Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tuổi Già Tập 1 - Simone de Beauvoir

Simone de Beauvoir (1908 - 1986) là nhà văn, nhà triết học và một nhà đấu tranh cho nữ quyền người Pháp. Là một nhà văn từng được giải Goncourt nhưng cũng là một học giả uyên bác, các tác phẩm của bà được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời mình đồng thời đầy ắp các dữ kiện khoa học, lịch sử, thống kê… Hai tác phẩm non-fiction được biết ở Việt Nam nhiều nhất của bà là Giới tính thứ nhì và Tuổi già. Giới tính thứ nhì (xuất bản năm 1949), được xem là một trong những quyển sách hay nhất của thế kỷ 20, là một cuốn bách khoa toàn thư về các giai đoạn của cuộc đời phụ nữ từ lúc sinh ra, dậy thì, lấy chồng, làm mẹ; đồng thời vạch ra con đường giành quyền lợi cho nữ giới. Với tác phẩm này, bà được xem là “Bà mẹ của phong trào nữ quyền". Tuổi già được viết lúc Beauvoir hơn 50 tuổi, mô tả chi tiết cuộc sống của người già và đấu tranh giành quyền cho họ. Người ta chỉ có thể hiểu được thân phận người già khi ở tuổi đó. “50 tuổi, tôi giật nảy mình khi một nữ sinh viên Mỹ kể lại với mình câu nói của một cô bạn: "Nhưng Simone de Beauvoir là một bà già chứ sao!" Cả một truyền thống dồn cho từ ngữ này một cái nghĩa xấu; nó vang lên như một lời thoá mạ. Vì vậy, người ta phản ứng, thường bằng giận dữ, khi nghe người khác bảo mình già. Tôi có biết nhiều người phụ nữ được biết tuổi tác của mình một cách khó chịu qua một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm Marie Dormoy: một người đàn ông, bị vẻ trẻ trung của hình bóng bà đánh lừa, đi theo bà trên đường phố; đến khi đi vượt qua bà và trông thấy gương mặt bà, thì thay vì bắt chuyện, ông ta rảo bước.” "Bạn có biết khuyết tật nào lớn nhất trong các khuyết tật không? Đó là tuổi trên 55" – Tourgueniev. Vào tuổi 55, Trotsky phàn nàn người mệt mỏi, mất ngủ, hay quên; ông có cảm giác sức lực sút kém; và lo lắng. Ông gợi lại quá khứ: "Anh buồn bã nhớ lại tấm ảnh của em, tấm ảnh của chúng ta, trong đó chúng ta trẻ trung biết chừng nào”. Già đi – đó là một điều không thể tránh khỏi và cũng là một quá trình chấp nhận đầy đau đớn. "Wagner kinh hãi thấy mình già đi, 80 tuổi, ông viết: “Hình hài tôi làm người ta khiếp sợ và khiến tôi u sầu một cách xót xa”. Sự suy sụp về thể chất khiến người già không còn có thể tham gia sản xuất hay xây dựng, do đó họ bị xem như gánh nặng, phải phụ thuộc vào người khác. Beauvoir viết về những trại dưỡng lão ở ngoại ô Paris với những người già như bị xã hội bỏ quên, sống mòn mỏi chờ đợi những cuộc viếng thăm của con cháu. Theo Beauvoir, đối đãi công bằng với người già là cách ứng xử có trước có sau mà nếu khác đi là làm lung lay gốc rễ của xã hội hiện đại. *** Khi còn là thái tử Siddharta, bị vua cha nhốt trong một tòa lâu đài tráng lệ, nhiều lần Thích Ca trốn đi dạo chơi bằng xe ngựa trong vùng. Trong lần dạo chơi đầu tiên, thái tử gặp một người tàn tật, tóc bạc, răng rụng, da nhăn nheo, cúi gập người trên một cây gậy, miệng lập cập, hai tay run rẩy. Chàng lấy làm ngạc nhiên và người xà ích giải thích đó là một ông già. Thái tử liền thốt: “Những kẻ hèn yếu và dốt nát, chuếnh choáng vì niềm kiêu hãnh của tuổi trẻ, không thấy được tuổi già. Khốn khổ biết chừng nào! Hãy trở nhanh về nhà thôi. Các trò chơi và niềm vui mà làm gì, vì ta là nơi ẩn náu của tuổi già mai sau”. Qua một ông già Thích Ca nhận ra số phận của chính mình, sinh ra để cứu vớt loài người, Thích Ca muốn chia sẻ hoàn toàn với số phận của họ. Và về điểm này, Người khác họ: họ lẩn tránh những gì không làm họ vui lòng. Và đặc biệt là tuổi già. Châu Mỹ đã loại trừ ra khỏi từ vựng của họ từ: người chết: mà chỉ nói người khuất bóng thân yêu; cũng giống như vậy, họ tránh liên hệ tới tuổi già. Ở nước Pháp ngày nay, đó là một đề tài cấm kỵ. Khi bắt buộc phải vi phạm điều cấm kỵ ấy, tôi đã bị người ta la ó! Chấp nhận mình đã bước vào ngưỡng cửa của tuổi già, tức là cho rằng nó rình rập tất cả mọi người phụ nữ, rằng nó đã tóm cổ nhiều người. Với thái độ dễ thương hay giận dữ, nhiều người, nhất là người già, không ngớt nhắc đi nhắc lại với tôi rằng làm gì có tuổi già! Có những người không trẻ bằng những người khác, chỉ thế thôi! Đối với xã hội, tuổi già xuất hiện như một điều bí ẩn đáng xấu hổ, mà nói tới là điều khiếm nhã. Trong mọi lĩnh vực, văn học viết rất nhiều về phụ nữ, về trẻ em, về thiếu niên; ngoài các công trình chuyên môn, người ta rất ít ám chỉ tới tuổi già. Một tác giả băng hoạt hình đã phải làm lại cả một loạt tác phẩm vì trước đó ông ta đã đưa vào trong số các nhân vật một cặp vợ chồng đáng tuổi làm ông làm bà: “Hãy loại bỏ người già đi!” - người ta hạ lệnh cho ông ta[1]. Khi tôi nói mình viết một cuốn tiểu luận về tuổi già, người ta thường thốt lên: “Sao lại kỳ thế!... Bà đâu có già!... Đề tài ấy, ngán lắm...” Chính vì lý do ấy mà tôi viết cuốn sách này: để phá tan sự đồng tình im lặng. Theo Marcuse, xã hội tiêu thụ đem một ý thức tốt đẹp thay thế cho ý thức xấu xa và bài xích mọi ý nghĩ tội phạm. Cần khuấy động sự yên ổn của nó. Đối với người có tuổi, nó chẳng những là phạm tội, mà còn là một tội ác. Ẩn náu phía sau các huyền thoại bành trướng và phong túc, nó cho người già là những kẻ khốn cùng. Ở Pháp, nơi tỷ lệ người già cao nhất thế giới - 12% dân số trên 65 tuổi - họ bị dồn vào cảnh khốn cùng, cô đơn, tàn tật, thất vọng. Ở Mỹ, số phận của họ cũng không sung sướng hơn. Nhằm dung hòa sự man rợ này với thứ đạo lý nhân văn chủ nghĩa mà họ thuyết giáo, giai cấp thống trị có cách đơn giản là không xem họ là những con người; nếu nghe tiếng nói của họ, người ta bắt buộc phải thừa nhận đó là một tiếng nói của con người; tôi sẽ buộc độc giả của mình nghe tiếng nói ấy. Tôi sẽ miêu tả hoàn cảnh của họ và cách họ sống; tôi sẽ nói những gì diễn ra thực sự trong đầu óc và trong con tim họ - những thứ bị dối trá, huyền thoại và những lời sáo rỗng của nền văn hóa tư sản xuyên tạc. Vả lại, thái độ của xã hội đối với họ mang tính chất đồng lõa sâu sắc. Nói chung, xã hội không coi tuổi già là một lớp tuổi rõ rệt. Cuộc khủng hoảng về tuổi dậy thì cho phép vạch ra giữa một thiếu niên và người trưởng thành một đường ranh giới chỉ mang tính võ đoán trong những giới hạn chật hẹp; ở tuổi 18, 21, thanh niên được chấp nhận vào xã hội con người. Hầu như bao giờ xung quanh sự thăng tiến ấy cũng có những “nghi thức chuyển giai đoạn”. Còn thời điểm bắt đầu tuổi già thì không được xác định rõ rệt, nó thay đổi theo từng lúc, từng nơi. Không ở đâu, người ta bắt gặp “nghi thức chuyển giai đoạn” thiết lập một quy chế mới[2], về chính trị, suốt đời, cá nhân giữ nguyên những quyền lợi và nghĩa vụ giống nhau. Luật Dân sự không mảy may phân biệt giữa một cụ già trăm tuổi và một người tuổi bốn mươi. Các nhà làm luật cho rằng ngoài những trường hợp bệnh lý ra, trách nhiệm hình sự của người có tuổi cũng hoàn toàn đầy đủ như của thanh niên[3]. Trong thực tiễn, người ta không coi họ là một lớp người riêng, vả lại, họ cũng không muốn như vậy; có sách, báo, sân khấu, những buổi truyền hình và truyền thanh dành cho trẻ em và thiêu niên: còn đối với người già thì không[4]. Trên tất cả những bình diện này, người ta đồng hóa họ với lớp người lớn tuổi trẻ hơn. Nhưng khi quyết định quy chế kinh tế của họ, hình như người ta cho là họ thuộc một lớp người xa lạ: họ không có những nhu cầu cũng như những tình cảm giống như những người khác, nếu chỉ cần ban cho họ một chút bố thí khốn khổ là cảm thấy hết nợ đối với họ. Các nhà kinh tế học, các nhà làm luật tin vào cái ảo ảnh thuận tiện ấy khi phàn nàn cái gánh nặng những người không hoạt động gây nên cho những người hoạt động: như thể những người này không phải là những người không hoạt động trong tương lai và không bảo đảm chính ngày mai của mình trong lúc xây dựng việc nhận lấy trách nhiệm đối với những người có tuổi. Còn các nhà hoạt động công đoàn thì không nhầm lẫn: khi đưa ra những đòi hòi, bao giờ họ cũng coi trọng vấn đề hưu trí. Những người già không tạo nên một lực lượng kinh tế nào thì không có cách gì để đòi hỏi quyền lợi của mình: lợi ích của những kẻ bóc lột, là tiêu diệt tình đoàn kết giữa người lao động và người không sản xuất, sao cho không một ai bênh vực những người này. Những huyền thoại và lời sáo rỗng theo tư duy tư sản tìm cách chỉ ra một con người khác trong người già. “Chính với những thiếu niên sống khá nhiều năm mà cuộc đời tạo nên lớp người già” - Proust từng nhận định như vậy - họ giữ lại những nết tốt và những tật xấu của con người trong họ. Điều đó, dư luận không muốn biết tới. Nếu biểu thị những ham muốn, những tình cảm, những đòi hỏi giống như những người trẻ tuổi, thì người già làm người ta công phẫn; ở họ, tình yêu nam nữ, lòng ghen tuông hình như là bỉ ổi hay lố bịch, còn tình dục thì đáng ghê tởm và bạo lực thì chẳng có nghĩa lý gì. Họ phải là tấm gương về mọi đức tính. Trước hết, người ta đòi hỏi ở họ sự thanh thản; người ta khẳng định họ có lòng thanh thản ấy, nên cho phép người ta không quan tâm tới nỗi bất hạnh của họ. Cái hình ảnh người ta tô vẽ về họ là hình ảnh một nhà Hiền triết trong ánh hào quang của một mái tóc bạc trắng, giàu kinh nghiệm và khả kính, vượt lên rất xa thân phận con người; nếu rời khỏi hình ảnh ấy, là họ rơi xuống phía dưới; cái hình ảnh đối lập với hình ảnh trên đây, là hình ảnh một lão già điên lẩm cẩm, lố lăng, bị trẻ em chế giễu. Dẫu sao, do đức độ hay do sự đê tiện của họ, họ ở ngoài nhân loại. Vì vậy, người ta có thể không ngại ngần khước từ đối với họ những gì tối thiểu được coi là cần thiết cho một cuộc sống con người. Người ta đẩy xa sự loại thải này tới mức làm cho nó quay trở lại chống chính bản thân mình; người ta sẽ không công nhận bản thân mình trong hình ảnh ông già mà chính mình là ông già đó. Proust nhận xét một cách xác đáng: “Trong mọi hiện thực, (tuổi già) có lẽ là hiện thực mà chúng ta giữ lại một khái niệm thuần túy trừu tượng lâu bền nhất trong đời”. Tất thảy mọi người đều khả tử: họ nghĩ tới điều đó. Nhiều người trong số họ trở thành người già: hầu như không một ai hình dung trước sự biến đổi ấy. Người ta không chờ đón, không dự kiến một cái gì khác ngoài tuổi già. Khi được hỏi về tương lai của họ, thanh niên, nhất là nữ thanh niên, cho đời mình kéo dài nhiều nhất đến tuổi 60. Một số cô gái bảo: “Em không chờ đến ngày ấy, em sẽ ra đi trước đó”. Và thậm chí, một vài cô nói: “Em sẽ tự sát trước ngày ấy”. Người trưởng thành hành động như thế không bao giờ phải trở thành người già. Thông thường, người lao động kinh hoàng khi điểm giờ nghỉ hưu: thời hạn nghỉ hưu vốn đã được ấn định trước, người đó biết thời hạn ấy, nhẽ ra họ phải chuẩn bị sẵn. Sự thật là sự hiểu biết ấy vẫn xa lạ đối với họ cho tới giây phút cuối cùng - trừ phi nó thực sự mang tính chất chính trị. Đến ngày đó, và khi đã bước tới gần, thông thường, người ta thích tuổi già hơn là cái chết. Tuy vậy, đứng cách xa, người ta xem xét cái chết sáng suốt hơn cả. Cái chết nằm trong phạm vi những khả năng trực tiếp của chúng ta, uy hiếp chúng ta ở mọi lứa tuổi; có lúc chúng ta suýt chết; thông thường, chúng ta sợ chết. Con người ta không trở nên già nua trong chốc lát; ở tuổi thanh niên hay lúc tráng niên, chúng ta không nghĩ là tuổi già tương lai đã tiềm ẩn trong con người mình như Thích Ca: tuổi già ấy cách xa chúng ta tới mức khoảng cách ấy lẫn lộn trước mắt mình với sự vĩnh hằng: tương lai đối với chúng ta như thể phi hiện thực. Vả lại, cái chết không là gì cả; người ta có thể cảm thấy một nỗi bàng hoàng siêu hình trước cái hư vô ấy, nhưng bằng một cách nào đó, nó làm người ta yên lòng, nó không đặt thành vấn đề. “Ta sẽ không còn nữa”. : ta giữ hình tích của mình trong sự tiêu vong ấy[5]. Ở tuổi 20, hay 40, tôi nghĩ mình già, tức là nghĩ mình là người khác. Trong mọi sự biến đổi, đều có một cái gì đó khủng khiếp. Ở tuổi ấu thơ, tôi bàng hoàng, và thậm chí kinh hoàng khi hiểu ra sẽ có ngày mình sẽ trở thành người lớn. Nhưng ý muốn mình vẫn là bản thân mình, thường được bù đắp ở buổi thiếu thời bởi những lợi thế của quy chế người trưởng thành. Còn tuổi già thì xuất hiện như một nỗi bất hạnh: ngay cả ở những người mà người ta cho là vẫn giữ được vẻ quắc thước, sự suy sụp về thể chất mà tuổi già kéo theo cũng vẫn lồ lộ trước mắt. Vì ở loài người, sự đổi thay do năm tháng là nổi bật nhất. Loài vật thì gầy đi, yếu đi, nhưng không biến đổi. Còn con người thì có. Người ta se lòng khi nhìn thấy bên cạnh một thiếu phụ trẻ, phảng phất trong gương hình ảnh chính mình những năm tháng sau này: tức là mẹ mình. Theo Lévi-Strauss, người Da đỏ Namblikwara chỉ có một từ để nói “trẻ và đẹp” và một từ để nói “già và xấu”. Trước hình ảnh người già gợi ý với chúng ta về tương lai của mình, chúng ta không tin; một tiếng nói nội tâm thầm thì một cách phi lý với chúng ta rằng điều đó sẽ không đến với mình: sẽ không còn là chúng ta nữa khi điều đó xảy tới. Trước khi nó ập xuống chúng ta, tuổi già là cái chỉ liên quan tới ngườl khác. Vì vậy, có thể hiểu vì sao xã hội có thể khiến chúng ta không coi người già là đồng loại của mình. Thôi, chúng ta đừng tự lừa dối mình nữa; ý nghĩa cuộc sống chúng ta nằm trong tương lai đang đón đợi mình; chúng ta không biết mình là ai, nếu không muốn biết mình sẽ là người thế nào: chúng ta hãy tự nhận biết mình ở ông lão kia, ở bà già nọ. Cần phải như vậy nếu chúng ta muốn đảm nhận thân phận con người của mình một cách trọn vẹn. Chỉ có như vậy, chúng ta mới không còn chấp nhận một cách thờ ơ nỗi bất hạnh của lứa tuổi cuối cùng, chúng ta sẽ cảm thấy mình ở trong cuộc: và quả chúng ta ở trong cuộc. Nỗi bất hạnh ấy tố cáo một cách vang dội chế độ bóc lột chúng ta đang sống. Người ta không thể tự mình thỏa mãn nhu cầu của mình, bao giờ cũng bị coi là một gánh nặng. Nhưng trong những tập thể có một sự bình đẳng nào đó - trong lòng một cộng đồng nông thôn, ở một số dân tộc nguyên thủy - người đứng tuổi, tuy không muốn biết, vẫn biết ngày mai thân phận của mình sẽ là thân phận mà ngày hôm nay người đó quy cho người già. Đấy là ý nghĩa truyện cổ tích của Grim, được thuật lại ở mọi miền thôn dã. Một gã nông dân bắt người cha già ăn riêng, trong một cái máng gỗ nhỏ; hắn bất chợt thấy đứa con trai đang ghép những miếng ván. Nó bảo ông bố: “Cho bố đấy, khi bố về già”. Thế là ông già lại ngồi vào bàn ăn cùng cả nhà. Trước lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, các thành viên còn hoạt động trong tập thể sáng tạo nên những sự thỏa hiệp. Tình trạng cấp bách của nhu cầu buộc một số người nguyên thủy giết chết bố mẹ, dù về sau, có phải chịu một số phận như thế. Trong những trường hợp ít căng thẳng hơn, sự phòng xa và tình cảm gia đình chế ngự tính ích kỷ. Trong thế giới tư bản, lợi ích dài hơn không còn tác dụng: những kẻ có đặc quyền và quyết định số phận của đám đông không sợ phải nếm trải số phận ấy. Còn những tình cảm nhân văn chủ nghĩa thì không bao giờ can thiệp tới, mặc dù những lời huyênh hoang dối trá. Cơ sở của nền kinh tế là lợi nhuận; trên thực tiễn, toàn bộ nền văn minh phụ thuộc vào nó: người ta chỉ quan tâm tới tập thể người trong một doanh nghiệp trong chừng mực tập thể ấy có lợi. Sau đó, họ bị vứt bỏ. Tại một hội nghị gần đây, tiến sĩ Leach, nhà nhân chủng học ở Cambritgiơ tuyên bố: “Trong một thế giới đang chuyển động, trong đó máy móc có những cuộc đời rất ngắn ngủi, con người không nên phục vụ quá lâu. Tất cả những gì vượt qua 55 năm tuổi đều phải loại bỏ”[6]. Cái từ “đồ bỏ đi” nói đúng điều nó muốn nói. Người ta kể lể với chúng ta rằng nghỉ hưu là thời gian của tự do và giải trí; có những nhà thơ ca ngợi “lạc thú nghỉ ngơi”. Đó là những lời dối trá vô liêm sỉ. Xã hội áp đặt cho số đông người già mức sống khốn khổ tới mức từ ngữ “già nua và đói nghèo” trở thành hầu như một từ thừa (pléonasme); ngược lại, số đông người bần cùng là người già. Nhàn rỗi không mở ra cho người nghỉ hưu những khả năng mới; vào lúc cá nhân, đến phút cuối cùng, được giải thoát khỏi những sự ràng buộc, người ta tước đoạt của họ mọi phương tiện sử dụng quyền tự do. Họ buộc phải sống lay lắt trong cô đơn và phiền muộn, như một vật phế thải không hơn không kém. Khi trong mười lăm hay hai mươi năm cuối đời, một con người chỉ còn là một vật chẳng ai đoái hoài, thì đó là sự thất bại của nền văn minh chúng ta: sự thật hiển nhiên ấy khiến chúng ta nghẹn ngào nếu chúng ta coi người già là những con người từng có một cuộc sống con người phía sau họ, chứ không phải là những xác chết dật dờ. Những ai tố cáo cái chế độ đọa đày vốn là chế độ chúng ta, phải đưa điều điếm nhục ấy ra ánh sáng. Chính bằng cách tập trung nỗ lực của mình vào thân phận những người xấu số nhất, người ta có thể làm lay chuyển một xã hội. Để phá hủy hệ thống đẳng cấp, Gandhi tìm cách giải quyết thân phận tầng lớp Tiện dân (parias); nhằm tiêu hủy gia đình phong kiến, nước Trung Hoa cộng sản giải phóng phụ nữ. Đòi hỏi con người cứ phải là con người ở lứa tuổi cuối cùng của họ bao hàm một sự đảo lộn triệt dể. Không thể thu được kết quả ấy với một vài cải cách hạn hẹp không đụng chạm tới hệ thống: chính nạn bóc lột người lao động, chính quá trình phân hủy xã hội và sự khốn cùng của một nền văn hóa chỉ dành riêng cho tầng lớp quan lại, dẫn tới những cảnh già nua phi-nhân văn ấy. Chúng chỉ ra rằng cần làm lại tất cả, từ đầu. Chính vì vậy, vấn đề này bị nhấn chìm trong im lặng hết sức kỹ lưỡng; và chính vì vậy, cần phá tan sự im lặng ấy: tôi mong đợi độc giả giúp đỡ tôi trong công việc này.   Mời các bạn đón đọc Tuổi Già Tập 1 của tác giả Simone de Beauvoir.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bạn Có Thể Đàm Phán Bất Cứ Điều Gì
Thế giới là một bàn đàm phán khổng lồ, và muốn hay không, bạn là một người tham dự. Bạn, với tư cách một cá nhân, sẽ có lúc mâu thuẩn với người khác: các thành viên trong gia đình, nhân viên bán hàng, đối thủ cạnh tranh, hoặc các thực thể với những cái tên đầy oai vệ như “Giới quyền uy” hoặc “cơ cấu quyền lực”. Cách bạn xử lý những mâu thuẫn này có thể quyết định không chỉ sự phát đạt của bạn, mà cả việc bạn có thể có được một cuộc sống đầy đủ, thú vị và thoải mái hay không. Đàm phán là một lĩnh vực kiến thức và sự nỗ lực chú trọng vào việc làm hài lòng những người mà bạn muốn nhận từ họ (một hoặc nhiều) thứ gì đó. Chỉ đơn giản như vậy. Hầu như tất cả mọi thứ đều có thể thoả thuận được, nhưng làm thế nào để bước ra từ mỗi cuộc đàm phán trong tư thế của người đạt được mục tiêu? Herb Cohen là một nhà đàm phán chuyên nghiệp trong hơn 40 năm, là cố vấn cho các tổng thống Jimmy Carter, Ronald Reagan về chống khủng bố, và là cố vấn cho các thương gia, tập đoàn và cơ quan chính phủ hàng đầu. Hoa kỳ như Bộ Ngoại giao, FIB, CIA, Bộ tư Pháp, Nhà Trắng…. Ngoài ra, ông còn tham gia giảng dạy tại các trường đại học hàng đầu Hoa Kỳ như Đại học Harvard, Đại học Michigan, viện Brookings, Học viện FBI. Trong cuốn sách “Bạn có thể đám phám bất cứ điều gì”, Herb Cohen chia sẻ với chúng ta kinh nghiệm của 40 năm tham gia và kết thúc thành công hàng nghìn cuộc đàm phán lớn nhỏ. Cuốn sách không chỉ trình bày những yếu tố căn bản trong đàm phán và các kiểu đàm phán chủ yếu, mà còn đưa ra những ví dụ minh hoạ thú vị và thiết thực cho những hoàn cảnh khác nhau, đề xuất những giải pháp xử lý mềm dẻo, tế nhị nhưng hiệu quả mỗi tình huống hay xung đột, dù là trong gia đình (Khi trẻ con khóc đòi quà…),trong cuộc sống hàng ngày (Khi vợ bạn im lặng.....) trong công việc (Khi xin tăng lương….) hay môi trường kinh doanh (Khi khai thuế lợi tức, khi mua đất…) Vì thế, Bạn có thể đàm phán bất cứ điều gì đã trở thành một trong những cuốn sách bán chạy nhất tại Mỹ hơn 9 tháng liền, và đã được dịch ra trên 20 thứ tiếng. *** Tại sao chúng tôi chọn dịch cuốn sách này?   Để mở đầu lời giới thiệu cuốn sách này, tôi xin kể một chuyện riêng. Tôi vốn không khéo ăn nói. Năm năm trước, khi nhìn thấy cuốn sách How to Talk to Anyone, Anytime, Anywhere (Làm thế nào để nói chuyện với mọi người, mọi lúc, mọi nơi) của Larry King (người dẫn chương trình kỳ cựu nhất trong lịch sử truyền hình Mỹ), tôi tò mò mua ngay. Trong sách, Larry King nhắc đến Herb Cohen và cuốn You Can Negotiate Anything (Bạn có thể đàm phán bất cứ điều gì) của ông với rất nhiều tình cảm và sự kính trọng. Đó là lý do tôi mua cuốn sách. Sau năm năm, tôi hầu như đã quên những gì Larry King viết, và cũng không biết cuốn sách của ông đang nằm đâu trong nhà. Nhưng cuốn sách của Herb Cohen luôn nằm trên giá sách cạnh giường, và nó là một trong vài cuốn sách có ảnh hưởng lớn đến cuộc đời tôi. Herb Cohen là một nhà đàm phán chuyên nghiệp trong hơn bốn mươi năm, cố vấn cho Tổng thống Mỹ Jimmy Carter, Ronald Reagan về chống khủng bố, và là cố vấn cho các thương gia, tập đoàn và cơ quan chính phủ hàng đầu Hoa Kỳ như Bộ Ngoại giao, FBI, CIA, Bộ Tư pháp, Nhà Trắng... Ông từng tham gia hoạch định chính sách của Hoa Kỳ trong cuộc khủng hoảng con tin Iran (1979-1981), vụ cướp máy bay TWA 847 (1985), cuộc khủng hoảng vùng Vịnh (1990), vụ bắt con tin tại sứ quán Nhật Bản ở Peru (1996), trong các cuộc đàm phán hoà bình cho Trung Đông tại trại David, cũng như trong các cuộc đàm phán giải trừ vũ khí chiến lược (START) với Liên Xô. Ngoài ra, ông còn tham gia giảng dạy tại các trường đại học hàng đầu Hoa Kỳ như Đại học Harvard, Đại học Michigan, Viện Brookings, Học viện FBI. Trong cuốn sách này. Herb Cohen bắt đầu bằng việc chỉ ra rằng hầu như tất cả mọi thứ đều có thể được đàm phán, tiếp đến phân tích những yếu tố căn bản trong đàm phán và các kiểu đám phán chủ yếu, sau đó kết thức bằng việc trình bày kỹ thuật cho các tình huống cụ thể. Cuốn sách không chỉ cung cấp một cái nhìn tổng quát và các nguyên tác cơ bản về đàm phán mà còn đưa ra các ví dụ minh họa chi tiết: trong gia đình (khi trẻ con khóc đòi quà...), trong cuộc sống hàng ngày (khi vợ bạn im lặng..,), trong công việc (khi xin tăng lương...), trong kinh doanh (khi khai thuế lợi tức, khi mua đất...). Vì thế, Bạn có thể đàm phán bất cứ điều gì đã trở thành một trong những cuốn sách bán chạy nhất tại Mỹ hơn 9 tháng liền, và đã được dịch ra trên 20 thứ tiếng. Ý định dịch cuốn sách đã manh nha khi tôi biết về các thất bại liên tục của doanh nghiệp Việt Nam trong giao dịch quốc tế. Nhưng, vốn tin rằng đọc sách bản gốc luôn tốt hơn bản dịch và cũng tin rằng đa số doanh nhân Việt hiện nay đều thông thạo tiếng Anh, tôi đã xếp ý định này lại. Tuy nhiên, vài năm gần đây, chứng kiến nhiều doanh nghiệp trong nước “bắt nạt” khách hàng và bạn hàng, tôi đã quyết định bắt tay vào dịch cuốn sách. Hy vọng nó sẽ giúp ích cho bạn không chỉ trong kinh doanh, trong công việc mà trong cả cách nhìn về cuộc sống. Tôi xin chân thành cảm ơn Đỗ Quốc Anh và anh Nguyễn Cảnh Bình (Công ty Sách Alpha) đã nhiệt tình ủng hộ ý tường này, GS. Đỗ Quốc Sam (nguyên Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư) đã dành thời gian đọc một phần bản thảo đầu tiên và có nhiều góp ý quý báu, Bản dịch cũng sẽ không thể hoàn thành nếu không có sự giúp đỡ của Minh Khôi, người đã dịch 5 chương cuối, sự kiên nhẫn và chuyên nghiệp của tập thể Công ty Sách Alpha trong việc xin bản quyền, trong quá trình biên tập và xuất bản, tôi xin chân thành cảm ơn. Cuốn sách được một cố vấn an ninh cho tổng thống Mỹ, trong bối cảnh căng thẳng của chiến tranh lạnh lần thứ hai (những năm 1980, sau khi Reagan trúng cử tổng thống, bắt đầu lắp đặt hệ thống tên lửa tại châu Âu và đưa ra kế hoạch Chiến tranh giữa các vì sao). Do đó, đôi khi những quan điểm và ví dụ của Cohen về Liên Xô, về Hồi giáo không khỏi mang mầu sắc cực đoan và châm biếm. Đó là điều độc giả cần lưu ý. Trong nguyên bản, Herb Cohen không dùng bất cứ một chú thích nào. Tuy nhiên, do sự khác biệt lớn về văn hóa, chính trị và thời gian, chúng tôi, những người dịch, đã mạn phép chú thích một số thuật ngữ, ví dụ để giúp các bạn hiểu rõ hơn và không mất thời gian tra cứu. Đồng thời, trong khi vẫn giữ nguyên thông điệp của tác giả, ban biên tập cùng xin mạn phép chỉnh sửa những từ ngữ và câu văn rườm rà, để mang lại cho độc giả một bản dịch thuần Việt và dễ hiểu hơn. Do thời gian và kiến thức có hạn, cuốn sách sẽ không khỏi có những sai sót, chúng tôi xin độc giả lượng thứ và hy vọng nhận được những ý kiến đóng góp cho các lần tái bản. Nguyễn Vũ Thành Singapore, 25/4/2008. Mời các bạn đón đọc Bạn Có Thể Đàm Phán Bất Cứ Điều Gì của tác giả Herb Cohen.
Tư Duy Vượt Giới Hạn
Bạn đã bao giờ suy nghĩ vượt qua giới hạn của bản thân và đạt được kết quả đặc biệt? Bạn có thường tự đặt ra một cái bẫy giam cầm chính mình với niềm tin rằng mình đang làm tốt nhất có thể, và đạt được kết quả tốt nhất có thể? Cuốn sách “Tư duy vượt giới hạn” của Andy Andrews sẽ giúp bạn có được câu trả lời thấu đáo! Trong cuốn sách tác giả đã đề cập đến những người “chỉ đơn giản là không muốn suy nghĩ nhiều” và tuyên bố rằng chúng ta phải tận hưởng những lợi ích của khoảng thời gian dành cho việc suy nghĩ, cân nhắc, động não, hay tưởng tượng. Khi đó bạn sẽ khai thác được sức mạnh của sự tưởng tượng mà mình có để khám phá đáy bể bơi. Cuốn sách không chỉ có mục đích giải trí, nó còn bồi dưỡng kiến thức và giúp độc giả mở rộng trái tim về một điều gì đó lớn lao hơn nhiều. Nó chỉ ra sức mạnh của sự sự khôn ngoan đôi khi gần hơn chúng ta nghĩ, nhưng nó thường bị cài cắm trong những nền tảng tạo thành nguyên tắc. Nó chìm sâu, chỉ được nhận ra một cách có chủ ý, và hàm chứa khả năng thay đổi thế giới nếu được trao cơ hội. Thực tế của nó tồn tại vượt lên trên tất cả những gì chúng ta vẫn đơn thuần cho là chính xác. Và đó chính là chân lý. Tác giả có cách kể chuyện hấp dẫn, như một cuộc đối thoại mạnh mẽ, chứa đựng những câu chuyện và sự kiện thú vị, hướng dẫn và truyền cảm hứng cho người đọc hành động. Tác giả đã chia sẻ triết lí độc đáo về tư duy vượt ra ngoài ranh giới được thiết lập theo tiêu chuẩn có sẵn, giúp bạn khám phá con đường dẫn đến kết quả phi thường mà thậm chí bạn không biết điều đó là có thể. *** GIỚI THIỆU TÁC GIẢ Đ ược giới phóng viên của tờ New York Times ca ngợi là “người đã âm thầm trở thành một trong những người có tầm ảnh hưởng lớn nhất nước Mỹ,” Andy Andrews là một tiểu thuyết gia, diễn giả, nhà tư vấn cho một số đội nhóm thành công nhất, một số doanh nghiệp lớn nhất, và một số tổ chức phát triển mạnh nhất trên thế giới. Những thính giả tại gần một trăm quốc gia đã theo dõi podcast1 hằng tuần của ông. Tờ The Professional Noticer, trên trang web AndyAndrewcom/podcast và các trang web khác đều cung cấp các ấn phẩm định kỳ cho podcast. 1 Một podcast hoặc nói chung là netcast, là một series các tập tin âm thanh hoặc video số mà người dùng có thể tải về và nghe. Thường thì các podcast được phân phối theo dạng đăng ký, để các tập mới được tự động tải xuống thông qua web tới máy tính, ứng dụng di động hoặc máy phát phương tiện di động của người dùng. Andy cũng là nhà kiến tạo trang web WisdomHarbour.com – một cổng thông tin nhanh chóng trở thành một trong số các trang web được chia sẻ nhiều nhất trong thập kỷ. Ông đã tham gia với vai trò diễn giả theo yêu cầu của các thủ tưởng Mỹ và làm việc chặt chẽ với Bộ Chỉ huy đặc biệt của Hoa Kỳ. Zig Ziglar nói, “Andy Andrew là một nhà diễn thuyết xuất sắc nhất mà tôi từng gặp.” Andy là tác giả của các tác phẩm bán chạy trên tờ New York Times như The Noticer, How Do You Kill 11 Million People?, và tác phẩm hiện đại kinh điển The Traveller’s Gift – với hàng triệu bản được bán ra trên khắp thế giới. Ông sống ở vùng Orange Beach, Alabama, cùng vợ, Polly và hai cậu con trai. *** LỜI KHEN DÀNH CHO CUỐN SÁCH "N ăm đầu tiên hợp tác với Andy Andrews, doanh thu của Fairway đã tăng gấp đôi, từ 5,4 tỷ đô la lên 11,2 tỷ đô la. Năm thứ hai hợp tác với Andy, doanh thu của chúng tôi cán mốc 17 tỷ đô la, và năm thứ ba doanh thu của chúng tôi đạt hơn 22 tỷ đô la.” - STEVE JACOBSON, Nhà sáng lập kiêm Giám đốc điều hành Công ty thế chấp tư nhân Fairway “Tôi vẫn nhớ cái ngày Andy Andrews nói ông ấy có thể dạy chúng tôi cách cạnh tranh ở một tầm cỡ mà đối thủ của chúng tôi không hề hay biết rằng có một cuộc cạnh tranh đang diễn ra. Kể từ thời điểm đó, năm đầu tiên chúng tôi hợp tác với nhau là 2012, Andy đã dành thời gian để chỉnh đốn đội ngũ của chúng tôi. Không có gì phải nghi ngờ, trong năm đầu tiên đó chúng tôi đã bất ngờ trở thành nhà môi giới thương mại số một tại khu vực trung tâm Florida một cách đầy ngoạn mục. Điều hiển nhiên là chúng tôi vẫn tiếp tục hợp tác với Andy, cùng tài liệu về nguyên tắc “đáy bể” của ông ấy. Nhờ có sự tư vấn của ông, chúng tôi nhanh chóng vượt mốc doanh thu 100 tỷ đô la và đã quyên tặng cho Hiệp hội môi giới bất động sản, đạt các kỷ lục thương mại trong ba năm qua. Năm nay sản lượng sản xuất của chúng tôi cao hơn so với đối thủ cạnh tranh theo sau 338%. Điều này hoàn toàn nghiêm túc đấy.” - TODD RAINSBERGER, Nhà môi giới kiêm Chủ sở hữu bất động sản thương mại ngân hàng Coldwell “Khi đã nghỉ hưu và rời khỏi vị trí Chủ tịch kiêm giám đốc điều hành của công ty, hiện tại tôi có thể tiết lộ rằng thực tế tôi đã thương lượng một hợp đồng độc quyền với Andy Andrews. Trong suốt năm năm, chúng tôi trở thành doanh nghiệp duy nhất trong lĩnh vực chúng tôi hoạt động được học giáo trình hiện nằm trong cuốn sách này. Khoảng thời gian năm năm này, Andy Andrews không chỉ đóng vai trò là nguồn ảnh hưởng bên ngoài liên tục làm việc với các chuyên gia trong lĩnh vực bán hàng của chúng tôi, mà ông ấy còn là cố vấn cho bộ phận quản trị. Trong suốt thời gian này, doanh thu hằng năm của chúng tôi từ mức dưới 100 triệu đô la đã tăng lên gấp mười lần. Khi Andy lần đầu tiên diễn thuyết với chúng tôi, tôi đã yêu cầu ông ấy phải đứng trước tám trăm khán giả. Năm năm sau đó chúng tôi đã phát triển tới điểm mà sự kiện tương tự đã phải tổ chức tại Sân vận động Cowboy. - RICHARD WRIGHT, Cựu Chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành Công ty Advocare International “Tôi lấy làm ngạc nhiên khi tài liệu trong Tư duy vượt giới hạn giờ đây đã được xuất bản tới công chúng. Fearless Mom đã coi thông tin và cách nhìn nhận của Andy là một phần nội dung trọng tâm của bài học. Chỉ trong một năm, số lượng người theo dõi của chúng tôi đã tăng lên 233%, và chúng tôi hiện đang tiếp cận các bà mẹ ở hơn ba mươi quốc gia. Cuốn sách này sẽ cung cấp định hướng cho bạn, nó đóng vai trò giống như một bậc phụ huynh và giúp bạn tìm ra lời giải đáp cho các vấn đề liên quan đến cuộc sống cá nhân và công việc của mình.” - JULIE RICHARD, Nhà sáng lập Công ty Fearless Mom   “Chúng ta tin tưởng rằng Andy Andrews sẽ mang đến cho chúng ta những dòng chữ truyền cảm hứng, sự hướng dẫn đầy tính thực tế và những lời khuyên khôn ngoan. Cuốn sách này hứa hẹn mang lại những điều tương tự tới tất cả những ai có được may mắn đọc nội dung của nó.” - MAX LUCADO, Cố vấn và Tác giả của các đầu sách bán chạy trên tạp chí New York Times “Cuốn sách này sẽ không thể nào đáng giá hơn, trừ phi nội dung của nó được in trên giấy bằng vàng. Cách đây ba năm, việc kinh doanh của tôi đã giậm chân tại chỗ, và khi đó tôi đã không thể xác định được cách để lấy lại đà tăng trưởng. Do đó, tôi tìm đến Andy Andrews và những nguyên tắc của ông từ cuốnTư duy vượt giới hạn. Từ khi áp dụng các nguyên tắc này vào thực tiễn, công việc kinh doanh của tôi đã tăng hơn 500%. Ngoài ra, có một nội dung giáo dục đặc biệt trong cuốn sách này trực tiếp mang lại doanh thu hơn 700.000 đô la.” - TIFFANI KING, Tác giả kiêm chủ sở hữu Dùng bữa tại gia và Các kế hoạch cho bữa ăn tại nhà, Eat at Home Tonight (tạm dịch: Hôm nay hãy ăn tối ở nhà) “Andy Andrews là người kể chuyện tài ba nhất nước Mỹ kể từ thời Mark Twain. Có ai ngờ được tiếng cười và nhận thức sâu sắc lại có thể kết hợp tuyệt vời đến thế?” - MARK LOWRY, Nghệ sĩ kiêm Tác giả của bài hát Giáng sinh kinh điển có tên Mary, Did You Know? “Tôi viết những dòng này vào cuối tháng 1 năm 2019. Vâng, tôi đã được cấp quyền truy cập trước tài liệu nằm trong cuốn Tư duy vượt giới hạn, và công việc kinh doanh của tôi đã và đang áp dụng các biện pháp được đề cập trong cuốn sách này. Điều đáng ngạc nhiên là lần này kết quả kinh doanh năm 2019 của chúng tôi đã tăng 51%. Nếu năm nay bạn dự định đọc một cuốn sách nào đó, thì hãy lựa chọn cuốn này. Tư duy vượt giới hạn sẽ chứng minh cho bạn thấy những điều mà chưa từng cuốn sách nào làm được.” - JOE PICI, Chủ tịch kiêm giám đốc điều hành công ty Pici & Pici, nằm trong danh sách 30 nhà bán hàng giỏi nhất thế giới của Global Gurus “Với sự ra đời của cuốn sách Tư duy vượt giới hạn, tôi tin rằng Andy Andrews là một con người hoàn toàn khác biệt. Cho dù bạn đang tìm kiếm sự đột phá cho các vấn đề cá nhân hay cho công việc, thì cuốn sách này sẽ vẫn phù hợp với bạn. Những điều bạn được nghe là hoàn toàn chân thực: Andy Andrews sản sinh ra những kết quả rất bất ngờ.” - DAVE RAMSEY, người dẫn chương trình trên sóng phát thanh, đồng thời là tác giả của các cuốn sách bán chạy, The Total Money Makeover *** 1TRÒ CHƠI K hi tôi còn là một đứa trẻ, bố mẹ tôi cho tôi đi bơi suốt mùa hè. Đây hẳn là một phương pháp trông trẻ tuyệt vời vì hầu hết các bậc cha mẹ đều làm như vậy. Ngày qua ngày, suốt một mùa hè dài, chúng tôi dường như không bao giờ cảm thấy chán khi “ở bể bơi”. “Ngày hôm qua bạn đã ở đâu?” “Ở bể bơi.” Chúng tôi chơi Macro Polo1, cưỡi ngựa, đánh bóng trên mặt nước, xoáy nước nguyên tử2, đẩy dưa hấu3 và blue rover – giống như red rover4 ngoại trừ nó được chơi trên mặt nước. Trước đây, tất nhiên tất cả các bể bơi được khử trùng với một lượng lớn clo. Vào giữa tháng Bảy, nếu một cậu bé tóc vàng hoe không có đốm màu xanh lá mạ trên tóc, thì ai cũng cho rằng cậu bé ấy đã không dành nhiều thời gian ở bể bơi. 1 Marco Polo là một hình thức chơi bài của Mỹ trong bể bơi. 2 Tất cả người chơi bước vào bể bơi và đứng thành một hàng dọc theo mép bể, sao cho khoảng cách giữa hai người là rất nhỏ. Sau đó cả hàng đi bộ trong vài phút, chạy bộ thêm vài phút, rồi chạy quanh mép bể bơi vài phút nữa. Nếu làm đúng cách, dòng nước sẽ cuốn người chơi đi vòng quanh bể bơi. Cuối cùng, yêu cầu họ quay lại và đi theo chiều ngược lại. Gần như là không thể đi ngược chiều dòng nước. 3 Đầu tiên, người chơi chia thành hai đội có số lượng người bằng nhau và chia bể bơi hành hai phần bằng nhau. Mỗi đội di chuyển về một bên. Sau đó ném dưa hấu vào bể bơi (nó sẽ nổi). Trò chơi về cơ bản giống như bóng đá, nhưng là ở môi trường nước và với một quả dưa hấu thay cho bóng đá. 4 Chia người chơi thành hai đội. Mỗi đội đứng thành một hàng và nắm tay nhau. Hai đội đứng đối diện với nhau, cách nhau khoảng 30 đến 50 bước. Chọn một đội đi trước. Đội đó bí mật chọn một người chơi từ đội kia để gọi với sang. Khi đã quyết định xong, đội đi trước gọi RED ROVER, RED ROVER, GỌI (điền tên người chơi đã chọn) BƯỚC SANG! Người chơi được chọn sẽ chạy về phía đội đối phương và cố gắng vượt qua nắm tay của 2 người chơi trong hàng. Nếu một người chơi có thể vượt qua hàng đó, người ấy sẽ quay lại đội của mình. Nếu không thể vượt qua, người ấy ở lại với đội đối phương. Các đội thay phiên nhau gọi người chơi qua. Trò chơi kết thúc khi một đội chỉ còn một người chơi. Một sự việc đã diễn ra vào giữa tháng Bảy. Chúng tôi dần cảm thấy chán với hầu hết những trò mà chúng tôi đã làm và bắt đầu sáng tạo ra các trò chơi của chính mình. Chúng tôi tổ chức cuộc thi có tên gọi là “cá heo”. Vào thời điểm đó, mọi người đều rất yêu thích chương trình Flipper1 trên truyền hình, mà chương trình đó nói về một chú cá heo tham gia vào hết chuyến phiêu lưu này đến chuyến phiêu lưu khác. (Hãy nghĩ về Lassie trong bộ đồ ướt sũng). Các ngôi sao là con người trong buổi biểu diễn là Bud, Sandy và những cậu con trai của một kiểm lâm viên trong công viên Quốc gia Coral Key. 1 Flipper là một chương trình truyền hình Mỹ phát sóng lần đầu tiên trên NBC từ ngày 19 tháng 9 năm 1964, cho đến ngày 15 tháng 4 năm 1967. Flipper, một con cá heo mũi chai, là thú cưng của Porter Ricks, Cảnh sát trưởng tại Coral Key Park và Marine Preserve (phiên bản hư cấu của John Pennekamp Coral Reef State Park ở Key Largo, Florida) và hai cậu con trai nhỏ Sandy và Bud. Chương trình được mệnh danh là “Lassie dưới nước” và một lượng đáng kể đồ chơi trẻ em lấy cảm hứng từ chương trình đã được sản xuất trong lần phát sóng đầu tiên. Chẳng có ai ở lứa tuổi chúng tôi không xem chương trình đó cả, và tất cả chúng tôi đều ngạc nhiên trước cảnh Flipper có thể vọt thẳng lên khỏi mặt nước và “đi bộ” bằng cái đuôi của nó. Và đó là trò chơi của chúng tôi. Mời các bạn đón đọc Tư Duy Vượt Giới Hạn của tác giả Andy Andrews.
Rèn Luyện Tư Duy Phản Biện
Như bạn có thể thấy, chìa khóa để trở thành một người có tư duy phản biện tốt chính là sự tự nhận thức. Bạn cần phải đánh giá trung thực những điều trước đây bạn nghĩ là đúng, cũng như quá trình suy nghĩ đã dẫn bạn tới những kết luận đó. Nếu bạn không có những lý lẽ hợp lý, hoặc nếu suy nghĩ của bạn bị ảnh hưởng bởi những kinh nghiệm và cảm xúc, thì lúc đó hãy cân nhắc sử dụng tư duy phản biện! Bạn cần phải nhận ra được rằng con người, kể từ khi sinh ra, rất giỏi việc đưa ra những lý do lý giải cho những suy nghĩ khiếm khuyết của mình. Nếu bạn đang có những kết luận sai lệch này thì có một sự thật là những đức tin của bạn thường mâu thuẫn với nhau và đó thường là kết quả của thiên kiến xác nhận, nhưng nếu bạn biết điều này, thì bạn đã tiến gần hơn tới sự thật rồi! Những người tư duy phản biện cũng biết rằng họ cần thu thập những ý tưởng và đức tin của mọi người. Tư duy phản biện không thể tự nhiên mà có. Những người khác có thể đưa ra những góc nhìn khác mà bạn có thể chưa bao giờ nghĩ tới, và họ có thể chỉ ra những lỗ hổng trong logic của bạn mà bạn đã hoàn toàn bỏ qua. Bạn không cần phải hoàn toàn đồng ý với ý kiến của những người khác, bởi vì điều này cũng có thể dẫn tới những vấn đề liên quan đến thiên kiến, nhưng một cuộc thảo luận phản biện là một bài tập tư duy cực kỳ hiệu quả. Việc lắng nghe những ý kiến của người khác cũng có thể giúp bạn nhận ra rằng phạm vi tri thức của bạn không phải là vô hạn. Không ai có thể biết hết tất cả mọi thứ. Nhưng với việc chia sẻ và đánh giá phê bình kiến thức, chúng ta có thể mở rộng tâm trí. Nếu điều này khiến bạn cảm thấy không thoải mái, không sao cả. Trên thực tế, bước ra ngoài vùng an toàn là một điều quan trọng để mở rộng niềm tin và suy nghĩ của bạn. Tư duy phản biện không phải là chỉ biết vài thứ, và chắc chắn không phải việc xác nhận những điều bạn đã biết. Thay vào đó, nó xoay quanh việc tìm kiếm sự thật – và biến chúng trở thành thứ bạn biết. *** LỜI MỞ ĐẦU Suy nghĩ là việc chúng ta làm hằng ngày và thường là trong vô thức. Khi bạn làm bữa sáng, đánh răng hay lái xe đến chỗ làm, bạn cũng đang suy nghĩ. Nhưng đã bao giờ bạn nghĩ về quá trình suy nghĩ, cách mà bạn đưa ra quyết định sẽ ăn gì vào bữa trưa hoặc khi nào thì dậy đi làm chưa? Nghĩ về quá trình suy nghĩ được gọi là siêu nhận thức (metacognition). Nhận thức được cách hình thành những suy nghĩ là bước đầu tiên trong việc phát triển các kỹ năng tư duy phản biện. Tư duy phản biện là một phương pháp bạn có thể dùng để xem xét cẩn thận những suy nghĩ và niềm tin của bạn, và từ đó có khả năng tương tác với ý tưởng của những người khác một cách cẩn thận. Điều này sẽ khiến những cuộc hội thoại hằng ngày và những quyết định của bạn dễ dàng hơn và được cân nhắc cẩn thận hơn, đồng thời giúp bạn giải quyết những vấn đề phức tạp hơn. Những người tư duy tốt nhất thế giới dùng những chiến thuật tư duy phản biện để giải quyết những vấn đề lớn như tìm cách lên Sao Hỏa, biến đổi khí hậu và xóa bỏ vũ khí hạt nhân. Những thứ này có thể quá vĩ mô đối với bạn, nhưng nếu bạn nghĩ về câu hỏi ẩn sau chúng, tự nhiên chúng sẽ trở nên dễ giải quyết hơn. Điều gì gây nên biến đổi khí hậu? Ai sẽ chịu trách nhiệm đối với hậu quả? Làm thế nào để thay đổi họ? Quá trình thay đổi họ sẽ như thế nào? Điều gì khiến quy trình đó trở nên hiệu quả? Bắt đầu suy nghĩ về những câu hỏi này chính là cách những người thông minh nhất làm việc. Bạn cũng có thể áp dụng cách tư duy này cho những vấn đề nhỏ hơn, ví dụ như nếu bạn muốn bắt đầu tập thể dục, bạn sẽ bắt đầu từ đâu? Bài tập nào sẽ phù hợp với bạn? Để giải quyết vấn đề này, bạn có thể chia nhỏ vấn đề: Bạn muốn khỏe mạnh hơn hay muốn chạy nhanh hơn? Bạn đang tìm kiếm lợi ích sức khỏe nào? Một bài tập thể dục nọ có thực sự tốt như bạn nghĩ? Làm thế nào để nhận biết bài tập đó có hiệu quả với bạn hay không? May mắn là, chúng ta có thể tiếp cận được nhiều thông tin hơn bao giờ hết nhờ có Internet, nhưng vấn đề là những thông tin đó không phải lúc nào cũng chính xác hoặc có giá trị đối với vấn đề của bạn. Tư duy phản biện sẽ giúp bạn lọc những thông tin này và dùng chúng hiệu quả nhất có thể. Bộ não là một cơ quan tuyệt vời. Nó không chỉ nảy sinh ra những suy nghĩ, mà còn có thể nghĩ về cách nó nảy sinh những suy nghĩ đó. Bộ não có thể nghĩ về quá khứ, tưởng tượng về tương lai và tưởng tượng những điều chưa bao giờ xảy ra. Nhưng bộ não cũng có thể đánh lừa chúng ta. Chúng ta đều có những định kiến mà bản thân không nhận thức được, dựa trên những kinh nghiệm và kiến thức của chúng ta, thứ sẽ ảnh hưởng đến cách chúng ta nghĩ và nó có thể đánh lừa đánh giá của chúng ta. Những cảm xúc và “bản năng” có xu hướng đưa chúng ta tới những kết luận không phải lúc nào cũng đúng. Thay vào đó, chúng thường là những quyết định dễ dàng nhất, những quyết định chúng ta cảm thấy thoải mái dựa trên những định kiến cá nhân, bởi đây là một chiến lược sinh tồn tốt với những người nguyên thủy. Họ sống trong một thế giới mà bản năng là rất có ích, nhưng thế giới hiện đại ngày nay lại phức tạp hơn rất nhiều. Việc xem xét kỹ lưỡng những quan điểm và suy nghĩ của chúng ta, vì lợi ích của chính chúng ta và của cả nhân loại đã ngày càng trở nên tối quan trọng. Bạn có thể nghĩ về tư duy phản biện như là một bộ chiến lược để dẫn đường giúp bạn tránh xa khỏi các quyết định thiên vị, cảm tính và hướng đến sự cân nhắc lý trí cho những hành động và đức tin của mình. Điều này sẽ giúp chúng ta trở thành những người suy nghĩ độc lập, có thể tự đưa ra lựa chọn một cách thấu đáo. Những kỹ năng mà một người tư duy phản biện cần phát triển bao gồm việc hiểu được những logic đằng sau những ý niệm và học thuyết, có thể phân tích và công thức hóa những lập luận, có thể xây dựng những giải pháp từng bước, xác định tính hợp lệ của những ý tưởng và có thể xem xét những lý do đằng sau đức tin của chính bạn. Bạn có thể đã nhận ra rằng tư duy phản biện không có nghĩa là chỉ biết nhiều kiến thức. Đó là một quá trình rất khác so với việc chỉ ghi nhớ hay tiếp nhận thông tin; giỏi ghi nhớ không khiến bạn trở thành một người có tư duy phản biện tốt! Những người có tư duy phản biện tập trung hơn vào cách họ biết hơn là cái họ biết. Điều này có nghĩa là họ có thể sử dụng thứ họ biết để dự đoán hậu quả của chuỗi hành động, giải quyết các vấn đề và quyết định sẽ dùng thông tin nào khi họ muốn học một thứ mới.1 Tư duy phản biện không có nghĩa là “phê phán gay gắt”. Thực tế thì, tư duy phản biện chủ yếu là việc giữ được một cuộc tranh luận hợp lý, bình tĩnh và trí thức. Tư duy phản biện sẽ cho phép bạn phân tích những lập luận của mọi người và cho họ thấy cái sai của họ, mà không cần phải lăng mạ hay sỉ nhục người khác. Điều này sẽ giúp chúng ta làm việc dễ dàng hơn với những người không có cùng quan điểm. Tư duy phản biện là một chiến lược tốt để sử dụng trong các dự án nhóm hoặc những việc cần sự hợp tác, chính xác là vì nó tạo ra một môi trường lý tưởng cho việc tương tác về mặt trí thức. Quá trình tư duy trí tuệ này không nhất thiết phải cực kỳ sáng tạo. Mặc dù chúng ta thường nghĩ logic là một thứ đối lập hoàn toàn so với sự sáng tạo, bản chất của tư duy phản biện chính là làm thế nào để dùng những tư duy logic để kích thích sự sáng tạo. Sự xem xét một cách logic tất cả các ý tưởng có nghĩa là bạn nhận ra rằng ý tưởng kém phổ biến hơn lại chính là ý tưởng hợp lý nhất, hoặc rằng có một giải pháp tốt hơn cho vấn đề bạn đang cân nhắc. Sử dụng những kỹ năng tư duy phản biện có thể mở ra cho bạn cả một chân trời mà bạn chưa bao giờ nghĩ tới. Chúng ta sinh ra không có sẵn những kỹ năng tư duy phản biện. Thay vào đó, chúng ta phải học hỏi và luyện tập thì mới có thể sử dụng tốt những kỹ năng đó. Tin tốt là, ai cũng có thể học cách tư duy phản biện! Như tất cả các quá trình tự cải thiện bản thân, học cách tư duy phản biện bắt đầu với việc nhận ra những thứ bạn cần cải thiện. Điều này có nghĩa là nhận ra được những lỗi sai trong chính cách suy nghĩ của bạn. Những lỗi sai đó cũng có đến vài loại. Thứ đầu tiên mà bạn phải nghĩ đến là những ngụy biện logic, hay chính là lỗi sai bạn tạo ra trong quá trình hợp lý hóa suy nghĩ. Bạn cũng phải kiểm tra những lầm tưởng trước đó của bạn và xem cái nào là sai; bạn có thể không nhận ra rằng một vài thứ mà bạn vẫn “biết” thực ra lại không hoàn toàn chính xác. Bạn cũng nên tự đặt câu hỏi về trí nhớ của mình (mà không phải lúc nào cũng hoàn toàn chính xác) và liệu những dự đoán cũng như “giác quan thứ 6” của bạn có đúng hay không. Tất cả những lỗi sai này sẽ được bàn luận chi tiết hơn trong những chương sau, nhưng hiện tại thì chắc chắn đó là những thứ bạn cần cân nhắc. May mắn là, chúng ta có thể sửa lại những lỗi sai phổ biến đó. Đây là khi siêu nhận thức trở nên rất quan trọng – ví dụ, khi bạn phải nghĩ về việc làm thế nào để lại nhớ lại một sự kiện và từ đó có thể đánh giá liệu nó có thực sự xảy ra hay không. Bạn có thể áp dụng những quá trình như theo dõi tiến trình suy nghĩ của bạn bằng cách ghi chép, thực hiện những thay đổi nếu bạn thấy rằng có gì đó không tốt hoặc cần cải thiện, tự ý thức được những chiến lược suy nghĩ, và suy nghĩ xem những kinh nghiệm bạn rút ra có sự kết nối với nhau ra sao. Bạn có thể nghĩ về quá trình siêu nhận thức này như việc tiếp nhận một sự nghi ngờ khoa học về điều mà bạn chưa bao giờ thắc mắc trước đó. “Sự nghi ngờ khoa học” có nghĩa là nghi ngờ một cách thông minh, phân tích quá trình tư duy của bản thân và cách bạn biết những điều bạn đã biết thông qua những bằng chứng khách quan. Nghiên cứu những suy nghĩ của bạn giống như chúng là một đối tượng nghiên cứu khoa học sẽ giúp bạn tìm ra thứ khoa học vẫn luôn hướng tới: sự thật, thay vì những cái chúng ta mong muốn là sự thật.2 “Duy ý chí” có thể đặc biệt gây hại đến tư duy phản biện vì nó hướng chúng ta đến những kết luận chúng ta muốn đưa ra thay vì những kết luận chính xác. Cách tốt nhất để chống lại điều này là tập trung vào bằng chứng khách quan mà bạn thu thập được, thay vì những phỏng đoán hay những kiến thức bạn biết. Ví dụ, nếu bạn luôn cảm thấy buồn nôn và đau đầu, bạn có thể tra các triệu chứng trên Google hoặc là hỏi bạn bè của mình, hoặc là tới bác sĩ. Phương án nào sẽ cung cấp câu trả lời tốt nhất cho vấn đề của bạn? Rõ ràng là, một bác sĩ với nhiều năm kinh nghiệm sẽ có thể đánh giá những triệu chứng của bạn với bằng chứng khách quan và đưa ra một kết luận đáng tin cậy hơn là một trang Wiki hay là bạn của bạn. Do đó, họ sẽ thực sự nói cho bạn điều gì không ổn (nếu có) và ngăn bạn đi đến kết luận rằng bạn mắc bệnh gì đó nghiêm trọng. Tất nhiên, bác sĩ thường đại diện cho khoa học thuần túy – một yếu tố quan trọng đối với các vấn đề khoa học, bởi ngụy khoa học cũng sẽ đưa bạn tới những kết luận không chính xác. Ví dụ, nếu bạn quyết định tới gặp những pháp sư chữa trị bằng đá khoáng, họ có thể sẽ không thành công trong việc chữa lành những triệu chứng của bạn so với bác sĩ. Lý do là vì cách họ hành nghề không hề dựa trên sự khách quan, hay bằng chứng được xem xét nghiêm ngặt. Bạn luôn có thể nhận biết điều gì có tính khoa học thuần túy thông qua phương pháp học mà nó sử dụng. Nó sẽ không đi theo một chuỗi những niềm tin không có căn cứ. Thay vào đó, nó sẽ đi theo một con đường thẩm định rất cụ thể, hợp lý và logic để đi tới kết luận. Một người tư duy phản biện có thể nhận ra điều này, và lựa chọn những điều họ tin là đúng dựa trên con đường thẩm định một cách khoa học. Điều quan trọng tiếp theo là một người có tư duy phản biện hiểu rất rõ bản chất của kiến thức. Một trong những bằng chứng khoa học duy nhất có thể quan sát được là tự nhiên; những hiện tượng thiên nhiên mà chúng ta thấy mỗi ngày chắc hẳn sẽ có những nguyên nhân tự nhiên. Những nguyên nhân siêu nhiên đến nay vẫn chưa được chứng minh bởi những phương pháp khoa học (dù bạn muốn tin vào những thợ săn ma quỷ ra sao) bởi vì chúng không thể đo lường bằng thực nghiệm được. Những người có tư duy phản biện biết rằng những học thuyết khoa học không đồng nghĩa với sự thật; sẽ luôn luôn có những lỗi sai gây ra bởi yếu tố con người trong những quan sát thực nghiệm. Điều này có nghĩa là thông tin luôn luôn có thể được cải thiện với dữ liệu mới – và đây là một điều tốt! Chừng nào những bằng chứng thực nghiệm được sử dụng để tiến tới những kết luận và kiến thức, nó sẽ được cân nhắc cẩn thận hơn là một kết luận được đưa ra mà không có tư duy phản biện. Nếu chúng ta sử dụng tư duy phản biện, chúng ta sẽ rất dễ bị cám dỗ bởi suy nghĩ ảo tưởng, tại đó chúng ta sẽ hoàn toàn sống trong thực tại của chính mình hay một thực tại được dựng nên bởi người khác. Những thực tại này không thể biến thành sự thật được, bởi vì chúng không dựa trên bất kỳ quan sát thực nghiệm nào. Nếu chúng ta sống dựa vào những xúc cảm và những đức tin không có căn cứ, chúng ta sẽ ngày càng xa rời bản chất của vấn đề bởi vì quan điểm của chúng ta đã bẻ cong chúng. Điều này được biết tới như là những thiên kiến xác nhận; chúng ta trở nên hứng thú với việc tìm kiếm những bằng chứng ủng hộ quan điểm của mình hơn là đưa ra những kết luận từ bằng chứng mà chúng ta nhìn thấy. Trong một thời kỳ mà chúng ta có thể truy cập vào nhiều thông tin (đúng hoặc sai lệch) hơn bao giờ hết, sử dụng tư duy phản biện để tránh bị thao túng và dắt mũi là điều rất cần thiết, cho dù đó là vấn đề liên quan đến sức khỏe, chính trị hay tiêu dùng. Áp dụng những chiến lược tư duy sẽ giúp bạn có định hướng rõ ràng giữa biển tri thức và tìm thấy những sự thật. Bạn có thể đã biết tới một vài người có tư duy phản biện nổi tiếng. Họ thường có chung những đặc điểm sau: • Sự tò mò về nhiều chủ đề đa dạng; • Nhận thức rõ về những tình huống họ có thể dùng tư duy phản biện; • Tự tin vào những lý lẽ của mình; • Luôn muốn thu nạp thêm nhiều kiến thức mới; • Hiểu được những quan điểm của người khác; • Cởi mở để cải thiện đức tin; • Có sự khách quan trong việc đánh giá lý lẽ; • Tự nhận thức được những định kiến và những khiếm khuyết của mình; • Đánh giá cẩn thận khi thay đổi quan điểm; và • Sẵn sàng thay đổi một luận điểm sai khi được giải thích hợp lý. Như bạn có thể thấy, chìa khóa để trở thành một người có tư duy phản biện tốt chính là sự tự nhận thức. Bạn cần phải đánh giá trung thực những điều trước đây bạn nghĩ là đúng, cũng như quá trình suy nghĩ đã dẫn bạn tới những kết luận đó. Nếu bạn không có những lý lẽ hợp lý, hoặc nếu suy nghĩ của bạn bị ảnh hưởng bởi những kinh nghiệm và cảm xúc, thì lúc đó hãy cân nhắc sử dụng tư duy phản biện! Bạn cần phải nhận ra được rằng con người, kể từ khi sinh ra, rất giỏi việc đưa ra những lý do lý giải cho những suy nghĩ khiếm khuyết của mình. Nếu bạn đang có những kết luận sai lệch này thì có một sự thật là những đức tin của bạn thường mâu thuẫn với nhau và đó thường là kết quả của thiên kiến xác nhận, nhưng nếu bạn biết điều này, thì bạn đã tiến gần hơn tới sự thật rồi! Những người tư duy phản biện cũng biết rằng họ cần thu thập những ý tưởng và đức tin của mọi người. Tư duy phản biện không thể tự nhiên mà có. Những người khác có thể đưa ra những góc nhìn khác mà bạn có thể chưa bao giờ nghĩ tới, và họ có thể chỉ ra những lỗ hổng trong logic của bạn mà bạn đã hoàn toàn bỏ qua. Bạn không cần phải hoàn toàn đồng ý với ý kiến của những người khác, bởi vì điều này cũng có thể dẫn tới những vấn đề liên quan đến thiên kiến, nhưng một cuộc thảo luận phản biện là một bài tập tư duy cực kỳ hiệu quả. Việc lắng nghe những ý kiến của người khác cũng có thể giúp bạn nhận ra rằng phạm vi tri thức của bạn không phải là vô hạn. Không ai có thể biết hết tất cả mọi thứ. Nhưng với việc chia sẻ và đánh giá phê bình kiến thức, chúng ta có thể mở rộng tâm trí. Nếu điều này khiến bạn cảm thấy không thoải mái, không sao cả. Trên thực tế, bước ra ngoài vùng an toàn là một điều quan trọng để mở rộng niềm tin và suy nghĩ của bạn. Tư duy phản biện không phải là chỉ biết vài thứ, và chắc chắn không phải việc xác nhận những điều bạn đã biết. Thay vào đó, nó xoay quanh việc tìm kiếm sự thật – và biến chúng trở thành thứ mà bạn biết. Mời các bạn đón đọc Rèn Luyện Tư Duy Phản Biện của tác giả Albert Rutherford.
Tạo Ra Thông Điệp Kết Dính
Cái gì kết dính? Dù là CEO hay một bà mẹ cả ngày lo chuyện nội trợ, bạn luôn có những ý tưởng cần truyền đạt: một sản phẩm mới sắp ra mắt thị trường, một chiến lược bạn muốn dạy con trẻ. Nhưng thật khó - vô cùng và cực kỳ khó - thay đổi cái cách mà mọi người vẫn luôn suy nghĩ và hành động. Trong cuốn sách này, bạn sẽ học được sáu thuộc tính cốt yếu của một ý tưởng kết dính: - Đơn giản: Đâu là cách lột trần một ý tưởng đến tận cốt lõi của nó mà không biến nó thành một kiểu đơn điệu thô lậu tối nghĩa? Đơn giản= cốt lõi + cô đọng… Tận dụng những thứ sẵn có. - Bất ngờ: Đâu là cách thu hút sự chú ý của người khác… và giữ sự chú ý đó? Phá vỡ cổ máy phỏng đoán… Lý thuyết lỗ hổng của tính hiếu kỳ. - Cụ thể: Đâu là cách giúp mọi người hiểu được ý tưởng của bạn và nhơ được nó sau một thời gian dài? Dạy phép trừ với ít tính trừu tượng hơn… Lý thuyết khoá dán Velcro của trí nhớ.... Người đăng: duongtodao