâm một tí gì tới cuộc tìm kiếm đó. Ông quan tâm tới chuyện hoàn toàn khác: đâu là í nghĩa của cái nhìn thực tế kia của khoa học đối với thân phận con người? Nó giúp con người lớn lên hay làm nó bé lại? Khi nhìn được rõ hơn về chính mình, con người giờ đây được thêm gì hay lại mất cả chì lẫn chài? Trong tình hình đó, ông viết luận văn Wahrheit und Lüge (Sự thật và dối trá), có lẽ đây là tác phẩm tuyệt nhất của ông. Câu hỏi, con người bé đi hay lớn lên, được Nietzsche trả lời là tuỳ theo tâm trạng. Khi con người bất hạnh – và đây là tâm trạng thường thấy nơi con người – lúc đó họ cảm thấy bị đè nén, hối tiếc và nói ra toàn chuyện dở hơi. Ngược lại, lúc vui vẻ, họ có những cảm xúc tự hào và mơ thành siêu nhân. Có một mâu thuẫn ghê gớm giữa những tưởng tượng ngạo mạn và giọng điệu tự tin sấm sét trong các tác phẩm của Nietzsche và diện mạo thật của ông: một dáng người nhỏ con, hơi phì, nhút nhát. Bộ ria mép lì lợm với một cây lược vừa vặn làm cho khuôn mặt ông mang nét cứng rắn và nam nhi hơn, nhưng nhiều căn bệnh thủa thiếu thời đã ăn mòn thể lực và tinh thần của ông. Ông bị cận nặng, luôn bị dằn vặt bởi những cơn đau bao tử và đau đầu. Năm 35 tuổi, ông cảm thấy kiệt sức hoàn toàn và phải thôi dạy học ở Basel. Có lẽ chứng bệnh lậu, thường được thiên hạ xa gần nói tới, đã góp thêm phần dứt điểm đời ông. Mùa hè năm 1881, hai năm sau khi từ giã đại học, tình cờ Nietzsche khám phá ra một thiên đường hạ giới cho chính mình, đó là địa điểm Sils Maria trong vùng Oberengadin thuộc Thụy-sĩ. Một cảnh trí tuyệt vời, giúp ông có được những phấn chấn và động lực sáng tạo. Từ đó đều đặn hàng năm, ông tới đây để một mình đi dạo và đắm mình trong suy nghĩ. Nhiều tư tưởng hình thành ở đây đã được ông viết ra trong mùa đông ở Rapallo, ở bờ biển địa Trung, ở Genua và ở Nizza. đa số những tư tưởng đó cho thấy Nietzsche là một nhà phê bình bén nhạy, triệt để và có nhiều đòi hỏi về mặt văn chương. Ông đã đánh đúng vào những vết thương của triết học phương tây. Nhưng những đề nghị của riêng ông về một thuyết nhận thức mới và một nền đạo đức mới thì, ngược lại, lại dựa hoàn toàn trên thuyết tiến hoá xã hội chưa chín mùi của Darwin và thường chạy trốn vào trong những thị hiếu thời trang quay cuồng. Thành ra, điều ông viết càng mạnh mẽ bao nhiêu thì lại càng như những quả đấm vào không khí bấy nhiêu. „Thiên Chúa đã chết“ – câu ông viết đi viết lại nhiều lần – thật ra những người đồng thời với ông, cả Darwin và những tác giả khác trước đó, cũng đều đã biết rồi. Năm 1887, khi ngắm nhìn những ngọn núi phủ đầy tuyết của Sils Maria lần cuối, Nietzsche tái khám phá ra sự giới hạn nhận thức của các con vật tinh khôn, mà ông đã có lần đề cập tới trong một luận văn trước đây của mình. Trong tác phẩm bút chiến Zur Genealogie der Moral (Về hệ tộc của đạo đức), ông mở đầu với câu: „Chúng ta, những kẻ có khả năng nhận biết, lại chẳng biết mình là ai, chúng ta chẳng biết chính mình: điều này không lạ gì cả. Chúng ta đã chẳng bao giờ tìm hiểu mình – chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu một ngày nào đó chúng ta nhận ra ta?“ Nietzsche thường dùng ngôi thứ nhất số nhiều để nói về chính mình; ông thường nói về một loài vật rất đặc biệt, mà ông là người đầu tiên mô tả: „Gia tài của chúng ta ở nơi các tổ ong nhận thức của chúng ta. Chúng ta được sinh ra như những con vật có cánh và những kẻ góp mật của tinh thần, luôn trên đường tìm tới các tổ ong kia, chúng ta chỉ thích quan tâm tới một điều mà thôi, đó là „mang về nhà“ cho mình một cái gì đó”. Nietzsche chẳng còn nhiều thời gian để sáng tác. Hai năm sau, ông bị suy sụp thần kinh khi còn ở Turin. Bà mẹ mang đứa con 44 tuổi từ Íđại-lợi về một bệnh viện ở Jena. Sau đó, ông sống với mẹ, nhưng chẳng còn viết được gì nữa. Tám năm sau, mẹ mất, ông phải sống với cô em gái khó ưa của mình. Ngày 25 tháng 8 năm 1900 ông mất ở Weimar, thọ 55 tuổi. Lòng tự tin của Nietzsche, điều mà ông luôn biện hộ bằng giấy bút, thật lớn: „Tôi biết số phận của tôi, nó sẽ gắn liền với tên tuổi của tôi và làm cho người ta nhớ tới một điều gì khủng khiếp“. Quả thật, cái khủng khiếp đó đã biến ông trở thành một trong những triết gia có ảnh hưởng nhất trong thế kỉ hai mươi đang đến. Vậy đâu là nội dung của cái lớn lao đó? đóng góp lớn nhất của Nietzsche là sự phê bình hăng say và triệt để của ông. Hơn tất cả các triết gia trước đó, ông say mê vạch ra cho thấy cái hống hách và ngớ ngẩn của con người, khi họ dùng tiêu chuẩn lô-gích và sự thật của „chủng vật người“ để đánh giá thế giới mà họ đang sống trên đó. „Loài thú tinh khôn“ nghĩ rằng, chúng có một vị trí đặc biệt chẳng loài nào khác có được. Nietzsche trái lại quả quyết rằng, con người không hơn không kém chỉ là một con vật và suy nghĩ của nó cũng không khác chi một con vật, nghĩa là suy nghĩ của nó cũng bị điều chế bởi bản năng và dục vọng, bởi í muốn thô thiển cũng như bởi khả năng nhận thức giới hạn của nó. Như vậy, đa số triết gia tây phương đã lầm, khi họ coi con người là một cái gì đó hoàn toàn đặc biệt, như một thứ máy điện tử có công suất lớn về khả năng tự nhận thức. Có thật con người có thể tự nhận biết mình và nhận biết được thực tại khách quan không? Con người có thật có khả năng đó không? Hầu hết triết gia trước nay đều trả lời có. Cũng có một vài triết gia chưa bao giờ đặt ra cho mình câu hỏi đó. Họ đương nhiên cho rằng, trí khôn của con người cũng đồng thời là một thứ tinh anh của hoàn vũ. Họ không coi con người là một loài thú khôn ngoan, mà xác định chúng là một thực thể thuộc vào một cấp hoàn toàn khác. Họ chối bỏ thẳng thừng mọi gia sản phát sinh từ gốc rễ thú vật nơi con người. Hết triết gia này đến triết gia khác ra công đào sâu thêm hố cách ngăn giữa người và thú vật. Tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá thiên nhiên sống động là lí trí và trí hiểu của con người, là khả năng suy nghĩ và luận định của nó. Và họ đều cho rằng, cái phần cơ thể thuần tuý vật chất bên ngoài là điều không quan trọng. Và để bảo đảm cho khả năng nhận định đúng đắn của con người, các triết gia đã phải chấp nhận rằng, Thượng đế đã ban cho con người một bộ máy nhận thức đặc biệt. Và với sự trợ giúp của ngài, con người có thể đọc được sự thật về thế giới từ „Cuốn sách thiên nhiên“. Nhưng nếu quả thật Thượng đế đã chết, thì bộ máy nhận thức được ban tặng kia hẳn chỉ có khả năng giới hạn. Và như thế, bộ máy này cũng chỉ là một sản phẩm của thiên nhiên, và cũng như mọi sản phẩm thiên nhiên khác, nó chẳng toàn hảo. Chính quan điểm này Nietzsche đã đọc được của Arthur Schopenhauer: „Chúng ta chung quy chỉ là một thực thể giai đoạn, hữu hạn, chóng qua, như một giấc mơ, như chiếc bóng bay qua“. Và như vậy con người làm sao có được một „trí khôn có thể nắm bắt được những cái đời đời, vô tận, tuyệt đối?“ Khả năng nhận thức của con người, như qua linh cảm của Schopenhauer và Nietzsche, trực tiếp lệ thuộc vào những đòi hỏi của tiến trình thích ứng tiến hoá. Con người chỉ có thể nhận biết được điều mà bộ máy nhận thức của nó, vốn được hình thành qua cuộc đấu tranh sinh tồn, cho phép nó hiểu mà thôi. Như bất cứ mọi loài thú khác, con người đổ khuôn thế giới theo các giác quan và nhận thức của mình. điều này hẳn rõ: Mọi nhận thức của chúng ta tuỳ thuộc trước hết vào các giác quan của chúng ta. Những gì không thể thấy, nghe, cảm, nếm và sờ, ta không nhận biết được chúng và chúng cũng không có mặt trong thế giới của chúng ta. Ngay cả những gì trừu tượng nhất, chúng ta cũng phải tìm cách đọc hay có thể nhìn chúng như là những dấu chỉ, thì mới hình dung ra được chúng. Như vậy, để có thể có được một vũ trụ quan hoàn toàn khách quan, con người hẳn phải cần có một bộ máy nhận thức siêu nhân có thể nắm bắt được hết mọi góc cạnh của giác quan: cặp mắt siêu đẳng của đại bàng, khứu giác ngửi xa nhiều cây số của loài gấu, hệ thống đường hông của cá, khả năng biết được động đất của rắn v.v. Nhưng con người không thể có được những thứ đó, và vì thế nó không thể có được cái nhìn khách quan toàn bộ của các sự kiện. Thế giới của chúng ta chẳng bao giờ là cái thế giới như „vốn có của nó“, nó cũng chỉ là cái thế giới của con chó con mèo, của con chim con bọ, không hơn không kém. „Con ơi, thế giới của ta là một cái thùng lớn đầy nước!“, đó là câu giải thích của cá bố cho cá con trong chậu. Cái nhìn không nhân nhượng của Nietzsche về triết học và tôn giáo cho thấy sự ôm đồm bao biện của con người qua những tự định nghĩa của họ (Còn việc chính Nietzsche đặt ra cho thế giới những ôm đồm bao biện mới, thì đây lại là chuyện khác). Í thức con người không nhắm ưu tiên tới câu hỏi: „đâu là sự thật?“. đối với họ, câu hỏi sau đây quan trọng hơn: đâu là điều tốt nhất cho sự sống còn và thành đạt của tôi? Những gì không liên quan trực tiếp tới vấn nạn này xem ra ít có cơ hội có được một vai trò quan trọng trong cuộc tiến hoá loài người. Nietzsche mơ hồ hi vọng rằng, có lẽ sự tự nhận thức của con người ngày càng trở nên sáng suốt hơn, nó có thể tạo cho họ trở thành một „siêu nhân“ và „siêu nhân“ này hẳn sẽ có được khả năng nhận thức lớn hơn. Nhưng điểm này cũng nên cẩn thận. Là vì cho dù những tiến bộ nhân loại đã đạt được cho tới nay trong việc tìm hiểu về nhận thức và về „hoá học“ của con người, kể cả việc có được những máy móc tinh vi nhất và những quan sát bén nhạy nhất trong địa hạt này, chúng ta vẫn phải thú nhận rằng, con người không có khả năng đạt tới được một nhận thức khách quan. Nhưng điều đó chẳng có hại gì lắm. Có lẽ còn nguy hiểm hơn nhiều, nếu như con người thông suốt được mọi sự về chính mình. Chúng ta có nhất thiết cần đến một chân lí độc lập bay lơ lửng trên đầu chúng ta không? Nhiều khi chính con đường đi cũng là một mục tiêu đẹp rồi, nhất là khi con đường đó lại là lối dẫn vào trong chính ta, lối đi chằng chịt nhưng cũng đầy hấp dẫn. „Chúng ta chưa bao giờ tìm hiểu mình – chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu một ngày nào đó ta nhận ra ta?“, đó là câu hỏi Nietzsche đã nêu lên trong Genealogie der Moral. Vì thế, giờ đây chúng ta hãy cố gắng tìm hiểu mình, được chừng nào càng tốt. Nhưng ta sẽ dùng con đường nào, sẽ chọn cách thức nào để thực hiện? Và rồi ra kết quả sẽ ra sao? Nếu mọi nhận thức của chúng ta đều diễn ra trong não bộ và bị lệ thuộ c vào não bộ của loài vật có xương sống, thì tốt nhất ta hãy bắt đầu bằng tìm hiểu ngay não bộ. Và câu hỏi đầu tiên sẽ là: Não bộ đến từ đâu? Và tại sao nó có được cấu trúc như nó hiện có? •Lucy ở trên trời. Chúng ta đến từ đâu? ... Mời các bạn đón đọc Tôi Là Ai - Và Nếu Vậy Thì Tôi Đáng Giá Bao Nhiêu? của tác giả Richard David Precht.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lời Mời Không Thể Cưỡng Lại
Người ta có thể trình bày một trường hợp gượng ép rằng tiếp thị đang phá hoại hành tinh này. Qua thời gian, các nhà tiếp thị đã nhận ra rằng cách dễ dàng nhất để bán gì đó là lôi cuốn các nhu cầu cơ bản nhất của chúng ta và khai thác các điểm yếu vốn có trong tâm lý chúng ta. Ví dụ, thay vì dẫn khách hàng triển vọng qua một quyết định mua hợp lý và giúp họ mua gì đó mà sẽ giúp họ thật sự, ta lại lừa họ vào suy nghĩ rằng các Widget của ta sẽ cho họ hạnh phúc và cách quyến rũ vô hạn người khác phái. Đây là một trong nhiều mẹo với tay áo nhà tiếp thị được dùng khi gạt người tiêu dùng bình thường để ra quyết định mua phi lý. Người Mỹ bình thường ngập ngụa trong nợ nần vì mua ngớ ngẩn (và đôi khi tác hại rành rành) nhưng thứ mà họ chẳng cần. Quá trình này không chỉ đẩy người tiêu dùng bình thường vào nợ nần mà còn giảm đi các giá trị của họ. Khi hàng ngày bạn bị dội bằng nhiều thông điệp mà thể hiện một thế giới đầy rẫy sự ích kỷ, nông cạn và tham lam là các lý tưởng cuối cùng, thật khó bắt đầu tin nổi thế giới đó cũng là của riêng bạn. Sách này trình bày một phương án tiếp thị thay cho trước đây. Tôi tin rằng một doanh nghiệp có thể lãi vô cùng và vẫn hoạt động với mức độ nhất quán cao. Tôi viết sách này không chỉ nhằm tiết kiệm tâm trí của cộng đồng tiếp thị mà còn giúp doanh nghiệp tránh suy thoái. Tôi dự đoán rằng khi tỉ lệ nợ tăng và người tiêu dùng tự giáo dục tốt hơn qua truy cập thông tin chưa từng có vào Internet, sự khoan dung các phương pháp tiếp thị của quá khứ sẽ ngừng đáng kể. Một người tiêu dùng giận dữ và có hiểu biết là một kẻ thù nguy hiểm cho nhà tiếp thị. Ngay sau đó, các doanh nghiệp sẽ tranh giành với các lựa chọn. Sách này trình bày không chỉ một phương án, mà là phương án. Phương pháp tiếp thị này đã được thời gian chứng minh và nó lại chẳng bao giờ có tên cả. Dùng phương pháp này, bạn có thể đi đến nhất trí theo nghĩa đen trong đầu khách hàng triển vọng của bạn trong vòng ba giây đầu tiên từ khi tiếp xúc với tiếp thị của bạn. Tôi đã đặt tên phương pháp này là Lời mời không thể cưỡng lại và các trang sau mổ xẻ nó để bạn có thể áp dụng ngay nó vào doanh nghiệp của bạn với tác dụng mãnh liệt. Sách này là hướng dẫn cốt yếu của bạn trên thương trường trong thế kỷ hai mươi mốt. Bỏ qua các bài học này thật tiếc rẻ cho bạn. Các cá nhân và người bán hàng cũng có thể hưởng lợi lớn từ những trang này. Trong phụ lục “Tự bán mình trong vòng ba giây”, tôi giải thích bạn có thể áp dụng công nghệ này ra sao với mỗi khía cạnh cuộc sống của bạn. Rồi tôi chứng tỏ với người bán hàng họ có thể dùng thông tin này như thế nào để bán trong phạm vi đạo đức và vẫn thúc đẩy doanh số của họ vượt xa mức họ đang có hiện nay. Trước tiên, với các nhà tiếp thị trực tiếp trường phái cũ mà đã phù hộ tôi bằng sự khôn ngoan: Ted Nicholas, mà đã luôn truyền cảm hứng cho tôi bằng tính nhất quán, kiến thức và tinh thần của mình. Gary Bencivenga, mà tôi chỉ mới tiếp xúc gần đây nhưng đã thổi làn gió mới vào tâm hồn tôi. Gary Halbert, một người thông minh hàng đầu thế giới mà tôi nhiều lần ăn chung và chia sẻ bí mật trong những tiệm cà phê ở South Beach. Kế tiếp, với nhóm nhà tiếp thị lợi hại hay lảng vảng trên Internet: Matt Gill và Kevin Wilke, những người bạn và anh em tốt. Joe Vitale, mà tôi muốn mời vào hố cá nhân để đánh trận, bất cứ ngày nào trong tuần và hai lần vào chủ nhật- anh là người bạn chân tình. Mike Merz, anh chàng có thể dễ thương nhất mà tôi chưa từng gặp mặt. Paul Myers, mà thật ra có lẽ là phần tỉnh táo cuối cùng đang nắm giữ thế giới điên rồ này cùng nhau- cảm ơn anh vì những tranh đấu không mệt mỏi cho chân lý. Chayden Bates, mà đang ẩn náu, nhưng đang âm mưu thầm lặng thâu tóm thế giới và có lẽ rất thành công. Tom Antion, Tom Wood, Mike Filsaime, Russell Brunson, Josh Anderson, Shawn Casey, brett Rademacher, Kimberly Gordon, Craig Perrine, Rob Fighter, Michel Fortin, Jim Fleck, Ankesh Kothari, Nick Temple, Frank Mullen và Corey Rodl có lẽ yên nghỉ trong an bình. Tiếp đến là vài người bạn khác trong kinh doanh… Otto von Schulze, chủ tịch Trường Am nhạc Mỹ, cám ơn vì tình bạn và vì quan điểm chung về tương lai. Mary Mazullo, cám ơn vì lòng nhân hậu vô bờ bến và vì một ví dụ soi sáng. Những người thân tốt tại Waymaker – tầm nhìn quý báu của các bạn có lẽ sớm trở thành thực tế. Richard Webster mà đã tự chứng minh là một người bạn lớn và một người bảo vệ tích cực tất cả các nhà tự quảng bá lớn tiếng khắp nơi. Hội tác giả New Zealand, những người tôi hy vọng sẽ có ngày trở thành những tác giả có tác phẩm bán chạy nhất. Tới cô giáo khiêu vũ Claudia, cô đã biến tôi thành người tốt hơn. *** Nhiều người nghĩ rằng tiếp thị đang phá hoại hành tinh này bởi vì cách các nhà tiếp thị dễ dàng nhất bán hàng bằng cách lôi cuốn các nhu cầu cơ bản nhất và khai thác các điểm yếu vốn có trong tâm lý khách hàng. Ví dụ, thay vì hướng dẫn khách hàng triển vọng đưa ra một quyết định mua hợp lý và giúp họ mua gì đó thật sự hữu dụng cho họ, người tiếp thị lại lừa họ vào suy nghĩ rằng món hàng đó sẽ giúp họ hạnh phúc. Đây là một trong nhiều mẹo mà nhà tiếp thị dùng để gạt người tiêu dùng bình thường đưa ra những quyết định mua phi lý. Nhiều người ngập ngụa trong nợ nần vì mua ngớ ngẩn những thứ mà họ chẳng cần. Quá trình này không chỉ đẩy người tiêu dùng bình thường vào nợ nần mà còn giảm đi niềm tin vào thương hiệu của họ. Với lượng thông tin phong phú trên internet ngày nay, Mark Joyner dự đoán rằng khi khách hàng biết cách tự tìm hiểu phản ứng của những người đã tiêu dùng sản phẩm trước đây nhiều hơn, sự khoan dung dành cho các phương pháp tiếp thị trong quá khứ sẽ giảm đáng kể. Một người tiêu dùng giận dữ và có hiểu biết sẽ là một kẻ thù nguy hiểm thật sự cho nhà tiếp thị. Chính vì thế, các doanh nghiệp sẽ cạnh tranh với nhau bằng cách nghĩ ra những phương pháp tiếp thị mới. Do đó, cuốn sách Lời mời không thể cưỡng lại không chỉ trình bày một phương án chủ đạo, mà đưa ra rất nhiều phương án thay thế. Những phương pháp tiếp thị này đã được chứng minh là có hiệu quả trong thực tế. Áp dụng những phương pháp trong sách, người tiếp thị sẽ có thể thu hút khách hàng triển vọng trong vòng ba giây đầu tiên từ khi họ tiếp xúc sản phẩm. Vì vậy, cuốn sách này là hướng dẫn cốt yếu không thể thiếu cho những người làm công việc tiếp thị trên thương trường trong thế kỷ 21. Mời các bạn đón đọc Lời Mời Không Thể Cưỡng Lại của tác giả Mark Joyner.
Làm Thế Nào Để Đọc Sách Hiệu Quả?
Sách - một kho tàng tri thức, luôn ở gần chúng ta mọi lúc mọi nơi, sách mang đến bao điều lý thú, chứa đựng trong đó biết bao triết lý của cuộc sống mà các vị tiền bối đã đúc kết bằng kinh nghiệm của mình. Mỗi cuốn sách là một kho tư liệu, là nơi lưu giữ mọi giá trị xưa và nay, là công cụ không thể thiếu trong quá trình học tập, tuy nhiên để đọc sách mà dễ tiếp thu, có hiệu quả thì không phải dễ, nhưng cũng không phải quá khó điều quan trọng là ta tiếp nhận theo những cách như thế nào mà thôi.    Mỗi người đọc sách đều có những mục tiêu khác nhau, có người đọc để thấu hiểu, có người đọc để tiếp thu thêm kiến thức, có người đọc để nghiên cứu, có người đọc để giải trí,... Nhưng dù với mục đích nào đi chăng nữa trước khi đọc bạn cũng phải xác định rõ ràng mục tiêu cụ thể của mình, chẳng hạn bạn sẽ đọc cuốn sách này trong bao lâu? Bạn cần nắm được nội dung gì sau khi đọc xong nó? Bạn cần làm gì để ghi nhớ được nội dung của cuốn sách. Có như thế mới đảm bảo mang lại hiệu quả được, bởi vì bạn đã xác định đầu tư tiền bạc và thời gian cho nó thì phải xác định thu được kiến thức mà bạn cần.   Cách đặt mục tiêu đọc sách: Để khởi đầu, bạn hãy phác thảo ý tưởng chung về số lượng sách cần đọc, ví dụ một tuần phải đọc được hai cuốn sách Tìm ra những cuốn sách cần đọc nhất liên quan đến mục tiêu của mình Có thể đưa vào mục tiêu đọc của mình các ấn phẩm định kỳ sách dài tập, có nhiều phần Sắp xếp quá trình đọc Lên danh sách các cuốn sách cần đọc Lập thời gian biểu cụ thể *** Có một câu nói rất nổi tiếng của nhà văn M.Go-rơ-ki được đông đảo mọi người biết đến “Sách mở ra trước mắt tôi những chân trời mới”. Quả đúng như vậy, việc đọc sách từ lâu đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong hành trình tìm kiếm tri thức và hoàn thiện nhân cách của mỗi người. Xã hội hiện đại và phát triển gần như đã giết chết thói quen đọc sách mỗi ngày của con người. Do đó, lượng người không có thói quen đọc sách gần như là không đếm được. Nếu bạn nằm trong số người không đếm được đó, thì bạn đã bỏ lỡ rất nhiều thứ mà một cuốn sách có thể mang lại. Sách được ví như kho tàng tri thức của nhân loại, do đó, đọc sách mang lại rất nhiều những lợi ích mà bạn không thể ngờ tới. Do đó, chúng tôi khuyên rằng, bạn nên tạo cho mình thói quen đọc sách mỗi ngày để có thể có cơ hội khám phá kho tàng của nhân loại cũng như thu được cho mình những lợi ích tốt đẹp từ sách. Vậy cụ thể, sách mang lại những lợi ích gì mà được ví như những kho báu, cũng như làm thế nào để chinh phục kho báu đó một cách hiệu quả nhất, mời bạn đọc hãy cùng tham khảo bài viết “Khám phá kho báu tri thức với kỹ năng và phương pháp đọc sách hiệu quả nhất!” Mời các bạn đón đọc Làm Thế Nào Để Đọc Sách Hiệu Quả? của tác giả Nhiều Tác Giả.
Sức Hút Của Kỹ Năng Nói Chuyện
Bạn muốn thay đổi thói quen giao tiếp? Bạn cần học hỏi kỹ năng giao tiếp? Bạn mong trở thành nữ hoàng giao tiếp? Qua những ví dụ sinh động và hài hước, cuốn sách sẽ giúp bạn nắm vững thần thái và ngôn ngữ trong các tình huống giao tiếp khác nhau, đưa bạn trở thành nữ hoàng giao tiếp, để lại ấn tượng tốt đẹp trong mắt mọi người.   Mời các bạn đón đọc Sức Hút Của Kỹ Năng Nói Chuyện của tác giả Beauty Salon.
Bí Quyết Thuyết Trình Của Steve Jobs
Dù khi giới thiệu điện thoại di động iPhone mới hay khi đọc một bài thuyết trình chính, Steve Jobs luôn kích thích người nghe với phong cách và nghệ thuật quảng cáo không ai bắt chước được; ông kể một câu chuyện, phác họa một hình ảnh, chia sẻ với người ta một cách nhìn. Ông trao cho họ một trải nghiệm làm thay đổi mọi việc, một trải nghiệm độc nhất, gây cảm hứng và làm cho người ta nhớ mãi.   Bây giờ bạn cũng có thể làm như vậy bằng cách học những kỹ xảo đặc biệt đã làm cho Jobs trở thành người truyền đạt quyến rũ nhất trên sân khấu thế giới. Sử dụng các thuyết trình huyền thoại của Jobs trong một sơ đồ thiết kế, huấn luyện viên chuyên về các kỹ năng truyền đạt Carmine Gallo đã vẽ ra một khuôn khổ dễ sử dụng về các bí quyết thuyết trình giúp bạn lên kế hoạch, báo cáo và tinh chỉnh để có được những bài thuyết trình hay nhất của đời mình. Bạn sẽ học cách: - Tạo ra một câu chuyện thương hiệu gây cảm hứng - Phác họa một viễn ảnh đặc biệt, đáng ghi nhớ và nhất quán - Làm cho những con số trở nên có ý nghĩa - Tạo ra những khoảnh khắc không bao giờ quên được - Tạo những hình chiếu hấp dẫn và đẹp mắt - Làm chủ trên sân khấu - Làm như vẻ không mệt nhọc gì cả - Diễn tập có hiệu quả - Vui nhộn *** Cảm nhận đầu tiên của mình là: tác giả cuốn sách hẳn là một fan cuồng của Steve Jobs. Ông đưa ra những phân tích, dẫn chứng và script rất chi tiết về những bài thuyết trình của Steve. Điều thú vị là ông áp dụng luôn cả những nguyên tắc thuyết trình này vào cuốn sách của mình, đơn cử như bố cục sách: áp dụng “the rule of 3”, chia bố cục làm 3 “hồi” như một vở kịch: Create the story (Tạo ra câu chuyện), Deliver the experience (Truyền tải kinh nghiệm), và Refine and rehearse (Trau chuốt và luyện tập). Tiếp đến là ngôn ngữ: đơn giản, dễ hiểu, không màu mè. Nội dung thì luôn xoáy sâu vào trọng tâm, nhấn mạnh nhiều lần mục đích của cuốn sách, trả lời câu hỏi quan trọng nhất mà tác giả đã đặt ra lúc đầu: “Tại sao tôi phải đọc nó?”. Tuy nhiên, với một cuốn sách về cách gây ấn tượng thông qua thuyết trình – 1 kênh truyền thông- mình cho rằng thiết kế bìa sách quá bình thường, không có gì thu hút người đọc, không có gì nổi bật ngoài cái tên Steve Jobs. Mình đọc cuốn này là do recommendation của thầy Landon. Về nội dung, đây là một tài liệu thống kê lại đầy đủ các thói quen thuyết trình của Steve Jobs– những điều trong sách bạn cũng có thể tự nhìn ra được sau khi xem 3-4 bài thuyết trình của ông, chỉ là bạn k chú ý là “mình cũng nhận ra” mà thôi. Do vậy đọc xong sách, mình có cảm giác: “Trời, cái này tui cũng nhận ra được nè, vậy mà đó giờ k chú ý ta ơi”. Những điều làm nên “bí mật thuyết trình thành công” của Steve Jobs (mình chỉ nêu những ý chính nhất thôi, chứ thực ra còn nhiều điểm chính + ví dụ minh họa nữa ^^) : +Như trên đã nói: Cần tìm ra câu trả lời cho câu hỏi quan trọng nhất “Tại sao khán giả phải nghe tôi thuyết trình”, nên áp dụng “luật 3 điểm” (trí óc con người chỉ tiếp thu hiệu quả nhất 3 ý chính), thiết kế bài thuyết trình sao như 1 câu chuyện đủ hấp dẫn để thu hút người nghe. +Chia sẻ sân khấu, luôn tạo những tình huống sáng tạo cho bài thuyết trình của mình. +Tập luyện, tập luyện và tập luyện để tạo cảm giác tự nhiên. +Không dựa dẫm vào công cụ thuyết trình (điều này cũng được nhắc đến trong cuốn Perfect Pitch của Jon Steel). Dù vậy, vẫn có một điểm làm mình băn khoăn. Cũng áp dụng 1 quy tắc của Steve Jobs, “tỏ ra thật sự hứng khởi và tràn đầy sự tự hào về sản phẩm của mình”, Carmine lặp đi lặp lại rất nhiều lần rằng Steve rất siêu việt, rất đẳng cấp, rất tuyệt vời. Mình thì lại không thích áp dụng quy tắc này quá triệt để như Steve, cảm giác như thế là quá tự kiêu về sản phẩm của mình và thật sự là rất nhiều người thấy khó chịu với điều này. Ví dụ như đoạn video clip sau đây, tổng hợp tất cả những từ ngữ “tự khen” của Steve Jobs khi giới thiệu Ipad:  Tóm lại, đây vẫn là một cuốn sách khá hay về nghệ thuật thuyết trình, đọc sẽ không phí thời gian, nhưng mình vẫn recommend Perfect Pitch hơn. *** Bí quyết thuyết trình của Steve Jobs cho ta: Một khung gồm ba phần để cuốn hút ngƣời tham dự Dù khi giới thiệu điện thoại di động iPhone mới hay khi đọc một bài thuyết trình chính, Steve Jobs luôn kích thích ngƣời nghe với phong cách và nghệ thuật quảng cáo không ai bắt chƣớc đƣợc; ông kể một câu chuyện, phác họa một hình ảnh , chia sẻ với ngƣời ta một cách nhìn. Ông trao cho họ một trải nghiệm làm thay đổi mọi việc, một trải nghiệm độc nhất, gây cảm hứng và làm cho ngƣời ta nhớ mãi. Bây giờ bạn cũng có thể làm nhƣ vậy bằng cách học những kỹ xảo đặc biệt đã làm cho Jobs trở thành ngƣời truyền đạt quyến rũ nhất trên sân khấu thế giới. Sử dụng các thuyết trình huyền thoại của Jobs trong một sơ đồ thiết kế, huấn luyện viên chuyên về các kỹ năng truyền đạt Carmine Gallo đã vẽ ra một khuôn khổ dễ sử dụng các bí quyết thuyết trình giúp bạn lên kết hoạch, báo cáo và tinh chỉnh để có đƣợc những bài thuyết trình hay nhất của đời mình. Bạn sẽ học cách:  Tạo ra một câu chuyện thương hiệu gây cảm hứng  Phác họa một viễn cảnh đặc biệt, đáng ghi nhớ và nhất quán  Làm cho những con số trở nên có ý nghĩa  Tạo ra những khoảng khắc không bao giờ quên được  Tạo những hình chiếu hấp dẫn và đẹp mắt  Làm chủ trên sân khấu  Làm như vẻ không mệt nhọc gì cả  Diễn tập có hiệu quả  Vui nhộn   MỤC LỤC Lời người dịch Lời cảm ơn Lời nói đầu: Làm thế nào để trở nên tuyệt vời khác thường trước bất kỳ đối tượng nào Hồi 1: TẠO RA CÂU CHUYỆN Cảnh 1:   Lập kế hoạch theo kỹ thuật tƣơng tự Cảnh 2:   Trả lời câu hỏi quan trọng nhất Cảnh 3:   Phát triển một ý niệm cứu nhân độ thế cho mục tiêu của mình Cảnh 4:   Tạo ra những tiêu đề kiểu Twitter Cảnh 5:   Phác họa một lộ trình Cảnh 6:   Giới thiệu ngƣời phản diện Cảnh 7:   Tiết Lộ Ngƣời Hùng Chinh Phục Giải lao lần 1: Hãy tuân thủ quy luật 10 phút Hồi 2: TRUYỀN ĐẠT KINH NGHIỆM Cảnh 8:   Mở đƣờng cho tâm thiền nội tại của họ Cảnh 9:   Tô điểm cho các con số của bạn Cảnh 10: Dùng những từ “Sống động một cách lạ kỳ” Cảnh 11: Chia sẻ sân khấu Cảnh 12: Dàn cảnh bài thuyết trình với nhiều đồ dùng biểu diễn Cảnh 13: Mở ra một phút giây “kinh ngạc” Giải lao lần 2: Schiller học từ những điều hay nhất Hồi 3: HOÀN CHỈNH VÀ DIỄN TẬP Cảnh 14: Làm chủ sự hiện diện trên sân khấu Cảnh 15: Làm nhƣ vẻ không mệt nhọc gì cả Cảnh 16: Trang phục phù hợp Cảnh 17: Quẳng kịch bản đi Cảnh 18: Vui nhộn Diễn tiếp: Còn một chuyện này nữa CHÚ THÍCH     LỜI NGƯỜI DỊCH nước Mỹ và trong ngành máy tính, Steve Jobs được xem là một thiên tài Ởcủa kinh doanh. Tên tuổi của ông được gắn liền với thương hiệu Apple và những sản phẩm đầy tính sáng tạo ra đời đã làm đảo lộn ngành công nghiệp máy tính. Nếu chàng sinh viên 21 tuổi Steve Jobs, và người bạn Steve Wozniak cùng nhau thành lập công ty Apple năm 1976 thì năm sau chiếc máy tính đầu tiênApple 2 ra đời và phải đợi đến năm 1984, chiếc máy tính Macintosh mới được tung ra thị trường. Không ai có thể quên được tính đột phá và tính cách mạng của chiếc Macintosh với con chuột để điều khiển trên một giao diện đồ họa trong khi người ta vẫn còn quen dùng những dòng mệnh lệnh trên màn hình. Các dòng sản phẩm đi trước thời đại cứ tiếp tục được Jobs cho ra đời tạo nên một cộng đồng người hâm mộ Apple và Jobs , hết sức trung thành với thương hiệu, mặc dù trong cuộc chạy đua giữa máy tính Mac và máy tính PC (chạy các phần mềm của Microsoft), Mac chỉ dậm chân ở mức 10%. Nhưng các sản phẩm khác của Apple và cũng là của Steve Jobs, chiếm được những thị phần cao như iPhone, iTunes, iPod và gần đây là máy tính bảng iPad, iPad 2. Như ta thấy trong cuốn sách, Jobs không thấy vấnđề thị phần thấp là quan trọng, mà chất lượng và uy tín của sản phẩm mới đáng để người ta chú ý, ông không ngần ngại so sánh các sản phẩm của mình với các loại xe hơi có uy tín nhưng không bán được nhiều như BMW hay Mercedes trong một bài phỏng vấn năm 2003 trên tờ Rolling Stone. Năm 2010, iPad nổi lên như máy tính bảng được nhiều người ưa chuộng nhất và tờ Financial Times đã bầu SteveJobs là Nhân vật của năm 2010. Nếu Jobs được mọi người hâm mộ vì cách điều khiển tài tình và sáng tạo một công ty lớn trên thế giới thì cách thuyết trình của ông trước công chúng lại càng được mọi người kính phục và hàng năm, người ta náo nức chờ đợi những lần ông lên sân khấu để giới thiệu những sản phẩm mới của Apple trong các sự kiện quan trọng như Macworld Expo hay Hội nghị thường kỳ của các nhà thiết kế phần mềm trên thế giới (Worldwide Developers Conference - WWDC). Có người phải đứng trong giá lạnh cả đêm để sáng hôm sau có chỗ ngồi trong hội trường. Nếu Apple là Jobs thì các bài thuyết trình của Jobs lại là vũ khí số một của Apple để bán hàng, như lời của nhà báo Mike Langberg viết trên Knight-Ridder khi thấy Jobs tung ra máy nghe nhạc di động iPod năm 2001. Cuốn “Bí quyết thuyết trình của Steve Jobs” mà chúng tôi hân hạnh giới thiệu ở đây được viết bởi nhà báo Carmine Gallo, một huấn luyện viên chuyên nghiệp cho những thuyết trình viên cao cấp ở Mỹ từ các hãng nổi tiếng cử đến như IBM, Nokia… Gallo không chịu công nhận cuốn sách ông viết ra là một tiểu sử trá hình của Steve Jobs, ông nhấn mạnh sách không được Steve Jobs ủy quyền cho ông viết. Tuy nhiên, cuộc đời của Jobs cũng đủ là đầu đề cho một cuốn sách ly kỳ. Có 8 | P a g e Mời các bạn đón đọc Bí Quyết Thuyết Trình Của Steve Jobs của tác giả Carmine Gallo.