Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tình Yêu Trở Lại - Rachel Gibson

Một cuốn truyện tình yêu cảm động về những đấu tranh buông bỏ hay níu giữ tình yêu sau bao năm tưởng có thể quên lại dường như trở lại.... *** Anh ấy không yêu tôi Daisy Lee Monroe cho rằng mình đã dứt bỏ được Lovette, Texas từ nhiều năm về trước, nhưng khi trở lại quê nhà, cô nhận ra mọi thứ chẳng thay đổi gì mấy. Em gái cô vẫn suy nghĩ thiếu sáng suốt, sân trước nhà mẹ cô vẫn còn những con hồng hạc nhựa màu hồng. Và Jackson Lamott Parrish, anh chàng xấu xa mà cô từng bỏ lại sau lưng, vẫn quyến rũ đến chết người. Chẳng có gì làm cô thấy dễ chịu hơn là tránh xa người này, nhưng cô không thể. Daisy có chuyện muốn nói với Jackson, và cô sẽ chẳng đi đâu hết cho đến khi anh chịu lắng nghe cô nói. Jackson từng nhận được một bài học cay đắng về Daisy, và giờ đây từ duy nhất anh muốn nghe từ đôi môi đỏ mọng của Daisy là: tạm biệt. Nhưng cô xuất hiện ở khắp mọi nơi, và anh không tin đó là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Có vẻ như cách duy nhất để buộc cô im miệng là hôn cô, nhưng trước đây, việc hôn Daisy từng khiến anh thảm hại vô cùng. Hiện tại, liệu anh có đủ mạnh mẽ để cưỡng lại sức hút của cô không? Có đủ cứng rắn đứng nhìn cô bước ra khỏi đời mình một lần nữa không? Có đủ kiên quyết để cô giữ cô ở lại bên anh? Một cuốn truyện hấp dẫn những ai đang băn khoăn tìm hiểu những cảm xúc nằm ngoài lí trí của tình yêu. *** Bộ sách Lovett Texas, gồm có:  Daisy's Back in Town - Tình Yêu Trở Lại Crazy on you - Yêu Em Cuồng Si Rescue Me - Hãy Cứu Em I Do! *** Hơi nóng lượn lờ trên mặt bê tông khi chiếc ’63[1] Thunderbird lướt ra từ trong bóng tối của xưởng xe. Động cơ V8 và bộ chế hòa khí Holley hai ống xả rên lên như một người đàn bà thỏa mãn, đầy ấm áp, gợi cảm, với chất giọng khàn khàn. Ánh mặt trời Texas nóng rực tạo ra cả trăm đốm sáng nho nhỏ trong vành bánh xe, lướt dọc mạn xe làm từ crôm và rót ánh sáng xuống nước sơn đen bóng loáng. Chủ chiếc xe nhìn nó lăn bánh về phía mình và mỉm cười tán thưởng. Vài tháng trước, chiếc Sports Roadster này chẳng hơn gì nhà của lũ chuột. Giờ đây, khi đã được khôi phục trọn vẹn vẻ rực rỡ xưa kia, nó đẹp chói lọi – gợi nhớ lại quãng thời gian mà dân cư Detroit có hứng thú với khả năng đạt tốc độ chín mươi ki-lô-mét trong tám giây hơn là số ki-lô-mét đi được trên mỗi gallon, những tính năng bảo đảm an toàn, hay chỗ đặt đồ đựng cốc. Jackson Lamott Parrish ngồi trong chiếc T-bird[2] có đồ nội thất bằng da thuộc màu đỏ, một cổ tay vắt lên vô lăng màu đỏ. Ánh nắng chiếu vào mái tóc nâu dày và nếp nhăn hình thành trên hai khóe đôi mắt màu xanh lục khi anh hạ mi mắt xuống trước ánh nắng chói chang. Anh rồ máy lần cuối, rời tay khỏi vô lăng và kéo phanh xe. Anh đẩy cửa xe và đặt đế đôi bốt cao bồi xuống vỉa hè. Bằng một động tác uyển chuyển, anh đứng dậy và chủ của chiếc Roadster vừa được tân trang bước lên trước đưa anh một tấm séc. Jack liếc nhìn nó, để ý thấy mọi số không đã ở đúng chỗ, đoạn gấp đôi nó lại, nhét vào túi áo sơ mi trắng trước ngực. “Tận hưởng nhé,” anh nói, rồi xoay người đi vào cửa hàng. Anh đi qua một chiếc ‘Cuda 440-6 từ năm một chín bảy mươi, động cơ Hemi khổng lồ của nó treo lơ lửng trên một cái cần cẩu. Qua tiếng máy nén khí và các thiết bị có động cơ, em trai của Jack, Billy, gọi một thợ cơ khí từ dưới một chiếc ‘59 Dodge Custom Royal Lancer. Ngày mai, khoảng trống vừa được chiếc T-bird bỏ lại sẽ được anh lấp đầy bằng một chiếc Corvette một chín năm tư. Cỗ xe thể thao cổ điển ấy được tìm thấy trong một xưởng xe ọp ẹp ở Nam California, và ba ngày trước Jack đã bay tới đó để xem xét chiếc xe. Khi anh phát hiện ra là nó mới chỉ đi được sáu mươi tư nghìn ki-lô-mét và mọi con số đều phù hợp, anh mua nó với giá tám nghìn đô ngay tại chỗ. Một khi đã được khôi phục hoàn toàn, chiếc Vette này sẽ mang lại gấp mười lần con số đó. Về việc khôi phục xe ô-tô cổ, công ty xe Mỹ cổ Parrish là số một. Ai cũng biết điều đó. Những chiếc ô-tô “cơ bắp”[3] nổ đinh tai nhức óc, chạy rầm rầm trên đường đã ăn sâu trong máu đàn ông nhà Parrish. Từ khi bước những bước chân đầu tiên, Jack và Billy đã làm việc trong xưởng xe của cha mình. Họ đã tháo động cơ đầu tiên trước cả khi mọc lông vùng kín. Họ có thể phân biệt một chiếc 260 V8 với một chiếc 289 kể cả khi nhắm mắt và lắp lại máy phun xăng trong khi ngủ. Là những đứa con kiêu hãnh của Lovett, Texas, dân số mười chín nghìn ba trăm, các chàng trai nhà Parrish đã trưởng thành cùng tình yêu bóng đá, bia lạnh, và phá vỡ nhựa đường trên những con đường rộng bằng phẳng – thường là cùng lúc có một cô nàng tóc xù bông lả lơi nào đó tô lại son môi bằng gương chiếu hậu. Hai chàng trai được nuôi lớn trong một ngôi nhà ba phòng ngủ sau xưởng xe. Giờ thì cửa hàng ban đầu không còn nữa. Bị dỡ xuống và thay thế bằng một không gian lớn hơn, hiện đại hơn, chia làm tám khu nhà để xe. Khoảnh sân sau xưởng xe đã được dọn dẹp. Những cỗ xe cũ kỹ và những bộ phận bỏ đi bị kéo đi từ lâu lắm rồi. Dù vậy, căn nhà vẫn như xưa. Vẫn những khóm hoa hồng mà mẹ họ đã trồng, vẫn có những khoanh đất và cỏ dưới tán cây du cao chót vót. Vẫn hiên nhà bằng bê tông và cánh cửa kính cần kha khá WD-40[4]. Căn nhà mới được khoác một lớp sơn mới, cả trong lẫn ngoài. Vẫn màu trắng như trước. Sự khác biệt thật sự duy nhất là giờ Jack sống ở đây một mình. Bảy năm trước, Billy cưới Rhonda Valencia và vui vẻ từ bỏ lối sống phóng túng trước sự sung sướng của những người trong vùng. Trong trí nhớ của tất cả mọi người trong thị trấn, Jack chưa bao giờ nảy sinh ý muốn từ bỏ cái lối sống phóng túng ấy. Theo những gì họ biết, anh chưa từng gặp một người phụ nữ khiến anh muốn có cuộc sống một-một. Trọn đời. Nhưng họ không biết hết mọi chuyện. Jack đi vào văn phòng của mình ở cuối xưởng xe và đóng cửa lại. Anh nhét tấm séc vào một ngăn bàn và kéo ghế ra. Trước khi mua chiếc ’54 Corvette, anh đã tìm kiếm lịch sử của nó rồi bay tới California để kiểm tra nó nhằm bảo đảm rằng không có hư hỏng nghiêm trọng nào trong toàn bộ cấu trúc của cỗ xe. Việc tìm kiếm lịch sử một cỗ xe, tìm những bộ phận thay thế rồi khôi phục nó thôi thúc và thu hút anh cho tới khi cỗ xe hoàn hảo trở lại. Đã được sửa chữa. Tốt hơn. Hoàn thiện. Penny Kribs, thư ký của Jack, đi vào văn phòng và đưa anh thư từ trong ngày. “Em sắp về để đi làm tóc đấy nhé,” cô nhắc anh. Jack ngước lên nhìn mớ tóc đen lưa thưa trên đầu Penny. Anh đã học cả mười hai năm cùng Penny, và anh cũng chơi cùng đội bóng bầu dục với chồng cô, Leon. Anh đứng dậy và đặt thư lên bàn. “Em sắp làm đẹp vì anh à?” Cô đeo nhẫn ở hầu hết các ngón tay và có bộ móng dài màu hồng trông như móng vuốt. Anh thường tự hỏi làm sao cô gõ máy tính mà không ấn nhầm phím khác hay bôi được chừng ấy mascara mà không chọc mù con mắt nào. Anh thậm chí còn không muốn nghĩ đến cảnh cô ôm tay vào thằng bé của Leon nữa. Ý nghĩ ấy làm anh rợn sống lưng. “Tất nhiên,” cô nói với một nụ cười. “Anh biết là anh lúc nào cũng là mối tình đầu của em mà.” Phải rồi, anh biết. Năm lớp ba, Penny đã bảo anh rằng cô yêu anh rồi đá vào cẳng chân anh bằng đôi giày da màu đen của cô. Anh luôn thấy rằng mình không cần thứ yêu thương đó. “Đừng nói với Leon nhé.” “À, anh ấy biết mà.” Cô vẫy tay rồi đi ra cửa, mùi nước hoa vương vất lại sau lưng. “Anh ấy cũng biết là em sẽ chẳng bao giờ dính dáng gì đến anh.” Jack khoanh tay trên ngực và tựa người vào mép bàn. “Vì sao chứ?” “Bởi vì anh đối xử với phụ nữ như người mắc chứng biếng ăn đối xử với kẹo Whitman Sampler. Anh nhấm nháp chỗ này một chút, chỗ nọ một chút. Có lẽ anh sẽ cắn vài miếng, nhưng anh không bao giờ ăn toàn bộ.” Jack bật cười. “Anh nghĩ có vài phụ nữ có thể thay đổi suy nghĩ đó của em.” Penny không thấy thú vị. “Anh hiểu ý em mà,” cô nói qua vai khi bước ra khỏi cửa. Phải rồi, anh hiểu ý cô. Như đa số phụ nữ, Penny nghĩ anh nên kết hôn, nuôi dạy con cái và lái một chiếc SUV. Nhưng theo Jack, anh thấy em trai mình đã đảm trách nghĩa vụ đó hộ phần cả hai người họ rồi. Billy có ba cô con gái ở độ tuổi từ sáu tháng tới năm tuổi. Họ sống trong một con phố cụt với một cái xích đu ở sân sau, và Rhonda lái một chiếc Tahoe, một sự lựa chọn khác của các bà mẹ ưa thể thao ở mọi nơi. Với từng ấy cô cháu gái, Jack thấy mình không cần phải mang thêm một đứa Parrish khác vào thế giới này. Anh là “bác Jack,” và anh thấy ổn thỏa với điều đó. Anh quay lại ghế và mở khuy cổ tay áo ra. Anh xắn ống tay áo lên bắp tay, sau đó quay về làm việc. Hôm nay là thứ Sáu và anh có cả núi việc phải xử lý xong trên bàn trước khi có thể bắt đầu những ngày cuối tuần của mình. Lúc năm giờ, Billy mở cửa để bảo anh rằng cậu sắp về nhà. Jack liếc nhìn chiếc đồng hồ Buick Riviera đặt cạnh màn hình máy tính. Em trai anh mới ở chỗ làm có ba tiếng mười lăm phút. “Em sẽ đến trận T-ball[5] của Amy Lynn,” Billy nhắc đến cô con gái năm tuổi của mình. “Anh sẽ đến công viên chứ?” Amy Lynn là con gái lớn của Billy và Jack cố gắng đến trận đấu của con bé mỗi khi có thể. “Không phải tối nay,” anh trả lời và ném bút lên bàn. “Tối nay có bữa tiệc độc thân của Jimmy Calhoun ở quán The Road Kill,” anh nói. Mãi đến gần đây, Jimmy vẫn là một gã thích chè chén. Giờ đây cậu ta sắp sửa từ bỏ tự do của mình vì hai chiếc nhẫn đôi. “Anh đã bảo cậu ta là anh sẽ ghé qua một lát.” Billy mỉm cười. “Sẽ có vũ công thoát y chứ?” “Anh cho là có.” “Đừng nói với em là anh thích xem phụ nữ cởi truồng hơn là một trận T-ball nhé?” Nụ cười toe toét của Jack giống hệt em trai mình. “Phải rồi, đó là một lựa chọn khó khăn. Xem phụ nữ cởi đồ hay là nhìn lũ nhóc năm tuổi chạy quanh các gôn với mũ bảo hiểm đội ngược.” Billy bật cười, theo một kiểu đặc biệt của riêng cậu với đầu ngả ra sau và phát ra vài tiếng hơ-hơ-hơ. Điệu cười đó giống cha họ, Ray, đến mức Jack cho rằng nó phải do gen di truyền. “Đồ may mắn,” Billy nói, nhưng không mấy thật lòng. Cả hai người họ đều biết rằng Bill thích xem Amy Lynn chạy vòng vòng với mũ bảo hiểm đội ngược hơn. “Nếu anh cần người lái xe đưa anh về từ quán The Road Kill,” Bill nói thêm trên đường ra cửa, “thì hãy gọi em nhé.” “Tất nhiên.” Một người lái xe say xỉn đã cướp đi mạng sống của cha mẹ họ khi Jack mới mười tám tuổi. Hai anh em quyết tâm là họ sẽ không bao giờ lái xe khi say. Jack làm việc thêm một tiếng nữa trước khi tắt máy và ra khỏi xưởng xe qua lối các khu chứa xe. Những người khác đã ra về, và tiếng đế giày của anh vang lên trong bầu không khí tĩnh mịch. Anh khóa cửa, bật chuông báo động rồi nhảy vào chiếc Shelby Mustang. Trời bắt đầu mưa khi anh lái xe về phía ngoại ô Lovett. Vài hạt mưa lưa thưa hòa lẫn cùng bụi và gió, biến màu đen bóng loáng của chiếc xe thành một màu xám mờ xỉn. Quán The Road Kill rất giống các quán bar khác rải rác khắp vùng cán xoong Texas. Nhạc đồng quê phát ra từ máy hát tự động trong khi các khách quen nốc cạn những vại bia Lone Star. Một tấm bảng ĐỪNG GÂY SỰ VỚI DÂN TEXAS màu đỏ-trắng-và-xanh treo trên tấm gương sau quầy bar, trong khi các tấm biển báo giao thông cũ, tatu[6] và rắn chuông nhồi bông trang trí trên tường. Chủ quầy bar cũng đồng thời là một người nhồi bông thú, và nếu một vị khách quá tha thiết, hay đã đủ say, anh ta hoặc cô ta có thể mua một cái thắt lưng rắn chuông hoặc một cái túi bằng da tatu cực kỳ hấp dẫn với mức giá ưu đãi. Khi Jack đi vào quán bar, anh đẩy vành mũ Stetson của mình lên và dừng lại ở ngưỡng cửa đủ lâu để mắt kịp thích nghi trước khi tiến lại quầy bar. Anh chào hỏi vài câu với vài vị khách quen. Xen giữa tiếng Clint Black trong hộp nhạc tự động, anh có thể nghe thấy tiếng bữa tiệc độc thân của Jimmy đang lên đến cao trào ở phòng sau. “Một chai Lone Star,” anh gọi. Một chai bia xuất hiện trên quầy bar và anh đưa ra tờ năm đô. Anh cảm nhận được một bàn tay mềm mại đặt trên cánh tay mình và quay sang nhìn vào khuôn mặt của Gina Brown. “Chào Jack.” “Chào Gina.” Gina cùng tuổi với Jack và đã ly dị hai lần. Cô là một cô gái miền Texas cao ráo, mảnh dẻ thích cưỡi bò máy ở quán Slim Clem’s gần đường cao tốc 70. Cô ta mặc quần bò Wranglers thật bó, áo Justins thật ôm, và tóc nhuộm đỏ. Jack biết cô nhuộm tóc bởi vì cô ta cũng thích trèo lên người anh. Nhưng dạo gần đây có dấu hiệu cho thấy cô ta đang tính toán cưới anh làm chồng ba. Anh đã phải làm nguội mọi chuyện để cô ta bỏ ngay cái ý nghĩ ấy ra khỏi đầu. “Anh đến tham dự buổi tiệc độc thân ở phía sau kia à?” Cô chăm chú nhìn anh qua khóe đôi mắt xanh dương. Anh có mù mới không nhận thấy lời mời mọc đang uốn cong đôi môi cô ta. “Phải.” Jack đưa chai bia lên môi và hớp một ngụm lớn. Anh không có hứng thú hâm nóng lại mọi chuyện. Anh thích Gina, nhưng anh không thuộc tuýp làm chồng. Anh lấy tiền thừa từ quầy bar và nhét vào túi trước quần jeans. “Gặp em sau nhé,” anh nói và quay người bỏ đi. Câu hỏi tiếp theo của Gina làm anh dừng ngay lại. “Anh đã gặp Daisy Lee chưa?” Jack hạ chai bia xuống và đột nhiên thấy khó mà nuốt nốt chỗ bia trong miệng xuống được. Anh quay lại nhìn Gina. “Sáng nay em đã gặp cô ta ở trạm xăng Texaco. Đổ xăng cho chiếc Cadillac của mẹ cô ta.” Gina lắc đầu. “Em nghĩ đã bao lâu nhỉ, tầm mười hoặc mười hai năm kể từ lần cuối cô ta ở trong thị trấn phải không?” Là mười lăm năm. “Em nhận ra cô ta ngay lập tức. Daisy Lee Brooks không thay đổi nhiều lắm.” Chỉ là bây giờ Daisy Brooks là Daisy Monroe và đã là như vậy trong mười lăm năm qua. Và điều đó đã thay đổi tất cả. Gina bước lại gần một bước và đùa nghịch một khuy áo của anh. “Em rất buồn khi nghe chuyện của Steven. Em biết anh ấy là bạn anh.” Anh và Steven Monroe đã gần như không thể tách rời từ lúc lên năm khi họ ngồi cạnh nhau ở nhà thờ Tin Lành Baptist của Lovett, hét to “Phải, Chúa yêu con.” Nhưng điều đó cũng đã thay đổi. Lần cuối cùng anh gặp Steven là buổi tối hai bọn họ đánh nhau đến chảy máu, trong khi Daisy kinh hãi nhìn vào. Đó cũng là lần cuối cùng anh gặp Daisy. Như thể không nhận thấy Jack không hề mở miệng nói chuyện, Gina tiếp tục lải nhải, “Em không tưởng tượng nổi cảnh chết ở tuổi của chúng ta. Nó quá đỗi khủng khiếp.” “Thứ lỗi cho anh nhé, Gina,” anh nói và bỏ đi. Một cơn tức giận xưa cũ, cơn tức giận mà anh cứ nghĩ là mình đã chôn vùi, đang chực kéo anh vào quá khứ. Anh lại xô nó thật mạnh, đập mạnh nó xuống, và gạt bỏ nó. Sau đó anh chẳng cảm thấy gì nữa. Cầm chai bia trong tay, anh luồn lách qua quán bar đang nhanh chóng chật kín và đi tới căn phòng đông đúc ở cuối. Anh dựa vai vào khung cửa và chuyển toàn bộ sự chú ý vào Jimmy Calhound. Tiêu điểm của bữa tiệc đang ngồi trên một cái ghế ở giữa phòng, vây quanh bởi cả tá đàn ông, tất cả đang nhìn hai phụ nữ ăn mặc như nữ hoàng chăn bò ép chặt vào nhau trong khi Dixie Chicks hát về một cỗ xe tội lỗi. Đã thoát y đến tận cái quần lọt khe lấp lánh, hai cô gái mở khuy áo cánh lụa của mình ra. Áo họ đồng thời trượt xuống hai bả vai rám nắng và cơ thể hoàn hảo, để lộ hai bộ ngực bự nhồi trong áo bikini đính đá lấp lánh. Jack rời mắt khỏi bộ ngực đầy đặn, nhìn xuống hai chiếc quần lọt khe buộc dây ở hông họ. Marvin Ferrell dừng lại cạnh anh ở ngưỡng cửa để quan sát màn biểu diễn. “Cậu nghĩ hai bộ ngực kia có phải đồ thật không?” anh ta hỏi. Jack nhún một bên vai và đưa chai bia lên môi. Rõ ràng là Marvin đã kết hôn quá lâu, bởi vì giọng anh ta bắt đầu giống đàn bà rồi. “Ai quan tâm chứ?” “Đúng vậy.” Marvin cười. “Cậu đã nghe tin Daisy Brooks quay lại chưa?” Qua chai bia, anh nhìn xuống Marvin rồi hạ chai xuống. “Có, tớ đã nghe rồi.” Anh lại cảm nhận được cơn tức giận ngày xưa, và một lần nữa anh lại đập nó xuống cho tới khi không cảm thấy gì nữa. Anh tiếp tục chú ý vào các vũ công thoát y và nhìn họ kẹp Jimmy giữa hai cơ thể bán khỏa thân của mình trong khi hôn nhau trên đầu anh ta. Nụ hôn ướt át đó khiến cánh đàn ông hò reo đòi thêm. Jack nghiêng đầu sang một bên và mỉm cười. Trò này trở nên hay ho rồi đây. “Tớ đã gặp Daisy ở siêu thị Minute,” Marvin nói tiếp. “Chết tiệt, cô ấy vẫn nóng bỏng như hồi cấp ba.” Nụ cười của Jack tắt ngóm khi một ký ức không mời về đôi mắt nâu và đôi môi hồng mềm mại chực chờ kéo anh vào hố đen quá khứ. “Còn nhớ cô ấy trông thế nào trong bộ đồ cổ động cũn cỡn không?” Jack rời người khỏi cửa và đi sâu hơn vào phòng, nhưng anh không thể thoát được. Có vẻ như mọi người đều muốn một chuyến du hành trên con đường ký ức. Tất cả, trừ anh. Trong khi hai cô nàng vũ nữ thoát y cởi hai cái áo bikini nhỏ xíu của nhau, chủ đề của câu chuyện là về Daisy. Giữa những tiếng huýt sáo và reo hò, Cal Turner, Lester Crandall và Eddy Dean Jones đều hỏi anh đã gặp cô chưa. Chán ghét, Jack rời phòng và quay lại quầy bar. Thật quá mức khó chịu khi một người đàn ông không được phép tận hưởng hai cô nàng gần như chẳng mặc gì âu yếm nhau cách anh ta chỉ có hai mét. Anh không biết Daisy sẽ ở lại thị trấn trong bao lâu, nhưng anh cực kỳ hy vọng rằng đây chỉ là một chuyến đi ngắn ngủi. Sau đó có lẽ mọi người sẽ có chuyện gì khác hay ho hơn để bàn tán. Chủ yếu anh hy vọng cô biết điều mà tránh xa khỏi lối đi của anh. Anh đặt chai bia lên quầy bar và tìm đường ra khỏi The Road Kill, bỏ lại đằng sau những cuộc trò chuyện và nghi vấn về Daisy Monroe. Mưa trút xuống trên mũ và làm ướt đẫm vai khi anh đi qua bãi đỗ xe. Nhưng với mỗi bước chân, ký ức vẫn bám sát theo sau. Ký ức anh nhìn vào đôi mắt nâu xinh đẹp khi anh hôn lên đôi môi mềm mại. Tay anh lướt lên mặt sau phần đùi trơn mịn, trượt xuống dưới cái váy cổ động màu xanh và vàng của cô. Ký ức Daisy Lee đi một đôi bốt cao bồi màu đỏ có trái tim trắng hai bên và không mặc gì khác nữa. “Rời bữa tiệc sớm thế sao?” Gina hỏi khi cô ta đi về phía anh. Anh nhìn cô ta. “Bữa tiệc chán chết.” “Chúng ta có thể tự tổ chức tiệc của riêng mình.” Đúng là điển hình của Gina, cô ta không đợi anh chủ động. Thường thì điều đó khiến anh khó chịu. Tối nay thì không. Cô ta đưa miệng lên cho anh, và cô ta có vị của bia ấm cùng dục vọng. Jack hôn lại. Với hai bầu ngực săn chắc của đối phương ép chặt vào ngực, những đòi hỏi đầu tiên của dục vọng khuấy động bụng dưới anh. Anh kéo Gina vào lòng và đốt nóng mọi thứ cho tới khi tất cả những gì anh cảm thấy là dục vọng và nước mưa xối ướt da thịt qua lần áo sơ mi. Anh thay thế mọi ý nghĩ về đôi mắt nâu và váy cổ động bằng người phụ nữ đang ép chặt người vào khóa quần mình. Daisy Monroe giơ tay lên trước cửa kính rồi lại hạ tay xuống. Tim cô đập thình thịch trong lồng ngực và dạ dày xoắn lại thành một cục lớn. Mưa trút xuống hiên nhà quanh khắp người cô và nước mưa chảy từ ống xối xuống thảm hoa. Xưởng xe sau lưng cô còn để đèn, soi sáng mọi ngóc ngách quanh công ty xe Mỹ cổ Parrish. Nhưng nơi cô đứng tối đen như mực, như thể ánh sáng không dám bò sâu hơn vào sân. Xưởng xe mới toanh, được xây cất lại kể từ lần trước cô thấy nó. Khoảnh sân bao quanh xưởng xe được dọn dẹp. Các chiếc xe cũ đã bị kéo đi. Dù vậy, từ những gì cô quan sát được thì ngôi nhà vẫn hệt như cũ, mang theo ký ức về một làn gió hè tươi mát thổi qua mái tóc cô và đem đến mùi hoa hồng. Về vô số những tối cô ngồi trên hàng hiên mà giờ cô đang đứng, kẹp giữa Steven và Jack, bật cười trước những câu chuyện đùa của họ. Sấm chớp nổ đùng đoàng và rọi sáng cả bầu trời đêm, đập tan ký ức ấy. Một điềm báo cho thấy cô nên rời đi và quay lại vào lúc khác. Cô không giỏi đối đầu trực diện. Cô không thuộc tuýp người đương đầu trực tiếp với rắc rối. Giờ thì cô có giỏi làm thế hơn hồi trước, nhưng... có lẽ cô nên gọi trước. Xuất hiện bất thình lình trước cửa nhà ai đó lúc mười giờ tối không phải là lịch sự, và cô hẳn trông giống hệt một con mèo sũng nước. Trước khi rời khỏi nhà mẹ mình, cô đã bảo đảm tóc mình được chải mượt và dài chớm vai. Lớp trang điểm trông hoàn hảo, áo trắng tinh và quần kaki là phẳng phiu. Còn bây giờ, cô chắc chắn rằng tóc mình xù bông, mascara trôi mất biệt và quần thì dính đầy bùn từ cái vũng nước mà cô đã vô tình lao qua. Cô quay người bỏ đi, rồi ép mình quay lại. Vẻ ngoài của cô không thật sự quan trọng, và chẳng bao giờ có thời điểm nào là tốt đẹp cho việc cô phải làm hết. Cô đã ở trong thị trấn ba ngày rồi. Cô phải nói chuyện với Jack. Tối nay. Cô đã trì hoãn quá lâu. Cô phải kể cho anh những gì mình đã giấu giếm anh suốt mười lăm năm. Cô lại giơ tay lên và gần như đứng tim khi cánh cửa gỗ bật ra trước khi cô kịp gõ. Qua lớp cửa kính và không gian tối om bên trong, cô có thể trông thấy bóng dáng một người đàn ông. Anh ta không mặc áo, và một tia sáng từ sâu tít trong nhà tỏa ra một luồng sáng vàng ấp áp từ đằng sau, rót xuống cánh tay, bờ vai và nửa lồng ngực trần của anh ta. Rõ ràng là đáng ra cô nên gọi trước. “Xin chào,” cô mở lời trước khi có thể đầu hàng sự lo lắng của mình. “Tôi đang tìm Jackson Parrish.” “Trời trời,” giọng anh ta kéo dài trong bóng tối, “không phải Daisy Lee Brooks sao?” Đã mười lăm năm trôi qua và giọng anh đã thay đổi. Nó trầm hơn giọng chàng trai mà cô biết, nhưng cô vẫn sẽ nhận ra cái tông giọng xấu xa đó ở bất kỳ đâu. Không ai có thể đưa nhiều chất chế giễu vào giọng nói của mình như Jack. Cô đã từng một lần hiểu được nó. Từng biết điều gì ẩn sau giọng nói đó. Cô không dám đùa rằng mình vẫn còn biết rõ anh nữa. “Xin chào, Jack.” “Cô muốn gì, Daisy?” Cô nhìn anh chăm chú qua lớp cửa kính và bóng tối, nhìn những đường nét của người đàn ông mà một thời cô từng biết rất rõ. Cảm giác xoắn cục trong dạ dày cô sít chặt hơn. “Tôi muốn... tôi cần nói chuyện với anh. Và tôi – tôi đã nghĩ...” Cô hít một hơi thật sâu và ép mình ngừng lắp bắp. Cô đã ba mươi ba rồi. Cả anh cũng vậy. “Tôi muốn nói với anh rằng tôi ở trong thị trấn trước khi anh nghe được điều đó từ người khác.” “Muộn quá rồi.” Mưa trút xối xả xuống mái nhà và sự im lặng kéo dài ra giữa họ. Cô có thể cảm nhận được ánh mắt anh đặt trên người mình. Ánh nhìn ấy chạm vào mặt và ngực áo đi mưa màu vàng của cô, và đúng lúc cô nghĩ anh sẽ không nói gì nữa, anh cất lời, “Nếu đó là những gì cô đến để nói với tôi thì cô có thể đi được rồi.” Vẫn còn. Rất nhiều. Cô đã hứa với Steven rằng cô sẽ đưa cho Jack bức thư mà anh đã viết vài tháng trước khi mất. Bức thư nằm trong túi áo, bây giờ cô phải kể thật cho Jack nghe những gì đã xảy ra mười lăm năm trước, rồi chuyển bức thư. “Tôi nhất định phải nói chuyện với anh. Làm ơn đi.” Anh nhìn cô vài giây dài đằng đẵng rồi quay người và biến mất trong nhà. Anh không mở cửa cho cô, nhưng anh cũng không đóng sập cánh cửa gỗ vào mặt cô. Anh đã cho thấy rõ là anh sẽ tỏ ra khó khăn hết mức có thể. Nhưng rồi, anh đã bao giờ làm chuyện gì trở nên dễ dàng cơ chứ? Vẫn như mọi lần, cánh cửa kính kêu cọt kẹt khi cô mở nó ra. Cô đi theo anh qua phòng khách về hướng bếp. Dáng người cao ráo của anh biến mất ở góc rẽ, nhưng cô biết đường. Trong nhà có mùi sơn mới. Cô nhìn qua những đồ đạc màu tối và một cái tivi màn hình lớn, thoáng thấy chiếc đàn piano của bà Parrish đặt sát một bức tường và trong thoáng chốc cô tự hỏi, bao nhiêu thứ đã thay đổi kể từ lần cuối cô ghé qua ngôi nhà này. Đèn bật lên khi cô đi vào bếp, và cảm giác cứ như bước vào một vết lõm thời gian vậy. Cô ngờ ngợ mong chờ sẽ nhìn thấy bà Parrish đứng trước lò sưởi màu quả hạch, nướng bánh mì hoặc những cái bánh quy snickerdoodle mà Daisy thích nhất. Tấm vải sơn lót sàn nhà màu xanh lục đặt trước bồn rửa vẫn còn vết ố ngày xưa và kệ bếp vẫn có những đốm li ti màu xanh dương và xanh ngọc. Jack đang đứng trước tủ lạnh, nửa thân trên khuất sau cửa tủ đang mở. Những ngón tay rám nắng của anh cầm quanh tay cầm bằng crôm, và tất cả những gì cô có thể thấy rõ trên người anh là đường cong ở mông và đôi chân dài. Một túi trên chiếc quần Levi’s bó sát có một vết rách gần như đứt rời hẳn ra, và chỉ khâu trông xơ xác. Adrenaline chạy khắp mạch máu của cô, và cô nắm chặt tay lại để ngăn chúng khỏi run rẩy. Rồi anh đứng thẳng dậy, và mọi thứ dường như chậm lại, như thể có ai đó bật công tắc trên máy chiếu phim. Anh quay người lại khi đóng cửa tủ và cầm một hộp sữa trên bàn tay đặt cạnh đùi. Trong khoảnh khắc, sự chú ý của cô dính chặt vào đường lông mảnh chòi lên khỏi cạp quần Levi’s và uốn quanh rốn anh. Cô đưa ánh mắt lướt qua phần bụng phẳng lì và những cơ bắp rắn chắc trên ngực anh. Nếu cô mà còn bất kỳ nghi ngờ nào, thì nhìn thấy anh thế này cũng đủ để xua đuổi hết chúng đi. Đây không phải là chàng trai mà cô từng biết. Đây rõ ràng là một người đàn ông. Cô ép mình đưa mắt rời khỏi cái cằm nam tính, cánh cung sắc nét ở đôi môi màu nâu, và nhìn vào mắt anh. Cô cảm giác thấy cổ họng mình trở nên khô khốc. Jack Parrish xưa kia luôn là một chàng trai ưa nhìn, còn giờ anh đẹp chết người. Một lọn tóc dày rơi xuống trán và chạm vào chân mày anh. Đôi mắt màu xanh lục sáng mà cô vẫn nhớ, từng một thời nhìn cô đầy đam mê và sở hữu, nhìn trả cô như thể anh chẳng thích gặp cô hơn gặp một con chó hoang. “Cô đến đây để trố mắt ra nhìn thế à?” Cô đi sâu hơn vào bếp và đút tay vào túi áo mưa. “Không, tôi đến để nói với anh là tôi về thị trấn để thăm mẹ và em gái tôi.” Anh nâng hộp sữa lên và uống thẳng từ hộp giấy, chờ cô nói thêm. “Tôi nghĩ là anh nên biết.” Anh nhìn cô chằm chằm qua hộp giấy, rồi anh hạ nó xuống. Có vài thứ rốt cục chẳng hề thay đổi. Jack Parrish, chàng trai hư hỏng và thích làm loạn, vẫn luôn là một người thích uống sữa. “Điều gì khiến cô nghĩ là tôi thèm quan tâm?” anh hỏi và quệt mu bàn tay trên miệng. “Tôi không biết anh có quan tâm hay không. Ý tôi là, tôi có băn khoăn xem anh sẽ nghĩ gì, nhưng tôi không dám chắc.” Chuyện này khó khăn hơn nhiều những gì cô đã mường tượng. Và những gì mà cô tưởng tượng cũng đã khá là khó nhằn rồi. “Giờ thì cô không phải băn khoăn nữa nhé.” Anh dùng hộp sữa chỉ ra căn phòng khác. “Nếu đó là tất cả thì cửa kia.” “Không, đó không phải là tất cả.” Cô nhìn xuống mũi giày của mình, vải da màu đen đã bị mưa vấy bẩn. “Steven muốn tôi kể cho anh nghe một chuyện. Anh ấy muốn tôi nói với anh rằng anh ấy xin lỗi về tất cả mọi chuyện.” Cô lắc đầu và tự chữa lại. “Không... đã từng xin lỗi chứ, ý tôi là thế. Anh ấy đã mất bảy tháng trước và giờ tôi vẫn thấy khó lòng mà tưởng nhớ về anh ấy khi dùng thì quá khứ. Không hiểu sao điều ấy không đúng. Như thể nếu tôi làm vậy, anh ấy sẽ như chưa bao giờ tồn tại.” Cô nhìn Jack. Vẻ mặt anh không hề thay đổi. “Bó hoa anh gửi đến rất đẹp.” Anh nhún vai và đặt sữa lên kệ bếp. “Penny đã gửi chúng.” “Penny?” “Penny Colten. Đã cưới Leon Kribs. Giờ cô ấy làm việc cho tôi.” “Cảm ơn Penny hộ tôi nhé.” Nhưng Penny không gửi chúng và ký tên anh mà anh không biết. “Đừng xem nó là cái gì ghê gớm.” Cô biết Steven từng có ý nghĩa quan trọng đến thế nào với anh. “Đừng giả vờ anh không quan tâm việc anh ấy đã mất.” Anh nhướn một bên mày. “Cô quên là tôi từng cố giết cậu ta rồi.” “Anh hẳn sẽ không giết anh ấy, Jack.” “Đúng là không, cô nói đúng. Tôi cho là cô không đáng giá đến thế.” Câu chuyện đang đi nhầm hướng và cô phải lái nó quay lại. “Đừng tỏ ra xấu xa.” “Cô gọi thế này là xấu xa sao?” Anh bật cười, nhưng không có vẻ gì dễ chịu. “Thế này chẳng là gì, mao lương ạ. Cứ ở gần đi và tôi sẽ cho cô thấy tôi có thể trở nên xấu xa thế nào.” Cô đã biết Jack có khả năng trở nên xấu xa thế nào rồi, nhưng dù cô có thể là một kẻ hèn nhát, cô cũng bướng bỉnh như cỏ lưỡi chó. Cũng như Jack không còn là chàng trai mà cô từng quen biết, cô cũng không phải là cô gái ngày xưa anh biết nữa. Cô đã đến để kể với anh sự thật. Sau rốt thì cũng phải thế thôi. Trước khi đi tiếp được đường đời của mình, cô phải kể cho anh về Nathan. Cô đã mất mười lăm năm mới dám làm vậy, và anh có thể tỏ ra xấu xa hết mức anh muốn, nhưng anh sẽ phải lắng nghe cô. Một tia sáng trắng lọt vào khóe mắt Daisy trong tích tắc, trước khi một người phụ nữ mặc một cái áo sơ mi trắng của đàn ông bước vào bếp. “Chào,” cô ta nói khi đến đứng cạnh Jack. Anh nhìn xuống cô ta. “Anh đã bảo em ở yên trong giường mà.” “Em phán chán lên được vì không có anh.” Hơi nóng tràn qua cổ lên má Daisy, nhưng dường như cô là người duy nhất thấy xấu hổ trong phòng. Jack có bạn gái. Tất nhiên là vậy. Anh vẫn luôn có một hoặc hai cô bạn gái. Đã từng có thời điều ấy thật đau đớn. “Xin chào, Daisy. Tôi không biết cô còn nhớ tôi không. Tôi là Gina Brown.” Nó không còn đau đớn nữa, và Daisy hơi xấu hổ khi phải thú nhận với bản thân rằng chủ yếu cô chỉ thấy vô cùng nhẹ nhõm. Cô đã đi cả quãng đường dài từ Seattle để kể cho anh về Nathan, và giờ tất cả những gì cô cảm thấy là nhẹ nhõm. Như thể một cái rìu vừa được nhấc khỏi cổ cô. Cô cho là mình hèn nhát hơn cô nghĩ. Daisy mỉm cười và băng qua phòng để chìa tay ra bắt tay Gina. “Tất nhiên là có. Chúng ta đã ở cùng lớp Chính phủ Mỹ vào năm cuối.” “Thầy Simmons.” “Phải rồi.” “Có nhớ lúc thầy ấy vấp phải một cái tẩy trên sàn nhà không?” Gina hỏi như thể không phải cô ta đang đứng đó và chỉ mặc mỗi áo sơ mi của Jack, Daisy dám cá, mà không có gì khác. “Chuyện đó đúng là rất buồn cười. Tôi vừa...” “Cái quái gì thế này?” Jack xen ngang. “Họp mặt lớp cấp ba à?” Cả hai người phụ nữ cùng ngẩng lên nhìn anh và Gina nói, “Em chỉ đang tỏ ra lịch sự với khách của anh mà thôi.” “Cô ta không phải khách của anh và cô ta sắp đi rồi.” Anh ghim chặt mắt vào Daisy, vẫn lạnh lùng và kiên quyết hệt như lúc cô mới bước chân vào cửa. “Rất vui được gặp cô, Gina,” cô nói. “Tôi cũng vậy.” “Chúc buổi tối tốt lành, Jack.” Anh tựa hông vào kệ bếp và khoanh tay ngang ngực. “Gặp hai người sau nhé.” Cô quay người băng qua cả căn phòng tối om và bước ra khỏi cửa. Mưa đã ngừng và cô tránh các vũng nước mưa trên đường đến chỗ chiếc Caddie[7] của mẹ cô đỗ cạnh xưởng xe. Lần sau, cô nhất định sẽ gọi trước. Đúng lúc cô vươn tay ra mở cửa, cô cảm nhận được một bàn tay đặt trên cánh tay xoay người cô lại. Cô nhìn lên mặt Jack. Ánh đèn an ninh chiếu xuống người anh và tạo bóng đen trên quai hàm cứng lại vì giận dữ của anh. Mắt anh nhìn thẳng vào mắt cô – không còn lạnh lùng nữa, chúng chất đầy vẻ giận dữ rực lửa. “Tôi không biết cô đến đây để tìm kiếm gì, sự xá tội hay tha thứ,” giọng nói kéo dài của anh nhấn mạnh hơn lúc trước. “Nhưng cô sẽ không tìm được đâu.” Anh thả tay cô ra như thể anh không thể chịu nổi việc chạm vào cô. “Phải, tôi biết.” “Tốt. Cô hãy tránh xa tôi ra, Daisy Lee,” anh kéo dài các nguyên âm trong tên cô. “Cô tránh xa ra hoặc tôi sẽ khiến đời cô trở nên đau khổ.” Cô nhìn vào khuôn mặt tối om của anh, nhìn vào sự giận dữ không hề nguôi bớt trong mười lăm năm. “Hãy tránh xa tôi ra,” anh lặp lại lần cuối trước khi quay người trên gót chân trần và biến mất trong bóng tối. Cô biết mình nên khôn ngoan mà lưu ý đến lời cảnh báo của anh. Quá tệ là cô lại không có lựa chọn đó. Mặc dù anh vẫn chưa biết, nhưng cả anh cũng không. ... Mời các bạn đón đọc Tình Yêu Trở Lại của tác giả Rachel Gibson.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bến Thiên Đường
Tác giả Sonja Massie đã được đông đảo công chúng biết đến với nhiều tiểu thuyết được viết nên nhờ vào bối cảnh lịch sử, trong đó nhiều tác phẩm của bà đã được dựng thành phim và được sự đón nhận nồng nhiệt của quần chúng. Tác phẩm “Bến thiên đường” có tựa đề song song là “Far anh Away” của bà cũng là một trong số những tác phẩm được dựng thành phim với nhan đề “Ngàn trùng xa” được phát hành năm 1992; lấy bối cảnh trên đất nước Ailen, tiểu thuyết viết về mối thù truyền kiếp của dòng họ Donelly với dòng họ của ông Daniel. Khi tổ tiên của ông Daniel đi xâm lấn đất đai của gia đình Donelly. Chàng Joseph là một người con của dòng họ Donelly đã được giao trọng trách đi trả thù gia đình Daniel, nhưng vì những đấu tranh nội tâm nơi chàng nên chàng đã không thể giết ông Daniel. Trải qua các tình tiết ly kỳ trong tác phẩm cuối cùng Joseph đã gặp con gái của ông Daniel, cô tên là Shannon. Những lần gặp gỡ giữa hai người và cuộc phiêu lưu của họ khi sang Mỹ để khai khẩn đất đai cuối cùng họ đã nảy sinh tình yêu. Mặc dù trải qua nhiều nhiều sóng gió song tình yêu của họ vẫn chiến thắng tất cả, Joseph và Shannon đã vượt qua được hận thù và rào cản giai cấp để đến với nhau xây dựng một gia đình hạnh phúc. Tiểu thuyết nói lên sức mạnh của tình yêu, của cái thiện và chứa đựng những giá trị nhân văn sâu sắc. Xin được gửi tới bạn đọc để cùng khám phá và chiêm ngưỡng. *** Quỷ dữ chặt đầu bọn lãnh chúa chết tiệt này đi! Chặt hết, có bao nhiêu chặt hết bấy nhiêu. Rồi nghiền nát chúng ra như cám! Chửi xong, Patrick, gã thợ mộc trong làng cầm vại bia lên tu một hơi dài, đoạn toét miệng cười, khuôn mặt tròn quay sáng rỡ. Gã nhìn quanh một vòng trong quán rượu, mắt ánh lên vẻ thỏa mãn. Từ trước tới nay, trong đám người thân quen chuộng cái nghệ thuật chửi rủa này, ít ai chửi một cách hay họ độc đáo như gã. Gã im lặng, thách thức bất cứ ai chửi hay hơn. – Ước gì đàn quạ đen bu vào rỉa ráy chúng, ước gì chúng bị nổi mày đay khắp người, ngứa ngáy mà không có móng tay để gãi! Ryan, em của Patrick, ngồi chễm chệ trên một ghế đẩu cao bên quầy rượu, mồm ngậm ống vố, nhả khói cuồn cuộn vào không khí đã sặc mùi cay của than bùn đang cháy trong lò sưởi, và mùi thum thủm của áo quần len dạ còn ẩm ướt. – Ước gì quy dữ nuốt chửng chúng nó đi, và xiết dương vật vào cổ chúng nó! – Ước gì lửa âm ti thiêu đốt chúng mãi cho tới ngày tận thế, mà không cho chúng một giọt bia nào để làm giảm bớt cái khát muôn đời ấy! – Denis bổ sung thêm. Denis là một tá điền có mái tóc màu hung đỏ, mặt sần sùi đầy vết hoe, đang chuồi cái ca bằng thiếc về phía người chủ quán. Ông này liền rót đầy bia cho gã. Nửa tá khách nhậu, theo gương của Denis, chìa cốc ra lấy bia và đã cảm thấy khó chịu vì cái ý nghĩ phải chịu án phạt muôn đời mà không có lấy một giọt bia mát lạnh nào để xoa dịu. – Các bạn nên giữ mồm giữ miệng thì hơn, Danty Duff nói. Ông ta là người vớt rong biển dạt vào bờ, tóc hoa râm, đang ngồi phía đầu quầy bên kia. Ông và Joe Donelly, bạn ông, đã chiếm chỗ sớm hơn, và uống rượu nguyên chất nhiều hơn bất cứ người bạn nào khác mà không hề hấn gì. – Các bạn biết đâu giữa chúng ta, lỡ có thằng thối mồm nào đó chỉ điểm thì sao. Nếu các bạn cứ nói bô bô cho sướng miệng trước bất cứ ai như thế này, thì rồi sẽ lâm vào cảnh khốn đốn như bọn Galway, chứ chẳng phải chơi đâu. Như thế chẳng khác gì đánh đu trên một cái xà ngang đã mục. Joe Donelly mặt đầy nếp nhăn vì suốt ngày dang nắng để lấy than bùn làm chất đốt, bật cười đập vào lưng bạn: – Hè... đồ nhát gan như thỏ đế, còn thua cả một bà góa già rụng răng! Danty Duff né tránh cú đập của Joe, khiến ông ta suýt té ngã vì quá đà. Joe nói tiếp: – Cậu sợ cả chính cái bóng của cậu nữa, Danty ạ. Chúng ta phải là những con người hành động, như... các chàng trai của đại úy Moonlight, họ tổ chức các vụ đánh cướp với tầm vông, gậy gộc và những bó đuốc vung cao. Họ sẽ giành lại được độc lập cho quê hương của chúng ta, chắc chắn như thế. Các thực khách vỗ tay nồng nhiệt hoan hô vang dội cả cái quán rượu cổ lỗ, từ cái trần thấp có đà ngang đến tận nền nhà lát đá, rải rác mấy cọng rơm đây đó. Đó là cái lý do tại sao dân làng tụ tập mỗi ngày tại quán rượu của ông O’Manion. Không phải họ tới đó để uống bia – vì họ có thể uống ở nhà. Không phải họ đến đó để sưởi ấm, hoặc để tăng cường nghị lực nhờ ngửi mùi ra-gu thịt cừu đang hầm trên bếp lò. Cũng không phải để có được vài giờ yên tĩnh, tránh phải nghe miệng lưỡi lách phách của các bà vợ, hoặc trò hề của lũ trẻ con ồn ào... Họ đến quán rượu chỉ là để gặp lại bạn bè khích lệ họ sống dũng cảm hơn, hào hùng hơn và mạnh mẽ hơn; để gặp những con người thách thức nhau thoát khỏi cảnh đói nghèo mà họ đã bị áp đặt, và cầm khí giới để chiến đấu cho tự do. Lâu nay họ chỉ đánh giặc mồm, chỉ phun ra những lời nguyền rủa, để nhẹ bớt tâm tư. Thế nhưng, lịch sử đã chứng minh, lời nói có khả năng thúc đẩy lòng người Ai Len hành động. Và ngày nổi dậy đã gần kề, mọi người ai cũng biết điều đó. – Vậy thì Joe Donelly, hôm nay cậu đã làm gì để lấy lại mảnh đất mà Thượng đế đã ban cho cậu từ tay tên lãnh chúa? – Danty hỏi, vẻ mặt khó chịu – Cậu đã cầm cây đuốc đút sau đít hắn ta, hay là cậu đã ôm hôn mông hắn khi hắn cưỡi con ngựa đẹp đi ngang qua đây? Denis can thiệp vào: – Có thể cậu ta chấp nhận hôn đít con ngựa quèn của hắn – nói đến đây, Denis nhìn thấy đôi mắt của Joe Donelly long lên vì giận dữ, liền tiếp – Xin lỗi cậu, Joe, tớ nói thế mà không có ác ý gì cả, thề danh dự đấy! Trong làng, lão Joe có tiếng là người dễ bị chạm tự ái. Chỉ Danty là bạn từ tấm bé của lão là có thể châm chọc hay nhục mạ lão mà không bị ăn đòn. Người chủ quán vừa đẩy hai vại bia đầy ắp đến trước Joe và Danty, vừa nói: – Này, các bạn. Các bạn nghĩ sao, nếu chúng ta được nghe các nghệ sĩ thượng thặng hát lên một bài ca để chúng ta được vui tai và nhẹ lòng? Lời nịnh hót đã làm tan biến mất nỗi giận hờn. Danty và Joe liền cất lời hát một ca khúc mà họ đã thuộc nằm lòng từ thưở bé. ... Đám khách trong quán lại tiếp tục uống, thưởng thức chất đắng thú vị của rượu bia đang làm mát cổ họng họ. Những cây đèn dầu có tim bấc chiếu ánh sáng chập chờn lên những chiếc bàn vuông thô kệch và phản chiếu trong tấm gương lớn đã rạn nứt treo phía tường sau quầy hàng vì cuộc ẩu đả trước kia giữa Joe và Danty. Tâm hồn của dân làng tạm thời lắng dịu nhờ đã nguyền rủa, và quên đi trong chốc lát nỗi lo âu của cuộc sống, để thưởng thức bài ca du dương của hai chàng ca sĩ. Nhưng sự yên lặng bỗng bị đập tan. Tiếng ồn ào náo động ngoài đường đã làm cho mọi người bật đứng dậy, hấp tấp chạy đến bên cửa sổ nhìn xem chuyện gì đã xảy ra. Những tiếng là hét phẫn nộ vang lên từ đám người đi bộ, giày lấm bùn đất. Người ta nghe cả tiếng một con ngựa hí vang vì sợ hãi. – Kìa, các bạn hãy xem! Một tên lãnh chúa xuất hiện ở đằng kia kìa - Ryan là toáng lên, giọng hớn hở – Phải cho hắn một bài học mới được. Joe và Danty ngừng hát, nốc một hơi cạn vại bia và phóng ra ngoài. Họ nóng lòng được đánh lộn, chứ không chịu làm khách bàng quan như các người bạn khác. Lời nguyền rủa của họ đã mang lại kết quả, còn nhanh hơn là họ tưởng. Huân tước Geoffroy Hampton, chủ nhân tòa dinh thự Hampton, đang ngồi chễm chệ trên cái ghế băng bọc da của cỗ xe ngựa bóng loáng. Một cô xe tuyệt đẹp, gã xa phu cũng láng coóng trong bộ trang phục màu đen viền bạc. Nét mặt hắn ta hơi sửng sốt. Cả chủ lẫn tớ đều cảm thấy mình đang rơi vào một tình huống còn hơn cả sự bực mình. Đám dân quê vây quanh lấy cỗ xe ngựa lộng lẫy một cách hỗn độn vô trật tự, kẻ thì cầm cuốc xẻng, người thì cầm gậy gộc, lòng sôi sục căm thù tích tụ bởi bao nhiêu năm tháng. Áo quần họ mặc quá lâu ngày chưa thay, họ đã trải qua biết bao thử thách và đau khổ, chịu đựng bao nỗi buồn phiền. Họ nhộn nhạo trên đường, chận xe không cho qua. Gã xa phu quất ngựa vun vút, nhưng chiếc xe chỉ nhúc nhích đôi chút giữa lũ người mỗi lúc một đông hơn, phẫn nộ hơn. Môt phụ nữ là lớn: – Thằng heo kia, mày là một thằng khốn nạn. Mày ăn quá nhiều mỡ nên mập phì! Vị lãnh chúa khoanh tay trên cái áo khoác bằng nhung xanh, lót lụa đen, trợn mắt lườm bà ta. Một tá điền lưng còng có đứa con nhỏ trần truồng đang đeo theo chân gã mà kêu khóc, gã rống lên: – Mày là tai họa cho xứ sở của chúng tao, cái xứ sở không bao giờ là của mày. Mày xuống hỏa ngục cho quy dữ nướng mày đi! Một bà già tay không vũ khí, cúi xuống lượm một viên đá cuội, nhắm cỗ xe mà ném tới, trúng chiếc mũ chóp cao bằng xa-tanh đen của lãnh chúa, làm nó rơi xuống đất. Đám đông liền dành nhau đạp dẹp nó, chỉ một chốc là tiêu tan. Joe thúc cùi chỏ vào hông bạn, bảo: – Danty, đưa vũ khí cho tao, tao giết thằng chó này. Mời các bạn đón đọc Bến Thiên Đường của tác giả Sonja Massie.
Axit Sunfuric
rại tập trung là một chương trình truyền hình thực tế mới, qua đó, khán giả sẽ được xem cảnh những kapo độc ác tra tấn các nạn nhân đầy cam chịu. Chỉ có một nạn nhân chống cự và thái độ ấy đưa cô cùng các bạn đồng hành cũng như khán giả và những người chịu trách nhiệm khác đi từ cú sốc này đến cú sốc kia… Câu chuyện xoay quanh khu trại đặc biệt này không hề là sản phẩm của trí tưởng tượng. Ngòi bút sắc sảo của Amélie Nothomb đã biết đào sâu và nhào nặn những sự kiện, những biến đổi thường nhật trong khía cạnh đạo đức con người để tạo thành một Axit sunfuric độc đáo, có tính chất dự báo tương lai của chúng ta, một tương lai trống rỗng và nhẫn tâm nếu chúng ta không biết để ý và sửa đổi những thói quen văn hóa tưởng chừng vô hại. Bất kỳ ai đọc cũng bị cuốn vào cuộc đấu tranh thiện-ác mà tác phẩm miêu tả, cũng bị ngập trong những cảm xúc xót xa, hồi hộp, bất bình rồi thở phào nhẹ nhõm và thậm chí lâng lâng cảm giác yêu thương.    Axit sunfuric tuyệt vời vì nó khiến độc giả phải dừng lại và ngẫm xem ngày nay, trong quan hệ giữa người với người, liệu người này còn thực sự đóng vai trò quan trọng với người khác và liệu chúng ta có thể giúp một người xấu trở nên tốt đẹp hay không. - www.e-litterature.net Amélie Nothomb đã thực sự làm độc giả bị sốc khi gây ra cuộc tranh cãi kỳ lạ song hết sức sáng tạo về cái thiện và cái ác, về thủ phạm của những chương trình truyền hình thực tế tác động xấu đến khán giả trong Axit Sunfuric. Thêm một tác phẩm nữa khiến chúng ta tự hỏi đến bao giờ nữ văn sĩ thông minh người Bỉ này thấy chán thành công và những niềm vinh dự. - L’Express Một trong những nhiệm vụ của tiểu thuyết là dự đoán được các “điểm đến” của thế giới. Axit sunfuric đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đó khi tưởng tượng ra một câu chuyện kỳ lạ giúp người đọc hiểu hơn thực tế họ đang sống, dù câu chuyện ấy thật kinh hoàng. - Tạp chí Lire Amélie Nothomb không hề sáng tạo ra các nhân vật cùng tình tiết trong Axit Sunfuric mà đây thực sự là cuốn tiểu thuyết “dự báo” tương lai của chúng ta. Đó là lý do khiến báo giới tranh luận bấy lâu và là điểm thành công tuyệt vời của nữ văn sĩ. - www.evene.fr *** Đến một lúc sự đau khổ của người khác vẫn chưa đủ với họ; họ muốn nhìn thấy cảnh tượng ấy. Người ta có thể bị bắt mà không cần đến một lý do nào cả. Những cuộc vây ráp diễn ra ở bất cứ đâu: tất cả mọi người bị hốt đi, không ai được chống lại. Miễn sao là con người. Buổi sáng hôm đó, Pannonique đi dạo trong Công viên Bách thảo(1). Những nhà tổ chức chương trình đến và càn quét cả công viên, không để sót một mục tiêu nào. Cô gái trẻ bị đưa lên một chiếc xe tải. Chuyện này diễn ra trước khi chương trình đầu tiên được phát sóng: mọi người còn chưa biết điều gì sẽ xảy đến với mình. Họ giận dữ. Tại nhà ga, họ bị lèn chặt vào một toa chở súc vật. Pannonique phát hiện thấy cô và mọi người đang bị quay phim: rất nhiều máy quay dõi theo họ, không một biểu hiện lo âu vụn vặt nào trên gương mặt họ bị bỏ qua.. Cô hiểu rằng việc chống cự chẳng những không giúp ích được gì, mà còn trở thành tiêu điểm hấp dẫn cho truyền hình. Vì thế trong suốt chuyến đi, cô im lặng không để lộ một cảm xúc nào. Xung quanh cô bọn trẻ gào khóc, người lớn la mắng, người già uất ức đến nghẹt thở. Họ bị lùa xuống một cái trại giống như những cái trại tập trung vốn chưa cổ xưa gì của phát xít Đức, chỉ có một chi tiết khác biệt duy nhất đập ngay vào mắt: những chiếc máy quay giám sát được gắn ở khắp nơi. Để trở thành nhà tổ chức, không cần bất cứ điều kiện nào. Những người chủ xướng chương trình cho các thí sinh lần lượt đi qua và chọn ra những “gương mặt độc nhất”. Sau đó, những thí sinh này phải hoàn thành bảng trắc nghiệm hành vi. Zdena đã được chọn, đó là kẻ cả đời chưa bao giờ vượt qua nổi một cuộc thi. Ả lấy thế làm hãnh diện lắm. Từ nay, ả có thể khoe rằng ả làm ở đài truyền hình. Ở tuổi hai mươi, không một tấm bằng, có được công việc đầu tiên: rốt cuộc thì những người xung quanh sẽ phải ngưng chế nhạo ả. Người ta giải thích với ả các nguyên tắc của chương trình. Những người phụ trách hỏi ả có cảm thấy sốc không. - Không. Mạnh đấy, ả trả lời. Vẻ đăm chiêu, vị phụ trách nhân sự nói với ả rằng chính xác là như vậy. - Đó là những gì mọi người muốn, ông ta nói thêm. Những kiểu trình diễn giả tạo, màu mè đã hết thời rồi. Ả vượt qua những cuộc kiểm tra khác một cách xuất sắc, cho thấy mình có khả năng gây ấn tượng với người lạ, gào thét những lời lăng mạ vô cớ, chứng tỏ quyền lực của mình, không mủi lòng trước những lời kêu than. - Điều quan trọng, là phải tôn trọng khán giả, một người phụ trách nói. Không một khán giả nào đáng để bị coi thường. Zdena đồng tình. Ả được giao vị trí kapo(2). - Chúng tôi sẽ gọi cô là kapo Zdena, người ta nói với ả như vậy. Thuật ngữ quân sự này khiến ả thích thú. - Trông mày oách lắm, kapo Zdena ạ, ả tự nói với mình trong gương. Ả đã không còn để ý đến những chiếc máy quay phim đang thu hình ả nữa. Báo chí chỉ nhắc đến sự kiện này. Các bài xã luận bùng nổ, những người có lương tâm la ó. Ngay sau buổi phát sóng đầu tiên, khán giả yêu cầu được xem tiếp. Với tên gọi ngắn gọn “Trại tập trung”, chương trình đã thu hút được lượng khán giả kỷ lục. Chưa bao giờ người ta gây được ảnh hưởng trực tiếp đến vậy lên tội ác. “Có điều gì đó đang xảy ra,” thiên hạ kháo nhau. Máy quay phim thỏa sức ghi hình. Nó hướng vô số các con mắt của mình đến mọi lán trại nơi nhốt các tù nhân: những cái nhà tiêu, với tiện nghi duy nhất là các chồng đệm rơm. Bình luận viên chương trình cố gắng miêu tả mùi nước tiểu và cái lạnh ẩm thấp mà, tiếc thay, truyền hình không có khả năng chuyển tải. Mỗi kapo có vài phút để tự giới thiệu mình. Zdena không khỏi bất ngờ trước đặc quyền này. Trong vòng hơn năm trăm giây, chiếc máy quay sẽ chỉ hướng mắt về phía ả. Và cái con mắt nhân tạo ấy sẽ kết nối với hàng triệu con mắt bằng xương bằng thịt. - Đừng bỏ lỡ dịp tỏ ra thân thiện, một người tổ chức chương trình nói với các kapo. Khán giả nhìn các bạn như những kẻ độc ác, thô lỗ: hãy chứng tỏ cho họ thấy các bạn là con người. - Và cũng đừng quên rằng truyền hình có thể là một diễn đàn dành cho những ai trong số các bạn có ý tưởng, có lý tưởng, một người khác gợi ý với nụ cười nham nhở khiến người ta liên tưởng ngay đến những điều ghê tởm mà hắn hy vọng được nghe thấy các kapo tuôn ra. Mời các bạn đón đọc Axit Sunfuric của tác giả Amélie Nothomb.
Mùa Hè Thứ Tư Của Quần Jeans May Mắn
Chỉ thêu đã xổ, đường viền đã long, Quần Jeans may mắn trở lại cùng một mùa hè rực rỡ cuối cùng. Lena: Đắm chìm trong hội họa và hò hẹn mới, lòng không khỏi sợ rằng giây phút cô quên đi Kostos cũng chính là thời khắc cô gặp lại anh. Carmen: Bị “yểm bùa” bởi cô bạn đại học mà với cô ta, một vai kịch trên sân khấu đáng giá hơn tất thảy. Bridget: Tham gia khu khai quật tại một thành phố cổ bên bờ biển Thổ Nhĩ Kỳ, những tưởng tìm được tình yêu đích thực. Tibby: Bỏ lại sau lưng người cô yêu, cứ ngỡ người ấy sẽ mãi  đợi mình. Mùa hè thứ tư của Quần Jeans may mắn cũng là mùa hè cuối cùng trong thời niên thiếu của bốn cô gái trẻ. Dịu dàng và hài hước, xúc động và hân hoan, nỗi buồn và niềm vui cứ thế đan xen trong cuốn tiểu thuyết cuối cùng của series Quần Jeans ăn khách bậc nhất nước Mỹ này, như một khúc ca về tuổi trẻ, như một màu xanh bất diệt của những kỷ niệm sẽ không phai dấu suốt cuộc đời. *** Đôi nét về tác giả Ann Brashares Ann Brashares, sinh năm 1967, từng theo học ngành Triết học tại trường Cao đẳng Barnard, một nhánh thuộc Đại học Columbia ở thành phố New York. Sau khi tốt nghiệp cao đẳng, cô trở thành biên tập viên, dự định sẽ dành một năm đi làm kiếm tiền để tiếp tục học lên đại học ngành Triết. Nhưng vì quá yêu nghề Ann Brashares đã không học đại học nữa mà ở lại New York làm việc trong nhiều năm rồi trở thành nhà văn chuyên nghiệp sau tác phẩm đầu tay Quần jeans may mắn. Ngay sau khi ra đời, Quần jeans may mắn đã thành công rực rỡ về mặt thương mại, được dựng thành phim năm 2005 và đưa tác giả của nó vào hàng ngũ các nhà văn có sách bán chạy nhất trên toàn thế giới. Brashares hiện đang sống tại New York với chồng - Jacob Collin, con trai một giáo sư dạy triết của cô từ hồi học cao đẳng, là một họa sĩ khá thành danh ở Mỹ - và ba con. *** Ngày xửa ngày xưa có bốn cô gái. Bốn phụ nữ trẻ, thậm chí bạn có thể nói vậy. Và mặc dù cuộc đời chúng đã rẽ về các hướng khác nhau, chúng vẫn vô cùng yêu mến nhau. Ngày xửa trước cả ngày xưa kia, cũng bốn cô gái ấy đã tìm thấy một cái quần, thông thái và kỳ diệu, và đặt tên cho nó là Cái quần Du lịch. Cái quần có phép màu dạy cho bốn cô gái cách chia xa. Nó dạy chúng khi là bốn người chứ không phải một người thì như thế nào. Làm sao để chúng vẫn mãi bên nhau dù có ở đâu. Làm sao để yêu thương chính mình nhiều như yêu thương người khác. Và ở một khía cạnh thực tế, Cái quần có phép màu vừa khít cả bốn đứa con gái, có vẻ khó tin nhưng đúng thế thật, nhất là khi một trong bốn đứa (em tóc vàng) người ngợm chả khác gì siêu mẫu. Được rồi. Huỵch toẹt ra luôn. Tôi là một trong bốn cô gái ấy. Tôi mặc Cái quần này. Tôi có những người bạn này. Tôi biết phép màu này. Mà thực ra tôi chính là em tóc vàng đây, còn khoản siêu mẫu thì tôi chỉ đùa thôi. Nhưng mà, như vẫn xảy ra với hầu hết các loại phép màu, Cái quần này hoàn thành nghĩa vụ hơi quá xuất sắc. Và các cô gái, là những cô em phi thường (nếu bạn không phiền cho tôi nói vậy), học bài học của họ cũng hơi quá kỹ. Và rồi khi cuộc đời của bốn cô gái thay đổi vào cái mùa hè cuối cùng đó, Cái quần, vốn thông thái, cũng phải đổi thay theo. Thế là câu chuyện về hội chị em bắt đầu, nhưng không kết thúc, như thế đấy. Mời các bạn đón đọc Mùa Hè Thứ Tư Của Quần Jeans May Mắn của tác giả Ann Brashares.
Mùa Hè Thứ Ba Của Quần Jeans May Mắn
Các bạn đã biết đến nhóm bốn người bạn gái thân thiết qua Mùa hè thứ nhất và thứ hai của Quần Jean May mắn, giờ đây, cuốn thứ ba trong series  của nhà văn Ann Brashares đã đến với độc giả Việt Nam.   Đó là mùa hè trước khi từng người trong nhóm đi học đại học... mùa hè cuối cùng họ thực sự còn được ở bên nhau trước khi mỗi người khởi đầu cuộc sống trưởng thành của riêng mình. Đó là khi họ cần tới Quần Jeans May mắn nhất. Carmen: cần tới tất cả sự diệu kỳ mà cái quần có thể đem tới, nhất là vì cô đã nhận lời trông người bà Hy Lạp hay càu cạu của Lena suốt của mùa hè. còn chưa kể là cô phải giả vờ làm một người không phải chính cô - với người có thể rất quan trọng với cô. Tibby: Ngớ ra cái quần luôn biết rõ điều cô không cảm thấy ở Brian, và cứ kè kè cái quần bên mình - trong khi những người bạn của cô cũng lao vào cái quần. Lena: Mong cái quần có thể nói cho biết liệu theo học trường nghệ thuật có phải là ước mơ mà cô nên theo đuổi, cho dù điều đó đi đôi với việc gia đình cô sẽ không ủng hộ. Bridget: Cực kỳ vui sướng khi được mang cái quần theo trong đợt trại đá bóng cho tới khi phát hiện ra huấn luyện viên đồng nghiệp là ai. *** Chúng ta, Hội chị em, bằng văn bản này đặt ra các quy tắc dưới đây để quản lý việc sử dụng Cái quần Du lịch: 1. Không bao giờ được giặt Cái quần. 2. Không được phép xắn gấu quần lên. Rất quê. Sẽ không có lúc nào làm thế mà trông lại không quê. 3. Không bao giờ nói từ “péo” khi mặc Cái quần. Không bao giờ được có ý nghĩ “Mình béo” khi mặc Cái quần. 4. Không được để một anh chàng nào cởi Cái quần (tuy nhiên có thể tự cởi trước mặt anh chàng). 5. Không được phép ngoáy mũi khi đang mặc Cái quần. Tuy nhiên, có thể vô tình quệt lỗ mũi mà thực ra là ngoáy mũi. 6. Khi họp mặt, phải tuân theo các thủ tục khi ghi lại quãng thời gian mặc Cái quần như sau: Ghi lại trên ống quần bên trái nơi thú vị nhất mà bạn đã ở khi mặc quần. Ghi lại trên ống quần bên phải điều quan trọng nhất xảy ra với bạn. (Chẳng hạn như, “Tôi đã ở cùng anh họ tôi Ivan khi mặc Cái quần Du lịch này.”) 7. Phải thường xuyên viết thư cho các chị em khác trong hội trong suốt mùa hè, cho dù bạn có vui vẻ như thế nào khi không có họ bên cạnh. 8. Phải chuyển Cái quần cho các thành viên khác trong hội theo đúng quy ước của hội. Nếu không tuân theo sẽ bị đá đít thật mạnh khi họp hội. 9. Không được nhét áo vào Cái quần và đeo thắt lưng. Xem điều 2. 10. Hãy nhớ: Cái quần = Tình yêu. Hãy yêu quý bạn bè. Hãy yêu quý chính mình. PHẦN MỞ ĐẦU Nếu bạn đang đọc cuốn sách này, có lẽ bạn đã biết chúng tôi rồi. Hay dù gì cũng biết Cái quần của chúng tôi. Nếu rồi, bạn có thể lật qua vài trang đầu. Nếu chưa, ngồi chơi với tôi một phút. Tôi sẽ cố không làm đau chút nào đâu. Nếu không, bạn có thể nói, tớ chả muốn đọc một cuốn sách viết chuyện quần kiếc. Và tôi hoàn toàn hiểu bạn cảm thấy thế nào. (Ở Anh, khi nói quần, ý người ta là quần lót đấy. Bạn có biết điều này không nhỉ?) Nhưng tin tôi đi, đây là một Cái quần hoành tráng. Cái quần mang trong mình quyền năng tuyệt đối biến bốn cô gái tuổi teen bình thường thành bốn tạo vật đẹp đẽ vô ngần, biến cuộc sống của họ thành cuộc phiêu lưu đáng kinh ngạc, đó là còn chưa đả động đến việc nó khiến các chàng trai cực ngon lành ngay tắp lự quỳ gục gối. Thôi được rồi, tôi hơi nổ quá. Thực sự Cái quần không làm thế. Nhưng nó gắn kết chúng tôi lại với nhau khi chia xa. Nó cho chúng tôi cảm giác bình an và được yêu thương. Nó đưa chân chúng tôi đến những chốn mà nếu không có nó chúng tôi sẽ chẳng đời nào dám cất bước. Nó khiến chúng tôi trở thành người tốt hơn, trở thành bạn bè tốt hơn. Tất cả những điều này, tôi thề đấy, là thật 100%. Và suốt chặng đường đó, Cái quần lúc nào trông cũng tuyệt cả. Chúng tôi là ai? Chúng tôi là chúng tôi. Chúng tôi đã, đang, và sẽ mãi là chúng tôi. Thỉnh thoảng chúng tôi là chúng mình. (Vấn đề ngữ pháp ấy mà.) Tất cả là nhờ phòng tập thể dục của Trung tâm Gilda ở Bethesda, Maryland vì họ đã mở một lớp tập aerobics cho các bà bầu cách nay chừng mười tám năm. Ở đó, mẹ tôi, mẹ Carmen, mẹ Lena và mẹ Bee đã nhảy lên nhảy xuống và đổ mồ hôi trong suốt mùa hè mang thai dài dặc, rồi đến tháng Chín mỗi người sinh ra một bé gái (riêng mẹ Bee thì thêm cả một bé trai). Theo như tôi biết thì trong vài năm đầu các bà mẹ nuôi bọn tôi giống nuôi một ổ chó con hơn là nuôi từng em bé. Mãi sau này các mẹ mới chia tách ra. Tôi miêu tả bốn bọn tôi thế nào đây nhỉ? Lấy ô tô làm hình ảnh ẩn dụ nhé. Carmen là một con xe màu đỏ anh đào cực bốc, động cơ tám xi lanh bốn thì ngốn xăng hàng khủng. Nó có thể khiến mọi thứ rối tung rối mù lên, nhưng lại rất thú vị, luôn bám chặt lấy con đường mình đi, và có khả năng tăng tốc tuyệt hảo. Lena thì tiết kiệm tối đa xăng dầu. Giống xe lai xăng-điện ấy. Nó không hại môi trường và dĩ nhiên hợp nhãn. Nó có hệ thống GPS định vị toàn cầu tối tân bậc nhất nhưng thỉnh thoảng cũng chỉ nhầm đường. Nó được trang bị hệ thống túi khí an toàn nữa. Bee thì không túi khí túi khiếc gì. Có khi còn không có hãm xung nữa. Thậm chí có khi không cả phanh. Nó có thể chạy một triệu dặm một giờ. Nó là một em Ferrari xanh màu đại dương, trừ việc không có phanh. Còn tôi, Tibby, thì là một chiếc... xe đạp. Không, đùa thôi. (Mình đủ tuổi lái ô tô rồi, khỉ thật!) Hừm. Thế tôi là cái gì? Tôi là một em Plymouth Duster hầm hố xanh sẫm với bộ truyền lực chọn lọc. Thôi được rồi, có thể đó chỉ là cái tôi muốn trở thành thôi. Nhưng tôi là người viết cái này, vì thế tôi có quyền quyết định. Cái quần đến với chúng tôi vào thời điểm hoàn hảo. Đó là lần đầu tiên chúng tôi chia tách. Chúng tôi lần đầu phát hiện ra phép lạ của nó vào mùa hè hai năm trước và đến mùa hè vừa rồi nó lại khuấy động cuộc đời bốn chúng tôi một lần nữa. Bạn thấy đấy, bọn tôi đâu có mặc Cái quần suốt năm. Trong năm chúng tôi cho nó nghỉ ngơi để trữ thêm năng lượng cho mùa hè tới. (Mùa đông năm nay có lần Carmen mặc nó tham dự lễ cưới mẹ, nhưng đó là trường hợp đặc biệt.) Hai năm trước chúng tôi đã nghĩ đấy là chuyện to tát lắm, mùa hè đầu tiên chúng tôi xa nhau ấy. Bây giờ trước mắt chúng tôi là mùa hè cuối cùng còn được bên nhau. Ngày mai chúng tôi tốt nghiệp cấp ba. Tháng Chín tới, chúng tôi vào đại học. Và đó không giống như trên mấy chương trình ti vi, kiểu như một cách diệu kỳ nào đó, chúng tôi lại vào cùng một trường. Bốn chúng tôi vào bốn trường khác nhau ở ba thành phố khác nhau (nhưng chỉ mất bốn tiếng là đến ngay được trường kia - đó là quy tắc số một của chúng tôi). Trong số bốn đứa thì Bee là đứa học hành chểnh mảng nhất nhưng trường nào nó nộp đơn cũng xin vào được cả. (Bạn có thể bảo là đỉnh của đỉnh không nhỉ?) Nó chọn Brown. Mặc lời khuyên của bố mẹ, Lena quyết định đi học trường nghệ thuật Rhode Island School of Design, Carmen sẽ đến William mà nó hằng mơ ước, còn tôi sẽ vào trường điện ảnh của NYU. Khi cuộc đời đổi thay, nó thực sự, thực sự lớn. Nếu bạn là bố tôi, bạn sẽ bảo, “Này, bọn con sẽ gặp nhau vào lễ Tạ ơn mà.” Nhưng nếu bạn là tôi, bạn nhận ra rằng cuộc sống mà bọn tôi hằng thân quen đã kết thúc rồi. Tuổi ấu thơ cùng nhau đang kết thúc. Có thể chúng tôi sẽ chẳng bao giờ sống ở nhà mình nữa. Có thể chúng tôi sẽ chẳng bao giờ cùng sống ở một nơi nữa. Chúng tôi xuất hành để bắt đầu sống cuộc sống thực của mình. Với tôi việc này thật sự gây kinh hoàng, nhưng trên khắp thế giới này, chỉ có nó là ý nghĩ đáng sợ hãi nhất. Tối mai tại trung tâm Gilda chúng tôi sẽ khởi động chuyến du hành mùa hè lần thứ ba của Cái quần. Ngày mai sẽ là lúc cuộc sống mới của chúng tôi bắt đầu. Đó chính là lúc chúng tôi cần Cái quần hơn hết. Mời các bạn đón đọc Mùa Hè Thứ Ba Của Quần Jeans May Mắn của tác giả Ann Brashares.